Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 109

Đỗ Thiên Kính

PHÂN TẦNG XÃ HỘI VÀ DI ĐỘNG XÃ HỘI


Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Hà Nội - 2017

2
Mục lục
Lời giới thiệu... ............................................................................................................................7
Chương I – K HÁI LƯỢC VỀ PH ÂN TẦNG XÃ HỘI VÀ DI ĐỘNG XÃ HỘ I.. 10
Đề dẫn ....................................................................................................................................10
1. Tìm hiểu phân tầng xã hội ..................................................................................................13
2. Phương pháp đo lường phổ biến các tầng lớp xã hội........................................................... 23
3. Di động xã hội ................................................................................................................... 26
4. Đo lường di động xã hội ....................................................................................................32
5. Khái quát về phân tầng xã hội ở Việt Nam từ truyền thống đến trước đổi mới .................... 43
6. Một số vấn đề đặt ra từ tổng quan nghiên cứu giai tầng trong thời kỳ đổi mới .................... 48
Chương II – THỰ C TRẠ NG VÀ XU HƯ ỚNG BIẾN ĐỔ I MÔ HÌNH PHÂN
TẦNG XÃ HỘ I ............................................................................................ 54
1. Cơ sở số liệu ...................................................................................................................... 54
2. Phương pháp nghiên cứu ....................................................................................................57
3. Địa vị kinh tế - xã hội cao thấp giữa các tầng lớp xã hội..................................................... 63
4. Mô hình phân tầng xã hội có hình dạng “kim tự tháp” trong cả nước và hình “quả trám” ở
khu vực đô thị .................................................................................................................... 66
5. Tình trạng bất bình đẳng ngày càng tăng giữa các tầng lớp xã hội ...................................... 69
Chương III – DI ĐỘ NG XÃ HỘI G IỮA CÁC TẦNG LỚP.....................................78
1. Di động xã hội trong cả nước và xu hướng biến đổi của nó ................................................ 78
2. Nguyên nhân của di động xã hội ........................................................................................ 91
Chương IV – K ẾT LUẬN VÀ M ỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN ĐẶT RA .................. 94
1. Kết luận ............................................................................................................................. 94
2. Một số vấn đề cơ bản đặt ra................................................................................................ 96
3. Khuyến nghị định hướng cho phát triển xã hội ................................................................. 100
Phụ lục………. ........................................................................................................................ 103
Tài liệu trích dẫn .................................................................................................................... 104

3
Các chữ viết tắt

CNH Công nghiệp hóa


ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
KT-XH Kinh tế - xã hội
TCTK Tổng cục Thống kê
TLSX Tư liệu sản xuất
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
VHLSS Khảo sát Mức sống Dân cư Việt Nam
XHCN Xã hội chủ nghĩa

4
Các bảng

Bảng 1. 1. Các loại tài sản, nguồn lực và nguồn lợi quy định hệ thống phân tầng xã
hội ......................................................................................................... 14
Bảng 1. 2. Tóm tắt một số cách tiếp cận đo lường các tầng lớp xã hội ................... 24
Bảng 1. 3. Đo lường di động xã hội từ thế hệ cha sang thế hệ con ......................... 33
Bảng 1. 4. Các thông số và đặc trưng cơ bản về những hệ thống phân tầng xã hội
điển hình trên thế giới ........................................................................... 40
Bảng 1. 5. Những nét đại cương về phân tầng xã hội ở Việt Nam từ truyền thống
đến trước đổi mới .................................................................................. 43

Bảng 2. 1. Điểm số uy tín các nhóm nghề nghiệp ở Hà Nội, Bắc Ninh (2010) và
Đông Nam Bộ (2015) ............................................................................ 55
Bảng 2. 2. Điểm số trung bình về uy tín nghề nghiệp ở 55 nước trên thế giới ........ 56
Bảng 2. 3. 48 lĩnh vực nghề nghiệp ở Việt Nam (mã số nghề cấp II, gồm 2 chữ số)
.............................................................................................................. 60
Bảng 2. 4. Một số chỉ báo về địa vị kinh tế - xã hội của các tầng lớp ở Việt Nam
(2010~2014).......................................................................................... 63
Bảng 2. 5. Địa vị kinh tế - xã hội của đảng viên và người ngoài đảng (2014)......... 64
Bảng 2. 6. Tỉ lệ dân số các tầng lớp xã hội ở Việt Nam (2002~2014) .................... 66
Bảng 2. 7. Tỉ lệ dân số các tầng lớp xã hội ở khu vực nông thôn và đô thị (2002,
2014) ..................................................................................................... 67
Bảng 2. 8. Trị giá chỗ ở chính và khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp xã hội
(2002~2014).......................................................................................... 71
Bảng 2. 9. Các tầng lớp xã hội sống trong loại nhà ở nào (2014) ........................... 72
Bảng 2. 10. Tỉ lệ các tầng lớp xã hội có mảnh đất ở, hoặc nhà ở khác (2002~2014)
.............................................................................................................. 74
Bảng 2. 11. So với 5 năm trước, cuộc sống gia đình ông/bà có được cải thiện hơn
không? .................................................................................................. 77

Bảng 3. 1. Ma trận dịch chuyển cá nhân giữa các tầng lớp xã hội (2002-2004) ...... 79
Bảng 3. 2. Ma trận dịch chuyển cá nhân giữa các tầng lớp xã hội (2004-2006) ...... 79
Bảng 3. 3. Ma trận dịch chuyển cá nhân giữa các tầng lớp xã hội (2006-2008) ...... 80
Bảng 3. 4. Ma trận dịch chuyển cá nhân giữa các tầng lớp xã hội (2010-2012) ...... 80
Bảng 3. 5. Ma trận dịch chuyển cá nhân giữa các tầng lớp xã hội (2012-2014) ...... 80
Bảng 3. 6. Di động đi ra từ nghề nghiệp trước đây đến các nghề nghiệp hiện tại ... 81
Bảng 3. 7. Di động đi vào nghề nghiệp hiện tại từ các nghề nghiệp trước đây ....... 83
Bảng 3. 8. Di động đi ra và di động đi vào của ba giai tầng xã hội ......................... 85
Bảng 3. 9. Các chỉ số về di động xã hội qua khảo sát VHLSS (2002~2014) .......... 86
Bảng 3. 10. Tỉ lệ % khác nhau giữa hai mép lề trong các bảng ma trận di động xã
hội ......................................................................................................... 88
Bảng 3. 11. Các chỉ số về di động xã hội ở Nhật Bản............................................. 91

5
Các hình
Hình 1. 1. Mô hình cơ bản về quy trình phân tầng xã hội ....................................... 28
Hình 1. 2. Mô hình đạt được địa vị của di động xã hội ........................................... 31
Hình 1. 3. Vị trí các đẳng cấp trong hành lang quán Giá (năm 1937) ..................... 45
Hình 1. 4. Mô hình “2 giai, 1 tầng” (hoặc nhiều tầng) đang thay đổi theo thời gian
........................................................................................................................ 53

