Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 21

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


...………○0○………...

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON


NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện : Lê Thị Hồng Ánh


Mã sinh viên: 2214610015
Số thứ tự: 8
Giảng viên hướng dẫn: TS.Nguyễn Thị Phương Mai

Hà Nội, 2022
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................2
II. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ............................................................3
III. Nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................3
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI .....4
I. Quan điểm của triết học Mác- Lênin về con người...............................4
1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội4
1.1.Bản tính tự nhiên của con người ..........................................................4
1.2.Bản tính xã hội của con người ..............................................................5
2. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử .................................6
II. “Nguồn lực con người” và vai trò của nguồn lực con người................8
1. Một số khái niệm ..................................................................................8
2. Vai trò của nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới đất nước....10
CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY...................................................13
I. Nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay..........................................13
1. Ưu điểm của nguồn lực con người ở Việt Nam ...................................13
1.1.Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, tăng trưởng nhanh....................13
1.2.Chất lượng lao động ngày càng được cải thiện ....................................13
1.3.Phẩm chất con người lao động Việt Nam.............................................13
2. Hạn chế của nguồn lực con người Việt Nam........................................14
2.1.Cơ cấu nguồn nhân lực còn bất hợp lí ..................................................14
2.2.Nguồn nhân lực hạn chế về chất lượng ................................................14
2.3.Tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng ......................................................15
II. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực....................................15
1. Xây dựng lại cơ cấu hệ thống nguồn nhân lực .....................................15
2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực....................................................15
3. Giảm tỷ lệ thất nghiệp ..........................................................................16
KẾT LUẬN................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................19
1
MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn lực con người luôn có vai trò quan trọng với sự phát triển
của mỗi quốc gia. Đặc biệt là trong bối cảnh thế kỉ XXI, khi thế giới đang
dần chuyển sang nền kinh tế tri thức, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, nguồn
lực con người ngày càng thể hiện vai trò quyết định của nó. Phát triển
nguồn lực con người là xu hướng phát triển của thế giới, đó cũng là con
đường phát triển tất yếu của Việt Nam để tiến tới hoàn thành sự nghiệp
công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và
phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định
thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa- hiện đại hóa”. Thực tế đã chứng
tỏ rằng nếu không có nguồn nhân lực chất lượng thì nền kinh tế của Việt
Nam chưa thể thoát khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu.
Với những yêu cầu cấp thiết đó, trong công cuộc hiện đại hóa đất
nước, chúng ta cần phải xem xét, đánh giá nguồn nhân lực hiện tại ở Việt
Nam đang bộc lộ những ưu điểm gì, tồn tại những hạn chế nào để xây dựng
chính sách phát triển bền vững, nâng cao chất lượng lao động, phát huy sức
mạnh của nhân tố con người để phục vụ tốt nhất cho mục tiêu công nghiệp
hóa- hiện đại hóa đất nước. Và tư tưởng Mác-Lênin là cơ sở, là nền tảng để
xây dựng nên những chính sách, tầm nhìn chiến về nguồn lực con người ở
Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của con người với sự phát triển của
quốc gia em đã chọn đề tài tiểu luận: “Quan điểm của triết học Mác-
Lênin về con người và vấn đề xây dựng nguồn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.”

2
II. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu của đề tài là đưa ra cái nhìn tổng quát về thực trạng nguồn
lực con người ở Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp phát huy thế mạnh,
khắc phục hạn chế nhân tố con người Việt Nam.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
Bài tiểu luận tập trung triển khai, phân tích 3 nội dung chủ yếu:
 Cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người
 Đặc điểm nguồn lực con người tại Việt Nam. Nguyên nhân gây ra hạn
chế.
 Giải pháp khắc phục

