Professional Documents
Culture Documents
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA: LUẬT
...………○0○………...
ĐÁNH GIÁ MÔ HÌNH CƠ CHẾ BẢO HIẾN HIẾN PHÁP NĂM 2013
Hà Nội, 2023
I. Giới thiệu các mô hình bảo hiến trên thế giới
1. Khái niệm, sự hình thành và vai trò cua bảo hiến
1.1 Khái niệm và sự hình thành bảo hiến
Hiến pháp là một hệ thống cao nhất của pháp luật, là đạo luật tối cao của một quốc
gia. Hiến pháp ra đời thể hiện ý chí của nhân dân tồn tại trong hoặc ngoài nhà nước đó,
nhằm mục đích giới hạn quyền lực nhà nước, bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Quy định
những nguyên tắc chính trị căn bản và thiết lập thủ tục, quyền hạn, trách nhiệm của một
chính quyền. Hiến pháp là cơ sở để xem xét tính pháp lý của mọi văn bản, mọi quyết định
và mọi hành vi của bộ máy nhà nước và công dân. Nhân dân có quyền xem xét tính hợp
hiến của pháp luật. Hiến pháp xuất hiện trong một xã hội có nền dân chủ, có sự phân chia
quyền lực nhà nước, phân công và phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước với
nhau.
Hiện nay, trên thế giới chưa có một định nghĩa thống nhất, chính xác về bảo hiến.
Bảo hiến hay còn gọi là bảo vệ hiến pháp có thể hiểu là cách thức đánh giá tính hợp hiến
của các văn bản pháp luật, các hành vi pháp lý của các cơ quan quyền lực nhà nước được
thực hiện bởi một cơ quan hiến định. Theo nghĩa hẹp, bảo hiến được giải thích là bảo vệ
tính hợp hiến của các đạo luật nhằm mục đích tìm ra sự phù hợp mang tính chính xác
giữa Hiến pháp, đạo luật gốc với những văn bản mang tính pháp lý khác. Dù văn bản nào
mang tính pháp lý được ban hành đều cần có sự tuân thủ tuyệt đối của Hiến pháp. Ngược
lại, ở nghĩa rộng hơn thì bảo hiến được hiểu là bảo vệ tinh thần và nội dung của Hiến
pháp. Tinh thần được nói đến ở đây là công sức, trí tuệ của các nhà lập hiến đã truyền tải
vào bản Hiến pháp. Bảo vệ các mối liên hệ mật thiết giữa hành pháp, tư pháp và lập pháp.
Mỗi quốc gia đều lựa một mô hình bảo hiến cho riêng mình và mỗi cơ chế bảo hiến này
thường không giống nhau nhưng ta vẫn thấy chúng có những điểm chung nhất định.
Được biết bảo hiến có thể xuất hiện vào thời Hy Lạp cổ đại. Những hình thức sơ
khai của mô hình bảo hiến ngày càng phổ biến ở châu Âu trung đại, từ đó hình thành
những điều luật liên quan đến mô hình bảo hiến ở nhiều quốc gia. Những điều luật này
chưa thành chế định bảo hiến cụ thể nhưng đâu đó đã để lại giá trị mang tính tham khảo
lớn phải kể đến như các nước Đức, Áo, Na Uy, Đan Mạch, Hy Lạp và không thể không
nhắc đến Vương quốc Anh - quê hương của nền dân chủ và nghị viện hiện đại. Tiêu biểu
là bản “Đại Hiến chương” hay Magna Carta (15/06/1215) - một trong những văn bản
pháp luật quan trọng trong lịch sử của nước Anh đánh dấu cột mốc tự do, dân chủ của đất
nước Anh. Văn kiện ấy cũng đã góp phần lớn cho sự phát triển nền dân chủ thế giới.
Qua sự kiện của Vương quốc Anh, trong đó có quan điểm về tính tối cao của Hiến
pháp và quyền được toà án xem xét tính hợp pháp của các hoạt động chính phủ. Thế kỷ
XVIII, toà án tuyên bố các luật của đế chế Anh không còn giá trị pháp lý trên lãnh thổ
Hoa Kỳ. Từ đó, Hoa Kỳ được chính thức xác nhận hình thành mô hình bảo hiến kiểu Hoa
Kỳ do những toà án thường thực hiện dân đến sự ra đời của chế định bảo hiến ở Hoa Kỳ.
