Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 23

ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊNIN

Câu 1: Hàng hóa là gì? Phân tích 2 thuộc tính cơ bản của hàng hóa và mối quan hệ giữa
nó? Tại sao hàng hóa lại có những thuộc tính đó?
Lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa đã và đang trải qua 2 hình thức tổ chức kinh tế, đó
là nền sản xuất tự cấp tự túc và nền sản xuất hàng hóa. Trong nền sản xuất hàng hóa tồn tại một
phạm trù lịch sử đó là hàng hóa. 
Khái niệm: Hàng hóa là sản phẩm lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
trong trao đổi, lưu thông hàng hóa.

Hàng hóa tồn tại ở hai dạng chủ yếu. Dạng hữu hình như sắt, thép, lương thực, thực phẩm...Và
dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, y, bác sĩ….
Thuộc tính cơ bản của hàng hóa:

Giá trị sử dụng của hàng hóa:


Khái niệm là công dụng của hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Bất cứ hàng
hóa nào cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng đó là cho hàng hóa có
giá trị sử dụng. Ví dụ: công dụng của gạo là để ăn, cho nên giá trị sử dụng của gạo là để ăn...

Đặc trưng: 
Giá trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự nhiên (vật lí, hóa học) của thực thể hàng
hóa quyết định, do đó, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Ví dụ: thuộc tính tự nhiên
của nước là một chất lỏng, không màu, không mùi, không vị do vậy nó có thể dùng trong cả sinh
hoạt, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp.

Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa học - kỹ
thuật và của lực lượng sản xuất vì vậy khi xã hội càng tiến bộ, lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng ngày càng
phong phú, chất lượng ngày càng cao. Ví dụ: than đá, dầu mỏ lúc đầu làm chất đốt sau đó dùng
làm nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp để chế biến ra nhiều loại sản phẩm: như dược
phẩm...
 
Giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng cho xã hội, cho người mua chứ không phải cho
người sản xuất trực tiếp ra nó. Giá trị sử dụng của hàng hóa đến tay người mua thông qua trao

1
đổi mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn quan tâm đến nhu cầu xã hội,
làm cho sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của xã hội thì hàng hóa của họ mới bán được.
Trong nền sản xuất hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi, người ta không trao đổi
những vật phẩm không có giá trị sử dụng.

Giá trị của hàng hóa:


Để hiểu được giá trị của hàng hóa ta cần đi từ giá trị trao đổi:
Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được
trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc. Tức là 1m vải có giá trị bằng 5kg thóc.

Tại sao vải và thóc được trao đổi với nhau và hơn nữa lại trao đổi theo một tỷ lệ nhất định ( ⅕)?
Vì giữa chúng có một cơ sở chung, cái chung đó không phải là giá trị sử dụng, vì giá trị sử dụng
của vải là để mặc, thóc là để ăn. Mà cái chung đó là cả vải và thóc đều là sản phẩm của lao
động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ có cơ sở chung đó mà mà các loại hàng hóa có thể
trao đổi được với nhau. Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở chung của việc trao
đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hóa.

Khái niệm: Giá trị hàng hóa là lao động XH của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng
hóa.

Giá trị hàng hóa mà chúng ta đề cập ở trên chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị,
còn giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những
người sản xuất hàng hóa, khi nào còn sản xuất và trao đổi hàng hóa thì những người sản xuất
còn quan tâm đến giá trị. Vì vậy giá trị là một phạm trù lịch sử. 

Mối quan hệ giữa 2 thuộc tính của hàng hóa. 


Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với
nhau.
Mặt thống nhất biểu hiện ở chỗ: Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hóa.
Nếu một vật có giá trị sử dụng (tức có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người, của XH),
nhưng không có giá trị (tức không do lao động tạo ra, không có kết tinh lao động) như không khí
tự nhiên sẽ không phải là hàng hóa. Ngược lại một vật có giá trị (tức có lao động kết tinh) nhưng
không có giá trị sử dụng (tức không thể thỏa mãn nhu cầu nào của con người, xã hội) cũng
không trở thành hàng hóa.

2
Mặt mâu thuẫn biểu hiện ở chỗ:
Thứ nhất:  Với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hóa khác nhau về chất (sắt thép, lúa
gạo,...) Nhưng ngược lại với tư cách là giá trị thì chúng lại đồng nhất về chất, đều là do kết tinh
của lao động.
Thứ hai: Quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng có sự tách biệt về cả không gian và thời
gian: Giá trị thì thực hiện trước, trong lĩnh vực lưu thông. Giá trị sử dụng thực hiện sau, trong
lĩnh vực tiêu dùng.

Người sản xuất quan tâm đến giá trị, nhưng để đạt được mục đích giá trị bắt buộc họ cũng phải
chú ý đến giá trị sử dụng, ngược lại người tiêu dùng quan tâm đến giá trị sử dụng để thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng muốn có giá trị sử dụng họ phải trả giá trị cho người sản
xuất ra nó. Như vậy trước khi thực hiện giá trị sử dụng phải thực hiện giá trị của nó. Nếu không
thực hiện giá trị sẽ không có giá trị sử dụng. Mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng cũng chính
là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất hàng hóa.

Tại sao hàng hóa lại có 2 thuộc tính đó: 


Hàng hóa có 2 thuộc tính không phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong nó mà là
lao động của sản xuất hàng hóa có tính hai mặt: vừa mang tính cụ thể (LĐ cụ thể) vừa mang tính
trừu tượng (LĐ trừu tượng). C.Mác là người đã phát hiện ra tính hai mặt đó.

Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên
môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, kết quả lao
động riêng. Những cái riêng đó là cơ sở để phân biệt các loại hàng hóa khác nhau. Ví dụ lao
động của người thợ may, thợ mộc là những loại lao động cụ thể khác nhau nó tạo ra giá trị sử
dụng khác nhau của hàng hóa. LĐ cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.

Lao động trừu tượng là sự tiêu hao sức lao động (sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất
hàng hóa nói chung.  Các hình thức lao động cụ thể rất nhiều, rất khác nhau nhưng có một cái
chung là sự tiêu hao sức lực của con người bao gồm cả thể lực và trí lực. Lao động trừu tượng
tạo ra giá trị của hàng hóa. Vậy có thể nói giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người
sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng là mặt chất của giá trị hàng hóa.
Câu 2: Phân tích nội dung, yêu cầu và tác động của quy luật giá trị trong sản xuất hàng
hóa. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu quy luật này?

3
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa, ở đâu có sản xuất
và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.
Nội dung: Sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
Yêu cầu: 
Trong sản xuất: Trong nền sản xuất hàng hóa, nhà sản xuất có điều kiện sản xuất khác nhau do
vậy mà hao phí lao động cá biệt cũng rất khác nhau nhưng khi trao đổi hàng hóa phải căn cứ vào
hao phí lao động xã hội. Do vậy muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí sản xuất và có
lãi đòi hỏi nhà sản xuất phải hạ được chi phí cá biệt nhỏ hơn hoặc bằng chi phí xã hội.

Trong trao đổi: Phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá, lấy giá trị hàng hóa làm cơ sở, không
dựa trên giá trị cá biệt. Nếu bán cao hơn giá trị thì hàng hóa không bán được, không thu hồi
được vốn. Ngược lại nếu bán thấp hơn giá trị thì sẽ bị thua lỗ dẫn đến phá sản.

Thông qua sự vận động của giá cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị.
Những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải tuân thủ mệnh lệnh của giá cả thị trường.

Tác động của quy luật giá trị:


Thứ nhất là điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Trong sản xuất, điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:
Nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy và lãi cao, những
người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất.  Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác
cũng có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành
này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng.
Nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn. Tình hình đó buộc người
sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm
cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên. 
Còn nếu như mặt hàng nào đó giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt
hàng này.
Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức lao động vào
các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội. 
Ví dụ: công ty cổ phần bột giặt Lix chủ yếu sản xuất bột giặt, nước rửa chén, sau đó để đáp ứng
nhu cầu xã hội ngày càng cao trong thời kì dịch Covid 19 đã cho ra mắt gel rửa tay khô On1.

4
Trong lưu thông, Tác động điều tiết lưu thông hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó
thu hút hàng hóa từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, và do đó, góp phần làm
cho hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.

Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lí hóa SX, tăng năng suất lao động.
Để có giá trị cá biệt hàng hóa nhỏ hơn hoặc bằng giá trị xã hội. Đòi hỏi người SX không ngừng
cải tiến kĩ thuật, áp dụng công nghệ mới, đổi mới phương pháp quản lí, thực hiện tiết
kiệm...nhằm tăng năng suất lao động và giảm chi phí sản xuất. 
Trong sự cạnh tranh quyết liệt trên, nếu người sản xuất nào cũng làm như vậy thì sẽ dẫn đến
toàn bộ năng suất lao động xã hội sẽ tăng lên, chi phí sản xuất sẽ giảm xuống. 

Thứ ba, phân hóa những người sản xuất thành những người giàu và nghèo một cách tự
nhiên.
Trong cạnh tranh, người sản xuất nào nhạy bén với thị trường, có hao phí cá biệt thấp hơn mức
hao phí chung của xã hội sẽ có thu nhập cao, trở nên giàu có. Ngược lại nếu giá trị cá biệt cao
hơn giá trị XH, dẫn đến thua lỗ, phá sản và trở thành người nghèo.

Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu quy luật này: Quy luật giá trị vừa có những giá trị tích
cực và tiêu cực đối với người sản xuất.

Quy luật giá trị làm phân hóa những người sản xuất hàng hóa, đây là sự lựa chọn tự nhiên, nó
đào thải những yếu kém, kích thích những nhân tố tích cực. Nếu xét ở góc độ này nó là động lực
để thúc đẩy phát triển sản xuất, nhanh chóng chuyển nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn
hiện đại, cơ cấu kinh tế hiện đại, linh hoạt.

Nếu xét ở góc độ xã hội, sự phân hóa giàu nghèo của sản xuất hàng hóa có tác động tiêu cực.
Bên cạnh đó, QLGT cũng dẫn đến khai thác cạn kiệt, quá mức các tài nguyên, ô nhiễm môi
trường. Do đó, nhà nước cần có những biện pháp để phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của nó.

Riêng đối Việt Nam, trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng XHCN thì điều này còn có ý nghĩa quan trọng hơn cả.

Câu 3: Phân tích hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư? Vì sao nói giá trị thặng dư
siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối?

5
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Để thực hiện được điều này,
tùy vào hoàn cảnh, điều kiện kinh tế - kỹ thuật khác nhau, nhà tư bản sẽ chọn cho mình các
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư khác nhau. Trên thực tế có các phương pháp sau:

-  Giá trị thặng dư tuyệt đối:

Khái niệm: là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt quá thời gian lao động tất
yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay
đổi.

