Professional Documents
Culture Documents
CSTT M I 1
CSTT M I 1
Đây là mối lo của các doanh nghiệp khi khả năng dịch bệnh tác động lớn,
trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như doanh thu
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, đại dịch COVID-19 ảnh hưởng lớn
đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ, ăn uống, nghỉ dưỡng. Cụ thể,
doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 7 tháng năm nay ước tính đạt 280,9 nghìn
tỷ đồng, giảm 16,6% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu du lịch lữ hành 7
tháng ước tính đạt 11,1 nghìn tỷ đồng, giảm sâu tới 55,4% so với cùng kỳ
năm trước, theo số liệu cuối năm 2020 từ Tổng cục Thống kê, năm 2020 có
tổng cộng 101,7 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn,
ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng
13,9% so với năm trước. Đại dịch COVID-19 đã và đang để lại những hậu
quả nặng nề trong tất cả các lĩnh vực nói chung và cho doanh nghiệp tại Việt
Nam nói riêng. Không chỉ các doanh nghiệp trên, việc đại dịch COVID-19
diễn biến phức tạp trong cộng đồng nếu diễn biến nhanh cũng ảnh hưởng đến
hoạt động của các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực khác như: nông sản, may
mặc, giáo dục,…
Tiêu biểu, hiện nay, đối với một số doanh nghiệp, khi giãn cách xã hội và hạn
chế giao tiếp đã tác động đến doanh số của doanh nghiệp khi không thể trực
tiếp làm việc cùng với các đối tác; điều này thôi thúc các doanh nghiệp này
tìm ra các giải pháp để đưa các mặt hàng đến với khách hàng với cách tiếp
cận hiệu quả mà không cần đến trực tiếp các gian hàng. Cụ thể, phương pháp
bán hàng online đang được nhiều doanh nghiệp áp dụng. Đây cũng là phương
pháp bán hàng đang được khuyến khích trong bối cảnh dịch bệnh lan rộng.
Đồng thời đó, một số doanh nghiệp nhà nước đã chủ động không ngừng đổi
mới chất lượng dịch vụ để thu hút khách hàng. Tiêu biểu ở khu vực này,
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), từ ngày
16/7/2020 đã chính thức ra mắt dịch vụ Ngân hàng số hoàn toàn mới (VCB
Digibank) trên cơ sở hợp nhất các nền tảng giao dịch trực tuyến và thay thế
cho các dịch vụ Internet Banking và Mobile Banking trước đây của ngân
hàng.
Với dịch vụ này sẽ cung cấp các trải nghiệm liền mạch, thống nhất cho khách
hàng trên các phương tiện điện tử như máy tính và thiết bị di động, giúp
khách hàng dễ dàng thực hiện giao dịch tài chính, thanh toán và mua sắm. Cụ
thể, khách hàng sẽ được trải nghiệm mọi tiện ích tài chính hiện đại và nhanh
chóng bao gồm: chuyển tiền nhanh 24/7, đặt lịch chuyển tiền, gửi tiết kiệm
online, thanh toán hóa đơn điện, nước, viễn thông, y tế, giáo dục, bảo hiểm,
thanh toán dịch vụ hành chính công, nạp tiền điện thoại, đặt vé máy bay,
khách sạn, mua sắm trực tuyến,… Điều này, đã góp phần hạn chế đi lại của
người dân trong bối cảnh giãn cách, hạn chế tiếp xúc nơi đông người.
Trước đó, kết quả khảo sát của Tổng cục Thống kê cho thấy, tại thời điểm từ
10/4/2020-20/4/2020 bằng hình thức trực tuyến đối với 126.565 doanh
nghiệp tham gia trả lời; tại thời điểm điều tra, có tới 85,7% số doanh nghiệp
trên phạm vi cả nước bị tác động bởi dịch COVID-19. Số doanh nghiệp bị
ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 cho rằng thị trường tiêu thụ bị giảm mạnh
chiếm 57,7%. Có 22,1% doanh nghiệp bị thiếu hụt nguyên liệu đầu vào. Có
tới 45,5% số doanh nghiệp khảo sát đang bị thiếu hụt nguồn vốn cho sản xuất
kinh doanh. Chi trả công lao động được đánh giá là gánh nặng lớn nhất đối
với doanh nghiệp thời điểm đó.
