Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 20

I Cán cân thanh toán quốc tế

1. Khái niệm
- Cán cân thanh toán quốc tế (Balance of Payment) là bảng cân đối kế toán ghi chép
toàn bộ các giao dịch dưới hình thức giá trị giữa một quốc gia với các quốc gia khác
trên thế giới trong 1 khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.

Ví dụ: Cơ quan Viện trợ Quốc tế Mỹ (USAID) viện trợ không hoàn lại 10,000 USD
cho Chính phủ Việt Nam. Thanh toán được thực hiện bằng cách chuyển khoản từ một
ngân hàng Mỹ sang một ngân hàng Việt Nam.
Một công ty Việt Nam nhập khẩu thép từ một công ty Trung Quốc trị giá 5 triệu
USD, trong đó giá hàng hóa là 4 triệu USD, còn lại là chi phí vận tải và bảo hiểm.
Thanh toán được thực hiện bằng chuyển khoản từ ngân hàng Việt Nam đến một ngân
hàng Trung Quốc.
2. Phân loại cán cân thanh toán
Có nhiều cách để phân loại cán cân thanh toán quốc tế, tùy vào mục đích sử dụng các
số liệu cán cân mà người ta sẽ lập cán cân thanh toàn phù hợp:
a) Cán cân thanh toán thời kỳ và cán cân thanh toán thời điểm
- Cán cân thanh toán thời kỳ được xác định trong một khoảng thời gian nhất định (thông
thường là một năm) phản ánh các khoản đã thu và đã chi phát sinh trong thời kỳ đó.
Cán cân thanh toán thời kỳ là cơ sở để hoạch định chính sách kinh tế trong dài hạn.

- Cán cân thanh toán thời điểm được xác định tại một thời điểm nhất định, phản ánh các
khoản đã thu, đã chi và sẽ thu sẽ chi. Cán cân thanh toán thời điểm là cơ sở để đưa ra
những dự báo về tình hình biến động tỷ giá trong ngắn hạn.

b) Cán cân thanh toán song phương và cán cân thanh toán đa phương
- Cán cân thanh toán song phương: là một bảng tổng hợp phản ánh các giao dịch kinh tế
phát sinh giữa một nước với một nước khác (ví dụ: Cán cân thanh toán song phương
giữa Việt Nam và Nhật Bản).

- Cán cân thanh toán đa phương: là một bảng tổng hợp phản ánh toàn bộ các giao dịch
kinh tế phát sinh giữa một nước với phần còn lại của thế giới.

3. Các nguyên tắc xây dựng cán cân thanh toán quốc tế
- Nguyên tắc thường niên: việc hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phải được thực hiện
trong khoảng thời gian một năm (trong thực tế do yêu quản lý, người ta cũng có thể
lập cán cân thanh toán cho quý, tháng)
+ Doanh số thanh toán thẻ quốc tế của hệ thống NHTM Việt Nam: Doanh số
thanh toán đã tăng lên rất nhanh trong vòng 7 năm . Năm 2010, doanh số thanh toán
thẻ chỉ ở mức khiêm tốn 580 triệu USD nhưng tới năm 2016 đã tăng hơn 4 lần. Giai
đoạn 2010 - 2014 doanh số thanh toán thẻ tăng không đáng kể. Tuy nhiên, 3 năm gần
đây (2014 – 2016), doanh số thanh toán thẻ mỗi năm tăng từ 0,8 đến hơn 1 tỷ USD.
Xét về tỷ lệ thay đổi, doanh số thanh toán thẻ năm 2015 tăng 73% so với năm trước
đó. Riêng trong năm 2012 có mức suy giảm nhẹ khoảng 3%.

- Nguyên tắc lãnh thổ: những giao dịch diễn ra giữa các chủ thể trong một quốc gia với
các chủ thể bên ngoài không tính đến yếu tố quốc tịch đều được ghi trong cán cân
thanh toán.
+ Các Ngân hàng Thương mại tham gia thanh toán thẻ quốc tế tăng nhanh.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, cho tới nay có khoảng 40 NHTM cung cấp
dịch vụ thanh toán thẻ quốc tế, bao gồm cả NHTM trong nước, ngân hàng liên doanh
và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo thống kê doanh số thanh toán thẻ năm 2016,
Vietcombank dẫn đầu với doanh số xấp xỉ 600 triệu USD; NHTM cổ phần quốc tế
VIB đứng thứ hai với doanh số thanh toán bằng gần nửa của Vietcombank. Vị trí thứ
ba thuộc về Oceanbank; Sacombank, Phương Nam bank, Techcombank có doanh số
thanh toán xấp xỉ nhau; BIDV và HSBC chỉ đứng ở vị trí thứ 7 và 8, tương ứng doanh
số thanh toán khoảng 130 triệu USD

- Nguyên tắc ghi chép: tất cả các nghiệp vụ phát sinh cho dù thu được tiền hay chưa thu
được tiên đều ghi trong cán cân thanh toán quốc tế.
Các giao dịch chuyển tiền quốc tế được phản ánh và bên Có và bên Nợ của các
cân
+ Bên Có: phản ánh các khoản thu tiền của người nước ngoài tức là những giao dịch
mang về cho quốc gia một số lượng ngoại tệ nhất định. Bên Có được kí hiệu là dương
(+)
+ Bên Nợ: phản ánh các khoản chi tiền ra thanh toán cho người nước ngoài tức là
những khoản giao dịch làm cho quỹ giao dịch ngoại tệ ở trong nước giảm đi. Bên Nợ
kí hiệu là âm (-)

- Nguyên tắc hạch toán kép: một nghiệp vụ kinh tế phát sinh được ghi vào hai tài khoản
khác nhau với số tiền bằng nhau.
+ Hoạch toán trong giao dịch quốc tế được thực hiện theo nguyên tắc ghi sổ
kép. Điều này có nghĩa là mỗi một giao dịch được ghi chép, một lần ghi Nợ và một lần
ghi Có với giá trị như nhau
4. Các khoản mục chính của cán cân thanh toán quốc tế
a. Cán Cân Vãng Lai ( thường xuyên):
- Bao gồm cán cân ngoại thương, dịch vụ, chuyển tiền. Cán cân vãng lai phản ánh đầy
đủ những hoạt động giao dịch quốc tế của một quốc gia.
- Ghi chép giá trị hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu và những khoản thu chi khác có liên
quan với nước ngoài về hàng hóa, dịch vụ của quốc gia. Được chia ra:

Cán cân thương mại hàng hóa – Trade Balance (Visible trad balance):
- Phản ánh toàn bộ các khoản thu chi ngoại tệ gắn với xuất nhập khẩu hàng hóa của
quốc gia đó. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu
của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quí hoặc năm) cũng như mức
chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch lớn hơn 0,
thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán
cân thương mại thâm hụt.
+ Bên nợ: Phản ánh giá trị (giá FOB) hàng hóa nhập khẩu (-): chi tiền ra.
+ Bên có: Phản ánh giá trị (giá FOB) hàng hóa xuất nhập khẩu (+): thu tiền vào.

- Vai trò của cán cân thương mại đối với nền kinh tế:
+ Vấn đề xuất nhập khẩu luôn là vấn đề được quan tâm tại bất kỳ quốc gia nào, bởi đó
đôi khi sẽ là nguồn thu nhập chính của địa phương trong quốc gia và góp phần vào
thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
+ Điều mà các nước quan tâm đến cán cân thương mại là vì cán cân thương mại có sức
ảnh hưởng tới sản lượng trong nước (xuất khẩu ròng là thành tố của GDP), ảnh hưởng
đến việc làm và cán cân đối ngoại.
+ Và cán cân thương mại ở đây như là một yếu tố giúp cho các quốc gia nhìn ra được
những thay đổi trong việc xuất nhập khẩu và thấy được mức độ chênh lệch trong các
thời gian cụ thể.

- Yếu tố ảnh hưởng cán cân thương mại:


+ Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự
gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ).
MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu.
+ Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì
xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ
thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô
hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định.
+ Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến
giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế.
Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu
sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người
nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và
thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá
đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và
xuất khẩu ròng tăng lên.

- Những nguyễn nhân gây thâm hụt cán cân thương mại:
+ Chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư.
+ Do lạm phát cao.
+ Do thâm hụt ngân sách.
+ Do cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu.
+ Chính sách giảm thuế nhập khẩu.

Cán cân dịch vụ – Services Balance: Phản ánh giá trị dịch vụ mà quốc gia đó
cung cấp hay nhận từ thế giới.
+ Bên nợ: Giá trị dịch vụ nhập khẩu (-): chi tiền ra.
+ Bên có: Giá trị dịch vụ xuất khẩu (+): thu tiền về.

