Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 5

Một số đặc điểm về việc chiếm hữu ruộng đất trong lịch sử Việt Nam

Trong quá trình phát triển và hình thành hệ thống quản lý đất đai tại Việt Nam, các
nhà nước phong kiến đã cho xây dựng và tổ chức các hình thức sở hữu đất đai và khai
hoang đất mới, đầu tư xây dựng thủy lợi. Chính vì những lý do trên đã tạo nên nét đặc
trưng trong việc chiếm hữu đất đai tại Việt Nam.

Đặc điểm về việc chiếm hữu ruộng đất trong lịch sử Việt Nam

So với các nước Động Nam Á, Việt Nam là nước duy nhất cho đến đầu thế kỉ XX
quá trình tư hữu hóa đất đai vẫn chưa hoàn thiện. Nhưng điều này không đồng nghĩa với
việc tại Việt nam không tồn tại sở hữu tư nhân hay chiếm hữu ruộng đất.

Do điều kiện về lịch sử - văn hóa –xã hội mà suốt hàng nghìn năm lịch sử phong
kiến, Việt Nam luôn tồn tại hai chế độ ruộng đất là sở hữu ruộng công và sở hữu ruộng
tư. Sự song hành của hai chế độ trên trong suốt chiều dài lịch sử đã tạo nên những nét đặc
thù của chế độ ruộng đất tại Việt nam

Quyền sở hữu tối cao về ruộng đất của nhà nước

Theo dòng lịch sử Việt Nam ghi nhận thì việc xác lập quyền sở hữu tối cao của nhà
nước phong kiến đã xuất hiện từ rất sớm bởi các nguyên nhân chủ yếu như sau:

Về mặt chính trị, xác lập quyền sở hữu tối của của Vua (đại diện nhà nước) nhằm
khẳng định quyền lực, sự độc lập của nhà nước trong nước cũng như vẹn toàn lãnh thổ
đối với các nước láng giềng. Điều này giúp củng cố bộ máy chính quyền phong kiến của
nhà nước thời bấy giờ

Về mặt kinh tế, nước ta chủ yếu sống nhờ nghề trồng trọt. Năng suất và hiệu quả lao
động kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Chính vì vậy để khắc phục hậu quả khi
thiên nhiên xảy ra hạn hán, lũ lụt thì nhà nước đầu tư vào để canh tác đất để phát triển
năng suất, hiệu quả trồng trọt.

Bởi những nguyên nhân trên mà quyền sở hữu tối cao của nhà nước về đất đai bắt
đầu manh nha hình thành từ sớm vào triều Lý (thế kỉ thứ XI). Tuy nhiên, nó chỉ được xác
lập một cách tương đối vững chắc bắt đầu từ thời Lê sơ (thế kỉ thứ XV) và được tiếp tục
duy trì trong các thế kỉ sau.

Quá trình hình thành, xác lập quyền sở hữu tối cao của nhà nước đối với đất đai thể
hiện qua các sự kiện chủ yếu sau đây:

 Nhà Lý sau khi giành được ngôi báu và củng cố vững chắc quyền lực thống trị của
mình đã cho tiến hành đo đạc lại ruộng đất trong cả nước nhằm xác lập chủ quyền
của Nhà nước đối với toàn bộ đất đai trong cả nước.

 Dưới thời nhà Trần bằng việc vua Trần lập ra một chức quan chuyên lo về việc điền
địa, trông coi để điều.

 Thời nhà Lê, sau cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh giành được thắng lợi
năm 1428, vua Lê cho tiến hành thống kê ruộng đất trong cả nước.

Trên cơ sở thống kế thì nhà nước phong kiến bây giờ đã xác lập quyền sở hữu bằng
chính sách và biện pháp là lộc điền và quân điền.

Lộc điền là việc nhà vua thực hiện quyền sở hữu tối cao và ban cấp ruộng đất cho
tầng cấp dưới mình ( quan lại cấp cao và người trong hoàng tộc)

Chính sách lộc điền thực chất là việc nhà vua, với tư cách là người đại diện tối cao
của nhà nước phong kiến trung ương, thực hiện quyền sở hữu tối cao ban cấp ruộng đất
cho tầng lớp quan lại cấp cao và những người thân thuộc trong hoàng tộc. Ruộng đất cấp
theo chế độ lộc điền gồm: ruộng thế nghiệp ( người được cấp sau khi chết được truyền lại
cho con cháu đời sau hưởng lộc.) và ruộng cấp tạm thời ( 3 năm sau khi người được cấp
chết thì con cháu phải trả lại cho nhà nước

Để thể hiện sự tối cao của quyền lực mà trong một số trường hợp nhà nước có thể
thu hồi lại số ruộng đất đã cấp.. Hơn nữa, để củng cố quyền sở hữu của mình đối với
ruộng đất mà nhà nước còn cho ra đời các chế độ tô thuế cho ruoognj đất, quy định cụ thể
quyền sở hữu của nhà nước với ruộng đất.
Dưới thời Lê, nhà nước đã can thiệp vào quyền sở hữu ruộng đất thông qua chế độ
quân điền. Chính vì điều này đã củng cố vững chắc sự thống nhất, tập trung quyền lực
của nhà nước trong việc quản lý ruộng đất thời đó. (điều mà các triều đại phong kiến Lý,
Trần trước đây dường như chưa hoặc ít thực hiện được).