Để ứng phó với dịch COVID-19, 66,8% số doanh nghiệp phải áp dụng các
giải pháp liên quan đến lao động; 44,7% doanh nghiệp áp dụng giải pháp
nâng cao trình độ chuyên môn/tay nghề cho người lao động; 5,4% doanh
nghiệp chuyển đổi sản phẩm chủ lực; 7,7% doanh nghiệp tìm thị trường mới
cho nguyên liệu đầu vào; 17% doanh nghiệp tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm
đầu ra ngoài thị trường truyền thống
Bản tiếng anh
1)The situation of businesses during the period of covid
This was a concern of businesses when the possibility of the epidemic has a
huge impact, directly on production and business activities as well as
revenue.
Data from the General Statistics Office show that the COVID-19 pandemic
had dramatically affected enterprises’ production and business activities,
especially those in the fields of tourism, service, catering, and resorts.
Specifically, the revenue from accommodation and catering services in the
first seven months of this year was estimated at 280.9 trillion VND, down
16.6% over the same period last year. Tourism revenue in 7 months was
estimated at 11.1 trillion VND, down 55.4% over the same period the
previous year, according to the data at the end of 2020 from the General
Statistics Office, 2020 there were a total of 101,7 thousand enterprises
suspended business for a definite time, stopped operating pending dissolution
procedures and completed dissolution procedures, an increase of 13.9% over
the previous year. The COVID-19 pandemic had been leaving massive
consequences in all fields in general and for businesses in Vietnam in
particular. Not only the above businesses, the complicated development of
the COVID-19 pandemic in the community, if it develops quickly, also
affects the activities of businesses in other fields such as agricultural
products, apparel, education, etc. …
Typically, at present, for some businesses social distancing and
communication restrictions had affected the business's sales when it was not
possible to work directly with partners; This prompts these businesses to find
solutions to bring products to customers with an effective approach without
going directly to the stores. Specifically, the online sales method was being
applied by many businesses. This was also a sales method that was being
encouraged in the context of the widespread epidemic.
At the same time, some state-owned enterprises had actively and
continuously innovated service quality to attract customers. Typically, in this
area, the Joint Stock Commercial Bank for Foreign Trade of Vietnam
(Vietcombank), on July 16, 2020, officially launched a completely new
Digital Banking service (VCB Digibank) based on merging platforms online
transactions and replacing the bank’s previous Internet Banking and Mobile
Banking services.
This service would provide a seamless, unified experience for customers on
electronic means such as computers and mobile devices, making it easy for
customers to make financial transactions, payments and shopping.
Specifically, customers would experience all modern and fast financial
facilities including 24/7 fast money transfer, money transfer booking, online
savings, electricity, water, telecommunications bill payment, etc. health care,
education, insurance, payment for public administrative services, phone
recharge, flight booking, hotel booking, online shopping, etc. This had
contributed to restricting people's travel in the city. In the context of distance,
limit contact in crowded places.
Previously, the survey results of the General Statistics Office showed that,
from April 10, 2020, to April 20, 2020, by online form for 126,565
enterprises participating in the answer; At the time of the survey, up to 85.7%
of businesses nationwide were affected by the COVID-19 epidemic. The
number of companies affected by the COVID-19 epidemic that said the
consumption market was sharply reduced accounted for 57.7%. There 22.1%
of enterprises with a shortage of input materials. Up to 45.5% of surveyed
enterprises were experiencing a shortage of capital for production and
business. Labor payment was considered to be the most significant burden for
businesses then.
