Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 47

HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

(Lưu Quang Vũ)

A. Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm:


I. Tác giả Lưu Quang Vũ (1948 – 1988)
- Quê quán: quê gốc tại Đà Nẵng, sinh ra tại Phú Thọ, trong một gia đình tri
thức. Cha của Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Thuận.
- Cuộc đời của Lưu Quang Vũ đã trải qua nhiều thăng trầm, biến đổi. Có thể
nói, thời điểm Lưu Quang Vũ chán nản, thất bại, đau khổ nhất là khi gia đình
nhỏ của ông tan vỡ. Chính Lưu Quang Vũ đã từng rơi vào hoàn cảnh thất
nghiệp và phải làm mọi nghề khác nhau để mưu sinh kiếm sống, ví dụ như làm
hợp đồng cho nhà xuất bản Giải Phóng, thậm chí là chấm công cho đội công
nhân ở công trường, hoặc có lúc ông còn làm công việc như vẽ Panô hoặc áp
phích. Sau đó, niềm vui và hạnh phúc của cuộc đời đã một lần nữa mỉm cười
với Lưu Quang Vũ khi nhà văn đã gặp được tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh.
Đây chính là nguồn cảm hứng dồi dào bất tận để Lưu Quang Vũ viết nên những
bài thơ như: Biết ơn em, Em từ miền gió cát, Về với anh bông cúc nhỏ hoa
vàng…
- Dường như mối duyên nồng nàn với nữ sĩ Xuân Quỳnh đã mang lại hơi thở,
ánh sáng tươi mới cho cuộc đời của Lưu Quang Vũ. Chính trong giai đoạn này,
nhà viết kịch đã sáng tạo nhiều tác phẩm có sức sống và tiếng vang lâu dài.
- Trong sự nghiệp văn học – nghệ thuật của mình, Lưu Quang Vũ không chỉ tỏa
sáng trong vai trò của nhà viết kịch tài năng mà còn gây ấn tượng với tư cách
nhà thơ, nhà văn với những vần thơ và bài kí độc đáo, sâu sắc. Tuy nhiên, có thể
khẳng định, thành tựu nổi bật nhất trong cuộc đời của Lưu Quang Vũ là kịch.
Ông đã viết khoảng 50 vở kịch, và có nhiều vở kịch để lại những ấn tượng sâu
sắc trong tâm trí của người đọc, của người xem. Tiêu biểu phải kể đến “Lời nói

1
dối cuối cùng”, “Bệnh sĩ” hoặc là “Lời thề thứ chín”, “Khoảnh khắc và vô
tận”, “Tôi và chúng ta”.
- Đặc điểm kịch của Lưu Quang Vũ: Những tác phẩm kịch của ông hấp dẫn
chủ yếu bởi sự chân thực và gần gũi với cuộc sống mà khán giả ở thời đại nào
cũng có thể soi chiếu mình, thông qua những xung đột trong cách sống và quan
niệm sống của con người. Từ đó, tác giả khẳng định khát vọng hoàn thiện nhân
cách của con người.
 Lưu Quang Vũ được coi là hiện tượng đặc biệt của nền kịch trường Việt
Nam khi ông tạo ra hàng loạt tác phẩm có tiếng vang và để đời. Tài năng của
Lưu Quang Vũ đã được bộc lộ thông qua ngòi bút viết kịch sắc sảo, cách dẫn
dắt các vấn đề nhân sinh sâu sắc, giàu tính nhân văn. Chính vì vậy, các tác phẩm
của Lưu Quang Vũ không những được công diễn ở Việt Nam, mà còn được
công diễn ở nhiều nơi trên thế giới và nhận được sự tán dương nồng nhiệt.

 Nhận định về Lưu Quang Vũ và tác phẩm


Tâm nguyện và đích cuối cùng mà Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm trong tác
phẩm của mình là tinh thần công dân trước cuộc sống xã hội, những giá trị
đạo đức về hạnh phúc, cách đối nhân xử thế trong cơ chế đầy biến động.
Những điều này có giá trị vĩnh cửu. – NSƯT Đào Quang

Tính dự báo được cấy sâu trong nhiều kịch bản về những đề tài khác nhau,
góp phần làm cho kịch Lưu Quang Vũ có sức sống bền lâu. Mỗi lần đọc lại,
xem lại, chúng ta đều phát hiện ra những vỉa quặng tinh thần mà tác giả gửi
gắm. – Nhà phê bình văn học Ngô Thảo

Nhà phê bình Ngô Thảo: bóng rợp của tài năng Lưu Quang Vũ là trùm lên
che mat cho cả một vùng sân khấu rộng lớn trải dài theo chiều dài đất nước
trong một thập niên.

2
Nguyễn Thị Minh Thái: hồn Trương Ba, da hàng thịt đã thành công trên thị
trường quốc tế, chiếm huy chương vàng, được. Giải vở diễn thành công nhất
của hội diễn kịch quốc tế Moscow 1990, Sau này tiếp tục chinh phục công
chúng tại hơn 20 trường đại học Mỹ vào năm 1998 trong chương trình giao
lưu sân khấu Việt Mỹ. Ngay sau đó là biểu diễn trích đoạn cái chết của anh
hàng thịt cho hội thảo sân khấu châu Á tại Hà Nội.

II. Tác phẩm.


Lưu Quang Vũ sáng tác khoảng 50 vở kịch và những tác phẩm ấy đều gây
được tiếng vang mạnh mẽ. Tuy nhiên, có thể khẳng định, “Hồn Trương Ba hang
thịt” là một trong những tác phẩm độc đáo và đặc sắc nhất. Vở kịch được sáng
tác năm 1981, là kết quả của sự sáng tạo khởi nguồn từ cốt truyện dân gian, sau
đó được công diễn vào năm 1984. Bên cạnh kế thừa, tiếp thu từ dân gian, Lưu
Quang Vũ còn ghi dấu ấn riêng trong tác phẩm của mình bằng những sáng tạo
vô cùng mới mẻ. Cái hay của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ là ông không bằng
lòng với cái kết của truyện dân gian. Nếu như truyện dân gian đã dừng lại ở kết
thúc tạm được coi là có hậu khi Trương Ba được Nam Tào và Bắc Đẩu gạch tên
oan, và cho Trương Ba sống lại trong thân xác của anh hàng thịt. Tác giả dân
gian coi đó là sự sống lại của cuộc đời Trương Ba và hài lòng với cách kết thúc
có hậu đó. Tuy nhiên Lưu Quang Vũ không bằng lòng với cách kết thúc đó, ông
đã phát triển từ cốt truyện dân gian, để cho nhân vật Trương Ba của mình không
hài lòng với cách kết thúc là sống yên ổn trong thân xác anh hàng thịt, mà từ
việc sống trong thân xác anh hàng thịt mà nhiều mâu thuẫn nảy sinh và yêu cầu
được giải quyết. Như vậy, mặc dù cốt truyện được sáng tạo dựa trên cốt truyện
của dân gian, nhưng ở đây, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo theo chiều sâu, thổi vào
đó những triết lí nhân sinh sâu sắc về việc con người ta sống không được sống
là chính mình. Đồng thời, tác giả Lưu Quang Vũ cũng đề cập, phê phán đến một

3
số biểu hiện tiêu cực trong xã hội hiện thời. Đó chính là tính thời sự của vở
kịch.

Nếu cốt truyện dân gian chỉ đơn giản đề cao, tuyệt đối hoá vai trò của linh
hồn đối với thể xác, thì đến vở kịch của Lưu Quang Vũ, vấn đề đã được ông
đào sâu, mở rộng và phát triển hơn rất nhiều. Ông có quan niệm khác về mối
quan hệ giữa linh hồn và thể xác - đó là mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn
nhau. Hơn nữa, ông còn mở rộng tầm triết lý sang cả những vấn đề nhân
sinh khác, như vấn đề xung đột giữa nhu cầu tự nhiên và nhân cách, vấn đề
đấu tranh trong bản thân mỗi con người để hoàn thiện nhân cách làm người,
v.v.. Vở kịch của Lưu Quang Vũ, vì thế, không chỉ là thành quả to lớn của
nền kịch nói hiện đại Việt Nam, mà còn là một đóng góp đặc sắc của ông vào
quan niệm triết lý nhân sinh nói chung

III. Đoạn trích:


1. Xuất xứ, nội dung:
- Xuất xứ: thuộc hồi VII và đoạn kết của vở kịch cùng tên Hồn Trương Ba da
hàng thịt
- Nội dung: Qua bi kịch mượn xác của nhân vật hồn Trương Ba, tác giả muốn
khẳng định: con người phải sống thật với chính mình, phải có sự hài hòa giữa
thể xác và tâm hồn, phải biết vượt lên nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách.
- Nghệ thuật: Xung đột giàu kịch tính, ngôn ngữ sinh động, giàu chất triết lí,
hành động nhân vật phù hợp với hoàn cảnh. Tính cách góp phần phát triển xung
đột. Chất thơ, chất trữ tình bay bổng.
2. Tóm tắt:
Vở kịch HTBDHT là những khúc quay ấn tượng, chứa đầy mâu thuẫn, nghịch
lí về cuộc đời của Trương Ba. Trương Ba vốn là người làm vườn đã 50 tuổi,
sống rất mẫu mực. Tuy nhiên, trong một lần sai lầm của Nam Tào và Bắc Đẩu
thì Trương Ba đã bị chết oan. Sau đó, nhờ vào sự giúp đỡ của Đế Thích, Trương

4
Ba đã được sống lại trong thân xác của người khác – một anh hàng thịt. Chính
từ sự việc đó, biết bao vấn đề, mâu thuẫn đã nảy sinh. Đó là sự tranh giành giữa
vợ của Trương Ba và vợ của anh hàng thịt, khi ai cũng nhận Trương Ba là
chồng của mình. Đó là sự chi phối từ cái bản năng của anh hàng thịt làm cho
Trương Ba dần dần thay đổi từ tính cách đến suy nghĩ và hành động. Sự thay
đổi đó ngày càng diễn ra theo chiều hướng tiêu cực. Trương Ba không còn như
xưa nữa, Trương Ba sống theo ham muốn của bản năng, theo chiều hướng tiêu
cực, khiến cho những người thân của Trương Ba: vợ của Trương Ba, con của
Trương Ba, kể cả đứa cháu gái, không thể thích ứng được và xa lánh. Chính
Trương Ba cũng rất đau khổ khi chứng kiến sự thay đổi theo chiều hướng tiêu
cực và tha hóa của bản thân mình. Do đó, Trương Ba đã đấu tranh giữa sự sống
và cái chết, giữa cuộc sống nương nhờ và sự biến mất vĩnh viễn để đi đến kết
luận cuối cùng: chấp nhận cái chết và không muốn nhập vào xác của ai nữa và
giành sự sống đó cho thằng Cu Tỵ. Tuy Trương Ba không còn nữa, nhưng hồn
Trương Ba vẫn phảng phất trong khu vườn, phảng phất dưới màu xanh của cây
lá, trong những điều tốt lành của cuộc đời, và trong tình yêu thương của những
người thân. Kết thúc tác phẩm là kết thúc theo chiều hướng bi kịch lạc quan.

