Professional Documents
Culture Documents
Nhóm 20 CNXH
Nhóm 20 CNXH
Đặc trưng, xu hướng và chính sách dân tộc của đảng và nhà nước
VIỆT NAM
Chương 2
2.1 đặc trưng về dân tộc, cho ví dụ
2.1.1 Dân tộc,tộc người là gì?
- dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có sinh hoạt kinh
tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc thù, xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc.
Với nghĩa này, dân tộc là một bộ phận của quốc gia – quốc gia nhiều dân tộc.
- tộc người là một tập đoàn người ổn định, được hình thành trong lịch sử trên một lãnh thổ
nhất định, có những đặc điểm văn hóa chung, có ý thức về sự thống nhất của mình, và sự
khác biệt với cộng đồng khác, được biểu hiện ở tên tự gọi
2.1.2 Đặc trưng dân tộc-tộc người?
Ngôn, ngữ là công cụ giao tiếp xã hội, trước hết là công cụ giao tiếp trong cộng đồng (thị tộc, bộ
lạc, bộ tộc, dân tộc). Các thành viên của một dân tộc có thể dùng nhiều ngôn ngữ trong giao tiếp
với nhau. Có một số ngôn ngữ được nhiều dân tộc sử dụng. Điều quan trọng là mỗi dân tộc có
một ngôn ngữ chung thông nhất mà các thành viên của dân tộc coi đó là tiếng mẹ đẻ của họ. Tính
thống nhất trong ngôn ngữ dân tộc thể hiện trước hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp và
kho từ vựng cơ bản. Ngôn ngữ của một dân tộc thể hiện đặc trưng chủ yếu của dân tộc đó.
Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng thống nhất, không bị chia cắt. Lãnh thổ dân tộc bao gồm cả vùng
đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo thuộc chủ quyền của quốc gia dân tộc. Trong trường hợp quốc
gia có nhiều dân tộc, lãnh thổ quốc gia gồm lãnh thổ của các dân tộc thuộc quốc gia ấy hợp
thành. Phạm vi lãnh thổ dân tộc hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài. Chủ quyền quốc gia
dân tộc về lãnh thổ là một khái niệm xác định, thường được thể chế hóa thành luật pháp quốc gia
và luật pháp quốc tế. Thực tế lịch sử có những trường hợp bị chia cắt tạm thời, nhưng không thể
căn cứ vào đó mà cho rằng cộng đồng ấy đã bị chia thành hai hay nhiều dân tộc khác nhau.
Đương nhiên sự chia cắt đó là một thử thách đối với tính bền vững của một cộng đồng dân tộc.
Cộng đồng lãnh thổ là đặc trưng quan trọng không thể thiếu được của dân tộc. Lãnh thổ là địa
bàn sinh tồn và phát triển của dân tộc, không có lãnh thổ thì không có khái niệm tổ quốc, quốc
gia.
+Thứ ba, dân tộc là một cộng đồng về kinh tế.
Từ các cộng đồng người nguyên thủy chuyển sang bộ tộc, yếu tố liên kết cộng đồng dựa trên
quan hệ huyết thống dần dần bị suy giảm, vai trò của nhân tố” kinh tế – xã hội ngày càng tăng.
Đây là nhu cầu hoàn toàn khách quan trong đời sống xã hội. Những mối liên hệ kinh tế làm tăng
tính thống nhất, ổn định, bền vững của cộng đồng người sống trong một lãnh thổ rộng lớn.
Những mối liên hệ kinh tế thường xuyên và mạnh mẽ đặc biệt là mối liên hệ thị trường đã làm
tăng tính thông nhất, tính ổn định, bền vững của cộng đồng người đông đảo sống trong lãnh thổ
rộng lớn. Thiếu sự cộng đồng chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng đồng người chưa phải là dân
tộc.