Hình 2. 1. Địa vị kinh tế - xã hội của các tầng lớp ở Việt Nam (2014) ................... 64
Hình 2. 2. Sơ đồ 3 tầng lớp xã hội (cao, trung lưu, thấp) ở Việt Nam..................... 65
Hình 2. 3. Mô hình các tầng lớp xã hội ở Việt Nam (2002~2014) .......................... 67
Hình 2. 4. Mô hình các tầng lớp xã hội ở nông thôn và đô thị (2002, 2014) ........... 68
Hình 2. 5. Bất bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội qua trị giá chỗ ở chính
(2002~2014).................................................................................................... 71
Hình 2. 6. Các tầng lớp xã hội sống trong loại nhà ở nào (2014) ............................ 72
Hình 2. 7. Tỉ lệ các tầng lớp xã hội có mảnh đất ở, hoặc nhà ở khác (2002~2014) . 74
Hình 2. 8. Diện tích đất trồng trọt do các hộ gia đình ở nông thôn quản lý và sử
dụng ................................................................................................................ 75

Hộp

Hộp 1. 1. Mô hình 5 giai cấp cơ bản trong xã hội công nghiệp trên thế giới........... 12

6
Lời giới thiệu
Ở Việt Nam, nhiều người nghiên cứu phân tầng xã hội từ đầu những năm
1990 cho đến hiện nay, nhưng chưa có ai tìm hiểu chủ đề này như các nhà xã hội
học trên thế giới thường nghiên cứu về nó. Điều này thể hiện sự lạc hậu trong
nghiên cứu phân tầng xã hội ở Việt Nam so với quốc tế và đã thôi thúc tôi viết cuốn
sách này. Cuốn sách là kết quả tích lũy kiến thức nghiên cứu trong nhiều năm của
tác giả và kế thừa trực tiếp từ công trình nghiên cứu trước đây của mình (Đỗ Thiên
Kính, 2012). Cuốn sách trình bày những nội dung về lý thuyết và thực nghiệm phân
tầng xã hội, di động xã hội trong cả nước theo hướng hội nhập với quốc tế trong
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Nhưng, đó cũng chỉ là những nội dung thiết thực
trước mắt đối với tình trạng nghiên cứu về phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay
mà thôi. Trong đó, riêng nội dung về di động xã hội có rất ít người nghiên cứu xã
hội học ở Việt Nam thấu hiểu theo nghĩa là có thể đo lường di động xã hội như thế
nào. Chi tiết hơn, xin giới thiệu những nội dung cụ thể được đề cập trong bốn
chương của cuốn sách.
Chương I trình bày và tìm hiểu một số nội dung khái lược về lý thuyết phân
tầng xã hội và di động xã hội. Trong đó, phương pháp đo lường phổ biến các tầng
lớp xã hội và đo lường di động xã hội chắc là mới lạ đối với đa số người nghiên cứu
ở Việt Nam. Đồng thời, chương này cũng tìm hiểu một số nét khái quát về phân
tầng xã hội ở Việt Nam từ truyền thống đến trước đổi mới. Kết quả nghiên cứu cho
thấy cấu trúc xã hội Việt Nam truyền thống “Vua-quan-địa chủ – Sĩ – Nông – Công
– Thương” đã thể hiện lý thuyết phân tầng xã hội của xã hội học quốc tế. Từ lý
thuyết xã hội học đã đặt ra một số vấn đề cho nghiên cứu phân tầng xã hội và di
động xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới: Tiêu chuẩn phân chia các tầng lớp
xã hội là gì? Hệ thống phân tầng xã hội bao gồm những tầng lớp nào? Sắp xếp thứ
bậc các tầng lớp xã hội như thế nào? Mô hình tổng thể các tầng lớp xã hội có hình
dạng gì? Di động xã hội giữa các tầng lớp ra sao? Những vấn đề đặt ra này sẽ được
đề cập và giải quyết trong Chương II và Chương III tiếp theo. Hai chương này trình
bày sự vận dụng lý thuyết từ Chương I vào thực nghiệm về phân tầng xã hội và di
động xã hội ở Việt Nam (dựa trên cơ sở phân tích các bộ số liệu Khảo sát Mức sống
Dân cư Việt Nam).
Chương II trình bày về mô hình phân tầng xã hội giữa các giai tầng. Kết quả
nghiên cứu cho thấy bức tranh khác hẳn với quan điểm “hai giai [cấp] một tầng
[lớp]” tồn tại từ thời quan liêu bao cấp cho đến hiện nay. Cụ thể là, đa số các nhà xã
hội học quốc tế đã dựa vào nghề nghiệp để phân nhóm và xếp hạng theo tôn ti trật
tự trên dưới thành các tầng lớp xã hội. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ở
Việt Nam, áp dụng sự phân nhóm dựa vào nghề nghiệp và xếp hạng cao thấp theo
một số chỉ báo địa vị kinh tế-xã hội, ta có được cấu trúc thứ bậc từ trên xuống dưới
bao gồm 9 tầng lớp xã hội cơ bản trong cả nước. Đó là (1) Những người Lãnh đạo
các cấp và các ngành; (2) Nhóm Doanh nhân; (3) Những người Chuyên môn bậc
cao; (4) Những người Nhân viên; (5) Những người Công nhân (thợ thuyền); (6)
Tầng lớp Buôn bán – Dịch vụ; (7) Những người Tiểu thủ công nghiệp; (8) Những