B. Phân tích tác phẩm:

I. Khái quát:

- Nhan đề: Nhan đề của một tác phẩm không chỉ tạo sức hấp dẫn khi khơi
lên được sự tò mò nơi người đọc mà còn có ý nghĩa khái quát nội dung toàn
tác phẩm.  Thông thường, khi đặt tên cho tác phẩm, người sáng tác thường
chú ý đến một số khuynh hướng nổi bật như: khái quát chủ đề tác phẩm (Đất
nước đứng lên, Vỡ bờ, Sóng gầm…), lấy tên nhân vật chính làm tên tác
phẩm (Chí Phèo, Chị Tư Hậu, Tố Tâm…) hay đôi khi lấy bối cảnh thời gian
hoặc không gian (Gió đầu mùa, Làng…). Cũng có khi  nhà văn dùng một
hình ảnh một chi tiết tiêu biểu… Dẫu chủ định theo khuynh hướng nào thì

5
tên tác phẩm cần giàu sức gợi mở, kích thích được tối đa khả năng tưởng
tượng của người thưởng thức.  Và nhan đề Hồn Trương Ba da hàng thịt của
Lưu Quang Vũ là một trường hợp như thế. Nhan đề của tác phẩm được xây
dựng trong nghệ thuật tương phản giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt.
Nếu hồn Trương Ba là ẩn dụ biểu tượng cho tâm hồn, cho thế giới nội tâm
sâu kín bên trong của con người, là biểu tượng cho vẻ đẹp trong sáng thanh
cao; da hàng thịt là ẩn dụ biểu tượng cho vẻ bề ngoài thể xác con người, biểu
tượng cho cái xấu xa, cái dung tục tầm thường, cái bản chất thấp kém trong
một con người; thì nhan đề trên không chỉ diễn tả sinh động sự mâu thuẫn
giữa thể xác và linh hồn Trương Ba mà còn là sự mâu thuẫn giữa hìnđậm h
thức và nội dung của sự vật hiện tượng trong cuộc sống .

- Bi kịch tinh thần: Là trạng thái đau khổ, giằng xé triền miên về tinh thần,
khi con người ý thức một cách sâu sắc mối quan hệ không thể dung hòa, hóa
giải giữa khát vọng, hoài bão, lí tưởng chân chính và thực tại.
- Bi kịch tinh thần của nhân vật hồn Trương Ba: Trương Ba khi sống nhờ
trong xác anh hàng thịt đã phải chịu nhiều đau đớn, bất lực và bị tiêm nhiễm lối
sống phàm tục, tâm hồn không thể điều khiển hành động của thân xác và dần
dần bị lấn át bởi dục vọng cá nhân của Xác Hàng Thịt
- Vị trí nhân vật: Nhân vật chính của tác phẩm.
- Đặc điểm cụ thể: Trương Ba là một người làm vườn khéo léo, nhân hậu,
chơi cờ giỏi, bị Nam Tào bắt chết nhầm. Để sửa sai, Nam Tào và Đế Thích cho
hồn Trương Ba sống lại, “ngụ cư” trong Xác Hàng Thịt mới chết. Từ đó,
Trương Ba lâm vào bi kịch vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo, nhiễm một số thói
xấu, có những nhu cầu vốn không phải của chính bản thân ông... Tất cả những
bi kịch đó có thể được chia thành: bi kịch bị tha hóa, bi kịch bị xa lánh, và bi
kịch không được là chính mình
II. Bi kịch tinh thần của nhân vật Hồn Trương Ba:

6
Lưu ý:
 Lời thoại có mực đỏ là của Hồn Trương Ba
 Lời thoại có mực tím là của xác hàng thịt và Đế Thích

1. Bi kịch tha hóa:


a. Nguyên nhân:
 Nguyên nhân trực tiếp:
- Cung cách làm việc tắc trách, thiếu trách nhiệm, muốn xong việc nhanh của
Nam Tào đã làm Trương Ba hiền hậu tử tế, tốt bụng còn đang rất khỏe mạnh,
mặc dầu chưa tận số đã phải chết thay cho một tên bạc ác bất nhân, lừa thầy
phản bạn, dối trá tham tàn.
- Trương Ba sống lại, rồi tha hóa, cũng có một phần lỗi từ phía Đế Thích: có
trách nhiệm trước sự vô trách nhiệm của đồng cấp, Đế Thích làm cho hồn
Trương Ba sống lại, tưởng chừng như làm chuyện tốt cho Trương Ba, nhưng
đâu phải cứ làm điều tốt cho người khác là mang lại hạnh phúc cho họ. Đế
Thích chỉ đang dàn xếp vấn đề nhanh chóng mà không cân nhắc kĩ lường, lường
trước những vấn đề oái ăm mà Trương Ba phải chịu đựng. Hành động của Đế
Thích là cách chữa cháy tạm thời cho cái sai của Nam Tào, Bắc Đẩu nhưng nó
lại khiến Trương Ba ngã vào hàng loạt bi kịch đau đớn, nan giải. Đó là Sự tắc
trách, quan liêu của quan nhà trời
 Nguyên nhân gián tiếp:
- Định kiến của con người có phần tiêu cực về Xác Hàng Thịt. Trong tư tưởng
những người thân của Trương Ba và ngay cả Trương Ba, Xác Hàng Thịt là hiện
thân cho những gì tầm thường, phàm tục nhất. Song, thực tế đó lại là những nhu
cầu thiết thực cho mọi sự sống: được ăn, được mặc, được thỏa mãn những nhục
cảm cá nhân... Khi phủ nhận những nhu cầu ấy đồng nghĩa với việc phủ nhận
phần bản năng trong mỗi người. Thế nên, nếu như nói đến sự bất hạnh mà chỉ

7
nhắc tới hồn Trương Ba thì sẽ thật thiếu xót bởi Xác Hàng Thịt cũng thực đáng
thương!
b. Phân tích:
b.1. Khái quát cuộc đối thoại giữa hồn và xác:
- Trong đoạn trích, Xác Hàng Thịt được miêu tả như một biểu tượng đáng sợ của
một hoàn cảnh sống dung tục: hình dáng “kềnh càng thô lỗ” thói quen “một bữa
đói ăn 8,9 bát cơm” những ham muốn thèm ăn ngon, thèm rượu thịt, những dục
vọng xấu xa, đó là xác thịt “âm u đui mù” nhưng tiếng nói của nó lại có sức
mạnh ghê gớm, thậm chí có khả năng sai khiến, lấn áp tâm hồn cao khiết của
Trương Ba.
- Trong cuộc đối thoại này, ta thấy rõ bi kịch bị tha hóa của nhân vật Trương Ba.
b.2. Hồn Trương Ba:
- Hồn Trương Ba cho rằng: “Ta vẫn có một đời sống riêng nguyên vẹn, trong
sạch, thẳng thắn”. Đây chính là sự ngộ nhận của bản thân hay chính là sự cố
chấp trong nhận thức của nhân vật Trương Ba (vẫn tồn tại một tâm hồn cao
khiết và thanh sạch không bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh sống), đồng thời cũng
thể hiện bản chất và khao cao đẹp của tâm hồn hướng tới sự trong sạch thẳng
thắn mà không hề bị hoàn cảnh sống dung tục tác động.
- Để đáp lại lí lẽ của hồn Trương Ba Xác Hàng Thịt giễu cợt mỉa mai:
“Ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi mà còn nhận là
nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Đây chính là lời mỉa mai mà Xác Hàng
Thịt đáp trả lại sự ngộ nhận của hồn Trương Ba bởi vì một lí do thực tế: hồn
sống trong xác phải chiều theo những mong muốn và đòi hỏi của xác (chính sự
đòi hỏi này đã cho ta thấy sự tha hóa trong nhân vật Trương Ba). Thế nhưng
nhân vật Trương Ba vẫn một mực khẳng định bản thân mình trong sạch và
nguyên vẹn. Như vậy, qua lời mỉa mai của Xác Hàng Thịt chúng ta đã thấy sự
tác động to lớn của hoàn cảnh dung tục đối với tâm hồn. Người xưa thường
nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” như một cách để nhắc nhở về sự

8
tác động của môi trường sống đến tính cách, suy nghĩ, hành động của con
người. Ở đây, hồn Trương Ba và Xác Hàng Thịt không chỉ gần gũi mà còn
hòa quyện, kết hợp lại thành một chỉnh thể duy nhất. Chính vì vậy, sự tác
động, ảnh hưởng từ những ham muốn, nhu cầu của Xác Hàng Thịt lên tâm
hồn vốn cao khiết, thanh bạch của Trương Ba cũng là lẽ dĩ nhiên.
- Chính vì vậy Hồn Trương Ba cho rằng: “Xác không tiếng nói, không tư
tưởng, không tình cảm, chỉ là xác thịt âm u đui mù” (thế nhưng đây chính là
một quan điểm sai lầm bởi lẽ chính bản thân Trương Ba còn ngộ nhận và không
thể nhận ra được sự thay đổi của mình mà đã đáp ứng và làm theo những
nguyện vọng và đòi hỏi của Xác Hàng Thịt .
- Xác Hàng Thịt khẳng định mình có tiếng, xác khẳng định chẳng có cách nào
hồn chối bỏ được xác “là hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục, là cái bình
chứa đựng linh hồn”. Đứng trước lí lẽ Trương Ba đưa ra, Xác Hàng Thịt khẳng
định mình có tiếng nói và hơn hết đã minh chứng sự ảnh hưởng của bản thân
bằng việc khẳng định mình chính là cái bình chứa dựng linh hồn và là hoàn
cảnh hồn phải quy phục. Đây là lí lẽ để chối bỏ những ngộ nhận của Trương
Ba, khẳng định sức ảnh hưởng của hoàn cảnh sống dung tục khiến tâm hồn
Trương Ba trở nên phải phụ thuộc và quy phục. Hồn phủ nhận xác không có
tiếng nói, mà có thì đó là tiếng nói của con thú, tiếng nói của bản năng. Do
đó theo hồn, xác không chi phối, không thể tác động, không thể ảnh hưởng
gì đến sự cao khiết trong sạch của linh hồn. Trong lí lẽ của hồn Trương Ba,
ta vẫn nhận ra sự đuối lí và sự ngộ nhận của hồn trước sự tác động của hoàn
cảnh (Xác Hàng Thịt), đồng thời cũng một mực thể hiện được khát vọng giữ
trong sạch tâm hồn một cách nguyên vẹn và trong sáng.
- Để đáp trả điều đó, Xác khẳng định “ông không tách ra được khỏi tôi được
đâu, dù tôi chỉ là thân xác. Hai ta đã hòa với nhau làm một rồi. Xác đưa ra một
loạt lí lẽ, những dẫn chứng để chứng minh sức mạnh ghê gớm của nó: “Khi ông
ở bên nhà tôi, khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, cơ thể nóng rực,

9
cổ họng nghẹn lại”, “Ông xao xuyến trước các món tiết canh, cổ hủ, khấu đuôi
và đủ các thứ thú vị khác", “Cơn giận của ông được tiếp thêm sức mạnh của tôi
làm ông tát thằng con toét máu mồm máu mũi”. Tất cả những lí lẽ mà xác đưa
ra đều xác thực, chứng minh rõ ràng sự tha hóa của linh hồn, đồng thời cho thấy
được sự thật rằng: linh hồn đã bị thể xác sai khiến và hoàn toàn phụ thuộc vào ý
thức và sự ham muốn của thể xác, biểu hiện rõ rằng hồn đã xao xuyến, ham
muốn trần tục. Như vậy, qua những minh chứng của xác, hồn đã thấy được sự
tha hóa của bản thân, đồng thời xác đã cho người đọc thấy mức ảnh hưởng lớn
của hoàn cảnh dung tục tới linh hồn cao khiết của Trương Ba. Người đọc dễ
dàng nhận ra được sự thay đổi trong tính cách, nhận thức và cả sở thích của
nhân vật Trương Ba. Rõ ràng, những chứng minh này đã cho thấy những khẳng
định sự phụ thuộc giữa hồn và xác là hoàn toàn đúng và có căn cứ. Hồn một
mực phủ nhận những dẫn chứng, những xác thực đưa ra do đó không phải là
hành động xuất phát từ ý thức của mình “đó là mày chứ, là chân tay mày, hơi
thở của mày”. Như vậy trong câu trả lời và đối thoại này Trương Ba đã cho
người đọc nhận thấy được sự bất lực và đuối lí của bản thân, sau những chứng
minh rõ ràng của xác hồn bắt đầu nhận ra sự tha hóa của bản thân mình và đuối
lí trước câu trả lời của xác. Như vậy, thông qua những tranh luận của xác và hồn
người độc dễ dàng nhận ra được sự tha hóa của hồn trước hoàn cảnh dung tục là
xác.
- Trong cuộc đối thoại, hơn một lần Xác Hàng Thịt đã khẳng định sư phụ
thuộc của hồn Trương Ba vào nó. “Tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy
phục tôi, là cái bình để chứa định linh hồn. Ông không tách ra khỏi tôi được
đâu. Hai ta đã hòa với nhau làm một rồi”. Trên thực tế, khi đã chấp nhận hoàn
cảnh trớ trêu, nghiệt ngã để suy trì sự sống, Hồn Trương Ba như không còn
được là chính mình. Linh hồn của ông hoàn toàn phụ thuộc vào những yếu tố,
vật chất của thể xác, tồn tại nhờ thể xác, ngay cả những việc bình thường nhất
Hồn Trương Ba cũng phải nhờ Xác Hàng Thịt “Nhờ tôi mà ông có thể làm