Sự kiện này đã mở đường cho hàng loạt quốc gia khác với các bản Hiến pháp sau đó như
Hiến pháp Cadiz ra đời làm nền tảng cho Hiến pháp Bồ Đào Nha (1822). Từ sự ảnh
hưởng của Hiến pháp Hoa Kỳ các nước Na Uy, Đan Mạch, Hy Lạp đã đưa quyền giám
sát Hiến Pháp vào thế kỷ XIX. Toà án Liên bang Áo được trao quyền giải quyết những
tranh chấp về thẩm quyền, Toà án Tiểu bang được trao quyền ra quyết định với các vụ
kiện vi phạm Hiến pháp...
Áo đã sáng tạo ra mô hình bảo hiến tập trung qua sự áp dụng công trình của hai
nhà khoa học Hans Kelsen và Adolf Merkl. Mô hình bảo hiến tập trung đã mở đường
cho hàng loạt các Tào án Hiến pháp ở Châu Âu. Toà án Hiến pháp đã được xác nhận qua
Hiến pháp năm 1920 ở Áo, chịu trách nhiệm cơ bản bảo hiến như là một nhiệm vụ độc
lập - trở thành một trong những mô hình cơ bản về cơ chế bảo hiến trên thế giới. Từ giai
đoạn sau đó trở đi rất nhiều quốc gia trên thế giới thành lập cơ quan bảo vệ Hiến pháp
theo những mô hình khác nhau như Nhật Bản, Ấn Độ, Italia...Ngoài toà án thường và toà
án Hiến pháp ở Mỹ và Áo, mô hình hội đồng Hiến pháp của Pháp và mô hình bảo hiến
Quốc hội - nghị viện của Liên Xô đã mở ra thêm nhiều sự lựa chọn phù hợp hơn hoàn
cảnh của mỗi quốc gia. Sự phát triển của các mô hình bảo hiến trên thế giới hiện nay diễn
gia nhanh chóng, được đa số các quốc gia trên thế giới ghi nhận là một trong những chế
định bắt buộc tồn tại trong hệ thống pháp luật quốc gia và được quy định trong văn bản
có giá trị pháp lý cao nhất của quốc gia đó.
Pháp luật, nền dân chủ hay sự phát triển của quốc gia đang dần được hoàn thiện
nhờ sự đóng góp của bảo hiến. Mô hình bảo hiến ở mỗi quốc gia là khác nhau, tuy nhiên
ta có thể thấy những điểm chung cơ bản của bảo hiến như: kiểm so quyền lực nhà nước,
duy trì hiệu quả các hoạt động bộ máy nhà nước, hoàn chỉnh chức năng của từng cơ quan
trong bộ máy nhà nước; Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; Hoàn thiện về
hệ thống pháp luật. Vai trò của bảo hiến cũng giống như tên gọi của nó là bảo vệ Hiến
pháp, những giá trị cốt lõi, những điểm căn bản nhất của quốc gia cho dù bản Hiến pháp
đó tồn tại ở bất kỳ dạng nào (thành văn hay bất thành văn). Quá trình xây dựng pháp luật
ban đầu cũng có thể mang nhiều hạn chế như xuất phát từ các ý kiến cá nhân, cá thể mà
không dựa trên cái nhìn khách quan về vấn đề. Việc tồn tại những sai sót là không thể
thiếu hay cả những mâu thuẫn trong thực tiễn. Sự hình thành các mô hình bảo hiến sẽ bảo
vệ xã hội khỏi những văn bản, điều luật mâu thuẫn từ đó tạo ra sự thống nhất trong phạm
vi Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp có thể hạn chế một phần hoặc toàn bộ những vấn đề
có thể phát sinh trong việc xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật.