- Các dịch vụ của cán cân dịch vụ:


+Dịch vụ vận tải: Vận tải hành khách, vận chuyển hàng hóa, thuê và cho thuê phương
tiện vận chuyển… (Bao gồm vận tải đường bộ, đường thủy, đường không). Đồng thời
thì dịch vụ vận tải còn được xác định đó chính là sự di chuyển của con người, động vật
và hàng hóa từ địa điểm này đến địa điểm khác.
+Dịch vụ du lịch: Dịch vụ du lịch lữ hành, kinh doanh khách sạn, nhà hàng, khu du
lịch sinh thái, các dịch vụ hướng dẫn du lịch… Ngoài ra thì dịch vụ du lịch còn có
nghĩa là sắp xếp hoặc đặt các kỳ nghỉ hoặc các gói du lịch, đặt chỗ đi du lịch hoặc chỗ
ở, đặt vé đi lại trong nước hoặc nước ngoài bằng đường hàng không, đường sắt, tàu
thủy, xe buýt hoặc các phương tiện vận chuyển khác, khách sạn hoặc chỗ ở khác.
+Dịch vụ ngân hàng: Hoạt động này được quy định và thể hiện như thu chi từ tín dụng
và bảo lãnh hay việc cho thuê tài chính, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ thanh toán quốc tế,
các dịch vụ ngân hàng khác theo như quy định của pháp luật hiện hành…
+Dịch vụ bảo hiểm: Phản ánh các khoản thu chi từ dịch vụ bảo hiểm quốc tế, gồm các
khoản phí bảo hiểm, phí tái bảo hiểm và các khoản chi bồi hoàn về bảo hiểm, chi bồi
hoàn về tái bảo hiểm…
+Dịch vụ bưu chính viễn thông: Bao gồm dịch vụ bưu chính (vận chuyển, phân phối,
chuyển thư, ấn phẩm, bưu phẩm quốc tế…), dịch vụ viễn thông (điện thoại, điện tín,
fax, internet, vệ tinh.. ) và các dịch vụ hỗ trợ khác.

Cán cân thu nhập – Income Balance:


Phản ánh thu nhập ròng của người lao động hoặc thu nhập ròng từ đầu tư. Thu nhập
của người lao động gồm: Các khoản tiền lương,tiền thưởng và các khoản thu nhập
bằng tiền, hiện vật do người không cư trú trả chongười cư trú và ngược lại. Thu nhập
về đầu tư gồm: Thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp(profits), lãi đầu tư vào giấy tờ có gái
(dividents), các khoản lãi từ cho vay (interests) giữa người không cư trú trả cho người
cư trú và ngược lại.
+ Bên nợ: Giá trị các khoản thu nhập phải trả cho nước bên ngoài (-): Chi tiền ra
+ Bên có: Giá trị các khoản thu nhập thu về trong nước (+): Thu ngoại tệ về.
- Các khoản chuyển giao một chiều: Viện trợ không hoàn lại (độc lập), quà tặng,biếu…
Khi cấp viện trợ phản ánh bên nợ; khi nhận phản ánh bên có.
=> Cán cân vãng lai hay tài khoản vãng lai thặng dư khi số phát sinh bên Có lớn hơn
số phát sinh bên Nợ. Cán cân vãng lai hay tài khoản vãng lai thâm hụt khi số dư bên
Nợ lớn hơn số dư bên Có.

b. Cán Cân Nguồn Vốn:


Cán cân vốn là một bộ phận của cán cân thanh toán. Nó ghi lại tất cả những giao dịch
về tài sản bao gồm tài sản thực hay tài sản tài chính giữa người cư trú trong nước với
người cư trú nước ngoài. Trong đó, tài sản thực bao gồm các loại hàng hóa, dịch vụ,
thiết bị,… Còn tài sản tài chính bao gồm tiền gửi, cổ phiếu, trái phiếu,… .Bao gồm:

- Cán cân vốn dài hạn: Phản ánh luồng vốn dài hạn chảy vào và chảy ra khỏi một quốc
gia, bao gồm:
+ Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investmen, viết tắt: FDI) là một trong các
hình thức đầu tư quốc tế mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế rất lớn. Mục đích hàng
đầu của FDI là mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư.
+ Đầu tư gián tiếp nước ngoài
Đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Portfolio Investment, viết tắt: FPI) là hoạt động
mua tài sản tài chính nước ngoài nằm mục đích kiếm lời, chủ sở hữu vốn không trực
tiếp điều hành và quản lí quá trình sử dụng vốn.
+ Đầu tư dài hạn khác: chủ yếu là cho vay thương mại dài hạn
+ ODA vay

- Cán cân vốn ngắn hạn: Phản ánh toàn bộ luồng vốn ngắn hạn chảy vào và chảy ra khỏi
một quốc gia, bao gồm:
+ Vay và cho vay thương mại ngắn hạn.
+ Hoạt động tiền gửi.
+ Mua, bán các giấy tờ có giá ngắn hạn.

- Cán cân chuyển giao một chiều: Phản ánh các khoản viện trợ không hoàn lại cho mục
đích đầu tư và các khoản nợ được xóa.

- Cán cân tiền gửi ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng thương mại: Phản ánh tất cả khoản
ngoại thệ nằm trên tài khoản tại các ngân hàng thương mại.
+ Các khoản tín dụng ngân hàng ngắn hạn.
+ Kinh doanh ngoại hối:
Bên nợ: Các luồng vốn ngắn hạn đi ra khỏi quốc gia (Bao gồm cả trả nợ).
Bên có: Các luồng vốn ngắn hạn đi vào quốc gia đó (Bao gồm cả thu nợ).

- Cán cân chuyển giao một chiều về vốn: Phản ánh các khoản viện trợ không hoàn lại đi
kèm với các khoản cho vay ưu đãi.
Bên nợ: Các khoản viện trợ kèm cho vay ưu đãi của quốc gia đi ra.
Bên có: Các khoản viện trợ đi kèm cho vay ưu đãi mà quốc gia nhận được.
Cán cân vốn và tài chính (KA) thặng dư khi tổng số phát sinh Có lớn hơn tổng số phát
sinh Nợ (Hay tổng vốn đầu tư vào và vốn đầu tư thu hồi được lớn hơn tổng vốn đầutư
ra nước ngoài và bên nước ngoài rút vốn về). Cán cân vốn và tài chính (KA) thâm hụt
thì ngược lại.

c. Lỗi và sai sót


- Khoản mục này nếu có là do sự sai lệch về thống kê do nhầm lẫn, bỏ sót hoặc không
thu thập được số liệu. Nguyên nhân: Những ghi chép của những khoản thanh toán
hoặc hoá đơn quốc tế được thực hiện vào những thời gian khác nhau, địa điểm khác
nhau và có thể bằng những phương pháp khác nhau. Do vậy, những ghi chép này - cơ
sở để xây dựng những thống kê của cán cân thanh toán quốc tế- chắc chắn không hoàn
hảo. Từ đó, dẫn đến những sai số thống kê.

d. Cán cân tổng thể


- Nếu công tác thống kê đạt mức chính xác tức lỗi và sai sót bằng không thì cán cân
tổng thể là tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn.

Cán cân tổng thể =Cán cân vãng lai +Cán cân vốn +Lỗi và sai sót.

- Kết quả của khoản mục này thể hiện thình trạng kinh tế đối ngoại của một quốc gia
trong một thời kỳ hoặc tại một thời điểm. Nếu
+ Kết quả của cán cân thanh toán mang dấu +: thu ngoại tệ của quốc gia đã (sẽ) tăng
thêm.
+ Kết quả của cán cân thanh toán mang dấu -:thu ngoại tệ của quốc gia giảm hoặc sẽ
giảm thấp.

e. Tài trợ chính thức (Cán cân bù đắp chính thức)


Cán cân bù đắp chính thức bao gồm các khoản mục sau:
- Dự trữ ngoại hối quốc gia.
- Quan hệ với IMF và các ngân hàng trung ương khác.
- Thay đổi dự trữ của các ngân hàng trung ương khác bằng đồng tiền của quốc gia có
lập cán cân thanh toán...
Trong đó dự trữ ngoại hối quốc gia đóng vai trò quyết định do đó để đơn giản trong
phân tích, ta coi khoản mục dự trữ ngoại hối chính là cán cân bù đắp chính thức.

5. Vai trò của cán cân thanh toán quốc tế


Trong nền kinh tế vĩ mô, cán cân thanh toán đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Có
thể thấy cán cân thanh toán quốc tế là một tài loại quan trọng đối với các nhà hoạch
định chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô.
- Cán cân thanh toán giúp một nước đánh giá sức mạnh đồng tiền, sức mạnh kinh tế,
khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế thông qua sự thay đổi của tỷ giá hối đoái,
tình hình ngoại hối và ngoại thương.
- Cán cân thanh toán phản ánh địa vị kinh tế của một đất nước trên trường quốc tế.
- BOP phản ánh kết quả của hoạt động trao đổi đối ngoại của một quốc gia với các nước
khác. Nó cho biết một cách trực quan nhất tình trạng công nợ của một quốc gia tại một
thời điểm nhất định. Theo đó, cán cân bội thu hay bội chi cho biết nước đó là chủ nợ
hay đang mắc nợ nước ngoài.
- Cán cân thanh toán giữ vai trò đặc biệt trong bảng cân đối thanh toán của các nước.
Tình trạng của BOP ảnh hưởng đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái, tình hình ngoại hối
và ngoại thương của một nước. Trong cán cân thanh toán, nếu tổng thu lớn hơn tổng
chỉ là dư thừa vốn trong nước, nếu tổng thu nhỏ hơn tổng chỉ là thâm hụt cán cân
thanh toán
- Cán cân thanh toán giúp các nhà hoạch định xây dựng kế hoạch chiến lược phù hợp.
Theo đó, từ thực trạng cán cân, các nhà hoạch định sẽ có quyết định thay đổi hoặc
không thay đổi nội dung chính sách kinh tế, từ đó thiết kế chiến lược phát triển kinh tế
xã hội thích hợp cho từng thời kỳ.