Thí dụ: ngày lao động 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4
giờ, thì tỷ suất thặng dư là 100%. Nếu kéo dài lao động thêm 2 giờ nữa, mọi điều kiện khác vẫn
như cũ, thì tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 150%.

Nhà tư bản tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động của công nhân. Tuy nhiên nó không thể vượt
quá giới hạn sinh lí của công nhân vì họ còn có các nhu cầu cơ bản là ăn, uống, ngủ nghỉ, giải trí
để phục hồi sức khỏe,... Nếu ngược lại, họ sẽ gặp phải sự phản kháng gay gắt của giai cấp công
nhân đòi giảm giờ làm. Trong lịch sử cũng đã chỉ ra nhiều cuộc bãi công, đấu tranh liên quan
đến vấn đề này với các khẩu hiệu như “tăng lương, giảm giờ làm” và thành quả đó chính là sự ra
đời của ngày Quốc tế lao động 1.5.

Ngoài ra, khi không thể kéo dài thêm thời gian lao động thì họ tìm cách tăng cường độ lao động
của công nhân. Nhưng về thực chất, nó cũng như việc kéo dài ngày lao động.

Phương pháp này được ứng dụng trong giai đoạn đầu của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi trình độ
sản xuất còn thấp, máy móc còn lạc hậu.

Giá trị thặng dư tương đối:

Khái niệm: là giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng
cao năng suất lao động trong ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt, để hạ thấp giá giá trị sức lao động,
nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư khi độ dài ngày lao động không thay đổi hoặc thậm
chí rút ngắn.

Thí dụ, ngày lao động 8 giờ, với 4 giờ lao động tất yếu, 4 giờ lao động thặng dư, tỷ suất giá trị
thặng dư là 100%, nếu giá trị sức lao động giảm khiến thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 2
giờ thì thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 300%. 

6
Để hạ giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết để tái
sản xuất lao động, tức tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và
các ngành sản xuất để chế tạo ra tư liệu sinh hoạt đó.

Phương pháp này được ứng dụng khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công
nghiệp cơ khí, kỹ thuật tiến bộ làm cho năng suất tăng lên nhanh chóng thì phương pháp chủ yếu
để tăng giá trị thặng dư là tăng năng suất lao động xã hội.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu:

Hiểu được phương thức bóc lột sức lao động của các nhà tư bản, giúp nhìn nhận rõ bản chất của
CNTB để công nhân đấu tranh đòi các quyền của mình.

Giúp các nhà tư bản có cơ sở để có phương pháp SX phù hợp, mang lại giá trị thặng dư cao
nhất, đặc biệt là giá trị thặng dư siêu ngạch.

Nói giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Bởi
vì: 

Gía trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới sớm
hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Khi số đông các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ một cách phổ biến thì giá trị thặng
dư siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ không còn nữa.

Là hiện tượng tạm thời trong từng xí nghiệp nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại thường xuyên
tồn tại. Nó là động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng
suất cá biệt đánh bại đối thủ cạnh tranh. Chính vì thế C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là
hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.

Câu 4: Trình bày tuần hoàn và chu chuyển của tư bản? Phân tích căn cứ và ý nghĩa phân
chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động?

Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và lưu thông. Lưu
thông của tư bản, theo nghĩa rộng là sự vận động của tư bản, nhừ đó mà tư bản lớn lên và thu
được giá trị thặng dư, cũng tức là sự tuần hoàn và chu chuyển tư bản.

Tuần hoàn của tư bản:

7
Khái niệm: Tuần hoàn tư bản là sự vận động của tư bản lần lượt trải qua 3 giai đoạn, lần lượt
mang về 3 hình thức rồi quay trở về hình thức ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà
còn tăng thêm.

Công thức chung của tuần hoàn tư bản là:


SLĐ
T – H <              … SX … H’ – T’
TLSX
Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn lưu thông, tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách là một
người mua. Tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản tiền tệ, có chức năng mua các yếu tố sản xuất
như tư liệu sản xuất và sức lao động để chuẩn bị cho quá trình sản xuất. Kết thúc giai đoạn này
tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.

Giai đoạn thứ hai là giai đoạn sản xuất, tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản sản xuất, thực hiện
chức năng kết hợp các yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động để sản xuất hàng hóa. Kết thúc
giai đoạn này tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hóa. Đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết
định nhất vì nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Giai đoạn thứ ba, là giai đoạn lưu thông, tư bản tồn tại dưới hình thức tư bản hàng hóa, chức
năng là thực hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất ra trong đó đã bao hàm một lượng
giá trị thặng dư. Kết thúc giai đoạn này tư bản hàng hóa biến thành tư bản tiền tệ. Giai đoạn này
tư bản xuất hiện trên thị trường với tư cách là một người bán. Đến đây, tư bản quay trở lại với
hình thái ban đầu nhưng trong tay chủ của nó với số lượng lớn hơn trước.

Tóm lại, tuần hoàn của tư bản vận động có tính tuần hoàn, trải qua 3 giai đoạn liên tục, lần lượt
mang 3 hình thái khác nhau, thực hiện 3 chức năng khác nhau rồi quay trở về hình thái ban đầu
kèm theo giá trị thặng dư.

