Professional Documents
Culture Documents
Chương-10 DienTienHuHong TTBT
Chương-10 DienTienHuHong TTBT
Đây là chương duy nhất trong giáo trình trình bày các kiến thức chủ yếu liên quan
đến kỹ thuật bảo trì. Nếu dựa vào tên môn học “Quản lý bảo trì” thì đây là một nửa khối
lượng kiến thức cần trao đổi, tuy nhiên do đối tượng là sinh viên kỹ thuật nên kiến thức
mảng này được rút gọn thành một chương. Chương này chủ yếu đề cập đến các khái
niệm cần thống nhất trong kỹ thuật bảo trì giúp người đọc tiếp cận các công cụ khác
trong quản lý bảo trì một cách hiệu quả hơn. Ngoài ra, chương này nêu lên một trình tự
bảo trì mẫu theo kiểu Đức giúp người quản lý dễ dàng hơn trong quá trình giám sát công
việc bảo trì theo kiểu thủ công hay bằng máy tính (CMMS).
Hình 10.4. Biểu đồ dạng hư hỏng sau thời điểm khởi đầu thiết bị
đi vào ổn định
Khả năng hư hỏng tăng nhanh trong thời điểm ban đầu sau đó giữ mức ổn định.
Ví dụ: Khi xe có 1 bộ phận hư quá nặng, không thể sửa chữa, buộc thay mới bộ
phận đó. Mặc dù đây là một chi tiết mới (khả năng xảy ra hỏng hóc bằng 0) nhưng khi lắp
vào xe nó sẽ nhanh chóng bị bào mòn để hòa hợp hoàn toàn với các chi tiết cũ đã bị mòn
khuyết trước đó thành một khối hoàn chỉnh. Khi ở giai đoạn làm việc ổn định nó sẽ chịu
chung khả năng xảy ra hỏng hóc với các chi tiết kia. Đó là một dạng của Best New. Ví dụ
khi dây sên (chain) xe 2 bánh gắn máy bị dãn (bào mòn quá mức cho phép), nếu chỉ thay
dây sên thì nó sẽ nhanh xuống cấp do nhông và dĩa (hệ thống truyền động xích trong xe 2
bánh) đã mòn. Thông thường nên thay trọn bộ: nhông, sên, dĩa là kinh tế nhất.
5. Hỏng hóc tăng cao ở giai đoạn cuối, sau thời kỳ làm việc ổn định (Worst End)
Khả năng xảy ra hư hỏng chỉ là ngẫu nhiên nhưng cho đến giai đoạn cuối tuổi thọ
thiết bị thì xác suất xảy ra hư hỏng tăng cao.
Hình 10.5. Biểu đồ dạng hư hỏng ở giai đoạn cuối của thời kỳ làm việc ổn định
Dạng hư hỏng này thường gặp ở các thiết bị cơ khí khi giai đoạn chạy rà đã được
nhà máy xử lý trước khi đến tay người sử dụng. Do đó giai đoạn đầu của đường cong
chậu tắm (mục 6 ngay dưới đây) bị cắt đi chỉ còn giai đoạn sau. Các chi tiết sẽ làm việc
ổn định cho đến khi mức độ bào mòn vượt quá mức quy định, thiết bị có xác suất hư
hỏng tăng cao. Một ví dụ điển hình tại Việt Nam đó là hãng xe máy Honda Việt nam. Tất
cả các xe Honda sản xuất tại Việt Nam đã được chạy rà tại nhà máy ở Vĩnh Phúc nên
người sử dụng mua xe chỉ việc sử dụng không cần thiết phải chạy rà. Đó là một dạng của
Worst End.
6. Dạng đường cong chậu tắm (Bathtube)
Hình 10.7: Đường cong biểu diễn tỷ lệ hư hỏng, chiến lược bảo trì trong tuổi bền
thiết bị
Nếu sử dụng bảo trì định kỳ, khả năng hỏng hóc sẽ giảm rất nhiều, minh họa qua
hình 10.8. Ban đầu (thời điểm 0) khả năng hỏng hóc cao do máy chưa chạy rà (rô đai).
Sau một thời gian thiết bị sẽ đi vào vùng làm việc ổn định. Không để thiết bị vào vùng
lão hóa, thông qua các lần kiểm định như hình 10.7, tại thời điểm T1 người ta tiến hành
bảo trì thiết bị, thiết bị gần như trở lại trạng thái đầu,… Tương tự ở các thời điểm T2,
T3, … Như vậy, thiết bị sẽ có độ hỏng hóc trung bình theo đường nằm ngang.