Ví dụ :Thâm hụt cán cân thanh toán có thể làm chính phủ tăng lãi
suất lên hoặc giảm bớt chi tiêu công cụ để giảm chi tiêu về nhập khẩu

6. Ý nghĩa kinh tế của cán cân thanh toán quốc tế


- Cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia thể hiện tình trạng tài chính và kinh tế
của quốc gia đó.
- Báo cáo cán cân thanh toán có thể được sử dụng như một tài liệu thống kê nhằm xác
định xem giá trị tiền tệ của quốc gia đó đang tăng hay giảm.
- Dựa vào chỉ số cán cân thanh toán quốc tế, chính phủ của mỗi quốc gia có thể đưa ra
các quyết định chính sách tài khóa và thương mại tối ưu nhất.
- Cán cân thanh toán cung cấp thông tin quan trọng để phân tích và hiểu các giao dịch
kinh tế của một quốc gia với các quốc gia khác.
- Báo cáo cán cân thanh toán quốc tế cho chúng ta thấy được một bản đối chiếu giữa
những khoản tiền thực tế thu được từ nước ngoài với những khoản tiền mà thực tế
nước đó chi ra cho nước ngoài trong một thời kỳ nhất định cho phép chính phủ đưa ra
các quyết sách về điều hành kinh tế vĩ mô như chính sách xuất nhập khẩu, chính sách
tỷ giá...
- Bằng cách nghiên cứu cán cân thanh toán quốc tế và các thành phần của nó, ta sẽ có
thể xác định các xu hướng có thể có lợi hoặc có hại cho nền kinh tế của một quốc gia.
Từ đó, đưa ra các giải pháp, chiến lược thích hợp.

7. Các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán quốc tế
* Mục tiêu quan trọng trong chính sách kinh tế của mỗi quốc gia là đảm bảo cán cân
thanh toán được cân bằng. Khi cán cân thanh toán bội thu hay bội chi thì các nước
thường sử dụng các biện pháp điều chỉnh cán cân.
* Khi cán cân bội thu, các nước thường sử dụng số bội thu đó để tăng cường đầu tư ra
nước ngoài và bổ sung quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia. Bội chi cán cân sẽ có tác động
tiêu cực đến việc phát triển kinh tế của quốc gia, quan hệ kinh tế đối ngoại và quan hệ
kinh tế-xã hội khác. Do vậy, việc áp dụng những biện pháp nhằm điều chỉnh cán cân
khi bội chi là một việc làm hết sức cần thiết nhằm cải thiện cán cân.
a. Những biện pháp cấp bách
- Giảm bớt chi tiêu ngân sách nhà nước. Giảm chi tiêu ngân sách nhà nước sẽ tác động
đến tổng cầu do đó góp phần cải thiện cán cân ngắn hạn. Giảm chi tiêu ngân sách nhà
nước thường đi đôi với chính sách thắt chặt tiền tệ, thuế khóa như: tăng lãi suất cho
vay để giảm đầu tư, dùng công cụ thuế để hạn chế tiêu dùng nhất là hạn chế nhập khẩu
hàng tiêu dùng.
- Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước
ngoài có thể áp dụng các biện pháp sau:
+ Nâng lãi suất tiền gửi nhằm thu hút ngoại tệ từ nước ngoài vào.
+ Vay của nước ngoài và tìm kiếm nguồn viện trợ nhà nước.
+ Tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thủ tục dễ dàng, ưu đãi về thuế, chuyển lợi nhuận
ra nước ngoài.
- Điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm khuyến khích xuất khẩu tăng thu ngoại tệ đồng thời
hạn chế nhập khẩu tiết kiệm ngoại tệ. Chính sách chiết khấu: Ngân hàng trung ương
dùng cách thay đổi lãi suất tái chiết khấu của ngân hàng để điều chỉnh cán cân thanh
toán quốc tế. Nếu lãi suất tái chiết khấu tăng trong khi lãi suất của các nước trong khu
vực vẫn giữ nguyên thì sẽ thu hút được lượng ngoại tệ lớn ở trong nước và ngoài nước
vào ngân hàng, như vậy cung cầu ngoại tệ sẽ được cải thiện. Khi cần thiết ngân hàng
trung ương hạ lãi suất tái chiết khấu sẽ mở rộng quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với
doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất đẩy
mạnh xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ ra nước ngoài tăng thu ngoại tệ.
+Chính sách hối đoái là biện pháp tác động trực tiếp vào tỷ giá hối đoái nghĩa là ngân
hàng trung ương hay cơ quan ngoại hối của nhà nước dùng các nghiệp vụ trực tiếp
mua, bán ngoại hối để điều chỉnh tỷ giá phù hợp với điều kiện của mình trong từng
giai đoạn, phù hợp mục tiêu chính sách kinh tế đối ngoại.
+Nâng giá hoặc phá giá sức mua của đồng tiền nội tệ.
- Áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch nhằm kích thích xuất khẩu hàng hóa ra nước
ngoài, tăng thu ngoại tệ bù đắp sự thiếu hụt, sử dụng hàng rào thuế quan hạn chế nhập
khẩu.
- Sử dụng quyền rút vốn đặc biệt SDR tại IMF. Khi một quốc gia là thành viên chính
thức tại IMF thì có thể sử dụng quyền rút vốn đặc biệt hoặc thực hiện xuất vàng để
trang trải các khoản nợ nước ngoài.

b. Những biện pháp chiến lược


- Tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ tùy thuộc vào điều kiện tài nguyên, trình
độ phát triển khoa học công nghệ của quốc gia trong đó trình độ khoa học công nghệ
giữ vị trí quyết định.
- Cần có chính sách hợp lý và năng động để thu hút khách du lịch, kiều hối, xuất khẩu
lao động, xuất khẩu công nghệ nhằm tăng thu ngoại tệ.
- Quản lý thu chi ngoại tệ theo nguyên tắc tăng thu giảm chi ngoại tệ.
- Đổi mới chính sách quản lý kinh tế đối ngoại để thu hút vốn đầu tư.
- Nâng cao trình độ quản lý và điều hành kinh tế của chính phủ và các cấp chính quyền.

II Tình hình cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam


1. Thực trạng cán cân thanh toan quốc tế ở Việt Nam giai đoạn 2016-2021
- Trong giai đoạn 2016-2022, cán cân tổng thể (gồm có cán cân vãng lai; cán cân vốn
và tài chính; hạng mục lỗi, sai sót) của Việt Nam đã liên tục thặng dư, ngay cả khi bị
ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Đỉnh điểm là vào năm 2019, mức thặng dư
cán cân tổng thể của Việt Nam lên tới hơn 23,25 tỷ USD, tương đương 8,88% GDP
của năm. Năm 2020 và 2021, mặc dù gặp phải rất nhiều khó khăn do đại dịch Covid-
19 gây ra nhưng Việt Nam vẫn có được mức thặng dư cán cân tổng thể lên tới hơn
16,6 tỷ USD và 14,3 tỷ USD tương ứng. (Hình 1)
- Những kết quả này là nhờ nỗ lực của Chính Phủ trong công tác điều hành ổn định
kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
và cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế…
Hình 1: Thặng dư cán cân tổng thể (đơn vị tính: triệu USD) và %GDP (giá trị cột
phải) ở Việt Nam giai đoạn 2016 - 2021

1.1. Cán cân thương mại của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2018.
- Cán cân thương mại của Việt Nam liên tục thặng dư từ năm 2016 đến năm 2021. Đặc
biệt, cán cân hàng hóa của Việt Nam luôn luôn thặng dư (trừ Quý II/2021 do ảnh
hưởng nặng nề của các biện pháp phòng, chống đại dịch Covid-19) còn cán cân dịch
vụ thì luôn thâm hụt. Điều này hàm ý rằng, Việt Nam có lợi thế so sánh trong việc
cung cấp hàng hóa cho người không cư trú và kém lợi thế so sánh trong việc cung cấp
dịch vụ cho người không cư trú. Thặng dư trong cán cân hàng hóa tăng từ 11,94 tỷ
USD năm 2016 lên gần 30,59 tỷ USD năm 2020, khiến mức đóng góp của cán cân
hàng hóa trong GDP tăng từ 5,82% GDP năm 2016 lên 11,35% GDP vào năm 2020
(World Bank Data & NHNN, 2022). Tuy nhiên, do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch
Covid-19, thặng dư năm 2021 đã giảm hơn 42% so với năm 2020. Thặng dư trong cán
cân hàng hóa đã góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam và tạo công ăn
việc làm cho người cư trú trong nước đặc biệt trong các năm 2020, 2021 khi Việt Nam
cũng như toàn thế giới phải đối mặt với đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, thặng dư này
cũng chỉ ra quy mô dư thừa cung hàng hóa của nền kinh tế Việt Nam hiện nay và làm
gia tăng mức độ phụ thuộc kinh tế của Việt Nam vào thế giới.

- Cán cân dịch vụ của Việt Nam luôn thâm hụt nhưng ở quy mô nhỏ do giá trị xuất nhập
khẩu dịch vụ nhỏ hơn nhiều so với giá trị hàng hóa. Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam và làm giảm giá trị xuất khẩu dịch
vụ hơn 5 lần từ 19,92 tỷ USD năm 2019 xuống 3,64 tỷ USD năm 2021. Vì vậy, thâm
hụt cán cân dịch vụ của Việt Nam đã tăng vọt lên 15,76 tỷ USD vào năm 2021, lớn
hơn khoảng 3,58 lần so với mức thâm hụt năm 2016. Kết quả là cán cân thương mại
của Việt Nam năm 2021 chỉ đạt mức thặng dư 1,93 tỷ USD, bằng 1/10 so với mức
thặng dư trong năm 2020.