7
người Lao động giản đơn; (9) Tầng lớp Nông dân. Các tầng lớp này tạo thành mô
hình phân tầng xã hội có hình dạng “kim tự tháp” với đa số nông dân ở dưới đáy.
Đây là mô hình phân tầng hai cực thể hiện sự bất bình đẳng xã hội thuộc loại cao.
Khi so sánh trở lại với xã hội Việt Nam truyền thống trong lịch sử, thì trật
tự/thứ bậc giữa các tầng lớp xã hội hiện nay đã có sự thay đổi. Tầng lớp thợ thủ
công và tiểu thương (“con buôn”) trước kia được xếp ở vị trí cuối cùng trong xã hội
(Vua-quan-địa chủ – Sĩ – Nông – Công – Thương), thì hiện nay hai tầng lớp này đã
có vị trí cao hơn. Trong khi đó, tầng lớp nông dân chuyển xuống vị trí phía dưới
trong bậc thang xã hội. Riêng tầng lớp Sĩ/trí thức (trung lưu bậc trên) vẫn giữ địa vị
cao từ trong xã hội truyền thống ngày xưa cho đến hiện nay. Ấy thế mà, tư duy lý
luận chủ quan thời bao cấp (và vẫn còn ảnh hưởng đến hiện nay) lại xếp tầng lớp trí
thức ở vào vị trí cuối cùng trong xã hội: “Công – Nông – Binh – Trí sắp hàng tiến
lên”.
Chương III trình bày về di động xã hội giữa các giai tầng. Kết quả nghiên
cứu cho thấy sự di động giữa các tầng lớp xã hội có tăng lên nhưng còn chậm chạp.
Thực trạng di động xã hội này đã phản ánh quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế cũng
chậm chạp không kém. Đặc biệt là, sự di động ra khỏi tầng lớp nông dân còn chậm
chạp và quá trình rút bớt lao động nông nghiệp ở Việt Nam để chuyển sang phi
nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Đối với nguyên nhân gây ra sự di động xã hội
giữa các giai tầng ở Việt Nam cho thấy rằng nguyên nhân phi cấu trúc là chính, còn
nguyên nhân thuộc về cấu trúc chiếm phần nhỏ. Chỉ khi nào nguyên nhân tạo nên
sự di động xã hội thuộc về cấu trúc (tức là chủ yếu do sự thay đổi của cơ cấu kinh
tế) thì khi ấy sự thay đổi của cấu trúc xã hội mới là căn bản. Nhìn vào Việt Nam thì
nước ta chưa đạt tới điều này. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu ở Chương II và
Chương III đã đặt ra một số vấn đề từ thực tiễn xã hội Việt Nam. Một số vấn đề đặt
ra này được trình bày ở Chương IV tiếp theo.
Chương IV trình bày sự cần thiết phải thay đổi nhận thức lý luận về giai cấp
công nhân. Trước hết, phải thay đổi nhận thức về các thành phần của giai cấp công
nhân. Tiếp theo, phải thay đổi nhận thức về thứ bậc giữa các tầng lớp và tầng lớp
nào lãnh đạo xã hội. Cuối cùng, trên cơ sở thực trạng tầng lớp trung lưu còn nhỏ bé
và tầng lớp nông dân rất đông đảo, một vấn đề cơ bản đặt ra là khi nào Việt Nam
trở thành nước công nghiệp? Cuốn sách nghiêng về dự báo Việt Nam sẽ cơ bản trở
thành nước công nghiệp vào năm 2040 với tầng lớp nông dân sẽ thu hẹp lại và tầng
lớp trung lưu mở rộng sẽ chiếm tỉ lệ đông đảo. Mô hình xã hội có tầng lớp trung lưu
đông đảo sẽ ít phân cực hơn. Đến khi ấy, xã hội Việt Nam mới thực sự trở thành
nước công nghiệp. Cũng đến lúc ấy, tầng lớp nông dân đông đảo ở đáy kim tự tháp
mới bị thu hẹp căn bản và chuyển dịch đi lên các tầng lớp trung lưu. Khi mô hình
xã hội trung lưu có dạng “quả trám” trở thành hiện thực, thì nó sẽ thay thế cho mô
hình “kim tự tháp” hiện nay ở Việt Nam.
Tôi hy vọng rằng, công trình này sẽ là những viên gạch xây dựng nền móng
cho nghiên cứu phân tầng xã hội Việt Nam trong tương lai. Cuốn sách này có thể
được sử dụng làm tài liệu giảng dạy và tham khảo để nghiên cứu đối với ai quan

8
tâm đến lĩnh vực phân tầng xã hội ở Việt Nam. Nhân dịp cuốn sách xuất bản, tác
giả chân thành cám ơn Viện Xã hội học và Nhà xuất bản Khoa học xã hội đã tạo
điều kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứu và xuất bản cuốn sách này. Tác giả
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của độc giả về công trình này để những
nghiên cứu tương tự trong tương lai được tốt hơn.

Tác giả
Đỗ Thiên Kính
Email: kinhdt@gmail.com

9
Chương I – KHÁI LƯỢC VỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI VÀ DI
ĐỘNG XÃ HỘI
Đề dẫn
Các khái niệm giai cấp, tầng lớp, hoặc giai tầng trong công trình nghiên cứu
này có nghĩa nội dung tương tự nhau. Để hiểu phân tầng trong xã hội công nghiệp
hiện nay, cần phải hiểu phân tầng xã hội trong lịch sử. Các hệ thống phân tầng
đương đại khác biệt đáng kể với các hệ thống phân tầng cơ bản trong lịch sử.
Chế độ chiếm hữu nô lệ (slavery) là một dạng thức cực đoan của phân tầng
xã hội dựa trên một chiều cạnh kinh tế chủ yếu là sở hữu con người (Kerbo,
2000:523). Trong xã hội đó, con người được phân chia thành hai loại (chủ nô và nô
lệ) dựa trên sở hữu của một số người đối với những người khác được coi như là tài
sản của họ. Chủ nô chiếm hữu nô lệ như là một thứ tư liệu sản xuất (TLSX). Mối
quan hệ giữa chủ nô và nô lệ như vậy được pháp luật thừa nhận. Hệ thống đẳng cấp
(caste) là một dạng thức phân tầng xã hội khép kín dựa trên cơ sở thứ bậc địa vị và
sự quy gán sẵn nghiêm ngặt (Kerbo, 2000:518). Trong đó, địa vị xã hội của cá nhân
được xác lập ngay từ khi sinh ra và không thể thay đổi. Địa vị này được trao truyền
từ thế hệ này sang thế hệ khác (cha truyền con nối). Giữa các đẳng cấp được xếp
hạng theo tôn ti trật tự trên dưới và có ranh giới phân chia cứng nhắc. Các đẳng cấp
là khép kín và đẳng cấp dưới không thể di động lên đẳng cấp trên. Những thành
viên thuộc các đẳng cấp khác nhau không được kết hôn với nhau. Chế độ phong
kiến châu Âu (estates) là một dạng thức phân tầng trong xã hội nông nghiệp dựa
trên sở hữu đất đai với mức độ cao về quy gán sẵn (Kerbo, 2000:520). Các tầng lớp
được phân chia dựa trên cơ sở về sở hữu ruộng đất có quyền thừa kế và được thiết
lập bởi pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của mỗi tầng lớp. Các tầng lớp là
khép kín, có ranh giới phân chia riêng biệt và tầng lớp dưới rất khó có thể di động
lên tầng lớp trên.
Hệ thống giai cấp (class system) là một hệ thống phân tầng mở trong xã hội
công nghiệp. Nó chủ yếu dựa trên cơ sở địa vị kinh tế (và cũng dựa trên địa vị
quyền lực trong mức độ nhất định) và bao gồm sự kết hợp của quy gán sẵn và giành
đạt được (Kerbo, 2000:519). Mặc dù giai cấp là khái niệm được sử dụng thường
xuyên nhất trong xã hội học, nhưng vẫn chưa có sự tán thành rõ ràng trong việc đưa
ra định nghĩa tốt nhất về khái niệm này như thế nào. Đối với K. Marx, giai cấp bao
gồm những người ở vị trí có mối quan hệ cùng nhau đối với tư liệu sản xuất và mối
quan hệ giữa các giai cấp là quan hệ bóc lột. M. Weber cũng nhìn giai cấp như một
phạm trù kinh tế, nhưng ông nhấn mạnh sự tương tác của nó với địa vị xã hội và
đảng phái (Giddens, 2001:284, 684). M. Weber còn đưa ra khái niệm cơ hội cuộc
đời (life chances) là cách tốt nhất để hiểu nghĩa giai cấp là gì. Cơ hội cuộc đời có
nghĩa là những cơ hội của một người để nhằm đạt được sự thịnh vượng về kinh tế
(Giddens, Anthony and Mitchell Duneier, 2000:148, 542). Hoặc, “một trong những
định nghĩa chung nhất, phổ biến nhất về giai cấp là nhóm người có địa vị tương tự
nhau, có lợi ích kinh tế và chính trị cũng tương tự nhau trong hệ thống phân tầng.