3
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NGUÔNG LỰC CON NGƯỜI
I. Quan điểm triết học Mác- Lênin về bản chất con người
1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã
hội
Trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội và về con
người, triết học Mác- Lênin đã đem lại một quan niệm hoàn chỉnh về con
người. Theo quan điểm chung nhất, con người là thực thể sinh học xã hội,
đồng thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh. Con người là một thực thể “song
trùng” tự nhiên và xã hội. Hai yếu tố này gắn kết với nhau, trong cái tự
nhiên chứa đựng tính xã hội và không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên.
1.1. Bản tính tự nhiên của con người
Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản phẩm
của giới tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính
sinh học, tính loài. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên
quy định sự tồn tại của con người. Những biến đổi của giới tự nhiên và tác
động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định
sự tồn tại của loài người; ngược lại sự biến đổi và hoạt động của con người
luôn tác động lại môi trường tự nhiên làm biến đổi môi trường đó Vì vậy,
giới tự nhiên là “cơ thể vô cơ của con người”. Con người là một bộ phận
của tự nhiên.
Là động vật cao cấp, tinh hoa của muôn loài, con người là sản phẩm
của quá trình tiến hóa và phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên.
Con người phải tìm kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời
sống tự nhiên như thức ăn, nước uống, hang động để ở, để sinh tồn. Trải

4
qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn thành người, điều
đó đã được chứng minh trong học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa.
Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật, biểu hiện trong
những cá nhân con người đang sống, là tổ chức cơ thể của con người và
mối quan hệ của nó với tự nhiên. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh
học, quá trình tâm-sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nh\au đã nói lên
bản chất sinh học của cá nhân con người.
1.2. Bản tính xã hội của con người
1.2.1. Loài người không chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa của tự nhiên mà
nó còn có nguồn gốc xã hội
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác-Lênin đã nhận
thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể trong toàn bộ tính thực
hiện xã hội của nó mà trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật
chất. Mác đã nhiều lần so sánh con người với các loài động vật có bản năng
gần giống con người và ông chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ con
người mới có thể làm ra tư liệu sản xuất, con người biết biến đổi tự nhiên,
con người là thước đo của vạn vật,... Chính nhờ lao động mà con người có
khả năng vượt qua các loài động vật khác để tiến hóa thành người. Vì vậy,
theo Mác, xã hội suy cho cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa
những con người. Con người tạo ra xã hội và là thành viên của xã hội.
1.2.2. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
Chúng ta thấy rằng, con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba
phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan
hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều
mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ
bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong
chừng mực liên quan đến con người. Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội
của con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận
5
cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội". Luận đề trên khẳng định rằng,
không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã
hội. Bản chất của con người luôn được hình thành và thể hiện ở những con
người cụ thể, xác định, sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể, một thời
đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của
mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát
triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội
đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan
hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội
của mình.
Các quan hệ xã hội có nhiều loại như: quan hệ giai cấp, dân tộc, thời
đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội,….tất cả
các mối quan hệ về vật chất và tinh thần đều góp phần vào việc bộc lộ toàn
bộ bản chất xã hội của con người. Con người “bẩm sinh đã là sinh vật có
tính xã hội”1. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề trên đó thực thể xã hội
tồn tại, phát triển và chi phối.
2. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại
con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu
dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là: con người luôn luôn
là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: "Cái học thuyết duy
vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của
giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi
hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục". Trong
tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: "Thú vật
cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát
6
triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch
sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự
vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và
không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con
vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình
làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu". Như vậy, với tư
cách là thực thể xã hội, con người tham gia hoạt động thực tiễn, tác động
vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn
của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình
để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai
theo mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của
mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra
lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là
điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi
đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội,
con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát
triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra.
Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội,
và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi
giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong
mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng
phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống
đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con
người. Mặc dù là "tổng hoà các quan hệ xã hội", con người có vai trò tích
cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó,
7
bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng,
mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù
không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần
phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh
đó chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người
theo khuynh hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự
giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận
hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều
phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con
người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật
nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của
mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của
lịch sử xã hội loài người.
II. “Nguồn lực con người” và vai trò của nguồn lực con người
1. Một số khái niệm
 Trước hết cần xem xét khái niệm “nguồn lực”. Qua tìm hiểu tôi thấy,
dưới dạng tổng quát, khái niệm “nguồn lực” được hiểu là toàn bộ các yếu tố
cả vật chất lẫn tinh thần đã, đang và sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và
trong những điều kiện thích hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của
một quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, nguồn lực phải được quan niệm như một
hệ thống, mỗi nhân tố trong hệ thống đó đều có đặc điểm, vai trò riêng và
có mối quan hệ hữu cơ với các nhân tố khác. Nguồn lực con người nằm ở
trung tâm của hệ thống này, bởi vì phải thông qua hoạt động của con người
các nguồn lực khác mới có điều kiện thể hiện và phát huy hết khả năng của
chúng, mới có thể biến tiềm năng trở thành hiện thực.
 Nguồn lực con người còn được gọi là nguồn nhân lực, vốn người,
nguồn tài nguyên người. Về khái niệm “nguồn lực con người”, qua tìm
8
hiểu chúng tôi thấy, quan niệm về nguồn lực con người khá đa dạng. Liên
hiệp quốc cho rằng, nguồn lực con người là tất cả những kiến thức, kỹ năng
và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước. Ở
nước ta, trong bài viết đăng trên tạp chí Triết học số 3/2000, TS. Đoàn Văn
Khái cho rằng, nguồn lực con người không chỉ là lực lượng lao động hay
nguồn lao động mà là một tập hợp các yếu tố (thể lực, trí lực, tâm lực...) của
mỗi cá nhân và của cả cộng đồng tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự phát triển
xã hội. Theo đó, tác giả cho rằng “Nguồn lực con người là khái niệm chỉ số
dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với tất cả đặc điểm và
sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội” [33, tr.3].
Tiến sĩ Hồ Anh Dũng trong một cuốn sách xuất bản năm 2002, cho
rằng “Nguồn nhân lực là nguồn sức mạnh của con người, là sự kết hợp hữu
cơ giữa thể lực và trí lực, đem lại cho con người năng lực sáng tạo và nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới và nhu cầu của
con người ” [17, tr.62], và tác giả còn cho rằng “khái niệm nguồn lực con
người không mâu thuẫn mà thống nhất với khái niệm yếu tố con người
trong lực lượng sản xuất. Hai vấn đề đó chỉ khác nhau ở phạm vi xem xét
mà thôi” [17, tr.62], v.v..
Các quan niệm về nguồn lực con người trên đây tuy khác nhau về
ngôn từ, cách thể hiện, nhưng nhìn chung đều đề cập đến yếu tố thể chất và
yếu tố tinh thần của con người, phản ánh thể lực, trí lực và những phẩm
chất tinh thần khác (tâm lực) ở con người, nhờ đó tạo ra được sức mạnh với
tư cách là một nguồn lực của sự phát triển xã hội. Như vậy, theo nghĩa
chung nhất, chúng ta có thể hiểu “nguồn lực con người” là tổng hợp các
yếu tố thể chất và tinh thần của con người, các hoạt động vật chất và tinh
thần của họ đã, đang và sẽ tạo ra năng lực, sức mạnh thúc đẩy sự phát
triển xã hội.