- Mỹ là đối tác xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với thặng dư hàng hóa 80,1 tỷ USD
vào năm 2021, gấp 6,82 lần mức thặng dư hàng hóa của Việt Nam và chiếm gần 22%
GDP của Việt Nam trong năm 2021 (Tổng cục Thống kê, 2022). Ở chiều ngược lại
Trung Quốc là đối tác nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, với thâm hụt thương mại là
54 tỷ USD vào năm 2021 (Tổng cục Thống kê, 2022).

- Về cán cân thương mại theo sản phẩm, các mặt hàng may mặc; phụ kiện quần áo,
giày, dép và những thứ tương tự; máy móc, thiết bị điện và linh kiện là những yếu tố
đóng góp đáng kể vào thặng dư cán cân hàng hóa của Việt Nam. Một điểm đáng mừng
là nhập khẩu hàng may mặc và quần áo, giày dép chiếm tỷ trọng rất nhỏ, hàm ý rằng
khả năng nội địa hóa và lợi thế sản xuất các sản phẩm này của Việt Nam hiện nay đã
được cải thiện nhiều. Tuy nhiên, Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu máy móc,
thiết bị điện và linh kiện, những mặt hàng này lại do các doanh nghiệp nước ngoài
nhập khẩu vào. Điều này cho thấy sự phụ thuộc lớn của Việt Nam vào nhập khẩu
nhóm hàng này và đối mặt với rủi ro bị các doanh nghiệp nước ngoài chi phối. Nhựa
và các sản phẩm bằng chất dẻo; nhiên liệu khoáng, khoáng chất và các sản phẩm
chưng cất của chúng; chất bitum là nhóm hàng có mức nhập siêu lớn nhất ở Việt Nam
vào năm 2020 và là nhóm hàng cung cấp nguyên liệu đầu vào cho sản xuất của Việt
Nam (Trademap, 2022).

1.2 Cán cân thu nhập


- Cán cân thu nhập của Việt Nam chia thành hai hướng rõ nét, cụ thể: Cán cân thu nhập
sơ cấp thì luôn thâm hụt còn cán cân thu nhập thứ cấp thì luôn thặng dư. Điều này cho
thấy các khoản thanh toán cho đầu tư ở Việt Nam lớn hơn nhiều so với khoản thu nhập
nhận được từ đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (gấp gần 13 lần trong cả giai đoạn).
Mức thanh toán cho đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2021 là hơn
101,2 tỷ USD và dao động trong khoảng 16,87 tỷ USD mỗi năm. Trong khi đó, mức
thu nhập từ đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam chỉ đạt 7,64 tỷ USD cho cả giai đoạn
và khoảng 1,27 tỷ USD trung bình mỗi năm. Chính vì vậy, cán cân thu nhập sơ cấp
của Việt Nam luôn bị thâm hụt với mức 15,6 tỷ USD mỗi năm. Mức thâm hụt này đã
khiến thặng dư cán cân vãng lai của Việt Nam giảm xuống khá nhiều.

- Ngược lại với trạng thái của cán cân thu nhập sơ cấp thì cán cân thu nhập thứ cấp hay
còn gọi là dịch chuyển đơn phương ròng của Việt Nam luôn thặng dư với mức trung
bình khoảng 9 tỷ USD mỗi năm. Điều này có được là do lượng kiều hối hằng năm đổ
về Việt Nam khá lớn. Xét trong cả giai đoạn 2016 - 2021, Việt Nam đã nhận được hơn
66,63 tỷ USD dịch chuyển đơn phương vào và số lượng dịch chuyển đơn phương ra
khỏi Việt Nam là 12,3 tỷ USD. Năm 2021, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn
nhưng cán cân thu nhập thứ cấp của Việt Nam vẫn có sự tăng trưởng so với các năm
trước, đạt gần 10,3 tỷ USD.

1.3 Cán cân vãng lai


- Biến động cán cân thương mại và cán cân thu nhập kể trên đã định hình sự biến động
cán cân vãng lai trong giai đoạn 2016 - 2021. Sau khi đạt đỉnh vào năm 2020 với giá
trị 12,95 tỷ USD, thặng dư cán cân vãng lai giảm mạnh và đảo chiều vào năm 2021
với giá trị - 3,94 tỷ USD (Hình 2a). Thặng dư cán cân vãng lai đã đóng góp rất nhiều
vào tăng trưởng kinh tế và bù đắp chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư trong nước ở
Việt Nam.

Hình 2a: Cán cân vãng lai của Việt Nam giai đoạn 2016 - 2021 (triệu USD)

- Trong giai đoạn 2016 - 2020, chỉ duy nhất có năm 2017, khi cán cân vãng lai thâm hụt
thì tiết kiệm trong nước mới nhỏ hơn đầu tư trong nước còn các năm khác, cán cân
vãng lai đều thặng dư, phản ánh tiết kiệm lớn hơn đầu tư trong nước (Hình 2b). Điều
đó có nghĩa là, một phần tiết kiệm trong nước đã được sử dụng để đầu tư ra nước
ngoài. Trên thực tế, các nhà hoạch định chính sách thường mong muốn tiết kiệm trong
nước sẽ được dành để đầu tư trong nước hơn là để đầu tư ra nước ngoài bởi lợi tức từ
các khoản đầu tư trong nước có thể dễ dàng bị đánh thuế hơn so với các khoản thu
nhập từ tài sản ở nước ngoài. Thêm vào đó, việc bổ sung vào nguồn vốn đầu tư trong
nước từ tiết kiệm quốc gia có thể làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập quốc dân
và tạo ra tác động lan tỏa về công nghệ đến các các nhà sản xuất nội địa (Paul
Krugman và cộng sự, 2018).
Hình 2b: Cán cân vãng lai và chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư (% GDP)

- Một điểm đáng lưu ý là các quốc gia có thặng dư cán cân vãng lai lớn có thể trở thành
mục tiêu bị áp các rào cản phân biệt đối xử nhập khẩu từ các đối tác thương mại có
thâm hụt. Mỹ, một cường quốc kinh tế, luôn theo dõi thực trạng cán cân thương mại
và cán cân vãng lai với các nước đối tác để làm căn cứ đưa ra phân biệt đối xử nhập
khẩu với các quốc gia này. Theo Đạo luật 2015 của Mỹ, có 3 tiêu chí để xác định một
quốc gia thao túng tiền tệ là thặng dư thương mại song phương với Mỹ lớn hơn 20 tỷ
USD, thặng dư cán cân vãng lai lớn hơn 2% GDP của nước đó và can thiệp một chiều
dai dẳng vào tỷ giá. Căn cứ vào các tiêu chí này thì Đức, Nhật, Italia, Malaysia là các
nước thỏa mãn 2 tiêu chí về thặng dư hàng hóa và cán cân vãng lai trong khoảng thời
gian từ tháng 7/2017 đến tháng 12/2021. Riêng với Việt Nam, giai đoạn từ tháng
7/2018 đến tháng 6/2019 và năm 2021 không thỏa mãn tiêu chí thặng dư cán cân vãng
lai chiếm 2% GDP. Ngoài ra, mặc dù Việt Nam có mức thặng dư thương mại song
phương với Mỹ lớn nhất và hiện là nước xuất khẩu ròng hàng hóa lớn thứ ba vào Hoa
Kỳ (Bộ Tài chính Mỹ, 2022) nhưng mức thặng dư cán cân vãng lai của Việt Nam,
nhìn chung là còn thấp so với một số nước đối tác thương mại của Mỹ. (Bảng 1)

Bảng 1: Thặng dư hàng hóa và cán cân vãng lai giữa Mỹ và các nước theo Báo cáo Kinh
tế đối ngoại của Mỹ

1.4. Cán cân tài chính


- Trong các dòng vốn đầu tư quốc tế thì dòng vốn đầu tư trực tiếp (DI) có sự ổn định và
thể hiện rõ xu hướng tăng dần qua các năm. Cán cân DI thặng dư từ mức 11,6 tỷ USD
năm 2016 lên đến mức hơn 15,66 tỷ USD năm 2021 và trong giai đoạn 2016 - 2021,
Việt Nam đã nhận được gần 90 tỷ USD vốn FDI. Đây là nguồn vốn có đóng góp tích
cực tạo việc làm do khu vực FDI đóng góp khoảng 20,13% GDP của Việt Nam năm
2020 và thúc đẩy xuất khẩu tại Việt Nam (chiếm 73,6% giá trị xuất khẩu của Việt
Nam năm 2021) (Tổng cục Thống kê, 2022). Dòng vốn DI chỉ giảm nhẹ trong thời
gian Việt Nam thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội để phòng, chống đại dịch
Covid-19, nhưng đã tăng lên sau đó. Chính vì vậy, hầu hết các doanh nghiệp FDI đang
hoạt động tại Việt Nam ít bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 vào năm 2020 và chỉ bị
ảnh hưởng một phần vào năm 2021 (Tổng cục Thống kê, 2022).

- Các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài với tổng giá trị gần 3,2 tỷ USD
trong giai đoạn 2016 - 2021. Các dự án FDI ra nước ngoài chủ yếu tập trung vào lĩnh
vực khai thác và khai thác đá, nông, lâm, ngư nghiệp, thông tin và truyền thông. Việt
Nam đã đầu tư vào 31 quốc gia và vùng lãnh thổ, các nhà đầu tư Việt Nam chủ yếu
đầu tư vào Australia, Lào, Đức, Mỹ, Nga và Campuchia (Tổng cục Thống kê, 2022).