10
lụng, cuốc xới, nhìn ngắm trời đất cây cối, những người thân. Nhờ có đôi mắt
của tôi, ông cảm nhận được thời gian qua những giác quan của tôi”. Đó là
nguyên nhân khiến Hồn Trương Ba rơi vào tình cảnh bất lực trước sự sai khiến
của “thể xác âm u đui mù”. Xác Hàng Thịt còn ve vãn Hồn Trương Ba bằng
những lí lẽ ti tện nhưng có sức mạnh ghê gớm: Trương Ba vẫn sẽ làm những
việc để thỏa mãn cơn khát thèm của Xác Hàng Thịt nhưng sau đó lại đổ lỗi cho
thân xác. Đó là cách giúp con người thỏa mãn được những đòi hỏi tầm thường
của thân xác lại giữ được cảm giác thanh thản cho tâm hồn. Theo cách nói của
Xác Hàng Thịt thì đó là “trò chơi tâm hồn”, thực chất đó là phương cách hèn
nhát để con người lừa dối chính bản thân mình và cuộc đời.
- Sự khẳng định sự phụ thuộc của xác đối với hồn hoàn toàn đúng bởi lẽ sống
nhờ vào Xác Hàng Thịt, hồn phải hoàn toàn phụ thuộc vào môi trường sống
hoàn cảnh và những ý muốn của xác mới có thể tồn tại được. Hồn sống nhờ và
bản thân hồn không còn là chính mình khi bị chi phối từ xác. Hai yếu tố hồn và
xác đã hòa làm một nên linh hồn không thể tách rời. Qua đây, Lưu Quang Vũ đã
khẳng định: Linh hồn và thể xác là hai phương diện quan trọng tồn tại trong mỗi
người chúng ta. Linh hồn không thể nào sống mà không cần đến dạng hình thân
thể nhưng đời sống của con người cũng không thể thu gọn lại trong nhu cầu
thuần túy bản năng. Đừng bỏ bê thân xác chỉ để biết về một thứ linh hồn chung
chung, đừng chỉ chạy theo khát thèm của thân xác. Giữa linh hồn và thể xác
chúng ta cần biết dung hòa và sống chung với bản thân, biết dung hòa giữa nhu
cầu của thể xác và cả những mòng muốn của tinh thần. như vậy đời sống tinh
thần và cuộc sống vất chất đều quan trọng như nhau.
-Trong cuộc đối thoại, Xác Hàng Thịt mỗi lúc càng dồn đuổi Hồn Trương Ba:
 Xác Hàng Thịt chủ động tuyên chiến khi Hồn Trương Ba khao khát được
tồn tại độc lập. Xác tuyên chiến, thể hiện thái độ đắc thắng vì xác đã nhận ra
được sự phụ thuộc của hồn đối với nó, và xác nhận ra sự tha hóa của linh
hồn khi phải sống và phụ thuộc vào hoàn cảnh sống là xác.

11
 Xác Hàng Thịt thách thức, giễu cợt, cao giọng đòi hỏi hồn phải thành thật
trả lời, xác biết rất rõ hồn nghĩ gì, đồng thời tỏ ra thấu hiểu từ điệu bộ lúng
túng bên ngoài đến những điệu bộ tìm kiếm sự thanh thản trong tâm hồn.
Thái độ giễu cợt của xác xuất phát từ sự thấu hiểu đối với tâm hồn và sự phụ
thuộc của hồn vào xác. Đó cũng chính là thái độ của tác giả đối với sự hèn
nhát của con người. Trương Ba vẫn sẽ làm những việc để thỏa mãn cơn khát
thèm của Xác Hàng Thịt nhưng sau đó lại đổ lỗi cho thân xác. Đó là cách
giúp con người thỏa mãn được những đòi hỏi tầm thường của thân xác lại
giữ được cảm giác thanh thản cho tâm hồn. Theo cách nói của Xác Hàng
Thịt thì đó là “trò chơi tâm hồn”, thực chất đó là phương cách hèn nhát để
con người lừa dối chính bản thân mình và cuộc đời.
 Hồn Trương Ba thực sự bối rối, khổ sở, bế tắc trước sự lí lẽ đầy sức thuyết
phục của xác.
 Khi thân xác cao giọng thách thức, khi thì nó buồn rầu thanh minh, khi thì
đắc ý, tinh quái, lúc thì vuốt ve xoa dịu  đã chứng tỏ được ưu thế, uy
quyền của nó và sự chi phối khủng khiếp của nó với linh hồn. Thái độ đắc ý,
tinh quái của xác đã khẳng định được tác động to lớn của hoàn cảnh dung tục
đối với tâm hồn, tâm hồn dường như bị chi phối mạnh mẽ, phụ thuộc hoàn
toàn và làm theo những mong muốn của thể xác. Như vậy, đến lúc này, trong
cuộc đối thoại, xác dường như dồn đuổi và thắng thế trước những lí lẽ hồn
đưa ra để bao biện cho sự tha hóa của bản thân mình.
-Hồn Trương Ba trở nên đuối lí trong cuộc đối thoại với Xác Hàng Thịt: Trong
cuộc đối thoại giữa hồn và xác chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự thay đổi và
có vẻ đuối lí của hồn trước xác
 Đầu tiên người đọc dễ dàng nhận thấy hồn khẳng định bản thân vẫn
nguyên vẹn, cao khiết và trong sáng, không hể bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh
là thể xác dung tục.

12
 Sau đó, từ chỗ cao giọng phủ nhận “Vô lí, mày không có tiếng nói mà chỉ
có xác thịt âm u đui mù”  Hồn chấp nhận nó có tiếng nói nhưng đó là
tiếng nói của bản năng thấp kém tầm thường. không đủ để chi phối và làm
thay đổi sụ cao khiết của tâm hồn, chính sự phủ nhận này đã thấy dược sự
ngộ nhận đồng thời hồn chưa nhận ra được sự tha hóa và tác động mạnh mẽ
của hoàn cảnh đến bản thân mình
 Từ những chỗ phủ định quyết liệt lớn giọng khi xác đưa ra bằng chứng về
sức mạnh sai khiến của nó dẫn đến chỗ hồn không dám trả lời, bối rối, lúng
túng trong những câu nói đứt quãng “Ta...ta...Đã bảo là mày im
đi”,“Nhưng...nhưng...”
 Từ chỗ hăng hái đấu lí, đáp lại những lí lẽ mà xác đưa ra, hồn phải bịt tai
lại “Ta không muốn nghe mày nữa”
 Từ việc xưng hô “mày - ta” ở đầu cuộc đối thoại, xác đã tinh ý nhận ra khi
ở hồi kết hồn đã gọi hắn là anh “Ông bắt đầu gọi tôi là anh rồi đây”. Không
còn vẻ tức tối, bực bội, ra vẻ bề trên, qua việc thay đổi cách xưng hô với Xác
Hàng Thịt, Hồn Trương Ba đã gián tiếp thể hiện sự khuất phục, đuối lí, chấp
nhận yếu thế và phục tùng. Gọi Xác Hàng Thịt là “anh” chính là cách Hồn
Trương Ba xác lập một vai vế mới mà ở đó, người có ưu thế hơn chính là
xác.
 Từ mạnh mẽ, đầy khí thế đấu tranh đến tiếng kêu “Trời” tuyệt vọng. Kết
thúc màn đối thoại là Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào Xác Hàng Thịt.
 Như vậy rõ ràng Hồn Trương Ba bị lép vế, bị xác dồn vào con đường cụt
không lối thoát, đành phải chấp nhận sự an bài. Rõ ràng tiến triển trong cuộc
hội thoại của nhân vật Trương Ba đã cho thấy sự đuối lí và bất lực của hồn
trước sự dồn đuổi của xác. Ban đầu, hồn cao giọng khẳng định sự độc lập
của bản thân, thế nhưng đến khi xác đưa ra hàng loạt những minh chứng
chứng minh sự thay đổi của hồn thi hồn mới bắt đầu nhận ra sự tha hóa và
những tác động to lớn của hoàn cảnh sống. Cuối cùng hồn chấp nhận sự an

13
bài bởi vì không có sự lựa chọn nào khác, sự an bài này đã khẳng định chiến
thắng của xác cũng như sự phụ thuộc của hồn vào xác. Có ý kiến cho rằng:
“Qua lời thoại, tính cách nhân vật, những vấn đề, những mâu thuẫn cũng
như cuộc sống xã hội hiện dần lên”. Trong đoạn đối thoại giữa Hồn
Trương Ba với Xác hàng thịt, Xác nói những lời thoại dài, thể hiện sự
thắng thế hả hê. Với thái độ ngạo nghễ, thách thức, Xác ranh mãnh chủ
động đặt ra hàng loạt câu hỏi dồn Trương Ba vào thế đuối lí, buộc Hồn
phải qui phục, thỏa hiệp. Sự bối rối của Trương Ba thể hiện ở những lời
thoại ngắn gọn cùng những tiếng kêu, lời than. Lời thoại thể hiện sự
thắng thế của Xác và bi kịch của Hồn qua đó thể hiện những éo le khi
phải sống "bên trong một đằng bên ngoài một nẻo".
- Trong cuộc đối thoại, Xác Hàng Thịt đã chỉ ra sự tha hóa của Hồn Trương Ba
trên nhiều bình diện khác nhau: ăn những món tiết canh cổ hủ, khấu đuôi và đủ
các thứ thú vị khác theo khẩu vị của Xác Hàng Thịt, tay chân run rẩy, cổ nghẹn
lại khi đứng cạnh vợ anh hàng thịt, không dạy bảo con cái bằng lời khuyên nhỏ
nhẹ mà tát con bằng bàn tay “đồ tể”. Sau bấy nhiêu chuyện xảy ra với gia đình
và bản thân, hồn vẫn cho mình là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn, mọi lỗi
đều do xác gây nên, Hồn Trương Ba ngộ nhận về chính bản thân mình.
- Hàm ý của cuộc đối thoại:
 Linh hồn và thể xác là hai phương diện quan trọng tồn tại trong mỗi người
chúng ta, không thể nào sống mà không cần đến dạng hình, thân thể. Nhưng
đời sống của con người cũng không thể thu gọn lại trong nhu cầu thuần túy
bản năng. Đừng bỏ bê thân xác chỉ để biết về một thứ linh hồn chung chung,
đừng chỉ chạy theo khát thèm của thân xác.
 Cuộc sống của linh hồn và xác thịt chính là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và
tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần người và phần con trong mỗi
chúng ta.