9
2. Vai trò của nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới đất nước
Hiện nay, phát triển bền vững được xác định là chiến lược ưu tiên
hàng đầu của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Một trong những cơ sở, nền
tảng quan trọng nhất để thực hiện chiến lược phát triển đó là nguồn lực con
người. Lịch sử phát triển xã hội đã chứng minh rằng, trong mọi giai đoạn,
con người là yếu tố đóng vai trò quyết định sự phát triển theo chiều hướng
tiến bộ của xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã hoàn toàn đúng
khi khẳng định rằng, sự phát triển của xã hội không phải do bất kỳ một lực
lượng siêu nhiên nào, mà chính con người đã sáng tạo nên lịch sử  của mình
- lịch sử xã hội loài người. Nhận thức rõ vai trò to lớn của nguồn lực con
người, trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh", Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh đến nguồn lực con nguời,
coi đó là nguồn lực nội sinh quan trọng nhất cho sự phát triển nhanh và bền
vững của đất nước.
Đặc biệt, triết học Mác đã có những phân tích hết sức đúng đắn và
khoa học về vị trí, vai trò của con người đối với sự phát triển xã hội. Vai trò
quan trọng không thể thay thế của con người trong tiến trình phát triển lịch
sử thể hiện tập trung trên một số điểm cơ bản sau:
Trước hết, bằng hoạt động cải biến tự nhiên theo nhu cầu mục đích
của mình, đối tượng hoá lực lượng bản chất của mình thông qua thực tiễn,
con người đã tự khẳng định và thể hiện vai trò động lực đối với sự phát
triển của xã hội. Nhờ hoạt động lao động, con người không chỉ tạo nên
bước chuyển quan trọng của mình, “tách” khỏi thế giới động vật để trở
thành con người theo đúng nghĩa của từ này, mà còn "tự nhân đôi mình lên
một cách tích cực, một cách hiện thực”2 như C.Mác đã khẳng định. V.I.
Lênin cũng chỉ rõ rằng, con người là nhân tố quyết định, làm biến đổi thế
giới bằng chính những hành động thực tiễn của mình. Quá trình vươn lên
10
không ngừng trong nhận thức, phản ánh thế giới khách quan cũng chính là
quá trình con người tích cực hoá năng lực tư duy của mình thông qua sự
trừu tượng hoá, khái quát hoá, tư duy logic để nắm bắt những quy luật vận
động, phát triển của thế giới. Từ đó, con người đã vận dụng vào hoạt động
thực tiễn nhằm cải biến thế giới, phục vụ lợi ích của mình. Nhờ con người
mà tự nhiên hoang sơ đã trở thành tự nhiên nhân tạo, thành thế giới tự nhiên
mang tính người với những đặc tính hoàn toàn mới; đến lượt nó, giới tự
nhiên đã hoà nhập vào đời sống xã hội của con người như một thành tố
không thể thiếu. Đồng thời, trong quá trình tác động vào giới tự nhiên, con
người có thể hoàn thiện mọi tố chất: thể chất, trí tuệ, tình cảm, tâm lý của
mình để ngày càng thể hiện đầy đủ tư cách một thực thể thống nhất giữa cái
tự nhiên - sinh học với cái xã hội - văn hoá.
Thứ hai, con người đóng vai trò là chủ thể hoạt động sáng tạo lịch
sử, làm cho lịch sử vận động theo hướng tiến bộ. Con người là chủ thể của
các quan hệ kinh tế - xã hội và mọi giá trị tinh thần của xã hội. Theo quan
niệm duy vật về lịch sử, sự phát triển của xã hội loài người từ trước đến nay
và tiếp tục sau này, suy cho cùng, được quyết định bởi sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Trong cấu trúc của lực lượng sản xuất, con người không chỉ
là một bộ phận cấu thành cơ bản mà còn đóng vai trò đặc biệt quan trọng
- kết nối các yếu tố khác với nhau để chúng phát huy tác dụng. Với tính
cách một thành tố của lực lượng sản xuất, con người vừa là chủ thể sáng tạo
và “tiêu dùng” sản phẩm của sản xuất, vừa là một nguồn lực đặc biệt của
quá trình sản xuất. V.I.Lênin hoàn toàn đúng khi ông coi "lực lượng sản
xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động"3.
Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của
toàn bộ đời sống loài người”4. Con người đã sử dụng sức lao động của mình
kết hợp với các công cụ, phương tiện sản xuất khác để tác động vào tự
nhiên, cải biến tự nhiên. Trong quá trình đó, con người còn không ngừng
11
sáng tạo nên những công cụ lao động mới, thay đổi cách thức sản xuất, thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trong các cuộc cách mạng xã hội, con
người luôn là lực lượng tiến hành cuộc đấu tranh đưa xã hội sang một giai
đoạn phát triển mới, tiến bộ hơn. Nói cách khác, thông qua quá trình đó,
con người đã sáng tạo, "viết nên" lịch sử của mình, của xã hội loài người.
Thứ ba, trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác của sự phát
triển xã hội, con người đóng vai trò là nguồn lực trọng yếu nhất – một
nguồn lực vô tận. Các nguồn lực vật chất ngoài con người đương nhiên là
cần thiết cho sự phát triển, song chúng là những nguồn lực hữu hạn, nghĩa
là có thể bị cạn kiệt và một số trong đó là không thể tái tạo được; hơn nữa,
chúng cũng chỉ thực sự phát huy giá trị khi được kết hợp với nguồn lực con
người. Trong khi đó, nguồn lực con người có những tiềm năng nổi trội hơn
hẳn. Đặc biệt, trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ phát triển
mạnh như ngày nay, trí tuệ được coi là nguồn tài nguyên vô hạn; đồng thời,
lao động trí tuệ của con người có ảnh hưởng quyết định đối với năng suất,
chất lượng lao động và do vậy, con người trở thành nguồn lực nội sinh quan
trọng nhất đối với sự phát triển bền vững.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, bước vào công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước, một lần nữa, vai trò quan trọng của nguồn
lực con người tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định và phát
huy. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta đã chỉ rõ rằng, con người là nguồn lực quan trọng
nhất của sự phát triển xã hội; rằng, phát huy sức mạnh tổng hợp của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của Đảng nhằm xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