10
Theo Max Weber, giai cấp là một chiều cạnh của phân tầng xã hội dựa trên sở hữu
tài sản (hoặc không sở hữu) – như lý thuyết Macxit, và cũng dựa trên trình độ kỹ
năng nghề nghiệp” (Kerbo, 2000:519). Cũng theo cách diễn đạt của Harold R.
Kerbo, sự phân chia giai cấp dựa trên cơ sở ba tiêu chuẩn chủ yếu: (1) Vị trí của
một cá nhân trong cấu trúc nghề nghiệp; (2) Vị trí của một cá nhân trong các cấu
trúc quyền hành (có bao nhiêu người phải tuân theo lệnh đối với bao nhiêu cá nhân
đưa ra lệnh); (3) Sở hữu tài sản của một cá nhân (hoặc cụ thể hơn là sở hữu TLSX,
vốn) – có thể gọi đó là cấu trúc tài sản. Trong đó, cấu trúc nghề nghiệp là dạng thức
phân tầng dễ nhận thấy phổ biến nhất (trong sự tương phản với các quan hệ tài sản
và khác biệt quyền lực), bởi vì hầu hết mọi người trong các xã hội công nghiệp đều
phụ thuộc vào thu nhập từ nghề nghiệp (Kerbo, 2000:12, 125). Có lẽ do vậy mà thời
gian gần đây, các nhà khoa học xã hội đã sử dụng rộng rãi nghề nghiệp như là chỉ
báo giai cấp xã hội. Những người khác thì nhấn mạnh đến sở hữu tài sản và của cải,
thậm chí họ lựa chọn cả phong cách sống. Như thế, chúng ta có thể định nghĩa giai
cấp là tập đoàn lớn những người cùng nhau chia sẻ những nguồn lực kinh tế. Những
nguồn lực này có ảnh hưởng mạnh đến phong cách sống mà người ta hướng theo.
Sở hữu của cải và nghề nghiệp là cơ sở chủ yếu của sự phân biệt giai cấp (Giddens,
2001:282, 684-685). Hệ thống giai cấp có bốn đặc điểm nổi bật khác với ba hệ
thống trước đó như trình bày dưới đây (Giddens, Anthony and Mitchell Duneier,
2000:148; Giddens, 2001:282):
 Sự phân chia giai cấp dựa trên cơ sở kinh tế (tức là bất bình đẳng về sở hữu
và kiểm soát các nguồn lực vật chất). Trong các hệ thống phân tầng khác, các
nhân tố phi kinh tế (như ảnh hưởng của tôn giáo trong hệ thống đẳng cấp Ấn
Độ) là quan trọng nhất (tức là những bất bình đẳng thường mang tính chất
pháp lý hoặc tôn giáo).
 Hệ thống giai cấp là lỏng lẻo/mềm dẻo (fluid) hơn các hệ thống phân tầng
khác và ranh giới giữa các giai cấp thường không rõ ràng. Không như các
kiểu loại tầng lớp khác, các giai cấp không được thiết lập bởi những điều
khoản luật pháp, hoặc tôn giáo. Các thành viên giai cấp thường không dựa
trên cơ sở kế thừa địa vị bởi luật pháp hoặc tục lệ. Không có hạn chế chính
thức về kết hôn giữa những thành viên thuộc các giai cấp khác nhau.
 Địa vị giai cấp có một phần là địa vị giành đạt được (phải phấn đấu mới
giành được), chứ không đơn giản được “ban cho” cá nhân từ lúc sinh ra như
trong các hệ thống phân tầng khác. Di động xã hội đi lên, đi xuống trong cấu
trúc giai cấp là phổ biến và thường xuyên hơn các hệ thống phân tầng khác.
 Trong các hệ thống phân tầng khác, sự bất bình đẳng được biểu hiện chủ yếu
thông qua mối quan hệ cá nhân về nghĩa vụ và bổn phận giữa tá điền và điền
chủ, nô lệ và chủ nô, các cá nhân ở đẳng cấp cao và đẳng cấp thấp. Ngược
lại, hệ thống giai cấp hoạt động chủ yếu thông qua sự kết nối rộng rãi của
những cá nhân nói chung (không nói về riêng ai). Ví dụ, một cơ sở căn bản
của phân biệt giai cấp là sự bất bình đẳng về tiền lương và điều kiện làm việc.
Những điều này tác động đến mọi người trong các nhóm nghề nghiệp xác

11
định và nó như là kết quả của hoàn cảnh kinh tế đang thịnh hành trong nền
kinh tế nói chung.
Từ nội dung khái quát về hệ thống giai cấp ở trên, các nhà nghiên cứu đã tạo
dựng nên mô hình 5 giai cấp cơ bản phổ biến đối với hầu hết các quốc gia công
nghiệp (Rothman, 2005:43) được thể hiện ở Hộp 1.1.
Hộp 1. 1. Mô hình 5 giai cấp cơ bản trong xã hội công nghiệp trên thế giới
1. Giai cấp tinh hoa/thượng lưu (elite class) bao gồm số ít người có thế lực đặc biệt về kinh tế, xã
hội và chính trị. Họ ở trên đỉnh cao nhất của hệ thống phân tầng. Giai cấp này bao gồm hai
nhóm: (1) Giới quan chức tinh hoa (institutional elite) bao gồm cả nam và nữ ở vị trí thượng
đỉnh trong các cơ quan, tổ chức chủ đạo và có ảnh hưởng lớn của chính phủ, giới kinh doanh,
lĩnh vực công nghiệp, truyền thông, giáo dục và tôn giáo; (2) Giới tinh hoa các nhà tư bản
(capitalist elite) bao gồm các cá nhân và gia đình có quyền lực được bắt nguồn từ của cải và tài
sản của họ (hơn là từ vị trí theo cấu trúc).
2. Giai cấp trung lưu lớp trên (upper middle class) bao gồm những người có nghề nghiệp trên cơ
sở tri thức chuyên môn (ví dụ những người chuyên nghiệp hưởng lương, như các bác sĩ, luật
sư, nhà khoa học, kiến trúc sư, kỹ trị cao cấp, kỹ sư, lập trình computer), những người quản
lý. Những người này tương đối ít tài sản, nhưng có vị trí cao (hoặc trung bình) trong nghề
nghiệp.
3. Giai cấp trung lưu lớp dưới (lower middle class) bao gồm những người như giáo viên phổ
thông, các loại nhân viên (kỹ thuật, bảo hiểm, bán hàng, văn phòng, thư ký, dịch vụ) và công
chức.
4. Giai cấp lao động (working class) bao gồm những người lao động chân tay (còn gọi là công
nhân cổ xanh) trong các nhà máy, công xưởng, hầm mỏ, trang trại, lái xe tải, máy kéo, taxi,
những người cứu hỏa và quản giáo. Những người này có ít, hoặc không có tài sản, quyền hành.
5. Giai cấp hạ lưu/nghèo (poor/lower class) ở dưới đáy của hệ thống phân tầng. Họ bao gồm
những người sống ở bên lề hệ thống sản xuất. Họ không có kỹ năng và làm những công việc
dọn dẹp nhà cửa, văn phòng, nơi công cộng, hoặc là những người thất nghiệp. Những người
này không có tài sản và quyền hành.
Nguồn: Biên tập lại (có bổ sung và thay đổi) từ các nguồn tài liệu (Rothman, 2005:60, 61; Kerbo,
2000:13, 218; Scott, 2009:469, 470)
Hộp 1.1 thể hiện sự phân chia giai cấp theo ba tiêu chuẩn chủ yếu đã dẫn từ
Harold R. Kerbo trên đây. Trong đó, giai cấp tinh hoa/thượng lưu ở trên đỉnh được
xác định dựa trên sở hữu, kiểm soát tài sản và quyền lực (tức là dựa trên cấu trúc tài
sản và cấu trúc quyền lực). Giai cấp này có sở hữu và kiểm soát nhiều nguồn lực
nhất, còn giai cấp hạ lưu/nghèo ở dưới đáy có ít nguồn lực nhất và không có quyền
hành. Ba giai cấp ở giữa được xác định dựa trên cấu trúc nghề nghiệp. Như vậy, các
chiều cạnh xác định giai cấp bao gồm cả tài sản, quyền lực và uy tín nghề nghiệp
(dựa trên lý thuyết phân tầng xã hội của M. Weber, có bao hàm cả K. Marx). Các
chiều cạnh này cùng nhau hội tụ vào giai cấp trên đỉnh và không hội tụ vào giai cấp
dưới đáy. Tức là, giai cấp trên đỉnh có nhiều tài sản, quyền lực và địa vị xã hội cao.
Còn giai cấp dưới đáy có ít, hoặc không có những thứ này. Các giai cấp đáng quan
tâm và đại diện cho xã hội công nghiệp trong Hộp 1.1 là giai cấp trung lưu ngày