14
 Đây thực chất là sự đấu tranh trong một con người, giữa ước mơ tinh thần
cao đẹp của linh hồn với những ham muốn, bản năng tầm thường của thể
xác. Qua đó tác giả khẳng định chiến thắng chính mình, chiến thắng cái xấu,
cái ác, cái giả dối trong con người mình là cuộc chiến vô cùng khó khăn.
Nếu để cái giả dối, cái xấu, cái ác lấn lướt thì sẽ dần đánh mất những gì cao
quý trong bản thân mình. Làm thế nào để bảo vệ và hoàn thiện nhân cách,
bảo vệ những giá trị văn hóa, đạo đức của con người là một vấn đề lớn cần
phải đặt ra và giải quyết.
*Liên hệ bi kịch tha hóa của nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên
của nhà văn Nam Cao. Chí Phèo vốn dĩ là anh canh điền lương thiện với khát
khao hạnh phúc gia đình bình dị, đẹp đẽ “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt
vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba
sào ruộng làm” nhưng nay đã trở thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại, một tên
côn đồ đã “phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ
bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương
thiện”. Nhà tù thực dân cùng với bọn phong kiến tay sai đã khiến Chí Phèo thay
đổi tiêu cực, tha hóa về ngoại hình lẫn nhân cách, khiến anh sa vào con đường
tội lỗi. Sự tha hóa đã khiến Chí Phèo vùi lấp đi bản chất tốt đẹp của mình, bị
phần con lấn át phần người với tên gọi ám ảnh “con quỷ dữ”. Nhà văn Nam Cao
đã lột tả sự tha hóa của nhân vật Chí Phèo và đau đớn trước sự đổi thay xấu xa
đó. Nhân vật Trương Ba trong vở kịch “Hồn Trương Ba-DHT” cũng phải đối
mặt với bi kịch tha hóa bản thân, từ con người lương thiện với nhân cách cao
đẹp nay dân dần bị tiêm nhiễm lối sống phàm tục của anh hàng thịt, trở thành
con người thô lỗ, đánh mất đi giá trị vốn có của bản thân. Sự tha hóa của hai
nhân vật đã đem đến nhiều hệ lụy khôn lường, nỗi đau chua xót: Chí Phèo tha
hóa đã gây ra bao thảm cảnh cho dân làng còn hồn Trương Ba đã trở thành tâm
điểm của sự rối ren trong nhiều mối quan hệ. Bi kịch tha hóa đã khiến hai nhân

15
vật phải chịu những ngày tháng đau đớn, xấu xa, tội lỗi khi không là chính
mình, sống trọn vẹn với bản chất lương thiện bản thân.

TỪ MỐI QUAN HỆ GIỮA HỒN VÀ XÁC ANH CHỊ HÃY RÚT RA


HÔNG ĐIỆP CỦA MÌNH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HÌNH THỨC VÀ
NỘI DUNG TRONG CUỘC SỐNG

Thể xác và linh hồn là hai phần bánh bỏ vô cơ làm nên một con người. Thể
xác là nơi chú ngụ của linh hồn, linh hồn tạo nên sự sống, sự hoạt động của
thể xác và điều khiển thể xác. Tuy vậy thể xác cũng có tính tương đối độc lập
của nó, nếu linh hồn không giữ vững ý chí, thì những nhu cầu, những đòi
hỏi của thể xác có thể tác động tới linh hồn, làm thay đổi bản chất của linh
hồn. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác là để đạt tới sự hòa hợp, thống
nhất, để con người làm chủ bản thân và hoàn thiện nhân cách.

Vì vấn đề quan hệ giữa linh hồn và thể xác trong đoạn trích có thể khiến
người ta liên tưởng tới mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong mỗi sự
vật của đời sống. Cho dù đó là hai cặp phạm trù không đồng nhất, không thể
suy cái này ra cái kia một cái tịnh tiến. Khi nội dung và hình thức phù hợp
với nhau thì sự tồn tại và phát triển, khi nội dung và hình thức không phù
hợp với nhau thì sự phát triển bị kìm hãm, thậm chí sự tồn tại của sự vật bị
đe dọa. Hình thức và phương tiện biểu hiện của nội dung, nội dung đóng vai
trò chủ đạo và quyết định, nó tạo nên ý nghĩa tồn tại của hình thức. Sự vật
luôn cần sự thống nhất giữa hình thức và nội dung, cũng như con người
luôn cần sự hài hòa giữa thể xác và linh hồn.

2. Bi kịch không được thừa nhận:

a. Nguyên nhân:

16
Hồn Trương Ba đã phải sống trong Xác Hàng Thịt và chính cái Xác Hàng Thịt
đó đã làm thay đổi con người của Trương Ba, làm cho hồn Trương Ba giờ đây
không còn là của Trương Ba trước kia nữa. Sự thay đổi của Trương Ba khiến
những người thân và hàng xóm láng giềng không sao hiểu nổi, càng yêu quý
con người trước đây của Trương Ba, họ càng không thể chấp nhận con người
hiện tại của ông.

b. Cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và người thân:

b.1. Với vợ Trương Ba:

- Bà khóc, bà đau đớn, yêu thương, giận dỗi, bế tắc đến độ muốn bỏ đi thật xa
để ông Trương Ba thảnh thơi với cô hàng thịt. Bà nói trong nước mắt: “Ông
đâu là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa, ông bây giờ còn biết đến ai nữa”.
Người vợ mà ông rất mực yêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ
đi. Với bà “đi đâu cũng được… còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà
chính ông cũng đã cảm nhận được: “Bây giờ ông còn biết đến ai nữa”, “ông
đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Vợ Trương Ba
là một người có trái tim nhân hậu và vị tha, bà vô cùng thấu hiểu nỗi bất hạnh,
đau khổ của Trương Ba khi không được sống là chính mình. Niềm đau xót còn
được đẩy lên cao hơn bao giờ hết khi bà không thể giúp chồng hóa giải bế tắc
của ông. Đau xót là vậy, nhưng sự thực là bà vẫn thật khó có thể đối mặt với
người chồng mà đang ngày càng trộn lẫn với thân xác của anh hàng thịt, điều đó
khiến bà nhất quyết đòi bỏ đi.
- Đáp lại điều dó Trương Ba chỉ có thể hỏi những câu ngắn như “sao bà lại
nói thế” “sao lại ra nông nỗi như thế này”. Như vậy, qua lời thoại của Trương
Ba, chúng ta thấy ông dường như thảng thắng, đau đớn, dằn vặt và không thể
chấp nhận được hiện thực đau xót đó, ông thẫn thờ, tê xót, tay ôm đầu, vô cùng
đau khổ và tuyệt vọng

17
b.2. Với người con dâu:

Chị là người thương, thông cảm và hiểu ông nhất “Con biết giờ thầy khổ hơn
xưa nhiều lắm”. Chị là người sâu sắc, chín chắn, thấu hiểu cho cảnh ngộ trớ trêu
của Trương Ba. Chị biết ông khổ lắm, khổ hơn xưa rất nhiều khi phải sống
trong xác anh hàng thịt. Thế nhưng dù có hiểu và thông cảm nhưng cuối cùng
chị cũng phải đưa ra suy nghĩ của bản thân, chị bất lực nối với Trương Ba rằng:

 Nhưng chính chị cũng khó có thể chấp nhận nỗi, chị đau đớn thấy “thầy
bảo con: cái bên ngoài không đáng kể, chỉ có cái bên trong. Nhưng thầy ơi,
con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… Mỗi ngày thầy một đổi khác
dần, mất mát dần, tất cả mọi thứ cứ lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc
chính con cũng không nhận ra thầy nữa”
 Chị bế tắc, khao khát trong tuyệt vọng “làm sao giữ được thầy ở lại, hiền
hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy
ơi?”
- Trước những đau đớn, bất lực và lo sợ của người con dâu, Trương Ba dường
như “lạnh ngắt như tảng đá”. Ông hoàn toàn tuyệt vọng và đau đớn, chính lẽ
đó ông mới nhận ra sự ngộ nhận của bản thân bấy lâu nay.
b.3. Đối thoại với đứa cháu gái:
- Phủ nhận quyết liệt đây không phải là ông nội nó.
- Nó gọi đích danh là “lão đồ tể” xấu lắm, ác lắm. và không thể nào chấp nhận
được lão đỗ tể “có bàn tay giết lợn” bàn chân to bè như cái xẻng, đã làm gãy tiệt
cái chồi non “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông
nội nó.
- Nó một mực khước từ tình thân “tôi không phải là cháu ông” “ông nội tôi
chết rồi”

18
- Nó khóc nức nở và vô cùng căm giận rồi xua đuổi Trương Ba lão đồ tể “cút
đi” “Ông xấu lắm, ác lắm! cút đi! Lão đồ tể cút đi”
 Tâm lí của bé gái là của trẻ con hồn nhiên, trong sáng, ngây thơ. Nó chưa
thể hiểu được những lắt léo, ngang trái của cuộc đời, không thể hiểu được
những thỏa thuận của người lớn. Nó không thể chấp nhận sự giả tạo nên
phản ứng quyết liệt, thái độ bực tức căm giận của nó là chuyện hiển nhiên.
Người xưa thường nói: “Nhân chi sơ, tính bản thiện”, tâm hồn trẻ thơ trong
trẻo, hồn nhiên, trong sáng, thơ ngây, luôn nhìn cuộc sống bằng con mắt
xanh non, tươi mới. Nhưng, tâm hồn ấy cũng tuyệt đối không thể chấp nhận
những sắp xếp ngược với quy luật tự nhiên của giới tiên, những biến thiên kì
lạ của thế giới người lớn, và không thể chấp nhận sự dị hợm, quái gở của cái
gọi là “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Tất cả những lời nói của đứa cháu như
lưỡi dao găm vào tâm hồn nhân vật Trương Ba khiến ông đau đớn, dằn vặt
và vô cùng tuyệt vọng. Chính điều đó đã làm cho Trương Ba run rẩy, đau
đớn và bất lực.
Nhận xét: Với cách nói riêng, giọng điệu riêng, mỗi người trong gia đình
Trương Ba đều nhận ra nghịch lí về cái gọi là “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”.
Điều đó, khiến cho nỗi cay đắng với chính bản thân mình của hồn Trương Ba cứ
lớn dần… lớn dần, như một quả bom hẹn giờ, có thể vỡ ra bất cứ lúc nào. Thế là
đã rõ, không phải ngẫu nhiên mà thân xác có thể cất tiếng cười mỉa mai trước
câu nói ngây thơ ngộ nhận của Hồn Trương Ba. Trong thân thể anh hàng thịt
“cồng kềnh, thô lỗ”, Trương Ba đã không còn là mình. Cả người thân trong gia
đình đều nhận thấy, đau đớn, lo lắng, bàng hoàng, bế tắc khi nói ra điều này.
Thể xác đang xâm chiếm, đang lấn át linh hồn, đang tha hóa linh hồn đấy. Tiếng
nói tiếng cười đắc thắng của nó vấn vang lên đâu đây.
 Cuộc hội thoại giữa Trương Ba và người thân đã đẩy Trương Ba vào bi
kịch không được thừa nhận và bị xa lánh tất cả mọi người thân đều nhận ra
được sự thay đổi của Trương Ba, nhận thấy ông đã khác xưa rất nhiều điều