- Sự không cân đối trong FDI vào Việt Nam và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt
Nam (FDI vào Việt Nam gấp 26 lần so với FDI Việt Nam ra nước ngoài) chính là một
trong những nguyên nhân khiến cho thu nhập nhận được từ đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của Việt Nam nhỏ hơn rất nhiều so với khoản thanh toán cho đầu tư mà Việt
Nam phải trả cho người không cư trú.

- Khác với sự ổn định trong DI, cán cân đầu tư gián tiếp (PI) nước ngoài tại Việt Nam
có sự biến động tương đối lớn. Trong giai đoạn 2016 - 2021, Việt Nam đã nhận được
7,36 tỷ USD vốn PI nước ngoài ròng. Tuy nhiên, giai đoạn này lại chứng kiến sự rút
vốn PI của người cư trú Việt Nam về nước, mặc dù giá trị còn nhỏ. Tổng giá trị vốn
PI mà nhà đầu tư Việt Nam đã rút về nước trong cả giai đoạn là 194 triệu USD, tập
trung chủ yếu vào năm 2016 với tổng giá trị là 187 triệu USD.

- Trong giai đoạn 2016 - 2021, đã có 8 quý mà nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi thị
trường chứng khoán Việt Nam với tổng giá trị lên tới 2,87 tỷ USD (chiếm 39% tổng
vốn PI nước ngoài vào Việt Nam). Đặc biệt là trong quý 1/2020, khi đại dịch Covid-19
bắt đầu bùng phát, làm dấy lên những lo ngại về nền kinh tế Việt Nam, các nhà đầu tư
nước ngoài đã rút hơn 1,33 tỷ USD ra khỏi Việt Nam (NHNN, 2022). Tuy nhiên, do
niềm tin của nhà đầu tư trong nước vào thị trường chứng khoán nên chỉ số VN-Index
trong những tháng đầu năm 2021 có xu hướng tăng ở Việt Nam. (Hình 3).

Hình 3: Cán cân PI và biến động VN-Index tại Việt Nam giai đoạn Q1/2016 -
Q4/2021
- Cũng giống như cán cân PI, cán cân đầu tư khác (OI) ở Việt Nam trong giai đoạn 2016
- 2021 cũng có sự biến động rất mạnh cả bên phía nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài lẫn bên phía nhà đầu tư nước ngoài đầu tư khác vào Việt Nam. Tính trong cả
giai đoạn, nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư khác ra nước ngoài với giá trị gần 43,26 tỷ
USD. Trong khi đó, nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư khác vào Việt Nam với giá trị
gần 46,4 tỷ USD (xấp xỉ 51,67% so với FDI). Có thể thấy, đây là khoản mục duy nhất
mà Việt Nam đầu tư ra nước ngoài gần như tương đương với nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam (chênh lệch 3,13 tỷ USD cho cả giai đoạn 2016 - 2021) (NHNN, 2022).

- Hầu hết OI ra nước ngoài của Việt Nam là dưới hình thức tiền và tiền gửi ở nước
ngoài trong đó khu vực ngân hàng chiếm khoảng 33,1%, khu vực tư nhân chiếm
66,9% giá trị tiền và tiền gửi ở nước ngoài. Mặc dù chiếm tỷ trọng lớn về giá trị cho cả
giai đoạn nhưng dòng vốn tư nhân OI ra nước ngoài dưới hình thức tiền và tiền gửi có
xu hướng giảm và không biến động mạnh như dòng vốn của khu vực ngân hàng. Dòng
vốn OI ra nước ngoài của khu vực ngân hàng có những giai đoạn còn đổ ngược lại về
Việt Nam (năm 2016 và năm 2021 với tổng giá trị là 4,17 tỷ USD). Điều này thể hiện
mức độ hội nhập và kết nối của hệ thống ngân hàng Việt Nam với các thị trường tài
chính quốc tế ngày càng tăng và do đó, sẽ ngày càng nhạy cảm với biến động của thị
trường toàn cầu.

- Nhà đầu tư nước ngoài thực hiện OI ở Việt Nam chủ yếu dưới hình thức cho vay
(chiếm tới gần 61,4% tổng giá trị) và gửi tiền vào hệ thống ngân hàng Việt Nam
(35,1%). Hoạt động gửi tiền vào hệ thống ngân hàng Việt Nam chủ yếu là từ khu vực
ngân hàng nước ngoài (chiếm 95,24%), khu vực tư nhân tham gia rất ít. Dòng vốn vay
vào Việt Nam chủ yếu dưới hình thức là vốn trung và dài hạn (chiếm 80,75% với tổng
giá trị là hơn 23 tỷ USD). Dòng vốn ngắn hạn chiếm khoảng 19,25% với tổng giá trị là
khoảng 5,48 tỷ USD cho cả giai đoạn 2016 - 2021. Tuy nhiên, xét từng thành tố trong
vốn vay ngắn hạn và dài hạn thì chúng ta lại thấy có sự biến động tương đối lớn. Cụ
thể, đối với vốn vay ngắn hạn, xét trong cả giai đoạn 2016 - 2021 thì số tiền mà Việt
Nam vay từ nước ngoài lên đến hơn 145,89 tỷ USD (lớn gấp 1,62 lần tổng vốn FDI
giải ngân và gần 2 lần vốn vay dài hạn giải ngân cùng giai đoạn). Tuy nhiên, số nợ gốc
mà Việt Nam phải trả cho nước ngoài trong cùng giai đoạn cũng lên tới gần 140,41 tỷ
USD. Cán cân vốn vay ngắn hạn của Việt Nam có sự biến động mạnh, có năm thặng
dư, có năm thâm hụt. Một điểm cần lưu ý là nếu Việt Nam vay tiền ngắn hạn để trả nợ
ngắn hạn thì sẽ gây áp lực lớn tới sự ổn định kinh tế vĩ mô của nền kinh tế. (Hình 4)

Hình 4: Cán cân vốn vay Việt Nam giai đoạn 2016 - 2021 (tỷ USD)

- Ngược lại, với biến động trong cán cân vốn vay ngắn hạn, cán cân vốn vay dài hạn
thường xuyên thặng dư. Tổng giá trị giải ngân dòng vốn này cho giai đoạn 2016 -
2021 là khoảng 74,88 tỷ USD, trong đó chủ yếu giải ngân cho khu vực tư nhân (chiếm
78,41%). Tổng số tiền trả nợ gốc vốn vay dài hạn trong giai đoạn nghiên cứu là gần
51,87 tỷ USD, trong đó khu vực Nhà nước chiếm tỷ trọng khoảng 19,24% còn khu
vực tư nhân chiếm tỷ trọng gần 80,76%. Cán cân vốn vay dài hạn thường nằm trong
trạng thái thặng dư là một phần nguyên nhân dẫn tới sự thâm hụt trong cán cân thu
nhập sơ cấp như đã phân tích ở phần trên. Một điểm đáng lưu ý là số tiền trả nợ gốc cả
vốn vay ngắn hạn và dài hạn đều có xu hướng ngày càng tăng lên.

- Trong những năm gần đây, cán cân tài chính liên tục thặng dư ở mức trung bình hơn
16 tỷ USD mỗi năm, gấp hơn 3,4 lần so với mức thặng dư trong cán cân vãng lai trong
cùng giai đoạn. Điều này cho thấy mức độ hấp dẫn của Việt Nam trong việc thu hút
các dòng vốn quốc tế trong những năm gần đây đặc biệt là dòng vốn FDI. Tuy nhiên,
các dòng vốn quốc tế vào Việt Nam còn nhiều biến động nên mức thặng dư trong cán
cân tài chính không ổn định và nhất quán theo một xu hướng mà có sự dao động từ 8,2
tỷ USD đến hơn 30 tỷ USD mỗi năm.

- Thông thường thặng dư trong cán cân vãng lai sẽ bị triệt tiêu bởi thâm hụt trong các
cán cân đầu tư nhưng ở Việt Nam, các cán cân này đều thặng dư. Điều này sẽ tạo áp
lực lớn đến tỷ giá hối đoái ở Việt Nam và buộc NHNN phải đưa ra các biện pháp can
thiệp vào thị trường ngoại hối nếu không muốn giá trị VND bị biến động quá mức.
Thêm vào đó, thặng dư trong các cán cân đầu tư đặc biệt là PI và OI có thể sẽ tạo ra
các gánh nặng nợ đối với người cư trú nếu như mức vay nợ nước ngoài vượt quá
ngưỡng an toàn. Theo IMF (2013b), ngưỡng cảnh báo sớm về nợ nước ngoài đối với
các quốc gia thuộc nền kinh tế mới nổi là 60% GDP đối với tỷ lệ nợ công nắm giữ bởi
chủ thể không cư trú; 80% tổng dư nợ đối với tỷ lệ nợ công bằng ngoại tệ và 20%
GDP đối với nhu cầu vay nước ngoài. Tại Việt Nam, nợ nước ngoài so với GDP trong
giai đoạn 2016 - 2020 có xu hướng tăng để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và phát triển.
Đến cuối năm 2020, nợ nước ngoài của Việt Nam ở mức 47,2% GDP, sát với ngưỡng
50% được Quốc hội cho phép. Tuy nhiên, tại một số thời điểm, chỉ tiêu này đã tiến sát
giới hạn 50%, gây áp lực lên chỉ tiêu an toàn nợ nước ngoài quốc gia (nợ nước ngoài
quốc gia năm 2017 ở mức 49,0% GDP) (Võ Hữu Hiền và cộng sự, 2021).