Chu chuyển của tư bản

Khái niệm: Sự tuần hoàn tư bản, nếu xét với tư cách là một quá trình định kỳ đổi mới và thường
xuyên lặp đi lặp lại thì gọi đó là chu chuyển tư bản. 

Thời gian chu chuyển tư bản 

8
Khái niệm: là khoảng thời gian mà một tư bản kể từ khi được ứng ra dưới một hình thái nhất
định cho đến khi quay trở về dưới hình thái đó cùng với giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển
tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.

Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm ở trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian sản xuất bao
gồm: thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động, thời gian dự trữ sản xuất.

(Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của các nhân tố như:

● Tính chất của ngành sản xuất, ví dụ ngành đóng tàu thời gian sản xuất thường dài hơn
ngành dệt vải hay dệt thảm trơn thời gian thường ngắn hơn dệt thảm trang trí hoa văn....
● Quy mô hoặc chất lượng các sản phẩm ví dụ như xây dựng một xí nghiệp, công xưởng
mất thời gian dài hơn xây dựng một nhà ở thông thường.
● Thời gian vật sản xuất chịu tác động của quá trình tự nhiên dài hay ngắn.

● Năng suất lao động.

● Dự trữ sản xuất.)

Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời gian lưu thông,
tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không sản xuất ra hàng hóa, cũng không sản xuất ra
giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán hàng hóa. (Thời
gian lưu thông dài hay ngắn là do các nhân tố sau quy định:

● Thị trường xa hay gần

● Tình hình thị trường xấu hay tốt

● Trình độ phát triển của ngành giao thông vận tải, bưu chín viễn thông...)

Như vậy, thời gian chu chuyển của tư bản càng ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị thặng dư
được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.
Tốc độ chu chuyển tư bản 
Khái niệm: là số lần mà một tư bản được ứng ra dưới một hình thái nhất định quay trở về dưới
hình thái đó cùng với giá trị thặng dư tính trong một đơn vị thời gian nhất định. Tốc độ chu
chuyển tư bản được tính bằng công thức:  
n = CH/ch.
Trong đó: n là số vòng chu chuyển của tư bản, CH là thời gian trong một năm, ch là thời gian
của một vòng chu chuyển của tư bản.
9
Ví dụ: Một tư bản có thời gian 1 vòng chu chuyển là 4 tháng thì tốc độ chu chuyển trong năm
là: n = 12 tháng / 4 tháng = 3 vòng.
Như vậy, tốc độ chu chuyển của tư bản tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản. Muốn
tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và lưu thông của nó.

Căn cứ để phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động:

Các bộ phận khác nhau của tư bản sản xuất không chu chuyển giống nhau. Căn cứ vào phương
thức chu chuyển khác nhau của từng bộ phận tư bản, người ta chia tư bản sản xuất thành tư bản
cố định và tư bản lưu động.

Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái tư liệu lao động tham gia toàn
bộ vào quá trình sản xuất như máy móc, thiết bị, nhà xưởng,...nhưng giá trị của nó chỉ chuyển
dần dần, từng phần vào giá trị sản phẩm theo mức độ hao mòn.

Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới hình thái sức lao động, nguyên nhiên
vật liệu, vật liệu phụ, giá trị của nó được chuyển một lần, toàn phần vào giá trị sản phẩm khi kết
thúc từng quá trình sản xuất.

Ý nghĩa:

Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng để tăng quỹ khấu hao
tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên tránh được thiệt hại hao mòn hữu hình do
tự nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ đó, mà có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh,
nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản.

Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản
lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm
tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt
khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị thặng dư và
khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng lên.

Việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu thông có ý nghĩa quan trọng trong
quản lý kinh tế. Nó là cơ sở để quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả, đặc biệt với sự phát triển
khoa học công nghệ hiện nay đặt ra đòi hỏi bức xúc trong quản lí sản xuất kinh doanh sao cho
giảm tối đa hao mòn của vốn cố định.

10
Câu 5. Phân tích bản chất và động cơ của tích lũy tư bản? Các nhân tố ảnh hưởng đến quy
mô tích lũy tư bản? Hệ quả của tích lũy tư bản?

Bản chất và động cơ của tích lũy tư bản

Tái sản xuất là tất yếu khách quan của xã hội loài người. Tái sản xuất có hai hình thức chủ yếu
là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Dưới chủ nghĩa tư bản, muốn tái sản xuất mở
rộng, nhà tư bản phải sử dụng một phần giá trị thặng dư để tăng thêm tư bản ứng trước. Sự
chuyển hóa một phần giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích lũy tư bản.

Ví dụ: Một nhà tư bản thu được một số giá trị thặng dư là 100 đơn vị tiền tệ, anh ta tiêu dùng 40
đơn vị còn 60 đơn vị dùng để đầu tư thêm mở rộng sản xuất, 60 đơn vị đó đã trở thành tư bản,
khi đó đã có sự tích lũy và 60 đơn vị tiền tệ đầu tư thêm gọi là tư bản tích lũy.

Như vậy, có thể thấy, nguồn gốc của tích lũy tư bản là giá trị thặng dư - là lao động của công
nhân bị các nhà tư bản chiếm không.

Động cơ thúc đẩy tích lũy tư bản là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản. Để thực hiện
mục đích đó, các nhà tư bản không ngừng tích lũy để mở rộng sản xuất, muốn có tích lũy càng
nhiều thì phương tiện căn bản chính là tăng cường bóc lột công nhân làm thuê. Có thể nói “tư
bản ban đầu chỉ là giọt nước, tư bản tích lũy là cả dòng sông mênh mông”.