19
đó không những khiến Trương Ba đau khổ mà tất cả người thân trong gia
đình đều đau khổ, dằn vặt. Họ đau đớn và không thể chấp nhận được hiện
thực đó. Chính vì đau khổ nên họ đã tìm cách xa lánh Trương Ba để không
phải đối mặt với ông, họ hoàn toàn phủ nhận và khước từ sự tồn tại của ông.
Do đó đã đẩy Trương Ba đến tột cùng của sự đau khổ
c. Tâm trạng, cảm xúc của Hồn Trương Ba:
- Trương Ba Đau đớn tột cùng vì ông mà tất cả những người thân yêu đều phải
khóc. Gia đình là nơi trú ẩn cuối cùng, nơi duy nhất ta có thể tìm thấy sự yêu
thương và cảm thông. Do đó, khi bị chính người thân xa lánh, hồn Trương Ba
lâm vào tuyệt vọng, đau khổ đến tột cùng, “mặt lặng ngắt như tảng đá”.
- Người vợ thân yêu rưng rưng trong những dòng nước mắt tủi thân, tủi phận.
Vì ông mà đứa cháu gái trong tiếng khóc tức tưởi không hiểu sao mà ông nội
thân yêu trở nên xấu lắm, ác lắm. Vì ông mà chị con dâu bàng hoàng, bế tắc. Vì
ông mà nhà cửa tang hoang ra cả. Những người thân thiết nhất với ông cũng
không thể nào chấp nhận được cảnh bất nhất giữa hồn và xác, không thể nào
chấp nhận được sự lệch lạc và thay đổi của ông. Do vậy ông trở nên bế tắc và
đau đớn tột cùng
- Ông đau đớn tột cùng nhận ra sự bất lực của bản thân, nhận ra sự thay đổi
của bản thân và chấp nhận sự thắng thế của Xác Hàng Thịt. Từ thẫn thờ ôm đầu
bế tắc, tuyệt vọng, cầu cứu, đứa cháu gái run rẩy trong nỗi đau, lặng ngắt như
tảng đá. Đến bây giờ ông nhận thấy “Mày đã thắng thế rồi đấy cái thân xác
không phải của ta. Mày đã tìm đủ mọi cách lấn át ta”. Một sự vỡ lẽ, một sự
thức tỉnh vừa bàng hoàng chua chát, ông đã nhận ra và ý thức sâu sắc được tình
trạng tuyệt vọng không lối thoát của bản thân.
- Nhưng cũng chính sự vỡ lẽ này đã đã dẫn đến quyết định, đẩy tình huống
kịch lên đến độ quyết liệt hơn “Nhưng có lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất
phục và tự đánh mất mình, không cần đến cái đời sống do mày mang lại, không
cần”

20
 Những câu độc thoại nội tâm đã phơi trải tâm hồn bão tố dữ dội trong cuộc
đấu tranh giành lại bản thân mình từ bàn tay thô bạo của quỷ dữ bản năng của
nhân vật Trương Ba. Từ đó dẫn đến hành động lập cập nhưng quả quyết “thắp
hương châm lửa gọi Đế Thích”.
d. Ý nghĩa của bi kịch không được thừa nhận và bị xa lánh (qua cuộc
đối thoại với người thân):
- Cuộc đối thoại với người thân thực chất là sự nhìn nhận bản thân một cách
nghiêm túc mà chí tình nhất. Nó là sự tự đánh giá về các mặt của chính bản thân
giúp nhân vật nhận ra được sự tha hóa của chính mình, nhận ra được bản thân
đang dần thay đổi không còn nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn nữa,
- Bi kịch bị mọi người trong gia đình xa lánh chính là nút thắt cuối cùng trong
chuỗi xung đột kịch. Gia đình là nơi trú ẩn cuối cùng, nơi duy nhất con người có
thể tìm thấy sự cảm thông chia sẻ, yêu thương sau những vấp ngã trên đường
đời. Thế mà với Trương Ba bây giờ thì hầu như không còn ai trong gia đình
cảm thông, sẻ chia… Đây chính là đỉnh điểm của xung đột kịch.
- Đồng thời đây cũng chính là biểu hiện rõ nét của những đau đớn mà Trương
Ba phải nhận lấy khi sống nhờ vào thân xác anh hàng thịt.
*Liên hệ với nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn
Nam Cao: Chí Phèo từ khi trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại thì hắn ta bị
người dân trong làng xa lánh, không công nhận là người dân trong làng, bị gạt
bỏ khỏi xã hội loài người, khát khao giao tiếp với đồng loại cũng không thực
hiện được “chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Bây giờ nhắc đến
Chí Phèo người ta chỉ nghĩ đến một tên nghiện rượu, một tên côn đồ đã gây ra
bao nhiêu phiền toái, mất mát cho con người và quên lãng đi hình ảnh anh canh
điền lương thiện với khát khao bình dị ngày nào.
3. Cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Đế Thích đây chính là màn
đối thoại kết thúc bi kịch của nhân vật Trương Ba – bi kịch không

21
được là chính mình, đồng thời đưa ra được những triết lí về cuộc
sống, hạnh phúc của Lưu Quang Vũ:
a. Hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại:
- Sau ba tháng ngụ cư trong Xác Hàng Thịt, Trương Ba ngày càng trở nên xa
lạ với chính mình và với người thân, bị người thân nghi ngờ, xa lánh.
- Trong tâm trạng đau đớn, chán chường trước cuộc sống không thật là mình,
trước cái chỗ ở không phải của mình, Hồn Trương Ba khao khát tách xa, rời
khỏi thể xác thô lỗ: “Ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!”.
b. Diễn biến của cuộc đối thoại:
- Trước khao khát sống được là chính mình của Trương Ba, Đế Thích đưa ra
quan niệm về cuộc sống mang tính phiến diện đơn giản: sống có nghĩa là không
chết, chỉ cần tồn tại duy trì sự sống mà không cần biết sống hay tồn tại như thế
nào vì “trên trời dưới đất đều như thế cả”. Đế Thích đã đưa ra quan điểm của
bản thân về sự sống khẳng định sự tồn tại không là chính mình của tất thảy mọi
người “thế ông nghĩ….”. Như vậy đối với Đế Thích sống chỉ là tồn tại và tất cả
mọi người đều không được sống là chính mình, không thể toàn vẹn là chính
mình. Quan niệm của Đế Thích đã cho người đọc thấy quan niệm của một số bộ
phận con người hiện nay, họ chấp nhận cuộc sống không phải là chính mình,
khoác lên mình những lớp mặt nạ để làm vừa lòng người khác, đây cũng chính
là biểu hiện tiêu cực tồn tại trong xã hội đương thời
- Trương Ba thể hiện được nguyện vọng muốn được là mình một cách toàn vẹn,
không chấp nhận cuộc sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo
được thể hiện qua ba lời thoại thể hiện những lời thoại mang tính bước ngoặt
của Hồn Trương Ba:
 “Không thể bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được, tôi muốn được
là tôi toàn vẹn”

22
 “Sống nhờ vào đồ đạc của người khác đã là chuyện không nên, đằng này
đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là
cho tôi sống nhưng tôi sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”
 “Không thể sống với bất cứ giá nào được, có những cái giá đắt quá không
thể trả được...”
* Giải thích:
 Con người là một thực thể thống nhất hài hòa giữa cả cái bên trong và cái
bên ngoài, cả tâm hồn và thể xác. Sự khập khiễng, lệch lạc của cái giả tạo đã
giúp cho Trương Ba thấm thía hơn bao giờ khát vọng “tôi muốn được là tôi
toàn vẹn”. Là tôi toàn vẹn, cái điều tưởng chừng đơn giản nhưng chẳng dễ
chút nào. Thói quen sống nhờ, sống gửi đã khiến cho còn người quên đi cái
tôi của bản thân. Thói quen áp đặt của Đế Thích cho người khác đôi khi cũng
là nguyên nhân làm cho mong muốn giản dị “là tôi toàn vẹn” nghịch lí thay,
lại trở thành một khát vọng thường trực.
 “Là tôi toàn vẹn” nghĩa là chính mình , dám nhận dám nhìn thẳng vào
những khuyết điểm bản thân, dám chịu trách nhiệm về mình, không tự biến
mình, không ngụy biện để tìm kiếm sự thanh thản giả tạo. Đừng ngộ nhận
rẵng sẽ có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác khi chạy theo sự “âm u
đui mù” của bản thân.
 Và như thể sống thực cho ra con người chẳng dễ. Sống nhờ, sống gửi sống
chắp vá không được là chính mình, không được sống trọn vẹn với bất cứ giá
nào -kiểu sống vô nghĩa. Cuộc sống đáng yêu, đáng quý, đáng trân trọng vô
cùng. Lòng ham sống, muốn được sống, là ước muốn tự nhiên của mỗi người
nhưng cái giá phải trả quá đắt, trả bằng cả cước phí tâm hồn thì nhất định
không thể sống như vậy được.
 Trương Ba thẳng thắn chỉ ra được sai lầm và sự thiếu sót của Đế Thích:
“sống nhờ vào đồ đạc của người khác là chuyện không nên, đằng này đến
cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ cho tôi sống,

23
nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”. Như vậy, trong câu đối thoại
này, Trương Ba đã nhận ra được tình trạng của bản thân, đồng thời khẳng
định được khao khát cháy bỏng muốn sống là chính mình. Hơn nữa với sự
thẳng thắn của Trương Ba đã chỉ ra được sai lầm của Đế Thích, họ luôn sửa
sai lầm này bằng những sai lầm khác khiến bi kịch dường như dày thêm lên.
 Đồng thời, Trương Ba khuyên nhủ Đế Thích hãy sửa sai bằng những việc
làm đúng và Hồn Trương Ba đã đi đến hành động mang tính quyết định: cho
cu Tị sống lại và mình thì chết hẳn. “Có những cái sai không thể sửa sai
được, chắp vá chỉ càng làm sai thêm. Việc bây giờ cần làm là bằng một việc
đúng khác. Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm cu Tị sống lại, còn tôi cứ
để tôi chết hẳn”.
 Như vậy sự lựa chọn của Trương Ba là sự lựa chọn dũng cảm và tất
yếu. Chấp nhận cái chết , chấp nhận sự hư vô để là tôi toàn vẹn. Tất yếu
bởi Trương Ba đã thấm thía được bi kịch của cảnh không được là chính
mình. Ông đã ý thức rõ được những lệch lạc đau đớn, bế tắc khi sống
không phải là chính mình. Đó chính là sự vênh lệch giữa hồn và xác, là
sự không thể hòa hợp giữa hồn và xác. Nó là tất yếu bởi Trương Ba đã
ngộ ra nhận thức lẽ sống đúng đắn. Tất yếu là kết quả của sự đấu tranh
ở trong một tâm hồn thanh cao trong sáng vượt lên nghịch cảnh. Thà
nhận cái chết còn hơn là sống nhờ, sống gửi vào người khác để đánh
mất bản thân, quyết định nhận lấy cái chết để giữ vững được tâm hồn
thanh sạch ngay thẳng, nhân hậu vốn có của Trương Ba.
 Ông dứt khoát trả lại xác cho anh hàng thịt và nhận lấy cái chết để trở về
đúng là chính mình “trong sạch, nguyên vẹn, thẳng thắn”. Ông đã hóa thân
vào các vật dụng quen thuộc, gần gũi với những người thân yêu của Trương
Ba “tôi vẫn liền ở đây, ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm,
cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi trầu bà đựng, con dao bà dẫy cỏ… trong
mỗi trái cây cái gái nâng niu”. Những câu văn giàu chất thơ, thấm đẫm chất

24
trữ tình và tràn đầy cảm xúc đã thể hiện được sự trân trọng, yêu mến, và
nâng niu những tình cảm tốt đẹp giữa Trương Ba và người thân. Dường như
những kí ức về Trương Ba vẫn được mọi người gìn giữ, vun vén, nâng niu,
gìn giữ. Khu vườn trở thành nơi vun vén, phục sinh cho linh hồn thanh cao,
cao đẹp thẳng thắn và trong sạch của Trương Ba. Ông đã hóa thành màu
xanh của cây vườn, vị thơm ngọt trong trái na vườn nhà, vẫn sát cánh cùng
người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu,
con dao giẫy cỏ… của những người thương yêu. Cho dù số kiếp nhân sinh –
cõi tạm trần gian đối với Trương Ba đã kết thúc, và chẳng còn muộn phiền
chuyện thế sự nơi trần ai nhưng hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong
cõi đời. Cái kết đầy thi vị ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác
phẩm.
c. Ý nghĩa của bi kịch không được là chính mình (qua cuộc đối thoại với
Đế Thích):
- Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa; không thể có một
tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi
phối bởi những nhu cầu bản năng thì khó có thể giữ được sự thanh cao của tâm
hồn bởi như Chế Lan Viên từng cảnh báo trong một bài thơ: “muốn nuôi sống
xác thân - đem làm thịt tâm hồn”.
- Sống thực sự cho ra con người quả không dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ,
sống gửi, sống chắp vá, khi sống mà không được là mình thì cuộc sống ấy thật
vô nghĩa, thậm chí đầy bi kịch.
- Không thể nhìn nhận mọi việc một cách phiến diện, không nên sửa sai lầm
này bằng những sai lầm khác, cần phải có cái nhìn thấu đáo trong mọi việc
d. Ứng xử của hồn Trương Ba trước bi kịch và quyết định dũng cảm để
tự giải thoát bi kịch, tìm lại cái tôi đã mất:
Trương Ba không chấp nhận buông xuôi: Điều đó được thể hiện rõ nét qua cuộc
tranh đấu với thân xác. Khi không thể thay đổi được Xác Hàng Thịt để xác có