Hình 10.8: Đường cong biểu diễn tỉ lệ hư hỏng giảm nhiều
khi sử dụng bảo trì định kỳ
10.3. GIẢI PHÁP BẢO TRÌ
Bảo trì hiện đại không chấp nhận máy móc dừng ngoài kế hoạch, do đó trong tổ
chức từ người quản lý cao nhất đến công nhân đang làm việc tại nhà máy đều phải biết
chính sách bảo trì. Khi hỏng hóc xuất hiện, người vận hành, người bảo trì hay các bên
liên quan phải đặt vấn đề làm sao có thể tránh sai sót này xảy ra một lần nữa. Có thể lựa
chọn giải pháp bảo trì bằng cách nêu một loạt câu hỏi và trả lời theo trình tự sau đây:
- Có thể thiết kế lại để tránh hư hỏng hay không? – Phương thức bảo trì tác động
trở lại quá trình thiết kế (DOM) Dù quy trình thiết kế có hoàn thiện tới đâu nhưng “Nhân
bất thập toàn”, sản phẩm nào cũng được thực hiện bởi con người do đó chắc chắn quy
trình thiết kế sẽ còn lỗi. DOM sẽ hỗ trợ tìm ra lỗi trong quá trình thiết kế từ đó khắc phục
ngay trong quá trình chế tạo.
- Nếu không thể thiết kế lại thì bước kế tiếp trong chiến lược bảo trì là phải cố gắng
kéo dài tuổi thọ của chi tiết thiết bị. Lúc này có thể đặt câu hỏi: “Có thể kéo dài
tuổi thọ của chi tiết hay không?” Ở đây phù hợp nhất chính là sử dụng công cụ
Quản lý theo vòng đời thiết bị (LCPM). Sau khi thực hiện một chu kỳ LCPM,
người quản lý bảo trì sẽ sử dụng các công cụ cần thiết để thiết kế lại chu trình
LCPM mới. Cụ thể là phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm chu kỳ cũ để xây
dựng chu kỳ LCPM mới có vòng đời thiết bị cao hơn.
- Nếu không thể kéo dài tuổi thọ của chi tiết thì bước kế tiếp là phải cố gắng áp
dụng chiến lược bảo trì theo tình trạng trong suốt thời gian vận hành để sớm tìm ra những
sai sót trong thời kỳ phát triển hư hỏng và có thể lập kế hoạch sửa chữa để giảm hậu quả
hư hỏng.
- Đối với một số thiết bị phức tạp, đôi khi không thể giám sát được tình trạng trong
quá trình vận hành. Lúc này người quản lý có thể xem xét theo hướng bảo trì khi ngừng
máy theo kế hoạch: chiến lược bảo trì định kỳ. Giải pháp này sẽ rất thích hợp nếu như
thiết bị có LCPM ổn định như nhớt xe máy, dầu thủy lực,…
- Đôi khi đã dùng chiến lược bảo trì định kỳ, vẫn không hiệu quả vì khó xác định
được khoảng thời gian giữa những lần hư hỏng xảy ra, nghĩa là hư hỏng là ngẫu nhiên và
phải nghĩ tiếp đến giải pháp dự phòng. Có thể áp dụng dự phòng được không? Nếu không
có giải pháp bảo trì nào nêu trên được áp dụng thì giải pháp dự phòng phải được xem xét
trước khi quyết định đi đến giải pháp bảo trì khi đã bị ngừng máy. Giải pháp này phải
xem xét cẩn thận về mặt kinh tế.
- Khi xét đến tính kinh tế, giải pháp bảo trì dự phòng đôi khi không thể ứng dụng,
lúc này phải chấp nhận vận hành đến khi hư hỏng. Giải pháp bảo trì này mang tính chữa
cháy vì hư hỏng mang tính ngẫu nhiên và không có khả năng phát hiện hư hỏng. Thoạt
nhìn có vẻ rất kinh tế vì chi phí bảo trì rất thấp nhưng nó chỉ đúng khi hư hỏng xảy ra
không gây tổn thất lớn. Có những trường hợp hư hỏng thứ cấp (secondary failures) sẽ gây
nên hao phí rất lớn. Lúc này cần hạch toán chi phí (Adjust account: điều chỉnh tải khoản +
Record keeping: lưu trữ dữ liệu + Accounting: kế toán) nhằm xem xét lại đâu là giải pháp
bảo trì hợp lý nhất.
Khi lựa chọn giải pháp bảo trì, người quản lý bảo trì phải xem xét cả 2 mặt: tính
kinh tế và tính kỹ thuật để lựa chọn giải pháp tối ưu. Không có giải pháp nào là “số một”,
chỉ có giải pháp phù hợp “số một” trong một hoàn cảnh cụ thể.
Dự trù vật tư