In response to the COVID-19 epidemic, 66.8% of businesses had to apply
labor-related solutions; 44.7% of enterprises apply solutions to improve
professional qualifications/skills for employees; 5.4% of enterprises
converted key products; 7.7% of enterprises find new markets for input
materials; 17% of businesses find markets to consume output products
outside the traditional market
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Về các chính sách và hoạt động của ngành Ngân hàng trong việc hỗ trợ, chia sẻ
khó khăn với doanh nghiệp trong bối cảnh dịch COVID-19
Thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ về hỗ trợ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
đặc biệt trong giai đoạn nền kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi đại dịch
COVID-19, từ đầu năm 2020 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều cơ
chế chính sách về tiền tệ tín dụng và ngân hàng để hỗ trợ cho doanh nghiệp duy trì,
ổn định và phục hồi tăng trưởng, vượt qua khó khăn. NHNN ban hành Thông tư
01/2020/TT-NHNN, Thông tư 03/2021/TT-NHNN, Thông tư 14/2021/TT-NHNN
về việc cơ cấu thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ
trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19. Đến cuối tháng 6/2022,
tín dụng toàn nền kinh tế đạt trên 11.42 triệu tỷ đồng, tăng 9,35% (cùng kỳ năm
2021 tăng 6,47%). Cơ cấu tín dụng tập trung theo đúng định hướng điều hành của
NHNN.
1) Cơ cấu thời hạn trả nợ, miễn phí, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ
Trong đó, các TCTD đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, giữ
nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19 đã
được ban hành từ rất sớm thể hiện được sự thấu hiểu của ngân hàng Nhà nước
trước những khó khăn mà doanh nghiệp đang và sẽ gặp phải trước những ảnh
hưởng của đại dịch Covid-19. Cụ thể: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm
nợ: Lũy kế giá trị nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ là
722.334 tỷ đồng với 1.090.725 khách hàng, dư nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ
nguyên nhóm nợ còn 178.411 tỷ đồng; Miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ:
Lũy kế giá trị nợ được miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ là 92.425 tỷ đồng với
561.989 khách hàng, dư nợ được miễn, giảm lãi, giữ nguyên nhóm nợ còn 16.725
tỷ đồng. Ngoài việc cơ cấu nợ giữ nguyên nhóm nợ, các TCTD đã nhiều lần chủ
động chia sẻ khó khăn với người dân và doanh nghiệp bằng việc miễn giảm phí,
lãi. Đặc biệt thực hiện Nghị quyết 63/NQ-CP ngày 29/6/2021 của Chính phủ, chỉ
đạo của Ngân hàng Nhà nước và kêu gọi của HHNH, các TCTD tùy theo khả năng
tài chính của mình đã tiếp tục giảm lãi suất cho vay tối đa đến 1%/năm các khoản
dư nợ hiện hữu với tổng số tiền lãi giảm cho khách hàng là 21.244 tỷ đồng. Việc
hoãn trả nợ thực sự là hành động cứu cánh kịp thời trong bối cảnh các doanh
nghiệp đang bị sụt giảm doanh thu nghiêm trọng do chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt
gãy, cầu thị trường giảm sút và chi phí trong tuân thủ quy định về phòng và chống
dịch bệnh gia tăng. Bên cạnh đó quyết định miễn, giảm lãi, phí và giữ nguyên
nhóm nợ là sự san sẻ gánh nặng cần thiết bởi trong bối cảnh nền kinh tế ảm đạm do
dịch bệnh gây ra nếu không có những sự hỗ trợ cần thiết thì vô hình chung khiến
các doanh nghiệp đánh mất đi cơ hội có thể tồn tại vượt qua khủng hoảng và phục
hồi trong tương lai.
2) Chính sách hỗ trợ tín dụng
Ngành Ngân hàng tích cực thực hiện chính sách hỗ trợ tín dụng cho các đối tượng
theo chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Cho vay trả lương
ngừng việc và trả lương phục hồi sản xuất theo Nghị quyết 68/NQ-CP ngày
01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử
dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19: Đến ngày 31/3/2022 (ngày
kết thúc chương trình), NHNN đã tái cấp vốn cho NHCSXH để giải ngân trên 63
tỉnh, thành phố với doanh số giải ngân hơn 4.730 tỷ đồng cho gần 1,4 nghìn đơn vị
sử dụng lao động (với hơn 3.561 lượt giải ngân) để trả lương ngừng việc và trả
lương phục hồi sản xuất cho hơn 1,2 triệu lượt người lao động. Đến 30/06/2022, dư
nợ của Chương trình tại NHCSXH còn 4.494 tỷ đồng với 1.406 khách hàng còn dư
nợ.