25
thể hoà hợp với hồn, Trương Ba quyết định từ bỏ mối quan hệ với cái xác ấy:
“chẳng lẽ nào ta lại chịu thua mày…”, “không cần đến cái đời sống do mày
mang lại”. Nếu như trong cuộc sống, nhiều lúc, buông bỏ sẽ giúp cho con người
ta cảm thấy thanh thản, nhẹ nhõm hơn thì trong trường hợp của Trương Ba, việc
không chấp nhận buông xuôi lại vô cùng đúng đắn. Điều này xuất phát từ khao
khát muốn được sống đúng là chính mình, sống đúng với cái tôi trong sáng,
thẳng thắn, ngay thực. Đồng thời Trương Ba muốn kết thúc chuỗi ngày sống
vênh lệch, lệch lạc trong xác anh hàng thịt, muốn kết thúc chuỗi ngày đau khổ
của chính bản thân và những người thân yêu xung quanh. Bởi lẽ, nếu như buông
bỏ, đồng nghĩa với việc, hồn đã chấp nhận tiếp tục sống trong chuỗi ngày đằng
đẵng phía sau mà không thể kết thúc bi kịch của mình. Lúc bấy giờ, cái tôi đã
mất của Trương Ba sẽ không thể tìm lại, cái cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra
cả…” theo lời chị con dâu sẽ đi đến hồi kết đau thương. Sự tan hoang đó xảy ra,
người đau, không chỉ có Hồn Trương Ba, mà còn là cả gia đình, nơi có những
người thân nhất trong cuộc đời ông. Sẽ thật đau lòng biết mấy nếu bi kịch
không thể giải thoát!
- Trước bi kịch, hồn Trương Ba khẳng định mạnh mẽ nhu cầu được
sống là chính mình. Ấy là lời khẳng định: “không thể bên trong một đằng,
bên ngoài một nẻo”. Khát vọng được sống là chính mình của hồn Trương Ba là
khát vọng cao đẹp, giúp nhân vật tỏa sáng vẻ đẹp nhân văn, tìm được con người
thật của chính mình, dần dần thoát khỏi bi kịch đau khổ. Với Trương Ba, nếu
đặt lên bàn cân nhu cầu sống và nhu cầu tồn tại thì mũi kim sẽ chỉ lệch về đĩa
cân nhu cầu sống. Khi một người tự vấn mình câu hỏi “sống như thế nào?”để
tìm ra câu trả lời và thực hiện nó thì đó là dấu hiệu của ý thức cao về sự sống và
cách sống để có một cuộc sống hạnh phúc vẹn tròn và có ý nghĩa. Có người nói
“Hạnh phúc đơn giản là khi bạn nghĩ, bạn nói và bạn làm đồng nhất nhau”,
nhưng dường như điều đó với hồn Trương Ba không hề giản đơn. Song, việc
nhận ra điều đó, tức là ông đã có mục đích sống ý nghĩa – là chính mình trong

26
cõi thế gian. Đời người ắt sẽ có gió mưa thét gào, có những cảnh tà dương
chẳng thể níu kéo, nhưng cũng có bình minh và hy vọng. Với hồn Trương Ba,
ngôi sao hi vọng đó đã ở cuối con đường, nhưng, nó vẫn hiển lộ hào quang rực
rỡ, vẫn mãnh liệt, tỏa ra ánh sáng về khát vọng sống chính đáng, lớn lao: được
sống là chính mình. Như tựa sách của John Mason - diễn giả nổi tiếng thế giới:
“Bạn sinh ra là một bản thể, đừng chết như mộ bản sao”, chúng ta đều đặc biệt
điều đó tạo nên sự khác biệt với nhau trong xã hội do đó hãy sống là chính
mình, là phiên bản của chính mình chứ không phải là bản sao của người khác.
Con người chỉ hạnh phúc khi được sống là chính mình, không ngụy trang, giả
tạo bởi hình ảnh của bất kì ai khác. Thượng đế ban tặng cho mỗi người một
cuộc sống vì thế hãy sống sao cho có ý nghĩa và để lại dấu ấn đẹp đẽ.
- Hồn Trương Ba chấp nhận từ bỏ đời sống để được là chính mình đã để lại
nhiều thông điệp sâu sắc:
 Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là chính
mình, sống đúng với những giá trị của mình còn quý giá hơn.
 Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự
hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.
 Con người luôn luôn phải đấu tranh với nghịch cảnh của chính bản thân
mình để chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới giá
trị tinh thần cao quý.
* Liên hệ nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam
Cao: Chí Phèo mong muốn được sống là chính mình, được sống đúng nghĩa
như một con người thật sự và chấp nhận cái chết để giữ gìn bản chất lương thiện
của mình. Chí Phèo sau khi gặp thị Nở đã quay về với bản chất lương thiện,
khát khao được làm người, được hạnh phúc như bao người khác. Anh chấp nhận
tự kết liễu bản thân để kết thúc quãng đời bất nhân dưới thân hình con quỷ dữ
để gìn giữ con người lương thiện trong anh. Cả nhân vật hồn Trương Ba đều
chọn cái chết để chấm dứt bi kịch và bảo toàn tâm hồn cao đẹp. Ralph Waldo

27
Emerson từng nói: “Sống như chính mình trong một thế giới cố biến mình thành
người khác – đó là thành tựu lớn nhất trong đời”. Thành tựu, hay vinh quang
đều phải đánh đổi nhiều thứ mới có được. Có khi là những giọt mồ hôi, nước
mắt, có khi cái giá phải trả là một thất bại nặng nề nhưng với Chí Phèo và
Trương Ba, để giành lấy “thành tựu” ấy, họ đã phải đánh đổi cả sự sống của
mình.
III. Đánh giá nâng cao:
M.Gorki đã từng nói: “Văn học là nhân học”. Trích đoạn Hồn Trương Ba, da
hàng thịt, trong vở kịch cùng tên của Lưu Quang Vũ cũng đã gửitới người đọc,
người xem thông điệp vô cùng sâu sắc: Được sống làm người thật quý giá,
nhưng đượcsống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo
đuổi còn quý giáhơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống
tự nhiên với sự hài hòagiữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn biết đấu
tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn
thiện nhân cách và vươn tới những giá trị cao đẹp.Cũng qua việc khắc họa hình
ảnh các nhân vật trong vở kịch bằng lớp ngôn từ sâu sắc, tác giả còn muốn phê
phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống đương thời: sống gửi, sống nhờ,
sống coi trọng vật chất mà coi nhẹ tinhthần, con người đang có nguy cơ tha hóa
bởi danh và lợi. Lưu Quang Vũ đã tạo nên tác phẩm có giá trị bất biến với thời
gian bằng nỗi niềm trăn trở, tình cảm yêu thương con người như Nguyên Hồng
quan niệm “Những gì tôi viết ra là những gì thương yêu nhất của tôi, những
ước mong nhức nhối của tôi”. Thông qua tác phẩm chúng ta có thể nhìn nhận
cách sống của bản thân, chấn chỉnh để phù hợp và đúng đắn từ đó tạo nên cuộc
sống ý nghĩa như quan niệm của M.Gorki “Văn học giúp con người hiểu được
bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người
khát vọng hướng tới chân lí”.

C. Tổng kết:
I. Nghệ thuật:

28
-Nhà viết kịch đã tạo ra xung đột gay gắt, quyết liệt giữa một bên là khát vọng
sống chân chính cao đẹp với một bên là nghịch cảnh éo le ngang trái - thân
xác phàm tục. Xung đột này phát triển, chuyển hóa qua hàng hoạt các xung
đột nhỏ (xung đột giữa hồn và xác, xung đột giữa Hồn Trương Ba và người
thân, xung đột giữa Hồn Trương Ba và Đế Thích), đến khi xung đột lên đến
đỉnh điểm đã đẩy nhân vật vào bi kịch đau đớn nhất thì nhân vật buộc phải
hành động để đưa ra lựa chọn cuối cùng là cái chết.
-Nhân vật có đời sống nội tâm phong phú, có tính cách sắc nét, điều này được
thể hiện qua hàng loạt phương diện, lời thoại, hành động cử chỉ, thái độ. Lời
thoại của Trương Ba rất linh hoạt phong phú phù hợp với cảnh ngộ, tâm trạng
của nhân vật. Khi đối thoại với người thân, lời lẽ đau khổ tuyệt vọng, khi đối
thoại với Đế Thích thì lời nói quyết liệt, khẳng định quan điểm sống chín chắn
cua chính mình.
II. Nội dung
-Qua vở kịch nói chung và đoạn trích nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn cảnh báo
về hiện tượng:
 Con người chỉ chạy theo những ham muốn bình thường về vật chất,
chỉ thích hưởng thụ cuộc sống phàm tục tầm thường.
 Tình trạng sống giả, không được là bản thân mình là nguy cơ dẫn
đến con người tha hóa.
 Lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần mới là đáng trọng để bỏ
bê nhu cầu nâng cao đời sống vật chất của con người.
-Vở kịch đã gửi gắm những thông điệp của tác giả:
 Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là chính
mình, sống đúng với những giá trị của mình còn quý giá hơn.
 Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự
hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.

29
 Con người luôn luôn phải đấu tranh với nghịch cảnh của chính bản thân
mình để chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới giá
trị tinh thần cao quý.

e. Nhận xét triết lí nhân sinh mà tác giả Lưu Quang Vũ gửi gắm
qua nhân vật:
 Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa; không thể có
một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị
chi phối bởi những nhu cầu bản năng thì khó có thể giữ được sự thanh cao của
tâm hồn.
 Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là chính mình,
sống đúng với những giá trị của mình còn quý giá hơn.
- Sống thực sự cho ra con người quả không dễ dàng, đơn giản. Khi
sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi sống mà không được là mình thì
cuộc sống ấy thật vô nghĩa, thậm chí đầy bi kịch, đau khổ thậm chí là
đánh mất chính mình.

- Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên
với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn, được sống là chính mình, được
thỏa nguyện với những gì mình hướng tới.
- Không thể nhìn nhận mọi việc một cách phiến diện, không nên sửa
sai lầm này bằng những sai lầm khác, cần phải có cái nhìn thấu đáo trong
mọi việc.
- Con người luôn luôn phải đấu tranh với nghịch cảnh của chính
bản thân mình để chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn
tới giá trị tinh thần cao quý.

MỘT SỐ ĐỀ THEO CẤU TRÚC MỚI VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

30
Câu 2 (5đ)

Trong đoạn trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, khi đối thoại với
Xác hàng thịt, Hồn Trương Ba đã khẳng định:

- “Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng
thắn…”

Đến khi tranh luận với Đế Thích, quan điểm của Hồn Trương Ba đã thay
đổi:

- “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn
được là tôi toàn vẹn.”

(Trích: Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ, Sách giáo khoa Ngữ văn
12 Tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, tr. 142)

Anh/ chị hãy cảm nhận về nhân vật Hồn Trương Ba qua hai lời thoại trên.
Từ đó, nhận xét sự vận động về quan niệm sống của nhân vật.

Câu 2 5,0

a Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, lời thoại 0,5

- Lưu Quang Vũ là một người nghệ sĩ đa tài, nổi tiếng với những
vở kịch gây tiếng vang trên sân khấu những năm 80 của thế kỉ
XX.

- Hồn Trương Ba da hàng thịt viết năm 1981, công diễn năm
1984. Từ một câu chuyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo
thành vở kịch nói hiện đại, qua đó gửi gắm nhiều tư tưởng triết lý
nhân sinh sâu sắc.