12
càng mở rộng và chiếm phần lớn trong các nước công nghiệp: “Theo hầu hết những
quan sát, giai cấp trung lưu hiện nay bao gồm phần lớn dân số nước Anh và hầu hết
các nước đã công nghiệp hóa khác” (Giddens, 2001:293). Những nét đại cương về
các hệ thống phân tầng trong lịch sử trên đây đã thể hiện như là một bức tranh tổng
quát về bất bình đẳng trở nên rộng khắp trong hầu hết các xã hội con người. Từ đây,
chúng ta có thể hiểu rằng, xung đột thường nằm ở bên dưới hệ thống phân tầng xã
hội. Trên thực tế, tồn tại sự bất bình đẳng và xung đột về các nguồn lực khan hiếm
đã tất yếu tạo ra phân tầng xã hội (Kerbo, 2000:73). Như vậy, các hệ thống phân
tầng cơ bản trong lịch sử trên đây là sự phân chia thành nhiều tầng lớp xếp chồng
lên nhau theo trật tự trên dưới, trong đó những người có nhiều đặc quyền đặc lợi thì
ở trên đỉnh, còn người có ít hơn thì ở dưới đáy. Các hệ thống phân tầng đã thể hiện
các nguồn lực khan hiếm trong xã hội được phân chia như thế nào. Tức là, các hệ
thống phân tầng đều nhằm xác định ai có được cái gì, có tài sản và nguồn lực gì.
Mô hình phổ biến về 5 giai cấp cơ bản (Hộp 1.1) sẽ được tham khảo để xây dựng
mô hình phân tầng xã hội cho Việt Nam (Chương II) trong quá trình công nghiệp
hóa hiện nay.

Những tri thức về phân tầng xã hội hiện nay đều được xây dựng trên cơ sở
nền tảng lý luận của Karl Marx (1818-1883) và Max Weber (1864-1920). Chương
này trình bày những kiến thức được tổng hợp và phân tích từ những thành tựu của
xã hội học hiện đại về phân tầng xã hội trên thế giới. Những nội dung trình bày
trong chương này là thiết thực trước mắt đối với tình trạng lý luận về phân tầng xã
hội ở Việt Nam hiện nay. Đó là trình bày khái lược hai nội dung về phân tầng xã
hội và di động xã hội. Hai nội dung này như là hai góc nhìn “tĩnh” và “động” về cấu
trúc xã hội. Cụ thể, nội dung về phân tầng xã hội nhằm trả lời câu hỏi: “Ai có được
cái gì và tại sao lại như vậy? – Who gets what, and why?” Tiếp theo, làm thế nào
mà người ta “có được cái gì” – tức là bằng con đường (cách thức, phương thức) nào
để người ta có được tài sản và những nguồn lợi xã hội. Đó chính là nội dung về di
động xã hội nhằm trả lời cho câu hỏi tiếp theo: “Ai tiến lên phía trước, và tại sao?”
(“Who gets ahead, and why?” Đây là hai câu hỏi then chốt nhằm tìm hiểu bản chất
của phân tầng xã hội và di động xã hội từ xưa đến nay.
Đối với câu hỏi: “Ai có được cái gì và tại sao lại như vậy?” “Cái gì” – đó là
các loại tài sản, nguồn lực và nguồn lợi xã hội làm nền tảng quy định hệ thống phân
tầng được thể hiện trong Bảng 1.1.

1. Tìm hiểu phân tầng xã hội


Bắt đầu tìm hiểu phân tầng xã hội: “Ai có được cái gì và tại sao lại như
vậy?” cần xác định một vài khái niệm cơ bản có liên quan với nhau nhằm dẫn tới sự
hiểu biết về phân tầng xã hội. Đó là nội dung tóm lược về ba khái niệm: khác biệt
xã hội, bất bình đẳng xã hội và phân tầng xã hội (Kerbo, 2000:10, 11). Khác biệt
xã hội là sự miêu tả đơn thuần về tình trạng khác nhau theo những đặc điểm, phẩm
chất cá nhân và vị trí công việc của mọi người trong xã hội. Ví dụ, có thể phân chia

