Professional Documents
Culture Documents
6tran Thi Ngoc Anh Nguyen Thi Kim Hue PDF
6tran Thi Ngoc Anh Nguyen Thi Kim Hue PDF
1. Mở đầu
Để bảo đảm sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của nền kinh tế tri thức, Đảng và Nhà nước ta đã thông qua Nghị
quyết số 88/2014/QH13 ngày 28/11/2014 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, góp phần đổi
mới căn bản, toàn diện GD-ĐT với mục tiêu được quy định: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ
thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy
người và định hướng nghề nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục
phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hoà đức, trí, thể, mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi
học sinh (HS)” (Bộ GD-ĐT, 2018a).
Điều 30 Luật Giáo dục cũng đã ghi rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của HS, phù hợp với đặc trưng của từng môn học, lớp học và đặc điểm đối tượng HS; bồi dưỡng
phương pháp tự học, hứng thú học tập, kĩ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập; phát triển toàn diện phẩm chất và
năng lực của người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào quá trình giáo dục” (Quốc
hội, 2019).
Chương trình giáo dục phổ thông môn Vật lí đã xác định mục tiêu của việc học tập môn Vật lí nhằm giúp HS
hình thành, phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung được quy định trong Chương trình giáo dục phổ
thông tổng thể; hình thành, phát triển năng lực vật lí với các biểu hiện về nhận thức vật lí, tìm hiểu thế giới tự nhiên
dưới góc độ Vật lí và vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học về vật lí vào thực tiễn. Để giúp HS đạt được các mục tiêu
đó, giáo viên (GV) phải thay đổi phương pháp giáo dục nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo, chủ động của HS,
giúp HS đóng vai trò trung tâm trong việc tìm kiếm, chiếm lĩnh nguồn tri thức cho bản thân (Bộ GD-ĐT, 2018b).
Một trong những năng lực chung cần phát triển cho người học là năng lực giải quyết vấn đề (GQVĐ) và sáng
tạo. Mỗi môn học đều có những đóng góp nhất định trong việc hình thành và phát triển những năng lực chung này.
Dạy học phát hiện và GQVĐ là một trong những phương pháp dạy học hiệu quả để phát triển năng lực GQVĐ.
Trong phạm vi bài báo, chúng tôi tập trung vào việc xây dựng các tình huống có vấn đề (THCVĐ) trong dạy học
môn Vật lí ở trường phổ thông để phát triển năng lực GQVĐ cho HS.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Năng lực giải quyết vấn đề
Năng lực GQVĐ là một trong những năng lực quan trọng của con người mà nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế
giới đang hướng tới. Hay nói cách khác, dạy học phát hiện và GQVĐ là một cách tích cực để rèn luyện năng lực phát
hiện và GQVĐ cho HS.
Năng lực GQVĐ của HS trong dạy học được thể hiện qua các hoạt động của quá trình GQVĐ. Có thể được hiểu
đây là năng lực vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo những kiến thức, kĩ năng và những kinh nghiệm thực tiễn của
bản thân để giải quyết một vấn đề, tình huống nào đó khi gặp phải. Khi GQVĐ cần thực hiện các bước: xác định
32
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 486 (Kì 2 - 9/2020), tr 32-37 ISSN: 2354-0753
được vấn đề và mục tiêu của việc cần giải quyết; thu thập thông tin và phân tích để đề ra được các giải pháp; chọn ra
được giải pháp tối ưu trong các giải pháp đề ra để thực hiện; đánh giá được kết quả thu được, rút kinh nghiệm khi xử
lí các vấn đề khác tương tự và đề xuất được vấn đề mới khi cần thiết.
Theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018, năng lực GQVĐ thuộc nhóm năng lực chung, gắn liền với năng
lực sáng tạo. Dựa trên bảng mô tả về các biểu hiện của năng lực GQVĐ (Bộ GD-ĐT, 2018a), khi tách rời năng lực
GQVĐ của HS trong dạy học, chúng tôi cho rằng, các mức độ của năng lực GQVĐ có thể được mô tả như sau:
Bảng 1. Bảng mô tả các tiêu chí và chỉ báo mức độ đánh giá năng lực GQVĐ của HS
Năng lực Biểu hiện/ Mức độ
thành phần Tiêu chí Mức 1 Mức 2 Mức 3
1. Phân tích tình Chưa phân tích được Nhận biết được thông tin Tự nhận biết được
Nhận ra huống, phát hiện vấn thông tin dưới sự hỗ trợ của GV thông tin
ý tưởng mới đề
và phát hiện 2. Phát biểu vấn đề Chưa phát biểu được Phát biểu được vấn đề Tự phát biểu được
được vấn đề vấn đề dưới sự hỗ trợ của GV vấn đề một cách khoa
học
3. Đề xuất được một Chưa đề xuất được Đề xuất được một số giải Đề xuất được một số
số giải pháp giải pháp pháp nhưng ít khả thi giải pháp có thể
Đề xuất, GQVĐ tốt nhất
lựa chọn 4. Lựa chọn được giải Chưa lựa chọn được Chưa lựa chọn được giải Lựa chọn được giải
giải pháp pháp tối ưu nhất giải pháp pháp tối ưu nhất pháp tối ưu nhất
và GQVĐ 5. Giải quyết được vấn Không giải quyết Còn lúng túng khi GQVĐ Thực hiện GQVĐ
đề thông qua các giải được vấn đề một cách trôi chảy
pháp đã đề ra
6. Đánh giá được hiệu Không có khả năng Tự đánh giá được nhưng Đánh giá được hiệu
quả của giải pháp tự đánh giá chưa xác định được rõ quả cụ thể
Đánh giá
ràng ưu và nhược điểm
và vận dụng
7. Vận dụng được cho Chưa biết vận dụng Vận dụng vào một số tình Vận dụng tốt vào các
các tình huống tương tự vào tình huống mới huống mới tình huống mới
2.2. Tình huống có vấn đề
Trong mỗi giờ học, HS thường đối mặt với một chuỗi tình huống diễn ra liên tục. Tuy nhiên, không phải tất cả
các tình huống đó là THCVĐ. Quan niệm THCVĐ đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu, diễn giải
khác nhau: như theo Từ điển tiếng Việt, THCVĐ được hiểu là tổng thể nói chung những sự kiện, hiện tượng có quan
hệ với nhau diễn ra trong không gian, thời gian nào đó mà sự diễn biến của nó cần phải đột phá (Hoàng Phê, 2000,
tr 996); còn theo Ôkôn (2006), bản chất của THCVĐ là những lúng túng về lí thuyết và thực hành để GQVĐ, nó xuất
hiện nhờ tính tích cực nghiên cứu của người học; trong khi đó, theo Đinh Quang Báo và Nguyễn Đức Thành (1996)
thì THCVĐ là một trạng thái tâm lí của chủ thể nhận thức khi vấp phải mâu thuẫn, một khó khăn về nhận thức; mâu
thuẫn và khó khăn đó vượt ra khỏi giới hạn đã có của chủ thể, bao hàm một điều gì đó chưa biết, đòi hỏi một sự tìm
tòi tích cực, sáng tạo.
Mặc dù có những quan điểm khác nhau, nhưng các định nghĩa trên đây có sự thống nhất về bản chất của THCVĐ
là phải có chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, mâu thuẫn này phải có tác dụng sao cho chủ thể tiếp nhận nó không phải
như một mâu thuẫn bên ngoài mà như một nhu cầu bên trong và khi đó chủ thể ở một trạng thái tâm lí độc đáo gọi
là THCVĐ.
THCVĐ thể hiện ở những dạng khác nhau, có thể là câu hỏi, bài toán, một hiện tượng thực tiễn (tình huống
có thực) hoặc là một câu chuyện do GV hư cấu gắn với nội dung bài học (tình huống giả định),... (Nguyễn Văn
Hồng, 2015).
Trong dạy học THCVĐ thường có thể phân loại như sau (Becerra-Labra và cộng sự, 2012):
- Tình huống nghịch lí: Đó là tình huống thoạt nhìn tưởng như vô lí, đi ngược lại những giả thuyết đã được công
nhận chung. Đối với người học, tình huống này được tạo ra bằng cách giới thiệu những sự kiện, hiện tượng trái với
quan điểm thông thường, với kinh nghiệm của cá nhân họ. Việc giải quyết những tình huống này có thể đem lại một
lí thuyết mới, bác bỏ những lí thuyết lỗi thời.
33
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 486 (Kì 2 - 9/2020), tr 32-37 ISSN: 2354-0753
- Tình huống lựa chọn: Đó là những tình huống xuất hiện khi người học đứng trước nhiều phương án giải quyết,
phương án nào cũng có kĩ, nhưng chỉ có thể lựa chọn một phương án duy nhất mà thôi.
- Tình huống bác bỏ: Đó là tình huống đặt ra khi người học đứng trước một kết luận, một luận đề sai lầm, phản
khoa học. Nhiệm vụ của người học là đưa ra những luận chứng để bác bỏ chúng.
- Tình huống tại sao: Là tình huống trong đó có những sự kiện, hiện tượng mà với kinh nghiệm của người học
không thể giải quyết và luôn thốt ra câu hỏi “Tại sao?”. Trong dạy học, tình huống này rất phổ biến và hiệu quả.
- Tình huống nêu ra vấn đề cần giải quyết: Khác với tình huống về một vụ việc ở chỗ, vấn đề không được nói rõ
ra. Việc đầu tiên của người học là phải tìm ra vấn đề. Với lại tình huống nêu vấn đề, thông thường người học được
chỉ định thực hành những điều do tình huống đưa ra.