12
CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON NGƯỜI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
I. Nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay
1. Ưu điểm của nguồn lực con người ở Việt Nam
1.1.Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, tăng trưởng nhanh
Việt Nam có dân số đông 92,7 triệu người (2016), đứng thứ 13 trên
thế giới và thứ 2 trong khu vực ASEAN. Trong đó số người trong độ tuổi
lao động là 54,4 triệu người chiếm 58,6% dân số cả nước. Do nguồn lực
tăng nhanh nên hằng năm có thêm 1 triệu người gia nhập vào thị trường lao
động. Vì vậy, có thể nói Việt Nam là một trong các quốc gia sở hữu nguồn
nhân lực trẻ, và đó là một lợi thế trong việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
1.2. Chất lượng lao động ngày càng được cải thiện
Nhờ chính sách cải cách đổi mới phát triển kinh tế, chất lượng
nguồn nhân lực đã được nâng cao nhiều. Trình độ học vấn và dân trí của
nguồn nhân lực Việt Nam là khá cao. Trong những năm qua do Đảng và
nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục đào tạo nên đã đạt được một số thành
tựu nhất định. Việt Nam được Liên Hợp Quốc đánh giá cao về chỉ số phát
triển con người: chỉ số HDI đạt 0,682 cao hơn nhiều nước trong khu vực.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực không ngừng
được nâng cao. Trong công tác giáo dục nghề nghiệp, cả nước ước tuyển
sinh dạy nghề được 1.974,84 nghìn người, đạt 91,8% kế hoạch năm và bằng
99,7% so với năm 2015; ước tốt nghiệp học nghề năm 2016 đạt trên 1.880
nghìn người; tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 53%.