Về tái cấp vốn cho TCTD sau khi TCTD cho vay đối với Tổng công ty Hàng
không dân dụng Việt Nam (VNA). Đến ngày 31/12/2021, NHNN đã hoàn thành
xong việc tái cấp vốn 4.000 tỷ đồng cho các ngân hàng (SeAbank tối đa 2.000 tỷ
đồng, MSB tối đa 1.000 tỷ đồng, SHB tối đa 1.000 tỷ đồng) đã cho vay VNA theo
Nghị quyết 194 của Chính phủ.
Về chính sách hỗ trợ lãi suất 2% đối với doanh nghiệp, HTX, hộ kinh doanh: Ngày
20/5/2022, Chính phủ ban hành Nghị định 31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất từ
ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh
doanh và NHNN ban hành Thông tư 03/2022/TT-NHNN hướng dẫn NHTM thực
hiện hỗ trợ lãi suất theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP.
Với quy mô dư nợ nền kinh tế đến thời điểm cuối tháng 6/2022 ở mức trên 11,42
triệu tỷ đồng, số đối tượng được hưởng gói hỗ trợ lãi suất chiếm xấp xỉ 30% dư nợ,
với khoảng hơn 30.000 khách hàng tiếp cận gói tín dụng này. Đến ngày 19/8/2022,
doanh số cho vay của gói này đạt gần 4.100 tỷ đồng với gần 550 khách hàng vay,
tương đương 0,5% tổng dư nợ dự kiến cho vay năm nay. Số tiền lãi đã hỗ trợ cho
khách hàng đạt khoảng 1,02 tỷ đồng, dư nợ được hỗ trợ lãi suất đạt 3.966 tỷ
đồng.Sự vào cuộc của ngành Ngân hàng thông qua hàng loạt các giải pháp hỗ trợ
linh hoạt đã và đang tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp ổn định cuộc sống,
khôi phục sản xuất kinh doanh
3) Đánh giá
a) Hiệu quả
Đánh giá về khó khăn, thách thức của các NHTM, việc yêu cầu các NHTM tiết
giảm chi phí, cắt giảm một phần lợi nhuận để san sẻ cho những doanh nghiệp khác
trong nền kinh tế trong bối cảnh dịch bệnh khó khăn là cần thiết và đúng đắn, vì
nếu doanh nghiệp phá sản thì bản thân ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn, nợ xấu
tăng, dẫn đến lợi nhuận sụt giảm.
Sau giai đoạn bị ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19, từ đầu năm 2022 đến nay nhu
cầu vốn phục hồi sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tăng cao. Tính đến
30/6/2022, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đã đạt 9,35%, mức tăng gấp đôi so
với cùng kỳ năm 2021. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và ngân hàng Nhà nước
về có các giải pháp tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch COVID-19,
các NHTM đã chuẩn bị đầy đủ nguồn lực và ủng hộ việc thực hiện các chính sách
hỗ trợ
NHNN đã điều hành tín dụng theo phương châm mở rộng kết hợp với an
toàn, hiệu quả, phù hợp chủ trương từng bước giảm tỷ lệ vốn đầu tư tín dụng
ngân hàng, đổi mới mô hình và nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Các giải pháp, chính sách tín dụng của NHNN đi đúng hướng, bảo đảm an
toàn, cung ứng đầy đủ vốn cho nền kinh tế, phù hợp mục tiêu kiểm soát lạm
phát. Cơ cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung chủ yếu các
lĩnh vực như sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên.
Kiểm soát cung tiền ở mức hợp lý, mà nhất là tăng trưởng tín dụng nhằm
kiềm chế lạm phát,hỗ trợ tăng trưởng kinh tế:
Chính sách tín dụng điều chỉnh phù hợp với diễn biến kinh tế làm góp phần
kiềm chế lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. NHNN có những điều chỉnh
rất linh hoạt lãi suất trong điều hành CSTT khi xuất hiện một vài diễn biến
mới của tình hình, lãi suất bám sát diễn biến chỉ số giá, hỗ trợ thêm doanh
nghiệp trong điều kiện kinh tế khi còn nhiều khó khăn và củng cố niềm tin
của xã hội, mặt bằng lãi suất huy động , cho vay đã giảm mạnh.