13
thành những nhóm người khác nhau về giới tính, chủng tộc và sự phân công lao
động . . . Xã hội càng công nghiệp hóa, sự phân công lao động càng tăng thì tình
trạng khác biệt giữa mọi người càng nhiều. Tức là, càng tăng sự phân công lao
động, thì tình trạng khác biệt xã hội càng đa dạng. Điều quan trọng là ở chỗ, sự
khác nhau này chưa được xã hội đánh giá và chưa được xếp hạng theo những thứ
bậc cao thấp đối với nhau. Đây là tình trạng đầu tiên dẫn tới sự bất bình đẳng và
phân tầng xã hội. Chúng ta có thể phân nhóm xã hội theo sự khác nhau này và các
nhóm hoàn toàn bình đẳng với nhau theo nghĩa chưa đặt nhóm nào cao hơn nhóm
nào. Liên hệ khái niệm này với tình hình nghiên cứu về các giai cấp và tầng lớp ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới ta thấy khái niệm này thể hiện rõ qua cách trình bày
trong các nghiên cứu về chủ đề gọi là “cơ cấu xã hội”.
Bảng 1. 1. Các loại tài sản, nguồn lực và nguồn lợi quy định hệ thống phân tầng xã
hội
Nhóm tài sản Các ví dụ chọn lọc Các trường phái liên quan
1. Kinh tế Sở hữu đất đai, nhà máy, sức lao động Karl Marx; Erik Wright
2. Chính trị Quyền uy trong gia đình, quyền hành nơi Max Weber; Ralf Dahrendorf
làm việc; đảng phái và quyền lực xã hội; thủ
lĩnh
3. Văn hóa Khuôn mẫu/thói quen tiêu dùng; phong cách Pierre Bourdieu; Paul DiMaggio
sống; vốn văn hóa
4. Xã hội Tiếp cận các mạng lưới xã hội, câu lạc bộ, W. Lloyd Warner; James Coleman
hiệp hội, công đoàn; vốn xã hội
5. Uy tín Uy tín (Prestige); danh tiếng; tôn kính và Edward Shils; Donald Treiman
(Honorific) xúc phạm
6. Công dân Quyền có tài sản, bầu cử, ứng cử; tự do ngôn T. H. Marshall; Rogers Brubaker
luận và lập hội
7. Con người Kỹ năng; chuyên môn; đào tạo nghề; kinh Kaare Svalastoga; Gary Becker
nghiệm; học vấn; kiến thức
Nguồn: Biên tập lại (có bổ sung và thay đổi) từ tài liệu (Grusky, 2001:4)
Bất bình đẳng xã hội là tình trạng những cá nhân tiếp cận không công bằng
các loại nguồn lực, nguồn lợi, tài sản, dịch vụ và các vị trí trong xã hội (được thể
hiện ở Bảng 1.1). Đồng thời, sự tiếp cận không công bằng này được xã hội đánh
giá. Như thế, bất bình đẳng xã hội là sự khác biệt xã hội đã được đánh giá và xếp
hạng theo những thứ bậc cao thấp đối với nhau. Đây là điều cần được nhấn mạnh
và nó cũng là trạng thái tiếp theo dẫn tới phân tầng xã hội. Do vậy, bất bình đẳng xã
hội có liên quan chặt chẽ đến những vị trí khác nhau trong cấu trúc xã hội. Từ
những vị trí khác nhau này mà người ta có thể tiếp cận không công bằng các loại
nguồn lực, nguồn lợi, tài sản và dịch vụ xã hội. Điều đó là do sự khác biệt về đặc
điểm, phẩm chất cá nhân và vị trí công việc của mỗi người trong xã hội.
Giới nghiên cứu xã hội học đã mượn thuật ngữ “các tầng lớp địa chất –
strata” trong tự nhiên để áp dụng vào xã hội nhằm miêu tả trực quan “các tầng lớp
xã hội”. Sự vay mượn này được bổ sung thêm tính từ “xã hội – social” với hàm ý

14
rằng các nhóm người – như các tầng lớp địa chất – cũng được sắp xếp lần lượt theo
trật tự từ tầng cao xuống tầng thấp (Kerbo, 2000:11). Như vậy, xã hội được hình
dung là phân chia thành nhiều tầng lớp xếp chồng lên nhau theo trật tự trên dưới,
trong đó những người có nhiều đặc quyền đặc lợi thì ở trên đỉnh, còn người kém
hơn ở dưới đáy. Các tầng lớp được sắp xếp như vậy gọi là phân tầng xã hội. Bản
chất của phân tầng xã hội là một trong những đặc điểm có ý nghĩa nhất và quan
trọng nhất cần tìm hiểu (Persell, 1987:183). Nhiều câu hỏi cơ bản đặt ra nhằm tìm
hiểu bản chất của phân tầng xã hội (Kerbo, 2000: 17). Trong đó, Gerhard Lenski
(1966) đặt ra câu hỏi khái quát hơn đối với nghiên cứu phân tầng xã hội là: “Ai có
được cái gì và tại sao lại như vậy? – Who gets what, and why?” (dẫn theo Kerbo,
2000:10, 17, 142). Có lẽ vì vậy, Harold R. Kerbo đã định nghĩa “Phân tầng xã hội là
tình trạng trong đó sự bất bình đẳng và thứ bậc các nhóm người được xếp hạng theo
tôn ti trật tự chặt chẽ và được thiết chế hóa. Đó là hệ thống các mối quan hệ xã hội
nhằm xác định ai có được cái gì và tại sao” (Kerbo, 2000:523). Tìm hiểu bản chất
của phân tầng nên hướng vào nghiên cứu cách tổ chức xã hội đã khiến cho một số
thành viên có nhiều tài sản và nguồn lợi, trong khi một số khác có ít hơn. Những
người ở dưới đáy thường chịu nhiều thiệt thòi cả về vật chất lẫn tinh thần. Chính vì
vậy, nói về phân tầng là để mô tả những bất bình đẳng giữa các cá nhân, nhóm và
các tầng lớp trong xã hội con người. Phân tầng xã hội thể hiện tình trạng bất bình
đẳng xã hội mang tính cấu trúc (structured inequalities), và mang tính thiết chế
(institutionalized inequalities) - tức là một hệ thống xã hội có sự xếp hạng theo tôn
ti trật tự trên dưới giữa các tầng lớp được thiết lập và duy trì ổn định. Hệ thống xã
hội này nhằm xác định ai có được cái gì và tại sao (Giddens, 2000:146, 149; Kerbo,
2000:11, 523). Thuật ngữ “hệ thống phân tầng – stratification sytem” nhằm nói
đến phức hợp các thiết chế xã hội tạo ra và duy trì những bất bình đẳng phải tuân
theo. Hệ thống phân tầng bao gồm ba thành phần cơ bản: (1) Quá trình thiết chế hóa
để xác định các loại nguồn lợi có giá trị và đáng mong muốn (Tức là cấu trúc xã hội
quyết định những cơ hội và sự phân bổ nguồn lợi? – Đỗ Thiên Kính giải thích). (2)
Những quy tắc và phương thức để phân phối các loại nguồn lực, nguồn lợi, tài sản
và dịch vụ xã hội. (3) Cơ chế di động xã hội đặt cá nhân vào vị trí nghề nghiệp và
tạo ra sự bất bình đẳng về các nguồn lực và nguồn lợi (Grusky, 2001:3).
Nội dung ba khái niệm trên có mối quan hệ bao hàm nhau. Chúng như ba
vòng tròn đồng tâm. Trong đó, khái niệm khác biệt xã hội là vòng tròn lớn nhất,
khái niệm phân tầng xã hội ở trong cùng và nó thể hiện bản chất của xã hội một
cách căn bản nhất. Để có thể hiểu và nhận thức được phân tầng xã hội, trước hết
cần biết sự phân nhóm xã hội (dựa theo khái niệm khác biệt xã hội). Phân nhóm xã
hội là dựa trên một số tiêu chuẩn xác định nào đó để phân chia thành các nhóm xã
hội khác nhau. Nếu chỉ dừng lại ở việc phân nhóm xã hội, ta có được các nhóm
hoàn toàn bình đẳng với nhau (nhóm nào cũng như nhóm nào). Nhưng, sau khi thực
hiện phân nhóm xã hội, người ta tiếp tục tiến hành sắp xếp thứ bậc giữa các nhóm
(nhóm nọ đứng trên nhóm kia, dựa theo khái niệm bất bình đẳng xã hội) để tạo
thành các tầng lớp theo tôn ti trật tự và dẫn tới phân tầng xã hội (khi bất bình đẳng
được cấu trúc hóa và thiết chế hóa). “Khác biệt xã hội trở thành phân tầng xã hội

