Bếp Lửa

You might also like

Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 6

Đoạn văn diễn dịch

1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc về bà :

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Khổ một trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt đã mang đến những cảm nhận sâu sắc
về tình cảm bà cháu ấm áp được khơi nguồn từ hình ảnh bếp lửa thân quen. Khi nhớ về
quê hương, ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn bó với làng quê có con sông xanh biếc,
gốc đa, bến nước, sân đình,…. Nhưng dòng hồi tưởng của tác giả lại bắt đầu từ hình ảnh
về bếp lửa vốn đã quen thuộc trong mỗi gian bếp quê. Mở đầu là điệp ngữ "một bếp
lửa" gợi cảm nhận về hình ảnh bếp lửa đã in đậm vào suy nghĩ và cuộc đời của tác giả.
Đó là bếp lửa được bà nhóm lên trong "sương sớm" ban mai. Nó luôn hiện hữu trong
suốt những năm tháng tuổi thơ của Bằng Việt. Từ tượng hình "chờn vờn" giúp ta hình
dung ánh lửa hồng khi mờ khi tỏ trong mỗi sớm mai, gợi về cái mờ nhòa của kí ức theo
thời gian. Không những thế, cháu còn cảm nhận được hơi ấm của màu than đỏ đang “ấp
iu nồng đượm”. Từ "ấp iu" vừa diễn tả công việc nhóm lửa, vừa gợi đội bàn tay khéo léo,
tỉ mẩn và tấm lòng chăm chút của bà. "Nồng đượm" là cảm nhận tinh tế về khói bếp
đang cháy bén, cũng chính là sự ấm áp của tình bà cháu. Hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa”
tượng trưng cho bao nỗi cơ hàn, vất vả đè nặng lên tấm thân già nua của bà. Chữ
“thương” được dùng qua vần thơ cảm thán đã gói trọn bao cảm xúc của cháu dành cho
bà, nó sẽ còn đọng lại trong tâm trí người đọc một ý nghĩa sâu sắc.

2. Tuổi thơ được bà yêu thương, che chở :

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay !

Khổ hai trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt đã mở ra những dòng hồi tưởng về năm
tháng ấu thơ được bà yêu thương, che chở. Tuổi thơ của cháu không phải là vòm trời cổ
tích cao rộng với những phép màu diệu kì, mà tuổi thơ của cháu thật nhọc nhằn, quen
mùi khói bếp khi mới chỉ lên bốn. Những năm tháng đó là những năm tháng khó khăn,
thiếu thốn gắn với bóng đêm ghê rợn của nạn đói năm 1945 trong lịch sử dân tộc. Cụm
từ "đói mòn đói mỏi" nghe như tiếng kêu xé lòng, diễn tả cái đói triền miên, dai dẳng đã
vắt kiệt sinh mạng của biết bao nhiêu người. Nghĩ mà thương một tuổi thơ gian khó,
nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Năm tháng qua đi nhưng nó đã trở thành vết
thương lòng đâu dễ nguôi ngoai. "Sống mũi còn cay" vừa là cảm giác khi hít phải khói
bếp, nó quen thuộc và sâu đậm đến giờ cháu vẫn không thể nào quên. Đồng thời, nó
còn diễn tả cái cay đắng, cảm xúc rưng rưng mỗi khi nhớ về những kỉ niệm ấu thơ đói
khổ cùng bà.

3. Những hoài niệm về thời niên thiếu bên bà gắn với âm thanh khắc khoải của tiếng
chim tu hú :

Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?