+Thứ tư, dân tộc là một cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách…
Văn hóa là yếu tố đặc biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Văn hóa dân tộc mang nhiều sắc
thái của các địa phương, các sắc tộc, các tập đoàn người song nó vẫn là một nền văn hóa thông
nhất không bị chia cắt. Tính thống nhất trong đa dạng là đặc trưng của văn hóa dân tộc. Văn hóa
dân tộc hình thành trong quá trình lâu dài của lịch sử, hơn bất cứ yếu tố’ nào khác, tạo ra sắc thái
riêng đa dạng, phong phú của từng dân tộc. Mỗi dân tộc có một nền văn hóa riêng để phân biệt
dân tộc này với dân tộc khác. Văn hóa của mỗi dân tộc không thể phát triển, nếu không giao lưu
văn hóa với các dân tộc khác. Mỗi dân tộc có tâm lý, tính cách riêng. Để nhận biết tâm lý, tính
cách của mỗi dân tộc phải thông qua sinh hoạt vật chất, sinh hoạt tinh thần của dân tộc ấy, đặc
biệt thông qua phong tục, tập quán, tín ngưỡng, đời sống văn hóa.
+ Những đặc trưng trên có quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau, kết hợp với nhau một
cách chặt chẽ trong lịch sử hình thành, phát triển cộng đồng dân tộc. Trong đó cộng đồng về kinh
tế có vai trò quyết định đối với dân tộc. Các đặc trưng khác có vai trò nhất định đối với quá trình
hình thành, phát triển dân tộc.
Đây là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn
toàn bình đẳng có nghĩa là: các dân tộc dù lớn hay nhỏ (kể cả các bộ tộc và chủng tộc) không
phân biệt trình độ cao thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau, không dân tộc nào có đặc
quyền đặc lợi và đi áp bức các dân tộc khác.
Trong quốc gia có nhiều dân tộc, pháp luật phải bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, từng
bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc.
Trên phạm vi giữa các quốc gia, dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc gắn liền
với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, gắn với cuộc đấu tranh xây dựng một
trật tự kinh tế mới, chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển với các nước chậm
phát triển.
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình,
quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập
và quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
- Liên hiệp giai cấp công nhân giữa tất cả các dân tộc lại.
Đây là tư tưởng cơ bản và quan trọng trong cương lĩnh dân tộc của Lênin, nó phản ánh bản chất
quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải
phóng giai cấp, nó đảm bảo cho dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi.
Đây là cơ sở vững chắc để đoàn kết nhân dân lao động trong các dân tộc để chống chủ nghĩa đế
quốc vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Vì vậy, nội dụng liên hiệp giai cấp công nhân giữa tất
cả các dân tộc đóng vai trò liên kết cả ba nội dung của cương lĩnh thành một chỉnh thể.
2.2 Xu hướng dân tộc và đặc điểm dân tộc việt Nam
2.1.1, xu hướng phát triển dân tộc Việt Nam?
Xu hướng thứ nhất, do sự thức tỉnh, sự trưởng thành của ý thức dân tộc mà các cộng đồng dân
cư muốn tách ra để xác lập các cộng đồng dân cư độc lập. Trong thực tế, xu hướng này đã biểu
hiện thành phong trào đấu tranh chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập.
Xu hướng này phát huy tác động nổi bật trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản và vẫn còn tác
động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
(Lịch sử đã chứng minh rằng, từ hang nghìn năm trước, lãnh thổ Việt Nam đã có ngôn ngữ, lãnh
thổ, nền kinh tế,
nhà nước, pháp luật, nền văn hóa thống nhất. Khoa học lịch sử đã khẳng định,
quá trình hình thành dân tộc Việt Nam bắt đầu từ khi nước Đại Việt giành
được độc lập
Xu hướng thứ hai,các dân tộc trong cùng quốc gia, thậm chí các dân tộc ở nhiều quốc gia muốn
liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này phát huy tác động trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính
sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học và công nghệ, của giao lưu kinh tế và văn hóa
trong xã hội tư bản đã xuất hiện nhu cầu xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, tạo nên
mối liên hệ quốc gia và quốc tế rộng lớn giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại gần nhau.