1.3.Phẩm chất con người lao động Việt Nam


Người lao động Việt Nam giàu lòng yêu nước, cần cù chăm chỉ, có
tư chất thông minh, sang tạo, khả năng vận dụng và thích ứng nhanh.
13
Những phẩm chất đó khẳng định năng lực trí tuệ của người Việt Nam có
khả năng theo kịp tốc độ phát triển của thế giới hiện đại.
2. Hạn chế của nguồn lực con người Việt Nam
2.1.Cơ cấu nguồn nhân lực còn bất hợp lí
Cơ cấu phân bố lao động theo ngành nghề mất cân đối. Tỷ lệ lao
động làm việc cho các ngành cần tăng tốc phát triển giai đoạn 2011-2020
phục vụ công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước như: Công nghệ thông tin,
công nghiệp phụ trợ, y tế, giáo dục – đào tạo.... chỉ xấp xỉ 1% mỗi ngành,
trong khi có tới 47,4% lao động làm việc trong khu nông-lâm-ngư nghiệp
hoặc lao động giản đơn.
Nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta phân bố không hợp lý:
hơn 92% số cán bộ có trình độ tiến sĩ trở lên tập trung ở Hà Nội và TP Hồ
Chí Minh; tại Tây Nguyên, Tây Bắc và Nam Bộ tỷ lệ này chưa tới 1%.
2.2.Nguồn nhân lực hạn chế về chất lượng
Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, chất lượng nguồn nhân lực
của Việt Nam đạt mức 3,79/10 điểm, xếp hạng thứ 11 trên 12 quốc gia được
khảo sát tại châu Á. Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91/10 điểm, Ấn Độ đạt
5,76/10 điểm, Malaysia đạt 5.59/10 điểm. Đánh giá này cũng cho biết nhân
lực nước ta yếu về chất lượng, thiếu năng động và sáng tạo, tác phong lao
động công nghiệp Theo một kết quả điều tra gần đây: số tiến sĩ là hơn 14
nghìn người, nhưng có tới 70% giữ chức vụ quản lý, chỉ còn 30% làm công
tác chuyên môn. Có tới hơn 60% số sinh viên tốt nghiệp đại học và thạc sĩ
hằng năm ra trường chưa có việc làm. Đa số sinh viên sau khi tốt nghiệp
cũng phải đào tạo lại và mất một vài năm mới quenviệc, nhiều người không
đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng.
Lao động chưa được trang bị các kiến thức và kĩ năng làm việc,
thiếu khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng chế và chia

14
sẻ kinh nghiệm làm việc, năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước
trong khu vực và thế giới.
2.3.Tỷ lên thất nghiệp có xu hướng tăng
Theo Tổng cục Thống kê, tính chung bình 9 tháng năm nay, tỷ lệ
thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2,26%, trong đó khu vực thành thị
là 3,19%; khu vực nông thôn là 1,79%.
II. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập, cạnh tranh và hướng tới nền
kinh tế tri thức, các quốc gia đều chú trọng đầu tư đào tạo phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao. Với Việt Nam, để không tụt hậu xa so với trình độ
chung của các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, chúng ta phải
thật sự có các chính sách đổi mới công tác đào tạo phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao.
1. Xây dựng lại cơ cấu hệ thống nguồn nhân lực
Nhà nước cần phải:
 Xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với phát triển kinh tế - xã hội,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
 Hình thành khung pháp lý và cơ chế cho đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao.
 Xác định rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà hoạch
định và tổ chức thực hiện chính sách là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị.
2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
a) Đối với Nhà nước
 Đẩy mạnh chiến lược xã hội hóa giáo dục, qua đó huy động tiềm năng xã
hội cho công tác nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Đi cùng với đó là
bổ sung, hoàn thiện quy hoạch hệ thống các trường đại học, cao đẳng đến
năm 2020 và tầm nhìn 2030.
15
 Chú trọng sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước với các cơ
sở giáo dục - đào tạo và các cơ quan, doanh nghiệp nơi sử dụng nguồn nhân
lực chất lượng cao.
 Ngoài ra, yếu tố văn hóa, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc trong quá trình
xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phải được nhìn nhận đúng với tầm
quan trọng của nó, để từ đó các chương trình giáo dục - đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao được bổ sung các nội dung liên quan.
b) Đối với các cơ sở giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực
 Chú trọng xây dựng bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trình độ cao; tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất trên cơ sở thực hiện xã hội hóa giáo dục; đào
tạo gắn với việc làm và theo nhu cầu xã hội.
 Xây dựng nhà trường với hệ thống tổ chức quản lý hiệu quả cao trên cơ
sở chủ động khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn lực của nhà
trường và xã hội nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng được yêu cầu
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Các cơ sở giáo dục đại
học cần chú trọng kiểm soát đầu ra chặt chẽ hơn, nhất là đào tạo đại học và
sau đại học.
 Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp từ bậc phổ thông đến bậc đại học, bảo
đảm cho học sinh, sinh viên có định hướng đúng về nghề nghiệp.
c) Đối với các đơn vị tuyển dụng
Chú trọng đào tạo, tạo điều kiện cho người lao động tham gia bồi dưỡng và
tự học để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp qua đó nâng
cao chất lượng đội ngũ nhân lực chất lượng cao tại doanh nghiệp.
3. Giảm tỷ lệ thất nghiệp
Bộ máy quản lý nhà nước và doanh nghiệp cần phải:
 Tập trung tạo động lực để thu hút nhân tài theo hướng quan tâm đúng
mức tới lợi ích kinh tế và danh dự cá nhân gắn với tinh thần dân tộc.