15
khi con người ta được xếp hạng tôn ti thứ bậc theo chiều cạnh bất bình đẳng nào
đó” (Abercrombie, N. et al., 2006:381). Đến lúc này, các nhóm không còn bình
đẳng với nhau nữa, mà giữa chúng tồn tại một sự bất bình đẳng xã hội mang tính
cấu trúc. Như vậy, sự bất bình đẳng là thuộc tính vốn có trong cấu trúc phân tầng,
và phân tầng xã hội đã thể hiện trong nó sự phân nhóm xã hội. Từ mối quan hệ về
nội dung ba khái niệm như vậy và dựa trên cơ sở những kết quả đã nghiên cứu, có
thể đưa ra khái niệm phân tầng xã hội được trình bày chi tiết dưới đây.
Các nhà xã hội học đề cập đến phân tầng xã hội nhằm miêu tả những bất bình
đẳng tồn tại giữa các cá nhân, hoặc các nhóm trong xã hội. Các nhóm người tiếp
cận không công bằng các loại nguồn lực trên cơ sở vị trí của họ trong xã hội. “Do
vậy, phân tầng có thể được định nghĩa một cách đơn giản nhất như là bất bình đẳng
có cấu trúc giữa các nhóm người khác nhau” trong việc tiếp cận các loại nguồn lực
và nguồn lợi xã hội (Giddens, 2001:282, 699). Hoặc là, “Thuật ngữ phân tầng trong
xã hội học thường được áp dụng vào nghiên cứu những bất bình đẳng xã hội có cấu
trúc; tức là nghiên cứu bất kỳ những bất bình đẳng có hệ thống giữa các nhóm
người, nảy sinh do hậu quả không trù định của các quá trình và quan hệ xã hội”
(Scott, J., 2009:735). Chi tiết hơn, phân tầng xã hội là sự phân chia những người
trưởng thành trong xã hội thành các nhóm kinh tế-xã hội (KT-XH) khác nhau.
Đồng thời, các nhóm này được xếp hạng theo tôn ti trật tự trên dưới để tạo thành
các tầng lớp trong hệ thống. Mỗi tầng bao gồm những người có địa vị KT-XH tương
tự gần với nhau. Hệ thống xếp hạng tôn ti trật tự này là sự bất bình đẳng mang tính
cấu trúc và là thuộc tính của xã hội. Đồng thời, sự bất bình đẳng này cũng mang
tính thiết chế và có thể trao truyền qua các thế hệ. Trong hệ thống phân tầng, các
thành viên sẽ khác nhau về khả năng thăng tiến (di động) bởi địa vị không giống
nhau của họ trong các bậc thang xã hội. Phần lớn các xã hội cho đến hiện nay đều
tồn tại sự phân tầng về tài sản, của cải, quyền lực chính trị, uy tín xã hội và đời sống
văn hóa. Đồng thời, xã hội còn phân tầng theo giới, tuổi, tôn giáo và tộc người.
Định nghĩa chi tiết này được tham khảo từ các nguồn tài liệu (Giddens, Anthony
and Mitchell Duneier, 2000:174; Giddens, 2001:282).
Để trả lời câu hỏi tại sao đã dẫn ở trên (Who gets what, and why), người ta
thường dựa trên lý thuyết chức năng và lý thuyết xung đột để giải thích. Hai lý
thuyết này sẽ giải thích vì sao có sự phân tầng, tức là vì sao các tầng lớp lại có
được những tài sản và nguồn lợi xã hội khác nhau.
“Vì sao tồn tại các hệ thống phân tầng khác nhau? Có mấy cách lý giải cạnh tranh nhau. Một
số người cho rằng “con người ta có những gì họ xứng đáng được”; số khác cả quyết rằng
những thành viên có lợi thế trong xã hội đã sử dụng quyền lực bề trên, của cải và ảnh hưởng
của họ để duy trì địa vị đặc quyền đặc lợi của họ. Số người thứ nhất bao gồm các nhà chức
năng luận, những người nhấn mạnh rằng công trạng và sự thành đạt dẫn đến có địa vị xã hội;
họ quan tâm xem xét vị trí nghề nghiệp, địa vị, và đôi khi cả số liền kiếm được nữa. Số người
sau – các nhà theo thuyết xung đột tập trung vào sự không ngang nhau về của cải, quyền lực
và sự kiểm soát. Như vậy, những người theo thuyết chức năng và theo thuyết xung đột đã khảo
sát những đặc điểm khác nhau của sự phân tầng” (Persell, 1987:191).

16
Những người theo thuyết chức năng – đại diện là Kingsley Davis và Wilbert
Moore – xuất phát từ một tiền đề cho rằng, không có những xã hội không phân
tầng. Do đó, mục tiêu đầu tiên của họ là giải thích vì sao sự phân tầng là tất yếu
trong mọi hệ thống xã hội. Sở dĩ như vậy, bởi vì mọi xã hội đều cần xác định vị trí
và thu hút những cá nhân vào các địa vị xã hội. Đồng thời, trong xã hội có những vị
trí nghề nghiệp quan trọng hơn những nghề nghiệp khác. Phải đảm bảo sao cho
những người ưu tú nắm giữ những vị trí nghề nghiệp quan trọng hơn một cách thích
hợp. Số người ưu tú như vậy trong xã hội là không nhiều và chi phí đào tạo họ tốn
kém về kinh phí và thời gian. Cho nên, những người theo thuyết chức năng cho
rằng xã hội “buộc phải” phong thưởng nhiều hơn đối với những vị trí nghề nghiệp
quan trọng hơn để thu hút những người ưu tú vào những vị trí nghề nghiệp cần thiết
đó. Từ đây, họ cho rằng hệ thống phân tầng là “một cơ chế không có ý thức, nhờ đó
mà các xã hội đảm bảo rằng những vị trí quan trọng nhất sẽ do những người có
trình độ chuyên môn thích hợp nhất tận tâm nắm giữ” (dẫn theo Persell, 1987:191).
Hoặc là, Davis và Moore (1945) cho rằng “một xã hội phải có cách nào đó để phân
phối những phần thưởng khác nhau tùy theo địa vị. Những phần thưởng và sự phân
phối chúng trở thành một bộ phận của trật tự xã hội và như vậy làm nổi bật lên sự
phân tầng” (dẫn theo Bilton, 1993:61). Như vậy, đối với những người theo thuyết
chức năng, việc xếp hạng một vị trí được quy định bởi tầm quan trọng của vị trí đó
trong xã hội, và bởi cả sự khan hiếm những người tài năng, hoặc lành nghề nắm giữ
vị trí đó. Hoặc nói cách khác, những người theo thuyết chức năng xuất phát từ một
tiền đề cho rằng, “mọi xã hội đều phải sáng chế ra những phương tiện nhất định để
gây động cơ phấn đấu cho những người ưu tú nhất vào làm những nghề quan trọng
và khó khăn nhất, và để họ làm việc một cách tận tụy và hiệu quả. Có thể giải quyết
‘vấn đề động cơ’ này theo nhiều cách khác nhau, nhưng có lẽ giải pháp đơn giản
nhất là kiến tạo một tôn ti thứ bậc những sự đãi ngộ (ví dụ uy tín, tài sản và quyền
lực; nhưng nói chung là bao hàm cả đãi ngộ về kinh tế và sự tán thành của những
người khác) để dành đặc quyền cho những người nắm giữ những vị trí quan trọng
về mặt chức năng. Điều này có nghĩa là tạo lập một hệ thống bất bình đẳng được
thể chế hóa (tức tạo ra một hệ thống phân tầng) mà chủ yếu là cơ cấu nghề nghiệp”
(Mai Huy Bích, 2010:3-4). Donald J. Treiman (1977) cho rằng, những cách lý giải
của lý thuyết chức năng được sự hỗ trợ ở một mức độ nào đó bởi một cuộc nghiên
cứu xuyên quốc gia đã cho thấy các nghề nghiệp được xếp hạng rất giống nhau ở
60 nước công nghiệp và nông nghiệp. Tuy nhiên, tất cả các nghề không được phong
thưởng ngang nhau (dẫn theo Persell, 1987:191). Kết quả nghiên cứu thực nghiệm
này đều khẳng định và chứng minh cho lý thuyết chức năng. Đây là cơ sở lý luận
quan trọng mà các nhà nghiên cứu đã dựa vào cấu trúc nghề nghiệp để vẽ nên bản
đồ giai cấp xã hội. Sở dĩ như vậy, bởi vì sự phân công lao động (tức nghề nghiệp)
là hợp chức năng đối với một xã hội. Đó cũng là cơ sở để các nhà nghiên cứu dựa
vào nhằm giải thích vì sao các nghề nghiệp được xếp hạng giống nhau đến thế ở
nhiều xã hội khác nhau (60 nước). Nói tóm lại, sự bất bình đẳng về tài sản, nguồn
lợi kinh tế, xã hội trong hệ thống phân tầng là “một cơ chế không có ý thức”, nhờ
đó mà các xã hội đảm bảo rằng những cá nhân tài năng được đào tạo sẽ nắm giữ