- Ngoài ra, các biến động trong cán cân PI và OI có thể sẽ khiến nước tiếp nhận vốn gặp
phải rủi ro khi các dòng vốn nước ngoài đảo chiều hoặc suy giảm đột ngột. Tại Việt
Nam, thặng dư trong cán cân tài chính chủ yếu đến từ thặng dư trong cán cân DI. Do
đó, khi điều kiện kinh tế nước ngoài kém thuận lợi hoặc môi trường kinh tế Việt Nam
không ổn định (ví dụ các hoạt động sản xuất, kinh doanh bị ngưng trệ khi Chính phủ
thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội để hạn chế sự lây lan của dịch Covid-19),
dòng vốn này có thể biến động lớn và sẽ ảnh hưởng mạnh đến hoạt động xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam.

1.5. Cán cân giao dịch dự trữ chính thức


- Cán cân giao dịch dự trữ chính thức ghi nhận các giao dịch can thiệp vào thị trường
ngoại hối của Ngân hàng Trung ương (NHTW). Cán cân này thâm hụt hàm ý NHTW
đã mua ngoại tệ vào và làm tăng dự trữ ngoại hối của quốc gia. Xét từ năm 2016 đến
năm 2021, NHNN đã mua vào hơn 81,14 tỷ USD, chiếm khoảng 65% tổng mức thặng
dư trong cán cân vãng lai và cán cân tài chính của Việt Nam. Có thể thấy, NHNN đã
có sự can thiệp vào thị trường ngoại hối để giữ ổn định tỷ giá. Trong các thời kỳ dư
thừa ngoại tệ, NHNN liên tục mua vào, còn trong các thời kỳ thiếu hụt thì lại bán ra, ví
dụ như quý 4/2018, NHNN đã bán ra hơn 1,9 tỷ USD dự trữ (đây chính là thời điểm
mà cả cán cân vãng lai và cán cân tài chính của Việt Nam thâm hụt. Quý 4/2016,
NHNN cũng đã bán ra hơn 1,26 tỷ USD dự trữ để tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai
trong thời điểm này (NHNN, 2022).

- Cũng cần lưu ý, khi NHNN thực hiện các nghiệp vụ mua ngoại tệ mà không trung hòa
hóa sẽ khiến cho cung tiền trong nước tăng, tạo áp lực lạm phát cho nền kinh tế. Chính
vì vậy, NHNN đã liên tục thực hiện các nghiệp vụ thị trường mở để giảm áp lực lên
cung tiền và lạm phát. Tổng giá trị chào bán tín phiếu NHNN trong giai đoạn 2016 -
2020 được NHNN thực hiện là gần 3,88 triệu tỷ đồng. Đặc biệt, năm 2019, thặng dư
cán cân vãng lai và cán cân tài chính đạt đỉnh thì NHNN đã bán ra gần 1,52 nghìn tỷ
đồng tín phiếu NHTW, năm 2020 khi tổng thặng dư cán cân vãng lai và cán cân tài
chính giảm thì tổng giá trị chào bán cũng suy giảm (Báo cáo thường niên NHNN từ
2016 đến 2020). Thêm vào đó, tỷ lệ Tài sản nước ngoài ròng/Tổng lượng tiền mặt
trong lưu thông luôn tăng dần từ mức 1.11 năm 2016 đến 1.93 năm 2020. Theo Tô
Trung Thành (2012), nếu tỷ lệ này lớn hơn 1 thì có nghĩa là dư thừa thanh khoản ở
Việt Nam chủ yếu là do thay đổi dữ trữ ngoại hối ròng. (Hình 5)
-
Hình 5: Nghiệp vụ thị trường mở của NHNN giai đoạn 2016 – 2020
1.6. Cán cân tổng thể
- Theo nguyên tắc bút toán kép, BoP luôn trong trạng thái cân bằng. Tuy nhiên, người ta
vẫn đề cập đến thặng dư hay thâm hụt BoP của một quốc gia. Đó chính là đề cập đến
thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể của một nước. Cán cân tổng thể ghi nhận tất cả
các giao dịch giữa người cư trú của một nước với người cư trú của nước khác ngoại
trừ các giao dịch liên quan đến hoạt động can thiệp của NHTW vào thị trường ngoại
hối. Trong giai đoạn 2016 - 2021, cán cân tổng thể của Việt Nam luôn luôn thặng dư
với giá trị lên tới gần 81,14 tỷ USD. Chính vì vậy, vị thế đối ngoại của Việt Nam đã
mạnh hơn. Tuy nhiên, điều này cũng có thể hàm ý có những yếu kém của khu vực
trong nước so với khu vực xuất khẩu và đầu tư khu vực tư nhân chưa được chú trọng
(Bộ Tài chính Mỹ, 2021).

- Có một điểm đáng lưu ý là mức sai số và bỏ sót trong BoP của Việt Nam là khá lớn.
Trong giai đoạn 2016 - 2021, tổng giá trị sai số đạt -44,47 tỷ USD, tương đương
54,8% tổng giá trị thặng dư của cán cân tổng thể. Trong số đó các giá trị chảy vào
không được ghi nhận hoặc bỏ sót trong cả giai đoạn là gần 8,95 tỷ USD còn giá trị
chảy ra không được ghi nhận là gần 53,42 tỷ USD. Ngoài ra, số lượng báo cáo giao
dịch đáng ngờ có liên quan đến rửa tiền mà NHNN nhận được cũng ngày càng tăng từ
mức 1.300 báo cáo năm 2016 tăng lên 2.000 báo cáo năm 2019 và 1.811 năm 2020.
Đây là một thách thức không nhỏ đối với công tác quản lý kinh tế vĩ mô của Việt
Nam.

1.7. CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU CHỈNH CÁN CÂN THANH TOÁN Ở VIỆT NAM
a. Phương hướng điều chỉnh cán cân thanh toán
Nhiệm vụ chính của các chính sách kinh tế Việt Nam hiện nay là phải đảm bảo thiết lập được
cả cân đối bên trong và cân đối bên ngoài. Định hướng điều chỉnh cán cân thanh toán của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay: Tăng cường hơn nữa thu hút vồn đầu tư nước ngoài bằng cách
nâng cao hiệu quả sư dụng vốn nhằm cải thiện cán cân thanh toán, tăng cường dự trữ ngoại tệ
và phục vụ cho phát triển kinh tế.

b. Những biện pháp nhằm điều chỉnh cán cân thanh toán Quốc tế của Việt Nam
– Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của hàng hóa xuất
khẩu.Tập trung các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sản xuất các mặt hàng phục vụ cho xuất
khẩu.Đặc biệt chú trọng những ngành hàng có khả năng tăng trưởng ổn định ,sử dụng nhiều
lao động và nguyên liệu trong nước,đặt yêu cầu năng cao tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa lên
hàng đầu,gắn sản xuất với yêu cầu của thị trường về chất lượng và mẫu mã sản phẩm…Đồng
thời chuyển dịch mạnh cơ cấu đầu tư theo hướng tăng đầu tư Nhà nước để phát triển các
ngành dịch vụ và một số ngành sản xuất với công nghệ cao nhằm đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ
cho phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế dịch vụ và kinh tế tri thức.
– Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, phát triển và đa dạng hóa với những mặt hàng chủ lực,
gắn yêu cầu của thị trường đối với tường loại sản phẩm chính.Về đổi mới cơ cấu hàng xuất,
Việt Nam cần phải chuyển nhanh và mạnh sang phần lớn hàng chế biến, giảm mức tối đa xuất
hàng nguyên liệu và hàng sơ chế.
– Chính phủ cần quan tâm đến việc phát triển các doanh nghiệp tư nhân có tiềm năng,nhất là
các doanh nghiệp trong các ngành chế tạo có định hướng xuất khẩu cao.Hỗ trợ nhiều hơn cho
các tổ chức ,doanh nghiệp và cá nhân để phát triển các mặt hàng mới và thị trường mới.
– Việt Nam cần mở rộng thị trường xuất khẩu.Thực hiện phương châm đa dạng hóa,đa
phương hóa thị trường và đối tác,hạn chế việc xuất khẩu một mặt hàng bị phụ thuộc vào một
số thị trường,chú trọng các thị trường có sức mua lớn như : Mỹ,EU,Nhật Bản,Trung
Quốc,Đông Nam Á. Đồng thời tìm cách thâm nhập và gia tăng sự hiện diện của hàng hóa Việt
Nam ở các thị trường châu Phi,Mỹ La tinh;tăng cường các hình thức buôn bán hàng đổi
hàng…
– Chính phủ cũng nên tăng cường rà soát và xác định cụ thể những nguyên nhân làm chậm trễ
hoặc cản trở việc thực hiện các chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu để xử lý kịp
thời.Đồng thời thực hiện bổ sung, sửa đổi các cơ chế, chính sách, quy định chưa hợp lý; tiếp
tục cải cách hành chính tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.