Các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản


Việc xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản phải được xem xét ở hai
trường hợp:
Một là, trường hợp khối lượng giá trị thặng dư không đổi thì quy mô tích lũy tư bản phụ thuộc
vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành 2 quỹ: quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng.
Đương nhiên tỷ lệ quỹ này tăng lên thì tỷ lệ quỷ kia sẽ giảm đi.

Hai là, nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào
khối lượng giá trị thặng dư. Trong trường hợp này, khối lượng giá trị thặng dư bị phụ thuộc vào
những nhân tố sau đây:

Thứ nhất, trình độ bóc lột giá trị thặng dư. Muốn tăng giá trị thặng dư, nhà tư bản có thể tăng
thêm các thiết bị máy móc, công nhân. Hoặc nếu không, nhà tư bản tăng cường bóc lột công
nhân bằng cách tăng thời gian lao động và cường độ làm việc, cắt giảm tiền lương,...

11
Thứ hai, năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động xã hội tăng lên thì sẽ làm cho giá tư
liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm. Điều này có thể dẫn đến một số hệ quả cho tích lũy như
một lượng giá trị thặng dư dành cho tích lũy có thể chuyển hóa thành một khối lượng tư liệu sản
xuất và sức lao động thêm nhiều hơn trước,...

Thứ ba, chênh lệch giữa tư bản sản xuất và tư bản tiêu dùng. Trong quá trình sản xuất, tư
liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của
chúng lại chỉ bị khấu hao từng phần. Như vậy là mặc dù đã mất dần giá trị, nhưng trong suốt
thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Sự hoạt động này của máy
móc được xem như là sự phục vụ không công. Máy móc, thiết bị càng hiện đại, thì sự chênh lệch
giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng càng lớn, do đó sự phục vụ không công càng
lớn, tư bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều, nhờ vậy quy mô
của tích lũy tư bản càng lớn.
Thứ tư, quy mô của tư bản ứng trước: Với trình độ bóc lột không thay đổi thì khối lượng giá
trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mô của tư bản ứng trước càng
lớn, nhất là bộ phận tư bản khả biến thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng nhiều, tạo
điều kiện tăng thêm quy mô của tích luỹ tư bản.

Hệ quả của tích lũy tư bản


Thứ nhất, tích luỹ tư bản làm tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản. 

Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị được quyết định bởi cấu tạo kỹ thuật và phản ánh sự
biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.

Cấu tạo kỹ thuật biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động
sử dụng những tư liệu sản xuất đó.

Cấu tạo hữu cơ luôn có xu hướng tăng do cấu tạo kỹ thuật cũng vận động theo xu hướng tăng
lên về lượng.
Thứ hai, tích luỹ tư bản làm tăng tích tụ và tập trung tư bản 

Tích tụ tư bản là việc tăng quy mô tư bản cá biệt bằng tích luỹ của từng nhà tư bản riêng rẽ.
Tích tụ tư bản, một mặt, là yêu cầu của việc mở rộng sản xuất, ứng dụng tiến bộ kĩ thuật; mặt
khác, khối lượng giá trị thặng dư tăng thêm lại tạo khả năng hiện thực cho tích tụ tư bản mạnh
hơn.

Ví dụ: Ban đầu nhà tư bản có quy mô 200 đơn vị tiền tệ, sau một thời gian sản xuất, tạo ra giá trị
thặng dư là 50 đơn vị tiền tệ. Và được nhà tư bản tích lũy 25 đơn vị tiền tệ từ giá trị thặng dư đó
12
để tăng quy mô vốn ban đầu lên thành 225 đơn vị tiền tệ. Như vậy ở đâu đã có sự tích lũy tiền
tệ.

Tập trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản nhỏ thành một tư bản cá biệt lớn. Đây là sự tập
trung những tư bản đã hình thành, là sự thủ tiêu tính độc lập riêng biệt của chúng, là việc biến
nhiều tư bản nhỏ thành một số ít tư bản lớn hơn.

Ví dụ: Ban đầu, trong xã hội có các nhà tư bản với quy mô 100 đơn vị tiền tệ, 200 ĐVTT, 500
ĐVTT. Sau đó, các nhà tư bản này liên kết với nhau thành 1 tư bản mới có quy mô là 800
ĐVTT. Khi đó ta nói có sự tập trung tư bản.

Tích tụ tư bản làm cho tư bản cá biệt tăng lên, và tư bản xã hội cũng tăng theo. Còn tập trung tư
bản chỉ làm cho tư bản cá biệt tăng quy mô còn tư bản xã hội vẫn như cũ.

Thứ ba, quá trình tích luỹ tư bản là quá trình bần cùng hóa giai cấp vô sản

Quá trình tích luỹ tư bản có tính hai mặt, một mặt thể hiện tích lũy sự giàu sang về phía giai cấp
tư sản, mặt khác thể hiện tích lũy sự bần cùng về phía giai cấp công nhân làm thuê. Bần cùng
hoá tồn tại dưới hai dạng:

Sự bần cùng hoá tương đối giai cấp công nhân biểu hiện ở tỷ lệ thu nhập của giai cấp công nhân
trong thu nhập quốc dân ngày càng giảm, còn tỷ lệ thu nhập của giai cấp tư sản ngày càng tăng

Bần cùng hoá tuyệt đối thể hiện sự sụt giảm tuyệt đối về mức sống của giai cấp công nhân làm
thuê.