b) Hạn chế
Hoạt động cho vay của NHTM với doanh nghiệp dự báo nhiều rủi ro hơn giai
đoạn trước dịch COVID-19
Ngành Ngân hàng sẽ đối mặt với nhiều thách thức, kinh tế thế giới tăng
trưởng chậm lại, một số nước nguy cơ suy thoái, tác động tiêu cực đến triển
vọng xuất khẩu, trong khi đó giải ngân vốn đầu tư chậm so với yêu cầu phục
hồi nền kinh tế, lạm phát, giá cả có xu hướng tăng nhanh và tác động lên đời
sống người dân, làm chậm lại quá trình phục hồi và tăng trưởng tiêu dùng,
đầu tư. Nợ xấu trong hệ thống ngân hàng sẽ có xu hướng tăng cao do tình
hình dịch bệnh khiến nhiều doanh nghiệp mất khả năng thanh toán toàn bộ
hoặc một phần dư nợ tại ngân hàng. Theo các Thông tư hướng dẫn về cơ cấu
nợ, các khoản nợ này chưa bị chuyển nhóm và các NHTM được hỗ trợ việc
trích lập dự phòng rủi ro trải đều qua 3 năm. Khi các NHTM trích lập đầy đủ,
lợi nhuận của hệ thống ngân hàng sẽ giảm mạnh. Ngoài ra, dịch bệnh vẫn
đang diễn biến khó lường, và quay trở lại bất cứ lúc nào, vì vậy, hoạt động
cho vay của NHTM với doanh nghiệp dự báo sẽ rủi ro hơn nhiều so với giai
đoạn trước dịch.
Công tác xử lý nợ xấu của các NHTM gặp nhiều khó khăn: Mặc dù Nghị
quyết số 42 đã tạo hành lang pháp lý xử lý đồng bộ, thống nhất, kiểm soát
chặt chẽ các khoản nợ xấu và xử lý TSBĐ tiền vay của TCTD
Các NHTM gặp vướng mắc trong triển khai hỗ trợ lãi suất theo Nghị định
31/2022/NĐ-CP và Thông tư 03/2022/TT-NHNN: NHTM có tâm lý e ngại
triển khai thực hiện do nhiều chương trình hỗ trợ lãi suất (gồm chương trình
hỗ trợ lãi suất năm 2009 và một số chương trình hỗ trợ lãi suất từ ngân sách
Nhà nước) vẫn chưa được quyết toán số tiền hỗ trợ lãi suất cho khách hàng
trong khi các Ngân hàng phải ứng trước nguồn vốn của mình để triển khai
chương trình; việc xác định đối tượng được hỗ trợ lãi suất gặp khó khăn do
chưa có hướng dẫn cụ thể…
Tỷ lệ doanh nghiệp, người lao động tiếp cận được với một số chính sách hỗ
trợ về thuế, tín dụng, cho vay ưu đãi còn thấp do thủ tục còn phức tạp, một số
điều kiện chưa phù hợp.
KIẾN NGHỊ
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả của các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong
bối cảnh hiện nay, nhóm nghiên cứu đưa ra một số khuyến nghị như sau:
(1) Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thông qua công cụ thuế cần tiếp tục
được thực hiện theo hướng tập trung hơn, đúng đối tượng và thực chất hơn,
theo sát với nhu cầu của doanh nghiệp. Cần có chọn lọc, phân loại ngành
nghề để hỗ trợ trên cơ sở đánh giá tác động của dịch COVID-19.
(2) Về phía các địa phương, cần tăng cường đối thoại với doanh nghiệp nhằm
tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc, trên cơ sở đó có giải pháp tiếp sức
doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh. Một vấn đề quan trọng khác là
phối hợp với các doanh nghiệp thống nhất phương án, điều kiện tổ chức sản
xuất, kinh doanh an toàn, phù hợp với tình hình dịch bệnh ở địa phương và
điều kiện thực tế của doanh nghiệp.
(3) Dịch bệnh vẫn còn diễn biến phức tạp đòi hỏi các chính sách đưa ra phải
liên tục linh hoạt, thay đổi phù hợp bối cảnh.