Bản chất của bảo hiến chính là bảo vệ toàn bộ quy trình lập hiến và lập pháp, đưa
quy trình vào thực tế và tiếp đó là áp dụng. Qua đó, hệ thống pháp luật sẽ được xây dựng
hoàn chỉnh, đúng trình tự, có sự giám sát chặt chẽ và sự điều chỉnh kịp thời khi cần. Hiến
pháp sẽ điều chỉnh các mối quan hệ xã hội cũng như quyền lực nhà nước theo đúng
khuôn khổ pháp luật. Làm phát huy quyền tự do dân chủ được quy định trong Hiến pháp.
Nhân dân có quyền yêu cầu cơ quan bảo hiến bảo vệ quyền và lợi ích của mình trước
những văn bản vi hiến, hành vi vi hiến của cơ quan quyền lực nhà nước hay những các
nhân thẩm quyền. Giữa hàng ngàn những mâu thuẫn về các chuẩn mực, quy định trong xã
hội thì Hiến pháp đóng vai trò tồn tại thiết yếu, nhưng vẫn chưa đủ. Vì vậy chúng ta cần
áp dụng tới mô hình bảo hiến, cơ quan bảo hiến không chỉ để bảo vệ tính pháp lý của
Hiến pháp mà còn để công dân dựa vào đó để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
2. Các kiểu mô hình bảo hiến trên thế giới.
Mô hình bảo hiến trên thế giới có thể chia thành các kiểu mô hình khác nhau. Có
mô hình giám sát Hiến pháp tập trung và mô hình giám sát Hiến pháp phi tập trung nếu
phân chia theo cách thức giám sát. Cách thức phân chia theo trình tự thủ tục thẩm quyền
cơ quan bảo hiến thông thường là phân chia được sử dụng nhiều nhất thì thế giới có bốn
mô hình bảo hiến điển hình như:
Mô hình bảo hiến bằng toà án Hiến pháp (điển hình tại Áo, Đức).
Mô hình bảo hiến bằng toà án tư pháp (điển hình tại Hoa Kỳ).
Mô hình bảo hiến bằng hội đồng Hiến pháp (điển hình tại Pháp).
Mô hình bảo hiến khác.
Đặc điểm
Mô hình không chỉ mang bản chất đúng của tài phán Hiến pháp mà còn mang đạm
yếu tố tổ chức chính trị. Hoạt động theo một cơ chế đặc biệt không công khai quy trình
bảo hiến. Thành viên mô hình cũng rất đa dạng bao gồm cả những tổng thống đã hết
nhiệm kỳ. Thời gian đầu được xây dựng chỉ mang nhiệm vụ kiểm tra dự án luật chưa
được thông qua bởi nghị viện. Sau khi nhận ra việc chỉ kiểm tra dự án đã làm mất đi tính
thực tế của Hiến pháp và chỉ khi đưa vào thực tiễn mới có thể phát hiện được sự vi hiến
tồn tại dẫn đến việc quy định lại đầy đủ quyền hạn của hội đồng Hiến pháp trong việc
thẩm tra những dự án luật và cả những văn bản pháp luật đã được thông qua bởi nghị
viện. Hội đồng Hiến pháp sau khi thẩm tra được tuyên bố văn bản hay hành vi là vi hiến,
có thể hủy bỏ hoặc sửa đổi những văn bản hay hành vi pháp luật có sự vi hiến. Khi được
đưa vào thực tiễn mô hình hoạt động mang lại sự hiệu quả và trở thành mô hình tiêu biểu
trong các mô hình bảo hiến. Mô hình hội đồng Hiến pháp là mô hình có thể phù hợp với
hoàn cảnh đặc thù và khó có thể áp dụng rộng rãi được. Một thể chế mang bản chất chính
trị phải có những cách thức riêng mới có thể tránh được sự ảnh hưởng của những cơ quan
quyền lực nhà nước khác. Hội đồng Hiến pháp là mô hình rất khó để áp dụng thành công
nếu không thực sự phù hợp quốc gia lựa chọn mô hình.
Đặc điểm
Hoạt động dựa trên mô hình tòa án tư pháp thông thường. Từ tòa án địa phương
cho đến tòa án liên bang đều có thẩm quyền xét xử những vụ án liên quan đến vi hiến.