Ý nghĩa nghiên cứu (mở rộng vấn đề)

Hiểu được nguồn gốc của nhà tư bản mà nhà tư bản sở hữu đều là từ bóc lột lao động không
công của giai cấp công nhân,...

Hiểu được ý nghĩa tập trung tư bản mà hình thành các công ty cổ phần lớn có khả năng sản xuất
cao, mang lại hiệu quả kinh tế to lớn.

Câu 6. Trình bày nguyên nhân hình thành và những đặc điểm kinh tế cơ bản độc quyền
trong chủ nghĩa tư bản?

Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển qua hai giai đoạn là giai đoạn chủ nghĩa tư bản
tự do và chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nghiên cứu CNTB tự do, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự
rằng: CNTB tự do sinh ra tích tụ và tập trung sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất phát triển
13
đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến CNTB độc quyền. Và sau này Lênin cũng đã chứng minh
được đều này.

Nguyên nhân hình thành: Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX do những nguyên nhân chủ yếu sau:

Thứ nhất, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật; một
mặt, làm xuất hiện những ngành sản xuất mới. Mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động,
tăng sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Việc nâng cao tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã
mở rộng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy sự phát triển sản xuất lớn, tăng tích tụ tư bản và sản
xuất.

Thứ hai, vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện
như lò luyện kim mới Betsome, phát hiện ra hóa chất mới như axit sunphuric (H2S04), thuốc
nhuộm, v.v.; máy móc mới ra đời: động cơ điêzen, máy phát điện, máy tiện, máy phay, v.v.;
phát triển những phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay, v.v. và đặc biệt là
đường sắt. Những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mật làm xuất hiện những ngành sản
xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động,
tăng khả năng tích luỹ tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.

Thứ ba, trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy luật kinh tế
của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích luỹ, v.v. ngày càng mạnh mẽ,
làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.

Thứ tư, cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô
tích luỹ để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa
và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí
nghiệp ngày càng to lớn.

Thứ năm, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá
sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tích tụ và tập trung tư bản.

Thứ sáu, sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc
đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền để cho sự ra đời của
các tổ chức độc quyền.

14
Đặc điểm kinh tế cơ bản của độc quyền

Thứ nhất: Sự tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền.

Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc điểm kinh tế
cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.

Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hình thành các tổ chức
độc quyền. Bởi vì, một mặt, do có một số ít các xí nghiệp lớn nên có thể dễ dàng thỏa thuận với
nhau: mặt khác, các xí nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật cao nên cạnh tranh sẽ rất gay gắt, quyết
liệt, khó đánh bại nhau, do đó đã dẫn đến khuynh hướng thỏa hiệp với nhau để nắm độc quyền.

Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay phần
lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc
quyền cao.

Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hóa, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết
ngang nhưng về sau đã phát triển theo liên kết dọc. Những hình thức độc quyền cơ bản là
cácten, xanhđica, tơrớt, côngxoócxiom, cônggơlômêrát.

Thứ hai, tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính

Tư bản tài chính: 

Tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân
hàng. Từ chỗ chỉ là trung gian nay đã nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền
lực, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa

Các tổ chức độc quyền công nghiệp cùng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua
cổ phần của ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng phục
vụ cho mình. Quá trình độc quyền hóa trong công nghiệp và trong ngân hàng xoắn xuýt với
nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản mới, gọi là tư bản tài chính.

(V.I.Lênin nói: “Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số ít
ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà công
nghiệp".)

Đầu sỏ tài chính:

Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền, chi phối toàn
bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là các đầu sỏ tài chính.
15
Các đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham dự. Thực chất của
chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số cổ phiếu khống
chế mà nắm được một công ty lớn nhất với tư cách là công ty gốc (hay là “công ty mẹ”); công ty
này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị được công ty khác, gọi là “công ty con”; “công
ty con” đến lượt nó lại chi phối các “công ty cháu” cũng bằng cách như thế...

Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một
lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được
một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.

Thứ ba, xuất khẩu tư bản

V.I.Lênin vạch ra rằng, xuất khẩu hàng hóa là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh, còn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Khái niệm: Xuất khẩu tư bản là mang tư bản đầu tư ở nước ngoài để sản xuất giá trị thặng dư
tại nước sở tại.

Xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu, vì 

Trong những nước tư bản phát triển đã tích lũy được một khối lượng tư bản lớn và nảy sinh tình
trạng một số “tư bản thừa” tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận so với đầu tư ở trong
nước. 

Trong khi đó ở nhiều nước lạc hậu về kinh tế, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp,
nguyên liệu rẻ, nhưng lại rất thiếu tư bản nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản.

Phân loại: Xét về hình thức đầu tư, có đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Xét về chủ sở hữu tư
bản, có thể phân chia thành xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất khẩu tư bản tư nhân.

Tác động: 

Mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự
thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới. 

Tuy nhiên, việc xuất khẩu tư bản, về khách quan cũng có những tác động tích cực đến nền kinh
tế các nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá trình chuyển biến từ cơ cấu kinh tế thuần nông thành
cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, mặc dù cơ cấu này còn què quặt, lệ thuộc vào kinh tế của
chính quốc.

Thứ tư, sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền

16
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy mô và
phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền
và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.