- Hai lời thoại thuộc cảnh 7 của vở kịch, khi mâu thuẫn đẩy lên
gay gắt nhất, đòi hỏi phải được giải quyết triệt để.

31
b Cảm nhận về nhân vật Hồn Trương Ba qua 2 lời thoại 3,0

* Lời đối thoại với Xác hàng thịt:

- Lời đối thoại này được đưa ra sau khi Hồn Trương Ba và Xác
hàng thịt đã tranh luận nhiều về mối quan hệ, về tác động qua lại
của Hồn và Xác. Theo Xác hàng thịt, Hồn Trương Ba đã thay đổi
rất nhiều: trở nên phàm tục hơn, tầm thường hơn, vũ phu, tàn bạo
hơn.

- Hồn Trương Ba đưa ra lí lẽ để đấu tranh, để khẳng định mình


vẫn có một đời sống riêng cho dù vẫn phải phụ thuộc vào Xác
hàng thịt.

- Thực chất, Hồn Trương Ba hiểu lí lẽ của mình là yếu ớt, không
thuyết phục, như là một sự ngụy biện để tiếp tục được sống.

* Lời đối thoại với Đế Thích:

- Lời đối thoại xuất hiện trong cuộc đối thoại với Đế Thích. Hai
bi kịch chồng chất: bi kịch sống vênh lệch và bi kịch không được
thừa nhận đã khiến Hồn Trương Ba không thể chịu đựng thêm
nữa.

- Trong cuộc đối thoại, Đế Thích và Hồn Trương Ba đã thể hiện


những quan niệm hoàn toàn khác nhau về cuộc sống. Với Đế
Thích, sự sống là đáng quý nhất, mượn xác tái sinh là chuyện
thường tình. Còn với Hồn Trương Ba, con người không cần được
sống bằng mọi giá. Điều quan trọng là sống như thế nào, được
sống là chính mình với cả thể xác và linh hồn tự nhiên.

- Đến lúc này, Hồn Trương Ba đã nhận thức đúng đắn về giá trị
cuộc sống. Hồn Trương Ba không cần một cuộc sống lệ thuộc,

32
vênh lệch. Con người chỉ có thể vui vẻ, hạnh phúc, thoải mái khi
được sống là chính mình.

c Nhận xét sự vận động về quan niệm sống của nhân vật 1,0

- Sự vận động, đổi thay về quan niệm sống của Hồn Trương Ba
thể hiện tư tưởng chủ đề của vở kịch và cũng là thông điệp của
nhà văn gửi đến mọi người: hãy sống là mình, trọn vẹn, thống
nhất cả thể xác và linh hồn, nếu không đó chỉ là sự tồn tại vô
nghĩa, tạo cơ hội cho kẻ xấu lợi dụng.

- Tác giả phê phán lối sống giả tạo, chắp vá, gượng ép hoặc đề
cao nhu cầu vật chất và ngược lại; hoặc sống bằng mọi giá đang
diễn ra phổ biến và trở thành trào lưu đáng báo động trong xã
hội.

d Đánh giá 0,5

- Nghệ thuật: ngôn ngữ kịch giản dị nhưng giàu chất triết lí, có
sức khái quát cao, thể hiện rõ xung đột kịch và tính cách nhân
vật.

- Tài năng của Lưu Quang Vũ: từ cốt truyện dân gian, nhà văn đã
sáng tạo nên tác phẩm có chiều sâu triết lý.

Câu 2. (5,0 điểm)

Trong cảnh VII của vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhân vật Trương Ba
đã có lời độc thoại:“ Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta
ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta…Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua
mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác” ! Mày

33
nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Không cần đến cái
đời sống do mày mang lại! Không cần”. Và sau đó Trương Ba lại nói với Đế
Thích: “…Tôi không thể tiếp tục mang thân xác anh hàng thịt được nữa, không
thể được! (…)Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi
muốn được là tôi toàn ven”

(Lưu Quang Vũ - Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015,
tr.148 và tr.149)

Phân tích bi kịch khi sống trong cảnh hồn nọ, xác kia và ước muốn của nhân
vật Trương Ba qua những lời thoại trên, từ đó làm nổi bật ý nghĩa phê phán mà
tác giả gửi gắm.

2 Phân tích bi kịch khi sống trong cảnh hồn này, xác nọ và 5,0
ước muốn của nhân vật Trương Ba qua lời đối thoại với
xác hàng thịt và Đế Thích, từ đó làm nổi bật ý nghĩa phê
phán mà tác giả gửi gắm.
1. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận (0,25)
Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu
được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận
được vấn đề.
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,25)
Bi kịch khi sống trong cảnh hồn này, xác nọ và ước
muốn của nhân vật Trương Ba qua lời đối thoại với xác hàng
thịt và Đế Thích. Ý nghĩa phê phán mà tác giả gửi gắm.
3. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện (4.00)
sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết
hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể:
3.1.Mở bài: 0.25
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích: Lưu Quang Vũ là

34
nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học nghệ thuật Việt Nam
hiện đại.Hồn Trương Ba, da hàng thịt là tác phẩm tiêu biểu
của Lưu Ọuang Vũ, xuất phát từ cốt truyện dân gian, tác giả
đã viết thành vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ
có ý nghĩa tư tưởng, triết lí và nhân văn sâu sắc.
- Nêu vấn đề cần nghị luận: Tác phẩm có rất nhiều lời thoại
mang tính triết lý, trong đó lời nói của Trương Ba với xác
hàng thịt và Đế Thích Đế Thích::“ Mày đã thắng thế rồi đấy,
cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi
cách để lấn át ta…Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất
phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào
khác” ! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn
cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại!
Không cần”. Và sau đó Trương Ba lại nói với Đế Thích: “…
Tôi không thể tiếp tục mang thân xác anh hàng thịt được nữa,
không thể được! (…)Không thể bên trong một đằng, bên ngoài
một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn ven”đã gợi lên bi
kịch của nhân vật Trương Ba khi sống trong cảnh hồn này, xác
nọ và ước muốn của anh. Từ đó, nhà biên kịch gửi gắm tiếng
nói phê phán rất sâu sắc.
3.2.Thân bài: 3.50
a.Khái quát về vở kịch
- Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những truyện hay
trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam. Lưu Quang Vũ đã
dựa vào cốt truyện này để viết thành vở kịch nói cùng tên vào
năm 1981 và được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1984.
- Vở kịch đặt ra vấn đề, đó là bi kịch sống nhờ của Hồn
Trương Ba trong xác anh hàng thịt.

35
b. Phân tích bi kịch khi sống trong cảnh hồn nọ, xác kia và
ước muốn của nhân vật Trương Ba khi độc thoại và đối
thoại với Đế Thích:
- Những lời thoại trên của Hồn Trương Ba có ý nghĩa
triết lý về sự thống nhất, hài hòa giữa hồn và xác trong một
con người.
b.1. Bi kịch khi sống trong cảnh hồn này, xác nọ
- Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba qua đối thoại với xác
hàng thịt:
+Tình huống kịch bắt đầu từ khi Hồn Trương Ba nhập vào
thân xác anh hàng thịt, anh ta phải gánh chịu nhiều đau khổ:
+Xác hàng thịt đã chỉ rõ sự tha hoá không tránh khỏi của hồn
Trương Ba khi Trương Ba phải nhờ vào nó để tồn tại: Nhờ tôi
mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất,
cây cối, những người thân..ông cảm nhận thế giới này qua
những giác quan của tôi.
+Trương Ba hầu như không còn được sống theo cách riêng
của mình, linh hồn hoàn toàn lệ thuộc vào những yếu tố vật
chất của thân xác, tồn tại qua thân xác, cái thân xác không
phải của mình. Đó là nguyên nhân khiến linh hồn của Trương
Ba rơi vào tình trạng bất lực trước sự sai khiến ghê gớm của
thân xác âm u đui mù. Nhân vật đau khổ khi khổng thể làm
chủ được bản thân mình. Đây chính là bi kịch tha hoá của
nhân vật.
- Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba qua đối thoại với người
thân trong gia đình:
+ Những người trong gia đình không có ai hiểu ông, họ nghi
ngờ, xa lánh ông (vợ ông định bỏ đi thật xa, con trai không

36
nghe lời khuyên của cha, cháu nội gọi ông là lão đồ tể...). Họ
không thông cảm, chia sẽ và thấu hiểu cho những khó khăn
mà ông đang phải cố gắng để vượt qua từ khi nhập vào thân
xác của anh hàng thịt.
+ Hồn Trương Ba cũng thấy rằng, mình là nguyên nhân gây
nên những rắc rối, xáo trộn, bất an trong gia đình trong khi
ông chỉ muốn đưa đến cho mọi người những điều tốt đẹp. Đây
chính là bi kịch bị từ chối của nhân vật.
b.2. Ước muốn của nhân vật Trương Ba: Tôi muốn là tôi
toàn vẹn
- Nhân vật còn mang nỗi đau của một con người tự ý thức. Là
người giàu lòng vị tha nên Hồn Trương Ba day dứt trước hiện
tại của bản thân. Hồn Trương Ba nhận ra mình đang bị tha
hoá, nhiểu khi phải thoả hiệp với những đòi hỏi xác-thịt,
không giữ được bản tính cao khiết như trước đây. Ông luôn bị
dằn vặt bởi chính nghịch cảnh phải sống “bên trong một đằng,
bên ngoài một nẻo”.
- Vì thế, khi đối thoại với Đế Thích, Trương Ba thể hiện ý
nguyện của mình: Tôi muốn được là tôi toàn vẹn
+ Lời thoại này trước hết cho thấy một bước trưởng
thành, một bước ngoặt quan trọng trong nhận thức của Trương
Ba. Từ chỗ đánh giá phiến diện về thân xác người, Trương Ba
đã có cái nhìn đúng đắn, đó là cuộc sống tốt đẹp của người chỉ
có thể được tạo nên từ sự hài hòa giữa hai đời sống của thể
xác và tâm hồn. Nhận thức tưởng chừng như đơn giản đó của
Trương Ba đã phải đánh đổi bằng rất nhiều đau khổ, nước mắt
của chính bản thân ông và người thân nên nó là một nhận thức
vô cùng quý giá.

37
+ Khao khát mãnh liệt, cháy bỏng “là tôi toàn vẹn” của
Trương Ba còn cho thấy nhân cách cao đẹp của Trương Ba.
Nhân vật đã không còn chấp nhận chung đụng với cái thô lỗ
tầm thường, dung tục và để nó sai khiến, mà muốn được trở về
sống trọn vẹn với cái lương thiện, trong sáng, tốt đẹp vốn có.
+ Ý nghĩa: Ước muốn của Trương Ba cũng là triết lí nhân
sinh của Lưu Quang Vũ: sống là chính mình, không chấp nhận
lối sống gửi, sống nhờ. Đồng thời, phải biết sống vị tha ( vì
người khác), sống cao thượng. Cuối cùng, Trương Ba chấp
nhận được chết hẳn, trả lại xác hàng thịt và xin cu Tị sống lại.
Lựa chọn đó đã làm sáng lên nhân cách tốt đẹp, cao cả của
Trương Ba.
c. Nghệ thuật:
- Nghệ thuật xây dựng mâu thuẫn kịch: chặt chẽ, logic, hợp lý.
Các chi tiết, hành động kịch nối tiếp nhau, đẩy mâu thuẫn kịch
lên đến đỉnh cao, tạo nên kịch tính vô cùng căng thẳng, hấp
dẫn.
- Nghệ thuật diễn tả tâm lý nhân vật: dù đây không phải là thế
mạnh của thể loại kịch nói nhưng thông qua ngôn ngữ, hành
động của nhân vật, tâm lý của nhân vật (đặc biệt là Trương
Ba) vẫn được thể hiện một cách rõ nét với sự phức tạp, tinh tế
chứ không giải đơn, xuôi chiều.
- Ngôn ngữ kịch: giản dị, sáng rõ, đặc biệt rất giàu tính triết
lý.
d. Ý nghĩa phê phán mà tác giả gửi gắm qua lời thoại:
Từ nỗi đau khổ của Trương Ba khi phải sống trong thân xác
anh hàng thịt, khi phải chung đụng với cái tầm thường, dung
tục và có khi bị cái tầm thường, dung tục ấy sai khiến, LQV đã

38
cho thấy bi kịch của tất cả những ai không được sống là mình:
“Bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, ở đây hàm chứa
lời răn đe, cảnh tỉnh vô cùng nghiêm khắc của tác giả với
những ai đang cố gắng tạo cho mình một vỏ bọc, bề ngoài giả
dối khác với bản chất thực bên trong, bởi dù bị ép buộc hay cố
tình thì hậu quả của nó cũng là vô cùng to lớn.
3.3.Kết bài: 0.25
- Tóm lại ý nghĩa trong bi kịch và khát vọng sống cao đẹp của
nhân vật Trương Ba;
- Bài học cuộc sống được rút ra từ nhân vật: sống là chính
mình, biết đấu tranh chống lại sự dung tục, tầm thường để giữ
vững nhân cách…
4. Sáng tạo ( 0,25
Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, )
mới mẻ về vấn đề nghị luận.
5. Chính tả, dùng từ, đặt câu ( 0,25
Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu )

Câu 2 (5.0 điểm)

Trong đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ (Sgk
Ngữ văn 12), ở màn đối thoại gữa Hồn Trương Ba và xác hàng thịt, Trương Ba
cho rằng; “Không ! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch,
thẳng thắn…”, đến khi đối thoại với Đế Thích, Trương Ba lại khẳng định “
Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi
toàn vẹn”.