Tuy quyền hạn trao cho tất cả các tòa án các cấp quyền bảo hiến nhưng các quyết định
của các tòa án cấp cao nhất có ưu thế bởi chỉ những quyết định đó mới có tính bắt buộc
với mọi tòa khác. Sau khi tòa án cấp cao nhất phủ nhận tính hợp hiến của đạo luật thì đạo
luật đó trên thực tế mới mất hiệu lực pháp lý.
Tòa án thực hiện giám sát Hiến pháp sau khi văn bản pháp luật được ban hành
hoặc có hiệu lực. Đây là một cái nhìn thực tiễn sâu sắc, mang màu sắc của án lệ, đặc
trưng của hệ thống thông luật, mọi đạo luật đều được kiểm nghiệm tính pháp lý thông qua
thực tiễn chứ không phải chỉ trên giấy tờ. Sự ảnh hưởng của đạo luật nhất định phải được
chứng minh bằng thực tiễn áp dụng.
Toà án bảo vệ Hiến pháp trong từng sự việc cụ thể, điều này một phần xuất phát từ
triết lý chân lý luôn mang tính cụ thể của Hoa Kỳ. Tòa án chỉ giám sát tính hợp hiến của
văn bản pháp luật khi có những sự kiện pháp lý nhất định, hay nói cách khác kiện tụng
chính là tiền đề để Tòa án phán xét tính hợp hiến của một đạo luật. Đây là ưu thế lớn của
mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ khi mà ngay cả việc hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp
mang dáng dấp của án lệ (Án lệ đánh dấu sự ra đời của Hiến pháp trong vụ kiến Marbury
chống Madison với phán quyết của Chánh án Tòa án Tối cao Marshall). Quyền bảo hiến
chỉ được các Tòa án sử dụng trong trường hợp tìm thấy sự liên quan trực tiếp đến quyền
và lợi ích hợp pháp của người đề nghị xem xét tính hợp hiến của các đạo luật. Đặc điểm
này xác định rõ ràng hơn phạm vi của quyền giám sát, tránh sự trừu tượng và kém hiệu
quả. Từ đây, mô hình này cho phép các bên có tranh chấp trong vụ án bình thường, khi
nhận ra những phán quyết hay những hành động trái Hiến pháp của bên còn lại gây ảnh
hưởng đến lợi ích của mình thì đều có quyền đề nghị thực hiện quyền bảo vệ Hiến pháp
(xuất phát từ một hành vi vi hiến ảnh hưởng trực tiếp đến mình).điều này một phần xuất
phát từ triết lý chân lý luôn mang tính cụ thể của Hoa Kỳ. Tòa án chỉ giám sát tính hợp
hiến của văn bản pháp luật khi có những sự kiện pháp lý nhất định, hay nói cách khác
kiện tụng chính là tiền đề để Tòa án phán xét tính hợp hiến của một đạo luật. Đây là ưu
thế lớn của mô hình bảo hiến kiểu Hoa Kỳ khi mà ngay cả việc hình thành cơ chế bảo vệ
Hiến pháp mang dáng dấp của án lệ (Án lệ đánh dấu sự ra đời của Hiến pháp trong vụ
kiến Marbury chống Madison với phán quyết của Chánh án Tòa án Tối cao Marshall).
Quyền bảo hiến chỉ được các Tòa án sử dụng trong trường hợp tìm thấy sự liên quan trực
tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đề nghị xem xét tính hợp hiến của các đạo
luật. Đặc điểm này xác định rõ ràng hơn phạm vi của quyền giám sát, tránh sự trừu tượng
và kém hiệu quả. Từ đây, mô hình này cho phép các bên có tranh chấp trong vụ án bình
thường, khi nhận ra những phán quyết hay những hành động trái Hiến pháp của bên còn
lại gây ảnh hưởng đến lợi ích của mình thì đều có quyền đề nghị thực hiện quyền bảo vệ
Hiến pháp (xuất phát từ một hành vi vi hiến ảnh hưởng trực tiếp đến mình).