b.2 Những biện pháp nhằm điều tiết nhập khẩu


Để vừa đảm bảo các mục tiêu kinh tế, vừa giảm bớt được tình trạng nhập siêu trong giai đoạn
hiện nay, Việt Nam cần thực hiện các việc sau:
• Ưu tiên nhập khẩu vật tư, thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ cho công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
• Khuyến khích gia tăng sử dụng vật tư, thiết bị trong nước đã sản xuất được để tiết
kiệm ngoại tệ và pháy triển hàng hóa sản xuất trong nước.
• Thúc đẩy phát triển sản xuất nguyên liệu thay thế nhập khẩu như bông, nguyên liệu
thuốc lá, ngô, đậu tương, đa nguyên liêu…và áp dụng các công cụ thuế mới nhằm giảm kim
ngạch nhập khẩu các mặt hàng này
• Hạn chế tối đa việc nhập khẩu hàng tiêu dùng và kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu ô
tô và linh kiện xe hai bánh gắn máy.
• Thực hiện chính sách giảm chi ngoại tệ nhập khẩu đối với một số ngành dịch vụ có
nhập khẩu các loại trang thiết bị chuyên dụng, thiết bị và vật liệu rẻ tiền nhanh hỏng mà tập
trung tạo điều kiện sản xuất để thay thế hàng nhập khẩu…
Trong tình thế hiện nay, để giảm được thâm hụt thương mại, Việt Nam có thể tập trung vào
các biện pháp nhằm đẩy mạnh tốc độ xuất khẩu thay vì việc tập trung để giảm nhập khẩu thay
vì việc tập trung để giảm nhập khẩu như trước đây.

b.3 Biện pháp thu hút chuyển tiền nước ngoài


Các biện pháp có thể áp dụng như thiết lập thêm mấy kênh chuyển tiền mới giúp cho kiều bào
an tâm chuyển tiền,nâng cao chất lượng dịch vụ chuyển tiền,đơn giản hóa các thủ tục có liên
quan tới hệ thống ngân hàng,cải thiện môi trường đầu tư,khuyến khích kiều bào tăng cường
đầu tư vào thị trường trong nước,tiếp tục thực hiện chính sách thu hút kiều hối thông
thoáng…

Các biện pháp kiểm soát trực tiếp nêu trên đếu có tác dụng làm giảm thiếu hụt cán cân thương
mại, tăng khả năng chịu đựng của cán cân vãng lai nên Việt Nam cần phải chú trọng tới
những biện pháp này. Nhất là trong tình hình hiện nay thì việc đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút
tối đa luồng kiều hối là hết sức quan trọng. Nó không những cải thiện cán cân vãng lai trong
hiện tại mà còn đảm bảo thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai giúp thanh toán những
khoản nợ nước ngoài, đảm bảo ổn định nền kinh tế.

b.4 Những biện pháp thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nước ngoài
Cũng như các nước đang phát triển khác, Việt Nam đứng trước hai vấn đề quan trọng có liên
quan đến vốn đầu tư để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững:
• Tỷ lệ huy động vốn trong nước thông qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của Nhà
nước không đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư.
• Tình trạng nhập siêu không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa đất
nước dẫn đến thâm hụt cán cân vãng lai và sự thiếu hụt ngoại tệ trong một thời gian dài.

Cả 2 vấn đề này có thể giải quyết bằng cách thu hút vốn ngoài nước, trong đó có FDI và
ODA. Cho nên để tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai, cải thiện cán cân thanh toán, Chính
phủ nên thu hút các luồng vốn này. Tuy việc thu hút các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào sẽ
có tác dụng làm tăng sản lượng, tạo việc làm và tài trợ cho thiếu hụt cán cân vãng lai nhưng
cũng sẽ làm tăng thiếu hụt cán cân vãng lai do tăng nhập khẩu và tăng các khoản trả lợi
nhuận, lãi vay cho nước ngoài.Do vậy, để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng xuất
khẩu giải quyết việc làm, Việt Nam phải chấp nhận thâm hụt cán cân vãng lai trong giới hạn
khả năng chịu đựng để không dẫn đến cuộc khủng hoảng bên ngoài.

b.4.1 Thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Trong các luồng vốn nước ngoài vào,đầu tư nước ngoài vào,đầu tư trực tiếp được coi là luồng
vốn không tạo ra dư nợ nên Chính phủ cần tập trung khai thác luồng vốn này.Để thu hút được
nhiều vốn FDI, Chính phủ có thể thực hiện có biện pháp sau:
• Tìm kiếm thị trường và đối tác mới: trong khi vẫn coi trọng các thị trường và đối tác
hiện nay, mà chủ yếu là Châu Á và các doanh nghiệp vừa, cần mở rộng việc thu hút FDI từ thị
trường mới nhất là Mỹ – một nước có tiềm năng lớn và có quan hệ thương mại gia tăng mạnh
mẽ với nước ta trong những năm qua.
• Nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới: trên cơ sở thường xuyên quan
tâm đến việc xếp hạng của các tổ chức quốc tế về năng lực cạnh tranh trong đầu tư của từng
nước, cũng như sự đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài đối với nước ta để sửa đổi, bổ
sung những nhân tố có liên quan làm cho vị thế nước ta ngày càng cao hơn trong bảng xếp
hạng của thế giới.
• Tạo lập môi trường đầu tư tốt nhất: đảm bảo tính minh bạch và ổn định của luật pháp
để các nhà đầu tư có thế tính được xu thế phát triển của dự án đầu tư.Cải cách cơ bản thủ tục
hành chính theo nguyên tắc hoạt động đầu tư thuộc quyền của các doanh nghiệp.
• Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể thu hút vốn FDI phù hợp và gắn liền với quy
hoạch ngành, lãnh thổ, lĩnh vực ưu tiên, mặt hàng chủ lực, khả năng thu hút lao động cao… từ
đó lựa chọn dự án khả thi, dự án ưu tiên đầu tư từ nguồn vốn nước ngoài.
• Tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án đã được cấp phép triển khai nhanh hoạt động xử
lý linh hoạt chuyển đôi các hình thức đầu tư. Ngoài các dự án không cấp phép đầu tư do yêu
cầu an ninh quốc gia, cần mở rộng danh mục các dự án cho phép nhà đầu tư nước ngoài được
lựa chọn các hình thức đầu tư xuất phát từ hiệu quả kinh doanh.
• Đáp ứng đủ nguồn vốn đối ứng: Khả năng tiếp cận FDI của nền kinh tế nói chung và
của từng doanh nghiệp nói riêng là nhân tố quyết định đến hiệu quả đầu tư. FDI chỉ thực sự
phát huy hiệu quả khi Việt Nam có khả năng tiếp năng tiếp nhận vốn và ngược lại sẽ bị phụ
thuộc vào nước ngoài. Để tiếp nhận hiệu quả vốn FDI đòi hỏi phải có một tỉ lệ vốn đối ứng
hợp lý.

b.4.2 Quản lý, sử dụng vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
So với FDI, Việt Nam sẽ tiếp nhận nguồn vốn ODA sớm hơn. Nhưng thực chất nguồn vốn
ODA là nguồn vốn ưu đãi.vì chỉ có khoảng 10-15% là viện trợ không hoàn lại. Vì vậy, việc
quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn này là hết sức cần thiết.

Các biện pháp cụ thể là:


• Sức hấp dẫn của ODA nằm ở chỗ khâu lập hồ sơ nhanh chóng, sát với nhu cầu thực tế,
các chủ dự án có năng lực cao. Vì vậy, chính phủ Việt Nam cần giải quyết các vấn đề này để
thu hút thêm nhiều ODA phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Công tác vận động vốn
ODA cần được đổi mới cơ bản về nội dung và phương pháp thực hiện, chú trọng khâu lập dự
án nghiên cứu khả thi bảo đảm chất lượng trước khi đàm phán. Trong quá trình vận động tổ
chức vốn cần xuất phát từ lợi ích tổng thể quốc gia, hiệu quả công việc trên cơ sở nâng cao
tính chủ động của phía Việt Nam với bên nước ngoài, cần mạnh dạn chối bỏ các nguồn vốn
không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
• Thực hiện nghiêm chỉnh các nghi quyết của Đảng và Chính phủ đẩy mạnh cổ phần
hóa doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả những công ty lớn trong hầu hết các ngành kinh tế
chủ chốt. Một khi chính những công ty nhà nước đã thực hiện đa sở hữu hóa thì đây chính là
một động lực để thúc đẩy tiến độ giải ngân vốn ODA.
• Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn quan trọng này, bao gồm cả yêu cầu về giải ngân,
Chính phủ cần đổi mới công tác tổ chức điều hành các dự án công trình quan trọng quốc gia
có sử dụng nguồn vốn ODA. Đối với những công trình, hạng mục công trình quan trọng nên
tổ chức đấu thầu chọn chủ dự án, công trình, mà tốt nhất là doanh nghiệp nhà nước đã được
cổ phần hóa hay công ty cổ phần có vốn góp của nhà nước. Vốn đối ứng để thực hiện dự án
công trình, ngoài ngân sách nhà nước, cần huy động thêm từ xã hội thông qua phát hành cổ
phiếu và trái phiếu công trình.
• Nâng cao nhận thức và thống nhất quan điểm về vốn ODA. Nếu coi là nguồn viện trợ
thuần túy thì dẫn đến sử dụng kém hiệu quả, lãng phí, không tră được nợ và cuối cùng bị lệ
thuộc vào bên ngoài. Viện trợ không hoàn lại cần đựoc quản lý như đối với nguồn thu ngân
sách nhà nước (NSNN) dành cho đầu tư phát triển, phần vay ưu đãi được hạch toán bù đắp
bội chi ngân sách nhà nước, kiên quyết không vay cho chi thường xuyên.
• Để cải thiện tình hình giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA, chính phủ
cũng cần tiếp tục cải thiện cơ sở pháp lý nhằm tạo môi trường rõ ràng hơn và thuận lợi hơn
cho quản lý và sử dụng ODA.