Khổ ba trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt đã gợi nhớ những hoài niệm về thời niên
thiếu bên bà gắn với âm thanh khắc khoải của tiếng chim tu hú. Tám năm trời ròng rã
bên ánh lửa bập bùng, bà vừa là cha, vừa là mẹ, là người dạy dỗ cháu nên người. Tiếng
chim tu hú là âm thanh quen thuộc của làng quê mỗi độ vào hè. Tiếng chim râm ran
trong vòm lá, trên những cánh đồng cứ kêu hoài, kêu mãi, giục giã cả một khoảng trời
khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm. Từ "tu hú" được nhắc lại bốn lần làm cho
âm điệu câu thơ thêm bồi hồi, tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú
đang từ xa vọng về trong tiềm thức của người cháu xa quê. Tiếng chim còn gợi ra không
gian bao la, bát ngát nhưng lại vắng lặng, heo hút lạ thường, đó cũng là tình cảnh của
hai bà cháu. Dẫu vậy, tuổi thơ cháu vẫn ấm áp, thấm đượm tình yêu thương của bà. Các
từ "bảo", "dạy", "chăm" nói đến với tấm lòng trân trọng, diễn tả sâu sắc, thấm thía sự
đôn hậu, chăm chút tỉ mỉ, tình thương chan chứa của bà. Bốn lần các từ "bà", "cháu"
được nhắc tới và đi kèm với nhau gợi tả tình bà cháu quấn quýt, là sự kết hợp cao quý
giữa tình cha – nghĩa mẹ – công thầy. Câu hỏi tu từ và tâm lí chạnh lòng thốt lên "tu hú
ơi!" thể hiện ở nơi phương xa, Bằng Việt chỉ mong tu hú "đến ở cùng bà" để trở thành
người bạn chia sẻ những buồn vui, lo toan. Ơn nghĩa của bà cháu mãi khắc ghi qua
những vần thơ da diết, xúc động.

4. Nghị lực và đứa hy sinh của bà trong những năm tháng kháng chiến :

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh :

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !”

Khổ bốn trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt đã nói lên nghị lực và đức hy sinh cao cả
của bà trong những năm tháng kháng chiến. Hình ảnh người bà bỗng trở nên cao lớn, vĩ
đại khi cháu nhớ về "năm giặc đốt làng" đau thương, vất vả. Vần thơ gợi lại tội ác của kẻ
thù đã khiến bao gia đình chịu mất mát, chia lia. Cuộc sống của hai bà cháu vô cùng cơ
cực khi rơi vào cảnh "màn trời chiếu đất", đó là những tháng ngày tăm tối đã hằn sâu
trong tuổi thơ của người cháu. Nghèo khổ là vậy nhưng bà "vẫn vững lòng", trở thành
bức tường thành luôn che chở, bảo vệ cháu. Từ "đinh ninh" là nhắc đi nhắc lại để chắc
chắn ghi nhớ cháu rằng "chớ kể này, kể nọ". Bà "dặn cháu" như vậy để bố mẹ yên tâm
công tác trên chiến trường. Từ đó, ta thấy ở bà có những phẩm chất thật cao đẹp : giàu
lòng thương, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc tuổi già để đổi lấy độc lập dân tộc và đặc biệt
là lòng dũng cảm, kiên định của bà trước mọi gian nan. Lòng ta lại nhớ về bà mẹ Việt
Nam anh hùng, những người đã rơi bao giọt nước mắt để tiễn chồng con ra tiền tuyến.
Bà nhận về mình tất cả những mất mát, giấu đi những đau thương, làm tròn nhiệm vụ
hậu phương để người đi xa được yên lòng. Bà chính là hình mẫu của người phụ nữ được
thêu nên từ tám chữ vàng "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" như Bác Hồ ca
ngợi. Hình ảnh bếp lửa tương phản với ngọn lửa thù địch. Bên cạnh ngọn lửa thiêu rụi
sự sống của giặc thì vẫn còn ngọn lửa nhen lên một sự sống khác.

5. Người bà tần tảo, yêu thương, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu :

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…

Khổ năm trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt đã khắc họa hình ảnh người bà tần tảo,
yêu thương, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu. Cụm từ "rồi sớm rồi chiều" khiến
câu thơ vang lên như bước gõ nhịp của thời gian, tạo nhạc tính khiến lời thơ dồn dập,
tha thiết mà mạnh mẽ. Từ "lại" gợi hình ảnh người bà lặng thầm, bền bỉ, nhẫn nại trước
mọi khó khăn. Từ bếp lửa bình dị, thân quen ấy đã trở thành ngọn lửa. Ngọn lửa không
chỉ được nhen lên bằng rơm, bằng củi, mà còn được nhen lên từ tấm lòng bao la của bà,
được bà ấp ủ bằng đôi tay gầy guộc nên không bao giờ vụt tắt. Nó sáng bừng lên thành
ngọn lửa bất diệt của tình thương "luôn ủ sẵn" trong lòng bà. Nhờ "ngọn lửa chứ niềm
tin dai dẳng" ấy mà cháu tin vào chiến thắng của dân tộc, tin vào ngày cháu có thể trở về
cùng bà. Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống phi
thường của người bà. Vì thế, trong tâm hồn nhà thơ, bà không chỉ là người nhóm lửa,
giữ lửa mà còn là người truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự
sống, niềm tin cho thế hệ mai sau nối tiếp. Âm điệu thơ trải dài với cách ngắt nhịp 3/5,
điệp ngữ cùng dấu chấm lửng cuối câu khiến hình ảnh ngọn lửa cứ cháy mãi, sáng mãi
trong tâm hồn thi sĩ cũng như người đọc.