Tuy nhiên, đến cuối triều Lê (thế kỷ thứ XVIII) do chính quyền suy yếu làm dẫn
đến suy yếu quyền lực nhà nước trong sở hữu ruộng đất, xảy ra phổ biến tình trang mua
bán, chiếm đoạt một cách không kiểm soát.

Tóm lại: Quyền sở hữu của nhà nước đối với đất đai được hình thành từ rất sớm ở
nước ta xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đấu tranh giành và giữ nền độc lập tự chủ
cũng như đòi hỏi của việc phát triển nền nông nghiệp trồng lúa nước.

Quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai

Mặc dù chế độ ruộng đất công được nhà nước phong kiến bảo hộ và phát triển mạnh
mẽ nhất trong thời kì Lê sơ song bên cạnh đó còn tồn tại quyền sở hữu tư nhân đối với
ruộng đất.

Hình thức sở hữu tư nhân bắt đầu ở nước ta từ thời Lý-Trần. Đến thời Lê sơ, với
những chính sách cấp ruộng đất cho công thần, quan lại và quý tộc do nhà nước ban hành
thì hình thức sở hữu tư nhân càng phổ biến.

Chính vì sự phát triển của sở hữu tư nhân ngày càng mạnh mà nhà nước không
những thừa nhận mà còn bảo vệ hình thức sở hữu này.

Sở hữu tư nhân về ruộng, đất đai bao gồm như sau:

- Quan lại, quý tộc được nhà nước cấp ruộng, đất;

- Nông dân có sức lao động được quyền mua và tích tụ ruộng đất.

Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cho xây dựng một hệ thống pháp luật để bảo vệ quyền
sở hữu tư nhân về đất đai. Đương cử pháp luật nhà Lê, các hành vi xâm chiếm hoặc bán
trộm ruộng đất đều bị trừng phạt rất nặng
Trải qua từng thời kỳ mà chế độ đất đai của ta xảy ra nhiều sự thay đổi. Các chính
sách khẩn hoang, khuyến khích, động viên người dân tích cực khai phá đất hoang ra đời.
Tạo điều kiện cho sở hữu tư nhân về ruộng đất tồn tại và phát triển lâu dài. Có thể nhận
thấy trong quá trình hình thành quyền tư hữu đối với đất đai ở nước ta bị hạn chế, luôn
chịu sự phi phối từ nhà nước và đây chính là đặ điểm lớn trong chế độ sở hữu ruộng đất ở
Việt Nam

Tóm lại, chế độ sở hữu toàn dân hiện nay không chỉ được xây dựng dựa trên tư
tưởng học thuyết Mác-Lê mà còn thực tiễn đã diễn ra, lịch sử và quá trình hình thành của
chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất trong suốt thời kỳ phong kiến.

Người chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất?

Hiện nay, cơ sở xác định người chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử
dụng đất được quy định tại Điều 7 Luật đất đai năm 2013 như sau:

 Người đứng đầu của tổ chức, tổ chức nước ngoài ngoại giao, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài sẽ chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất của
mình

 Đối với việc sử dụng đất nông nghiệp vào mục đích công ích, đất phi nông nghiệp
xây dựng trụ sở, công trình công cộng thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã chịu
trách nhiệm trước Nhà nước.

 Đối với việc sử dụng đất của cộng đồng dân cư thì người đại diện cho cộng đồng
dân cư hoặc người được công đồng dân cư thỏa thuận cử ra đại diện sẽ chịu trách
nhiệm trước Nhà nước.

 Đối với việc sử dụng đất của cơ sở tôn giáo, hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài thì người đứng đầu cơ sở tôn giáo, chủ hộ gia đình, cá nhân
hay người Việt định cư ở nước ngoài là chủ thể chịu trách nhiệm trước Nhà nước.

 Đối với việc sử dụng đất mà nhóm người có chung quyền sử dụng đất chịu trách
nhiệm trước Nhà nước đối với việc sử dụng đất đó.
Người chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với đất được giao để quản lý?"

Căn cứ tại Điều 8, Luật đất đai năm 2013, người chịu trách nhiệm trước Nhà nước
đối với đất được giao để quản lý được quy định như sau: 

Thứ nhất, đối với đất được giao cho tổ chức quản lý 

Các trường hợp tổ chức được Nhà nước giao đất cho người đứng đầu tổ chức chịu
trách nhiệm trước Nhà nước như sau:

 Giao quản lý công trình công cộng

 Giao quản lý đất để thực hiện dự án đầu tư theo quy định pháp luật

 Giao quản lý đất có mặt nước của sông và đất có mặt nước chuyên dùng;

 Giao quản lý quỹ đất đã được thu hồi theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

Thứ hai, đối với đất sử dụng vào mục đích công cộng được giao để quản lý, đất
chưa giao, đất chưa cho thuê tại địa phương.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã sẽ chịu trách nhiệm trong việc quản lý đất.

Thứ ba, đối đất chưa sử dụng tại các đảo chưa có người ở thuộc địa phương.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ là chủ thể chịu
trách nhiệm trước Nhà nước.

Cuối cùng, đối với đất giao cho cộng đồng dân cư quản lý.

Trong trường hợp này, người đại diện cho cộng đồng dân cư hoặc người được cộng
đồng dân cư thỏa thuận cử ra sẽ là người chịu trách nhiệm đối với đất được giao cho cộng
đồng dân cư quản lý.

You might also like