(V.I.Lênin nhận xét: “Bọn tư sản chia nhau thế giới, không phải do tính độc ác đặc biệt của
chúng, mà do sự tập trung đã tới mức độ buộc chúng phải đi vào con đường ấy để kiếm lời').

Sự dụng độ và các cuộc cạnh tranh khốc liệt trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền
quốc gia tất yếu dẫn đến xu hướng thỏa hiệp, ký kết các hiệp định. Từ đó hình thành các liên
minh độc quyền quốc tế dưới dạng cácten, xanhđica, tơrớt quốc tế...

Thứ năm, sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc.

Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phân chia thế giới về
lãnh thổ. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên liệu càng thiếu
thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trên toàn thế giới càng
ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càng quyết liệt hơn".

Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa, bởi vì thuộc địa là nơi bảo đảm nguồn
nguyên liệu và thị trường thường xuyên; là nơi tương đối an toàn trong cạnh tranh, bảo đảm thực
hiện đồng thời những mục đích về kinh tế, quân sự và chính trị. 

(Ví dụ: Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. các nước đế quốc đã hoàn thành việc phân chia
lãnh thổ thế giới. Đế quốc Anh chiếm được nhiều thuộc địa nhất, sau đó đến Nga (Nga Hoàng)
và Pháp. Sự phân chia lãnh thổ và phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến
cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới
thứ nhất 1914 -1918 và cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai 1939- 1945.)

(Liên hệ thực tế: Hiện nay, sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc tư bản vẫn
tiếp tục dưới những hình thức cạnh tranh và thống trị mới. Sự phân chia lãnh thổ thế giới lại
được thay thế bằng những cuộc chiến tranh thương mại, những cuộc chiến tranh sắc tộc, tôn
giáo mà đứng bên trong hoặc núp đằng sau, trực tiếp hoặc gián tiếp các cuộc đụng độ đó chính
là các cường quốc tư bản.)

Tóm lại, có thể thấy 5 đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ với
nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa tư bản
độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược.

Câu 7. Phân tích đặc trưng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam?

17
Khái niệm: KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường
đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.”, có sự điều tiết của Nhà nước do ĐCS VN lãnh đạo.

Đặc trưng 

Thứ nhất, mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội;
nâng cao đời sống nhân dân lao động và tất cả các thành viên trong xã hội, thực hiện “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với
quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.

Thứ hai, về sở hữu sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau, nhiều
thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Tiêu chuẩn căn
bản trong việc đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, và thực hiện công bằng xã
hội nên phải từng bước xác lập và phát triển chế độ công hữu tư liệu sản xuất một cách vững
chắc, tránh nóng vội xây dựng ồ ạt mà không tính đến hậu quả như trước đây.

Thứ ba, về quản lý, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản
lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước sẽ quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược,
kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp
quản lý thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn
chế những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động
và của toàn quần chúng nhân dân lao động.

Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, sự làm chủ và giám sát
của nhân dân với mục tiêu dùng kinh tế thị trường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội.

Đảng lãnh đạo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua cương lĩnh, đường
lối phát triển kinh tế - xã hội và các chủ trương, quyết sách lớn trong từng thời kỳ phát triển của
đất nước, là yếu tố quan trọng đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường.

18
Thứ tư, về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình thức
phân phối, trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Cơ chế này
vừa tạo động lực kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh, đồng thời hạn chế những bất công xã hội. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.

Thứ năm, phát triển kinh tế gắn với tiến bộ xã hội: Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát
triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm
cho chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh
thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực của đất nước. 

Câu 8. Phân tích tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của
kinh tế quốc tế đến VN

Khái niệm: Hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là một quá trình quốc gia đó thực hiện
gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân
thủ các chuẩn mực quốc tế chung.

Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế

Thứ nhất, là xu thế khách quan trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.

Toàn cầu hóa kinh tế làm cho các mối liên hệ quốc tế của sản xuất và trao đổi ngày càng gia
tăng, nền kinh tế của các nước trở thành 1 bộ phận hữu cơ và không thể tách rời nền kinh tế toàn
cầu. HNKTQT trở thành tất yếu khách quan.

Trong toàn cầu hóa kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm vi toàn cầu. Trong
điều kiện đó, nếu không tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế, các nước không thể tự đảm bảo
được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước.

19
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và
đang xuất hiện ngày càng nhiều, tận dụng được các thành tựu của cách mạng công nghiệp, biến
nó thành động lực cho sự phát triển.

Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến của các nước, nhất là các
nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay

Hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để các nước đang và kém phát triển tiếp cận và sử dụng được
các nguồn lực bên ngoài như tài chính, khoa học công nghệ, kinh nghiệm của các nước cho sự
phát triển của quốc gia mình.

Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém phát triển có thể
tận dụng thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến, khắc phục nguy
cơ tụt hậu ngày càng rõ rệt.

Hội nhập kinh tế quốc tế còn tác động tích cực đến việc ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra nhiều cơ
hội việc làm mới và nâng cao mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.

Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến Việt Nam

Tích cực: 
Mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong
nước, tận dụng các lợi thế kinh tế của nước ta trong phân công lao động quốc tế, phục vụ cho
mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững và chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều
sâu với hiệu quả cao.
Ví dụ: Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở
rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và
vùng lãnh thổ. Tham gia nhiều hiệp định thương mại như EVFTA, CPTPP...
Tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả
hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp trong
nước; góp phần cải thiện môi trường đầu tư, làm tăng khả năng thu hút khoa học công nghệ hiện
đại và đầu tư bên ngoài vào nền kinh tế.
Ví dụ: Nền kinh tế nước ta đang chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng khu vực II, III,
giảm tỉ trọng khu vực I. 
Giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia. Nhờ
đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước mà nâng cao khả

20
năng hấp thụ khoa học công nghệ hiện đại và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp
nước ngoài và chuyển giao công nghệ để thay đổi, nâng cao chất lượng của nền kinh tế. 
Ví dụ như: VN bây giờ đã sản xuất được ô tô, tham gia quá trình nghiên cứu mạng 5G,...

Tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, người dân được thụ hưởng các sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và
giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn
ngoài nước. 

Ví dụ như: Nếu như ở VN trước kia chỉ ăn được thịt bò trong nước thì ngày nay thịt bò
trên thị trường rất phong phú như thịt bò Mỹ, Úc, Hà Lan,...

Tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát
triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều chỉnh chiến lược phát triển hợp lý, đề ra chính sách
phát triển phù hợp cho đất nước.

Là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế
giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn minh thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và
thúc đẩy tiến bộ xã hội.

Tác động mạnh mẽ đến hội nhập chính trị, tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện
hướng tới xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hội mở, dân
chủ, văn minh hơn.

Tạo điều kiện để nâng cao vai trò, uy tín và vị thế quốc tế của nước ta trong các tổ chức
chính trị, kinh tế toàn cầu. Ví dụ: Việt Nam được bầu giữ chức Ủy viên không thường trực của
Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.

Củng cố an ninh quốc gia, duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và quốc tế để tập trung cho
phát triển kinh tế xã hội; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các
nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung như môi trường, biến đổi khí hậu, phòng
chống tội phạm và buôn lậu quốc tế. 

Tác động tiêu cực: Bên cạnh những mặt tích cực mà hội nhập kinh tế quốc tế đem lại, thì nó
cũng mang lại không ít những trở ngại, thách thức:

Làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành kinh tế nước ta gặp
khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá sản, gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế - xã hội.
Ví dụ trên thị trường bán lẻ, xoài Việt Nam phải cạnh tranh với xoài Thái lan hay Đài Loan,... 
21
Có thể làm gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài, khiến
nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động khôn lường về chính trị, kinh tế và thị
trường quốc tế. Ví dụ: Các mặt hàng may mặc của Việt Nam trong đợt bùng dịch Covid vừa rồi
không thể xuất khẩu ra các thị trường như Mỹ, EU và cũng không thể sản xuất do thiếu nguyên
liệu, phụ thuộc vào nước ngoài. Do đó phải đóng cửa, dừng sản xuất.

Có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và các nhóm khác
nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xã
hội.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta phải đối mặt với
nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành
sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Do vậy, dễ trở
thành bãi rác công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy
hoại môi trường ở mức độ cao.

Tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều
vấn đề phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội.
Có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống Việt Nam bị xói mòn
trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.

Hội nhập có thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội
phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…

Người soạn
Nguyễn Tấn Nguyên    

Đôi lời chia sẻ:

Cách học:
Phần soạn của mình tuy hơi dài nhưng mình tin nếu các bạn đọc kĩ thì các bạn sẽ thấy rất dễ
hiểu, đó là sự thật. Nếu bạn đọc 1 lần không hiểu hãy tiếp tục đọc lại chỗ không hiểu đó thêm lần
2, 3. Chỉ cần sau 3 lần nếu bạn vẫn không hiểu cứ mạnh dạn gạt nó ra 1 bên và tiếp tục học các
phần khác. Để tránh nản chí.

22
Các bạn nên học theo câu, đầu tiên đọc 1 lần qua hết cả câu rồi quay lại học từng phần nhỏ.
Trong lúc học các bạn nếu học không nổi hay không cần điểm cao thì có thể gạt bỏ bớt phần
phân tích. Lưu ý là nên để lại 1, 2 dòng gì đó để cho Giám khảo có cái chấm. Còn nếu bạn gạch
bỏ hết thì chỉ có ý chính thôi nên rất dễ mất điểm. Và lưu ý, bỏ gì thì bỏ đừng bỏ ý chính (Thứ
nhất, hai, ba...đồ đó).
Ví dụ, ý nghĩa thực tiễn sẽ là phần điểm cộng rất lớn nếu bạn muốn lấy điểm cao. Những phần
trong ngoặc () các bạn có thể lượt bỏ nhé.
Thứ lỗi: Phần bài soạn của mình khó có thể trách khỏi những lỗi sai không đáng có. Chính vì thế
mình rất xin lỗi và mong các bạn thông cảm cho mình nhé.
Lời cảm ơn: Một lần nữa rất cảm ơn các bạn vì đã rất tin tưởng và trao toàn bộ niềm tin ở mình.
Hi vọng có thể hỗ trợ thêm các bạn ở những môn học khác.
Lời chúc: Chúc tất cả các bạn sẽ có 1 bài thi Mác 2 như mong đợi. Đề cương của mình nếu chịu
học, qua môn thôi là chưa đủ mà phải đạt điểm cao nữa cơ. (hihi)

Lưu ý, các bạn hạn chế chia sẻ đề cương này nhé, nếu càng nhiều người có nó thì sẽ có càng
nhiều bài làm giống nhau.

23

You might also like