6. Suy ngẫm về cuộc đời lận đận, gian truân của bà :

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm


Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm niềm xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa !

Khổ sáu trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt như một thước phim quay chậm, mọi kỉ
niệm ùa về khiến tâm trí tác giả chợt xuất hiện những dòng suy ngẫm về cuộc đời bà. Từ
láy "lận đận" kết hợp cùng nghệ thuật đảo ngữ đã gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn được đặt
trên đôi vai gầy guộc của bà. Cụm từ "biết mấy nắng mưa" thể hiện nỗi cơ cực mà bà
phải gánh chịu trong suốt cuộc đời. Đã "mấy chục năm rồi", chiến tranh vẫn đi qua, gian
khổ chưa vơi bớt, bà "vẫn giữ thói quen dậy sớm", cuộc đời bà cứ vất vả như vậy tưởng
chừng như không bao giờ dứt. Điệp từ "nhóm" được nhắc lại bốn lần mang nhiều tầng
nghĩa, bồi đắp dần những nét "kì lạ và thiêng liêng" của bếp lửa. Đó là hành động "nhóm
bếp", làm cho lửa bén vào, cháy lên ngọn lửa ấm áp trong mỗi gian bếp quê. Bên cạnh
đó, nó còn mang những ý nghĩa ẩn dụ sâu xa và đầy xúc động. Bà đã khơi dậy bao tình
cảm trong tâm hồn trẻ thơ của cháu, dạy cho cháu tình yêu thương ruột thịt, xóm làng,
quê hương và luôn mở lòng với mọi người xung quanh. Người bà kì diệu ấy đã khơi dậy,
ươm mầm cho cháu về ước mơ, hoài bão, về lẽ sống của "tâm tình tuổi nhỏ". Cháu đã
trưởng thành từ bếp lửa của bà, nhờ ngọn lửa đó đã chắp cánh cho cháu tự tin bay vào
cuộc đời cao rộng. Âm điệu câu thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ấm hay đó chính là cảm xúc
đang dâng trào trong trái tim để rồi nhà thơ phải thốt lên : "Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp
lửa!". Sự kì lạ thể hiện ở chỗ qua bao năm tháng mà bếp lửa vẫn cháy sáng trong lòng
người. Bếp lửa thiêng liêng đã trở thành hình ảnh người bà và hơn thế nữa là hình ảnh
cội nguồn, dân tộc để con người đi xa luôn nhớ mãi.

7. Nỗi nhớ về bà và bếp lửa :

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở :

- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa ?...


Khổ cuối trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt đã thể hiện nỗi nhớ da diết về bà và bếp
lửa của người cháu xa quê. Bao năm dài đằng đẵng trôi qua. Đứa cháu năm xưa nay đã
khôn lớn, được tình yêu thương của bà chắp cánh bay tới những phương trời xa xôi,
rộng lớn. Cháu đã được mở rộng tầm mắt để nhìn thấy “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”,
"niềm vui trăm ngả". Đó là cuộc sống đầy đủ với bao điều mới mẻ hiện ra, nhưng vẫn
không nguôi ngoai tình cảm nhớ thương bà. Dấu chấm đặt ở giữa câu thơ để nhấn mạnh
sự xa cách về không gian. Điệp ngữ "có", "trăm" cho thấy những điều cháu được trải
nghiệm, chứng kiến, cho thấy sự trưởng thành nhưng không thể làm cháu quên đi ánh
lửa bập bùng và hơi ấm của bà. Xa vòng tay chăm chút ấy để đến với chân trời mới.
Nhưng chính tình cảm giữa hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái mùa đông lạnh
giá của nước Nga. Bài thơ kết thúc bằng câu hỏi tu từ như một lời tự vấn đã gợi cảm
nhận về nỗi nhớ khắc khoải thường trực về bà.

You might also like