b.5 Tăng tiết kiệm


Hiện tại, Việt Nam chủ yếu thu hút các nguồn tiết kiệm tư nhân thông qua hệ thống ngân hàng
dưới dạng tiền gửi tiết kiệm. Song lượng tiền gửi vào chưa nhiều và phần lớn các luồn tiền
gửi vào ngân hàng là tiền gửi ngắn hạn. Kết quả là trong thực tế, Việt Nam là thiếu vốn trung
và dài hạn đầu tư cho phát triển kinh tế. Chính vì vậy, ngân hàng cần tích cực thu hút các
luồng vốn trung và dài hạn bằng cách khuyến khích phát triển thị trường trái phiếu.
Để đạt được ti lệ tích lũy cao hơn, Chính phủ cần phải cải thiện môi trường tổng thể sao cho
thuận lợi hơn, cải thiện khuôn khổ các biện pháp khuyến khích và cần có 1 chiến lược phát
triển dựa trên xuất khẩu để tăng mức thu nhập. Ngoài ra, nâng cao vai trò quan trọng của nhà
nước trong việc duy trì môi trường với lãi suất thực dương; đảm bảo về mặt pháp lý cho tính
chất toàn vẹn lâu dài của các quyền về tài sản và sở hữu của caỉ vật chất; điều chỉnh tỷ giá hối
đoái và tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý để cho người gửi tiền tiết kiệm có thể yên tâm về giá trị
lâu dài của đồng tiền; xây dựng 1 hệ thống ngân hàng an toàn và lành mạnh để người dân yêu
tâm gửi tiền; và một hệ thống thuế công bằng, hợp lý không de dọa tịch thu tiết kiệm và của
cải trong tương lai.

b.6 Giảm chi tiêu


b.6.1 Sử dụng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là mở rộng tiền tệ. Việc tăng cung
tiền sẽ được thực hiện chủ yếu thông qua tăng dự trữ quốc tế (do cán cân thanh toán thặng dư)
và tăng số nhân tiền bằng cách thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc .Kết hợp vói giảm lãi suất để duy
trì cung tiền bằng cầu tiền. Cụ thể
• Tăng dự trữ quốc tế phù hợp với yêu cầu tăng nhập khẩu phục vụ phát triển kinh tế,
đồng thời có tác dụng hạn chế việc tăng giá đồng Việt Nam khi thu hút vốn nước ngoài và hạn
chế được tốc độ tăng lạm phát.
• Giảm lãi suất để hạn chế thu hút vốn ngắn hạn và tăng vốn đầu tư trong nước.
• Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có ý nghĩa là giảm thuế đánh vào hệ thống ngân hàng, có
tác dụng giảm lãi suất nội địa và giảm chênh lệch lãi suất cho vay. Do đó, nó đảm bảo vừa
tăng được đầu tư vừa khuyến khích được tiết kiệm trong nước.

Chính sách tài khóa mở rộng hiện nay là: Giảm thuế suất và mở rộng diện nộp thuế; tăng chi
tiêu đầu tư và xã hội để xây dựng cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, phát triển giáo dục đồng
thời hạn chế chi tiêu thường xuyên .Thiếu hụt NSNN được bù đắp bằng cách Chính phủ bán
công trái và trái phiếu kho bạc .Cụ thể:
– Mở rộng diện thu thuế là cần thiết để tăng thu ngân sách vì Việt Nam còn nhiều nguồn
thu bị bỏ qua như thu thuế,phí từ thị trường đất đai,bất động sản,thu nhập cá nhân…
– Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế,việc để thuế giá trị gia tăng,thuế suất nhập khẩu
cao là không hợp lý làm triệt tiêu động lực của sản xuất ,giảm sức cạnh tranh.Việc giảm thuế
này về dài hạn sẽ thu lại nguồn thu lớn nhờ sản xuất được mở rộng.
– Để phát triển kinh tế bền vững lâu dài, cần tăng chi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng,
giáo dục, xóa đói, y tế, môi trường… Đồng thời trong ngắn hạn đây cũng là một biện pháp
làm tăng tổng cầu và giải quyết việc làm.
– Bán công trái và trái phiếu kho bạc sẽ có tác dụng thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong
dân làm tăng tiết kiệm tư nhân.

b.6.2 Biện pháp điều chỉnh tỷ giá


Một số biện pháp về chính sách tỷ giá trong thời gian tới mà Việt Nam cần thực hiện là:
• Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng nội và cân bằng ngoại.
• Ổn định tỷ giá trên mối tương quan cung cầu trên thị trường xuất khẩu, kích thích xuất
khẩu, hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và tăng dự trự ngoại tế.
• Từng bước nâng cao uy tín VND, tạo điều kiện cho VND có thể trở thành đồng tiền
chuyển đổi.
• Phối hợp với chính sách ngoại hối để chống hiện tượng đô la hóa.
Ngoài ra ,Chính phủ cần hoàn thiện hơn chính sách ngoại hối để vừa tranh thủ được các
nguồn vốn quốc tế vừa thúc đẩy các hoạt động thương mại,dịch vụ,du lịch,kiều hối,đầu tư,…
nhưng lại phải đảm bảo được chủ quyền của đồng Việt Nam, thực hiện được mục tiêu của
chính sách tiền tệ.

1.8. Kết luận và một số khuyến nghị


Khảo cứu thặng dư trong BoP của Việt Nam trong những năm gần đây có thể thấy:

Thứ nhất, thặng dư trong cán cân vãng lai ở Việt Nam chủ yếu là do thặng dư trong cán cân
thương mại. Điều này thể hiện lợi thế so sánh của Việt Nam trong việc cung cấp hàng hóa.
Tuy nhiên, xuất khẩu của Việt Nam lại chủ yếu đến từ khu vực FDI, do đó bất kỳ biến động
nào trong cán cân DI sẽ ảnh hưởng lớn đến việc xuất khẩu của Việt Nam. Xét trong cán cân
thu nhập, Việt Nam mặc dù nhận được nguồn kiều hối dồi dào nhưng số tiền mà Việt Nam
phải thanh toán cho các nhà đầu tư nước ngoài luôn lớn hơn rất nhiều so với số tiền mà Việt
Nam kiếm được từ việc đầu tư ra nước ngoài. Xét về tổng thể, cán cân vãng lai của Việt Nam
thường trong trạng thái thặng dư. Điều này đã tạo áp lực nâng giá VND khiến NHNN phải
can thiệp để ổn định tỷ giá. Trong tương lai, Việt Nam cần xác định rõ mức độ ưu tiên trong
chính sách của mình là ổn định tỷ giá hay có được một chính sách tiền tệ độc lập trong bối
cảnh tài khoản vốn ngày càng được tự do hóa.

Thứ hai, thặng dư trong cán cân tài chính ở Việt Nam chủ yếu là do Việt Nam đã thu hút
được một lượng lớn vốn FDI vào trong nước. Do đó, khi điều kiện kinh tế nước ngoài kém
thuận lợi hoặc môi trường kinh tế Việt Nam chưa đủ hấp dẫn, dòng vốn này có thể biến động
mạnh và gây rủi ro cho nền kinh tế Việt Nam. Thêm vào đó, thặng dư trong cán cân tài chính
của Việt Nam là chưa bền vững vì ngoài FDI, vốn OI vào và ra khỏi Việt Nam với mức độ
dao động lớn. Cụ thể là dòng vốn vay biến động rất mạnh, cả vốn vay ngắn hạn và vốn vay
dài hạn. Mặc dù mức độ thặng dư trong cán cân vốn vay dài hạn lớn hơn mức độ thâm hụt
trong cán cân vốn vay ngắn hạn nhưng tổng vốn vay ngắn hạn lại lớn hơn gần gấp 2 lần so với
vốn vay dài hạn. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc quản lý các dòng vốn nước ngoài ở Việt
Nam và có thể tạo ra rủi ro về sự đảo chiều dòng vốn tại Việt Nam. Hiện nay, công tác quản
lý các giao dịch vốn được thực hiện theo hướng tạo thuận lợi cho việc thu hút các dòng vốn
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong khi quản lý chặt chẽ, thận trọng dòng vốn đầu tư ra
nước ngoài. Theo Paul Krugman (2018, trang 270), Trung Quốc và Đài Bắc Trung Hoa,
thường duy trì kiểm soát vốn và có thặng dư tài khoản vãng lai trong thời kỳ trước khủng
hoảng, đã không bị ảnh hưởng nhiều trong cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, theo cam kết với
WTO, Việt Nam cần phải tự do hóa cán cân tài chính vào năm 2018. Do đó, việc kiểm soát
vốn nên điều chỉnh cho phù hợp với tình hình hình mới, tiến tới gỡ bỏ trong tương lai.

Thứ ba, thặng dư trong BoP của Việt Nam đã nâng cao vị thế đối ngoại của Việt Nam, tuy
nhiên, nó có thể phản ánh mức độ kém hiệu quả của khu vực kinh tế trong nước trong việc
cung cấp các hàng hóa xuất khẩu hoặc có tồn tại các ràng buộc trong khu vực đầu tư tư nhân
trong nước. Tích lũy dư thừa dự trữ ngoại hối có thể tạo áp lực tăng lạm phát và dẫn tới bùng
nổ tín dụng trong tương lai. Thêm vào đó, chi phí trung hòa hóa ở Việt Nam là khá cao, do đó,
việc tiếp tục can thiệp và trung hòa hóa tác động tới cung tiền và lạm phát khó có thể kéo dài
mãi. Ngoài ra, với Việt Nam, cần xem xét hỗ trợ và cải thiện hơn nữa đầu tư tư nhân.

You might also like