2.3. Xây dựng tình huống có vấn đề trong dạy học chương “Chất khí” (Vật lí 10) để phát triển năng lực giải quyết
vấn đề cho học sinh
Dưới đây, chúng tôi trình bày kết quả xây dựng một số THCVĐ trong dạy học.
- Bài 29 “Quá trình đẳng nhiệt - Định luật Bôi-lơ - Ma-ri-ốt” (chương “Chất khí”, Vật lí 10).
Trên thực tế có rất nhiều tình huống, hiện tượng có liên quan đến quá trình đẳng nhiệt, cho nên GV có thể sử
dụng để dẫn dắt HS đi tìm hiểu mối quan hệ giữa áp suất và thể tích khi nhiệt độ không đổi, từ đó rút ra được nội
dung của Định luật Bôi-lơ - Ma-ri-ốt. Hoặc, dùng trong củng cố kiến thức, bài tập về nhà cho HS. Từ những định
hướng đã đưa ra, GV có thể xây dựng một số THCVĐ đề để dẫn dắt HS đi tìm kiến thức mới như sau:
Tình huống 1:
Đặt vấn đề
Khi dùng tay bóp quả bóng bay, càng lúc ta cảm thấy
càng khó bóp và tay có cảm giác như bị quả bóng đẩy
ra, nếu tiếp tục bóp quả bóng sẽ bị nổ. Tại sao?
Đặt vấn đề
Khi bơm xe đạp, ấn tay vào vòi bơm ta thấy khi cần
bơm càng hạ thấp xuống thì càng khó bơm. Tại sao?
34
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 486 (Kì 2 - 9/2020), tr 32-37 ISSN: 2354-0753
Đặt vấn đề
Cho một bong bóng có chứa một lượng khí được buộc
chặt vào trong bình kín. Sau đó dùng một
xi-lanh để hút (hoặc nạp khí) vào bình kín thì quả bóng
to lên (hoặc nhỏ lại). Tại sao?
Giải quyết vấn đề
- HS trả lời theo kiến thức đã có hoặc theo gợi ý của
GV: Khi hút không khí bên trong bình kín thì áp suất
sẽ tăng, làm chênh lệch với áp suất bên trong quả bóng
thì khi đó quả bóng sẽ to lên và ngược lại.
- GV nhận xét câu trả lời của HS
- Sử dụng phần mềm mô phỏng thí nghiệm (thiết kế ở
PowerPoint hoặc sử dụng phần mềm PhET...) hoặc
chiếu video thí nghiệm (kèm theo diễn giải của GV)
về quá trình đẳng nhiệt để mang lại tính trực quan và
dễ hình dung kiến thức.
Kết luận: Trong quá trình đẳng nhiệt của một lượng khí nhất định, áp suất và thể tích tỉ lệ nghịch với nhau.
- Bài 30 “Quá trình đẳng tích. Định luật Sác-lơ”
Các THCVĐ này có thể sử dụng để dẫn dắt HS để tìm hiểu mối quan hệ giữa áp suất và nhiệt độ tuyệt đối khi
thể tích không đổi. Từ đó đưa ra được nội dung của Định luật Sác-lơ; hoặc dùng trong củng cố kiến thức, bài tập về
nhà cho HS. Từ những định hướng đã đưa ra, GV có thể xây dựng một số THCVĐ để dẫn dắt HS đi tìm kiến thức
mới như sau:
Tình huống 1:
Đặt vấn đề
Làm thế nào để lấy được nút ra khỏi chai nhưng không
chạm tay vào chai?
Giải quyết vấn đề
- HS trả lời theo kiến thức đã có: Hơ nóng cổ chai thì
nút chai tự văng ra ngoài.
- GV nhận xét câu trả lời của HS
- Sử dụng phần mềm mô phỏng thí nghiệm (thiết kế ở
PowerPoint hoặc sử dụng phần mềm PhET...) hoặc
chiếu video thí nghiệm (kèm theo diễn giải của GV)
về quá trình đẳng nhiệt để mang lại tính trực quan và
dễ hình dung kiến thức.
Kết luận: Trong quá trình đẳng tích của một lượng khí nhất định, áp suất tỉ lệ thuận với nhiệt độ tuyệt đối.
35
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 486 (Kì 2 - 9/2020), tr 32-37 ISSN: 2354-0753
Tình huống 2:
Đặt vấn đề
Tại sao lốp xe bơm căng để ngoài trời nắng dễ bị nổ?
Tình huống 3:
Đặt vấn đề
Làm thế nào để cho quả trứng đã luộc vào trong chai
có miệng nhỏ hơn kích thước quả trứng? Giải thích.
36
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 486 (Kì 2 - 9/2020), tr 32-37 ISSN: 2354-0753
37