16
 Thay đổi tiêu chí, chế độ tuyển dụng, đãi ngộ, thực hiện dân chủ, công
khai, minh bạch trong tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ nhân lực chất lượng
cao, xóa bỏ các rào cản về tôn giáo, dân tộc trong việc chọn lựa người tài.

17
KẾT LUẬN
Như vậy, quan điểm triết học của Mác – Lênin về con người và
phát huy nguồn lực con người là hoàn toàn đúng đắn và sâu sắc. Nắm bắt và
vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết
học Mác – Lênin nói riêng vào thực tiễn ngày nay, cuộc cách mạng kỹ thuật
công nghệ hiện đại đã dần dần đi đến khẳng định sự phát triển của con
người là yếu tố quyết định của mọi sự phát triển. Những năm gần đây, Nhà
nước càng chú trọng hơn nữa phát triển nguồn nhân lực do đã nhận thức vai
trò hết sức đặc biệt của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước và đã đạt được nhiều kết quả khả quan được ghi nhận
đánh giá cao. Mặc dù vậy, so với nhu cầu chất lượng nguồn nhân lực, Việt
Nam vẫn còn hạn chế về chất lượng. Đây là thách thức lớn trong công cuộc
đổi mới đất nước của Viêt Nam ngày nay. Những thực trạng và giải pháp
đưa ra sẽ giúp Chính phủ Việt Nam thực hiện những Chính sách phù hợp,
có hiệu quả nhất cho sự phát triển đất nước.
Nghiên cứu chất lượng nguồn nhân lực là một đòi hỏi vừa cấp bách,
vừa cơ bản do đó cần được tiến hành thường xuyên và trên nhiều phương
diện nhằm phát huy cao nhất vai trò của yếu tố con người trong sự phát
triển kinh tế, xã hội. Cho tới nay, tuy chúng ta đã đạt được những thành tựu
đáng kể nhưng đời sống vật chất và tinh thần của đại đa số người dân vẫn
còn hạn chế. Do vậy, quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về con người chính
là kim chỉ nam hướng đất nước ta thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chú thích: 1 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.200
2 C.Mác - Ph.Ăngghen. Tuyển tập, t.1. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr.120.
3 V.I.Lênin. Toàn tập, t.38. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr. 430.
4 C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr. 641

18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. PGS, TS Lê Hữu Lập (21/11/2017), Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao, http://nhandan.com.vn/theodong/item/29260702-dao-tao-nguon-nhan-
luc-chat-luong-cao.html
3. Tài liệu- Ebook- maiphuongdc (19/11/2017), Tiểu luận Nguồn lực con
người trong xã hội hiện nay, http://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-nguon-luc-
con-nguoi-trong-xa-hoi-hien-nay-67576/
4. Notice (23/11/2017), Những quan niệm cơ bản của triết học Mác- Lênin
về con người, https://www.wattpad.com/242342-c%C3%A2u-11-
ph%C3%A2n-t%C3%ADch-b%E1%BA%A3n-ch%E1%BA%A5t-con-
ng%C6%B0%E1%BB%9Di-theo-quan-%C4%91i%E1%BB%83m
5. Trung Trí (24/11/2017), Tiểu luận “Lý luận của chủ nghĩa Mác về con
người và vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước”, http://tailieu.vn/doc/tieu-luan-ly-luan-cua-chu-nghia-mac-ve-
con-nguoi-va-van-de-con-nguoi-trong-su-nghiep-cong-nghiep-ho-
33732.html
6. Văn Đình Tấn (21/11/2017), Nguồn nhân lực trong công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta,
http://truongchinhtrina.gov.vn/ArticleDetail.aspx?_Article_ID=212

19
20

You might also like