Professional Documents
Culture Documents
Thuoc Nam 70 1244
Thuoc Nam 70 1244
Thuoc Nam 70 1244
Địa hoàng là cây sinh địa hoàng, thường gọi tắt là cây sinh địa (Rhemannia glutinosa
Gaertn), họ hoa mõm sói (Scrophulariacea). Bộ phận dùng làm thuốc là rễ (Radix
Rhemanniae). Sau khi thu hoạch, tùy theo cách chế biến, rễ sinh địa hoàng sẽ cho các sản
phẩm khác nhau với những tác dụng cũng khác nhau như: tiên địa hoàng, can địa hoàng,
Rễ địa hoàng tươi vừa được thu hoạch. Tiên địa hoàng có độ dài khoảng 15-20cm, đường
kính khoảng 1,5 – 2cm, vỏ rễ căng nhẵn, màu vàng nhạt, vị ngọt, đắng nhẹ, nhiều dịch.
Can địa hoàng: tiên địa hoàng thái phiến, phơi khô hoặc sấy khô ở nhiệt độ thấp. Can địa
Thục địa
Đem sinh địa nấu, hoặc chưng với hỗn hợp gồm sinh khương (gừng tươi), sa nhân, rượu
trắng (35-40 độ) nhiều giờ, sau đó đem phơi hoặc sấy ở nhiệt độ thấp (60-700C) rồi lại
nấu tiếp và phơi như trên, làm nhiều lần. Trong quá trình phơi, thường xuyên lấy dịch nấu
ban đầu còn lại, tẩm vào vị thuốc, làm nhiều lần cho đến khi sản phẩm chế có thể chất
mềm, dẻo, màu đen, sờ không dính tay. Từ sinh địa hoàng đã cung cấp tới 4 vị thuốc nói
trên.
Tuy nhiên, việc bảo quản 2 vị thuốc tiên địa hoàng và can địa hoàng rất khó và hoạt chất
của chúng cũng không ổn định. Vì vậy sinh địa và thục địa là 2 vị thuốc chính thức được
có vị ngọt, đắng, tính hàn, vào kinh tâm, can, thận; có công năng thanh nhiệt lương huyết,
dưỡng âm, sinh tân dịch, chỉ khát. Chủ trị: sốt cao, miệng khát, lưỡi đỏ, tâm phiền do tà
nhiệt nhập vào phần dinh, phần huyết, phối hợp với hoàng liên, huyền sâm, hạ khô
- Khi cơ thể bị huyết nhiệt, dẫn đến xuất huyết, phối hợp với tê giác, mẫu đơn bì, trắc
- Trị táo bón, nhất là sau thời kỳ bị sốt, nhiệt làm tổn thương tân dịch, người khô háo,
phối hợp với huyền sâm, mạch môn, thảo quyết minh…
- Trị bệnh tiểu đường: Tiên địa hoàng và can địa hoàng, tính hàn, lương, có tác dụng sinh
tân chỉ khát tốt, dùng trị bệnh tiểu đường tốt hơn sinh địa. Nếu có điều kiện dùng riêng
tiên địa hoàng hoặc can địa hoàng, mỗi ngày 16 -20g, dưới dạng nước ép, hoặc nước sắc.
Còn với sinh địa, có thể dùng phương Lục vị gia giảm: sinh địa, hoài sơn, mỗi vị 20g;
thạch hộc, mẫu đơn bì mỗi vị 12g; thiên hoa phấn, sa sâm, sơn thù du mỗi vị 8g. Sắc
Lưu ý: Những người tỳ hư, dương hư, đầy trướng bụng, phân nát, lỏng không nên dùng
sinh địa.
Thục địa
có vị ngọt, tính ấm, vào 3 kinh tâm, can, thận. Có công năng tư âm, dưỡng huyết, sinh tân
chỉ khát, bổ thận âm. Được dùng chủ yếu để bổ huyết trong các trường hợp: thiếu máu,
chóng mặt, đau đầu, tân dịch khô sáp, mắt khô, râu tóc bạc sớm: thục địa, đương quy,
xuyên khung, bạch thược mỗi vị 12g. Sắc uống ngày 1 thang, uống liền 2 -3 tuần lễ. Hoặc
bổ cả khí và huyết, trong trường hợp khí huyết lưỡng hư, da xanh xao, người mệt mỏi:
thục địa, đương quy, bạch truật, bạch linh, nhân sâm, bạch thược mỗi vị 12g; xuyên
khung 8g; cam thảo 6g. Sắc uống ngày 1 thang, uống liền 2 – 3 tuần lễ.
Lưu ý
Tránh nhầm lẫn cây sinh địa hoàng với cây dương địa hoàng tía (Digitalis purpurea L.) và
cây dương địa hoàng lông (Digitalis lanata Ehrh.), đều thuộc họ hoa mõm sói
(Scrophulariaceae). Cả hai cây đều mọc hoang và được trồng ở châu Âu và Bắc Mỹ để
lấy nguyên liệu chiết xuất glycosid tim, được di thực vào nước ta.