*Tại Việt Nam, hai xu hướng có sự thống nhất biện chứng với nhau, có
sự tác động qua lại, hỗ trợ cho nhau nhưng sẽ để lại hậu quả tiêu cực, khó
lường nếu vi phạm mối quan hệ biện chứng này. Về xu hướng thứ nhất, ta có
thể lấy ví dụ với Cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là cuộc cách
mạng vĩ đại của lịch sử nước nhà dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân cả
nước đã đoàn kết, anh dũng đứng lên đấu tranh đập tan ách thống trị của đế
quốc và phong kiến, dành lại độc lập tự do cho dân tộc. Về xu hướng thứ hai,
Việt Nam luôn chủ động tham gia các Tổ chức Quốc tế (LHQ, ASEAN, WTO
…) nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế, mở rộng đối ngoại.
Hiện nay, hai xu hướng diễn ra khá phức tạp trên phạm vi từng quốc gia
và toàn thế giới, thậm chí nó bị lợi dụng vào mục đích chính trị nhằm thực
hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”. Đặc biệt, tại Việt Nam, các thế lực thù
địch coi việc lợi dụng vấn đề dân tộc với chiến lược “diễn biến hòa bình “là
một trọng điểm với mục tiêu loại trừ vai trò lãnh đạo của ĐCSVN, xóa bỏ chế
độ CNXH, phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc. Vì vậy, trong vấn đề dân tộc,
quan điểm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh là chúng ta cần
nhận thức đúng và khơi dậy những tiềm năng to lớn ở vùng đồng bào các dân
tộc thiểu số và miền núi để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, làm cơ sở vững
chắc thực hiện bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển.
2.2.2 Đặc điểm dân tộc Việt Nam?( PHẦN 2.3 MỤC THỨ NHẤT)
Theo các tài liệu chính thức, nước ta có 54 dân tộc được hình thành và phát triển lâu dài trong
lịch sử. Dân tộc Kinh (Việt) là dân tộc đa số, chiếm hơn 85,7% dân số. Trong các dân tộc thiểu
số, quy mô dân số cũng có sự chênh lệch đáng kể. Tuy số dân có sự chênh lệch đáng kể, nhưng
các dân tộc luôn luôn coi nhau như anh em một nhà, quý trọng, thương yêu đùm bọc và gắn bó
với nhau, chung sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
– Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết
– Các dân tộc thiểu số ở nước ta chủ yếu cư trú trên các vùng rừng núi, biên giới, có vị trí quan
trọng
– Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế – xã hội không đều nhau
– Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, mỗi dân tộc anh em có những
giá trị và sắc thái văn riêng
– Việt Nam có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo khác
- chính sách dân tộc của Việt Nam trong hơn 90 năm qua, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới,
có thể thấy một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong tất cả các văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới đều xác định, vấn đề dân tộc “có vị trí chiến lược lớn’’, “luôn luôn có vị trí chiến
lược’’, “có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta"
Thứ hai, bình đẳng giữa các dân tộc là quyền ngang nhau của các dân tộc, không phân
biệt dân tộc đó là đa số hay thiểu số, trình độ văn hóa, dân trí cao hay thấp, là bình đẳng
trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và được bảo đảm bằng pháp luật.
Thứ ba, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc là quan điểm xuyên suốt của Đảng
trong thời kỳ đổi mới.
Thứ tư, chú trọng tính đặc thù của từng vùng, từng dân tộc. Tại Đại hội VII (tháng 6-
1991), Đảng ta quan tâm cụ thể hơn vấn đề dân tộc, nhấn mạnh, sự phát triển kinh tế - xã
hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải gắn với đặc điểm riêng của từng dân tộc và
điều kiện, đặc điểm của từng vùng: “Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng
dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm của từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm
cho đồng bào các dân tộc thiểu số khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu
cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.”(4)