39
Phân tích nhân vật hồn Trương Ba qua hai lời thoại trên để thấy được sự
thay đổi trong nhận thức của nhân vật.

2 Phân tích nhân vật hồn Trương Ba qua hai lời thoại trên 5,0
để thấy được sự thay đổi trong nhận thức của nhân vật.
a. Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận: có đủ mở đoạn, thân 0,25
đoạn, kết đoạn

b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận : Phân tích nhân vật hồn 0,25
Trương Ba qua hai lời thoại trên để thấy được sự thay đổi trong
nhận thức của nhân vật.

c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm, vận dụng
tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn
chứng; rút ra bài học nhận thức và hành động về vấn đề nghị
luận. Học sinh có nhiều cách trình bày khác nhau, có thể đảm
bảo các ý sau:

* Giới thiệu tác giả Lưu Quang Vũ và vở kịch Hồn Trương Ba 0,25
da hàng thịt

* Giới thiệu khái quát về nhân vật Trương Ba và cảnh ngộ trớ 0,25
trêu của nhân vật.
* Phân tích nhân vật Trương Ba trong lời thoại thứ nhất: 1,25
- Bối cảnh xuất hiện lời thoại: Trong cuộc đối thọai giữa hồn
và xác: - Hồn thanh cao trong sạch, sống nhờ trong xác dung
tục, thô lỗ và nguy cơ bị nó điều khiển, sai khiến. Trái với thái
độ đau khổ của Hồn, muốn tách khỏi xác thì xác lại tỏ thái độ
bỡn cợt, chế giễu.
- Nội dung lời thoại:

40
+ Trương Ba khẳng định sự nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn
của tâm hồn mình.
+ Lời khẳng định yếu ớt của Trương Ba thể hiện sự cố gắng để
bảo vệ sự trong sạch, cao khiết của tâm hồn mình. Đồng thời,
không muốn thừa nhận những sự thay đổi khác với mình trước
kia.
- Ý nghĩa lời thoại:
+ Đưa ra lời cảnh báo: Khi con người sống chung với cái dung
tục, tầm thường, sẽ bị nó lấn át, đồng hóa.
* Phân tích nhân vật Hồn Trương Ba trong lời thoại thứ hai: 1,25
- Bối cảnh xuất hiện lời thoại: Sống trong xác hàng thịt,
Trương Ba có những sự thay đổi khiến người thân cảm thấy
phiền toái, xa lạ, khó chấp nhận, điều này khiến Trương Ba vô
cùng đau khổ, buộc ông phải đi đến quyết định cuối cùng là
châm hương gọi đế thích.
- Nội dung lời thoại:
+ Trương Ba nhận ra cuộc sống hồn một đằng, xác một nẻo
trong hiện tại của mình, nhận ra những thay đổi của chính
mình.
+ Bày tỏ mong muốn được sống là chính mình trọn vẹn.
- Ý nghĩa lời thoại:
+ Ca ngợi con người trong cuộc đấu tranh với chính mình để
hoàn thiện nhân các
+ Đưa ra thông điệp: hạnh phúc của con người là được sống là
chính mình trong mọi hoàn cảnh.

* Sự thay đổi trong nhận thức của nhân vật: 0,5


- Ở lời thoại thứ nhất dường như Trương Ba vẫn ngộ nhận về

41
bản thân, không chịu thừa nhận những sự thay đổi của mình so
với trước kia.
- Ở lời thoại thứ hai lại cho thấy nhận thức đúng đắn của
Trương Ba về bản thân, nhận ra mình không còn là mình ngày
xưa nữa.
- Sở dĩ có sự thay đổi đó là vì những phản ứng của người thân
và quá trình tự nhận thức bản thân của nhân vật.
- Quá trình thay đổi về nhận thức cho thấy sự nỗ lực vươn lên
của con người trong cuộc đấu tranh để hoàn thiện nhân cách.

* Đánh giá: 0,5


- Về nội dung:
+Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch
cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục để hoàn thiện
nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
+ Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là
mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi
còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người
được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.
Nếu thiếu một trong hai yếu tố ấy, cuộc sống của con người
không còn giá trị gì nữa
- Về nghệ thuật:
+ Xây dựng tình huống truyện kịch đầy căng thẳng đạt đến cao
trào rồi giải quyết mẫu thuẫn một cách logic, hợp lí, thỏa đáng.
+ Xây dựng đối thoại, độc thoại sắc nét, không chỉ giúp nhân
vật bộc lộ bản chất, suy nghĩ của cá nhân mình mà còn giúp
cho người đọc, người xem suy ngẫm về những triết lí được gửi
gắm trong mỗi câu thoại của các nhân vật.

42
+ Có kết hợp giữa những vấn đề thời sự và vấn đề muôn thuở:
Đó là lối sống giả dối của con người hiện đại, giữa những dục
vọng thấp hèn với những khát khao cao cả....
d. Sáng tạo: có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu 0,25
sắc, mới mẻ về vấn đề cần nghị luận

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu theo quy tắc 0,25

Câu 2 (5,0 điểm):

Phân tích vẻ đẹp nhân cách của nhân vật Trương Ba thể hiện qua đoạn đối thoại
với nhân vật Đế Thích (Trích vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Lưu
Quang Vũ; Ngữ văn 12 - Tập hai, trang 142, NXB GD 2009). Từ đó, anh/chị
hãy nhận xét về chiều sâu triết lí được tác giả gửi gắm qua đoạn trích. 

2 Phân tích vẻ đẹp nhân cách của nhân vật Trương Ba thể 5.0
hiện qua đoạn đối thoại với nhân vật Đế Thích (Trích vở
kịch "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" – Lưu Quang Vũ; Ngữ
văn 12 - Tập hai, trang 142, NXB GD 2009). Từ đó, anh/chị
hãy nhận xét về chiều sâu triết lí được tác giả gửi gắm qua
đoạn trích. 
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận 0.25
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết
bài khái quát được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận 0.5
- Vẻ đẹp nhân cách của nhân vật Trương Ba thể hiện qua đoạn
đối thoại với nhân vật Đế Thích; từ đó nhận xét về chiều sâu
triết lí được tác giả gửi gắm qua đoạn trích.

43
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, nhưng cần vận dụng
tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn
chứng; đảm bảo các yêu cầu sau:
* Giới thiệu khái quát về tác giả Lưu Quang Vũ và vở kịch 0.5
"Hồn Trương Ba, da hàng thịt".
* Phân tích cuộc đối thoại giữa Trương Ba với Đế Thích 2.0
- Chỉ ra được hoàn cảnh dẫn đến màn đối thoại 0,25
- Tiến hành phân tích vẻ đẹp nhân cách Trương Ba qua màn đối 0,75
thoại giữa hồn Trương Ba với Đế Thích.
+ Trương Ba hiểu thấu ý nghĩa của sự sống đích thực, luôn khát
khao sống đúng với bản thân, không muốn sống nhờ, sống gửi
+ Nhân hậu, vị tha, giàu lòng tự trọng
-> Nghệ thuật:
– Màn kịch thể hiện sự xung đột quyết liệt, căng thẳng giữa
Trương Ba và Đế Thích do sự bất đồng về quan điểm sống,
nhân vật cần đưa ra sưu lựa chọn.
– Thể hiện đầy đủ những đặc trưng thể loại kịch: mâu thuẫn
phát triển từ “đỉnh điểm” đi đến “mở nút”; ngôn ngữ sinh động;
giọng điệu biến hoá; lời thoại vừa hướng nội vừa hướng ngoại,

* Đánh giá 0,25
– Dựa vào cốt truyện dân gian, tác giả đã sáng tạo nên một
nhân vật với hành động phù hợp với hoàn cảnh, tích cách, thể
hiện sự phát triển của tình huống kịch; ngôn ngữ nhân vật sinh
động, giọng điệu biến hoá,…; góp phần tạo nên không khí ấm
áp, toát lên niềm vui của sự đoàn tụ, tiếp nối, đem lại  âm
hưởng thanh thoát, lạc quan cho vở kịch.

44
* Chiều sâu triết lí được gửi gắm qua đoạn trích: 0,75
– Con người muốn có cuộc sống hạnh phúc cần phải có sự hài
hoà giữa thể xác và linh hồn, giữa vật chất và tinh thần, được
sống là chính mình.
– Cuộc sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người tìm thấy tình
yêu thương, sự sẻ chia của những người xung quanh, đặc biệt là
những người thân yêu trong gia đình.
– Được sống là điều may mắn nhưng sống thế nào cho thật ý
nghĩa mới là điều quan trọng,…
d. Chính tả, ngữ pháp 0.25
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
e. Sáng tạo 0.5
Thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận; có cách diễn đạt
mới mẻ.

Câu 2: (5,0 điểm)

Trong truyện ngắn Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành đã có nhiều chi tiết nói về
phản ứng tâm lí và hành động của Tnú , trong đó có hai lần:

Miêu tả nhân vật Tnú khi chứng kiến cảnh Mai và đứa con bị đánh đến chết,
nhà văn viết:

" Tnú bỏ gốc cây của anh. Đó là một cây vả. Anh đã bứt đứt hàng chục trái  vả
mà không hay. Anh chồm dậy. Một bàn tay níu anh lại. Tiếng cụ Mết
nặng trịch:

    - Không được, Tnú! Để tau!

45
    Tnú gạt ông cụ ra. Ông cụ nhắc lại:

    - Tnú!

    Tnú quay lại. Ông cụ không nhìn ra Tnú nữa. Hai con mắt anh bây giờ
là  hai cục lửa lớn. Ông cụ buông vai Tnú ra".

Miêu tả nhân vật Tnú khi bị thằng Dục tẩm dầu xà nu đốt mười đầu ngón tay,
nhà văn viết:

" Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa
xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.

Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, nhìn trừng trừng.

Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh
nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi.
Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Anh không kêu lên. Anh Quyết nói: "Người
cộng sản không thèm kêu van…". Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng
trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi! Cháy! Không, Tnú sẽ không
kêu! Không!"

Cảm nhận của anh/ chị về nhân vật Tnú trong hai lần miêu tả trên. Từ đó, nhận
xét sự chuyển biến trong nhận thức và hành động của nhân vật.

( Nguyễn Trung Thành, Rừng xà nu, SGK Ngữ Văn 12, tập hai NXB Giáo
dục,2014)

46
47

You might also like