17
những vị trí quan trọng. Bằng cách này, những chức năng quan trọng nhất trong xã
hội sẽ được những người tài năng nhất thực hiện, và các nguồn lợi lớn nhất được
dành cho những vị trí đó – mà nó đòi hỏi sự đào tạo nhiều nhất (Scott, J., 2009:269-
270). Do vậy, “Phân tầng là phổ biến và là kết quả của sự cần thiết phải bổ nhiệm
đầy đủ những vị trí quan trọng về chức năng” (Abercrombie, 2006 :158). Một hệ
thống phân tầng như thế trong việc ban thưởng, đãi ngộ các nguồn lợi và trừng phạt
khác nhau là cần thiết để xã hội vận hành có hiệu quả.
Trong khi thuyết chức năng cho rằng các tầng lớp (phân tầng) như là những
bộ phận thực hiện các chức năng khác nhau, mang tính chất hợp chức năng đối với
xã hội và là nguồn gốc tạo nên sự ổn định, thì các lý thuyết xung đột (đại diện là
Karl Marx và Max Weber) lại cho rằng phân tầng nhất định sẽ dẫn đến mất ổn định
và biến đổi xã hội. Những người theo lý thuyết xung đột coi phân tầng là nguồn gốc
chủ yếu của sự căng thẳng và xung đột xã hội. Họ coi phân tầng là kết quả của sự
cạnh tranh giữa các nhóm lợi ích, các tầng lớp xã hội hoặc giai cấp khác nhau đối
với các loại nguồn lực, nguồn lợi có hạn và khan hiếm trong xã hội. Sự cạnh tranh
như vậy đã dẫn đến bất bình đẳng sâu sắc về chính trị, kinh tế và xã hội. Như vậy,
các lý thuyết xung đột là một cách nhìn xã hội học nhằm tập trung vào những mâu
thuẫn, bất đồng và cạnh tranh nhau về các quyền lợi trong xã hội con người. Những
người theo lý thuyết xung đột tin rằng sự khan hiếm và có giá trị của các nguồn lực
trong xã hội đã sản sinh ra xung đột như là cuộc đấu tranh của các nhóm để giành
quyền tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực đó (Giddens, 2001:685). Hoặc là, một
cuốn sách nhập môn xã hội học đã viết về những người theo lý thuyết xung đột – họ
nhìn phân tầng xã hội như là “kết quả của sự cạnh tranh giữa các nhóm lợi ích hoặc
các giai cấp khác nhau. Các nhóm sử dụng quyền lực và các nguồn lực mà họ kiểm
soát để khẳng định và bảo vệ vị trí của họ trong quan hệ với các nhóm khác […].
Một khi họ đã có cơ sở vật chất tương đối lâu bền, những vị trí đó có thể được
chuyển giao cho con cháu họ. Những bất bình đẳng về của cải nảy sinh và sau đó
trở thành nguồn gốc mà người ta có thể sử dụng để duy trì những lợi thế bề trên
[…]. Phân tầng nảy sinh do sự chinh phục, cạnh tranh và xung đột của nhóm […].
Phân tầng xã hội xuất hiện do kết quả của một hay nhiều nhóm bị các nhóm khác
thống trị. Sự thống trị này có thể dựa trên cơ sở sự kiểm soát khác nhau đối với tài
sản, hàng hóa, các dịch vụ và giá trị thị trường không ngang nhau của các nghề
nghiệp khác nhau. Do phân tầng dựa trên cơ sở thống trị và áp bức, cho nên tiềm
năng chống đối, kháng cự và thù địch của các nhóm bị thống trị là luôn có” (Persell,
1987:192-194). Như vậy, lý thuyết xung đột cho rằng phân tầng xã hội như là sự
phản ánh kết quả của người thắng cuộc và người thua cuộc trong cuộc cạnh tranh
đối với những nguồn lợi có hạn trong xã hội. Lý thuyết này nhấn mạnh đến phương
diện cấu trúc xã hội trong hệ thống phân tầng (hoặc là tác động của cấu trúc xã hội
đến phân tầng được thể hiện qua sự chuyển giao cho thế hệ sau), hơn là phương
diện tài năng và năng lực cá nhân. Từ đây, có thể suy ra rằng cấu trúc xã hội đã an
bài địa vị mỗi người, bất kể tài năng và năng lực của họ ra sao. Đồng thời, những
xung đột và đấu tranh xã hội tất yếu sẽ xảy ra để phá vỡ thế an bài được cấu trúc
hóa đó và tạo lập thế an bài mới. Cứ như thế, xã hội biến đổi và phát triển.

18
Hai loại lý thuyết giải thích vì sao có sự phân tầng trên đây đều có những nội
dung hợp lý (nhưng chúng cũng bị phê phán ở một số điểm). Mỗi loại lý thuyết trả
lời những nội dung cụ thể cho câu hỏi tại sao là tốt hơn lý thuyết kia và ngược lại.
Do vậy, người ta đã cố gắng kết hợp cả hai loại lý thuyết với nhau để đưa ra câu trả
lời tổng hợp. Có lẽ Gerhard Lenski (1966) là người “có sự nỗ lực trọn vẹn nhất
nhằm tổng hợp các quan điểm chức năng luận và xung đột về sự phân tầng”
(Persell, 1987:194). Ông xuất phát từ giả thuyết cho rằng con người ta là ích kỷ, do
vậy họ sẽ lựa chọn những lợi ích cho bản thân (hoặc cho nhóm của họ) hơn là cho
tất cả những người khác. Đặc biệt, người ta sẽ đấu tranh để giành lấy những nguồn
lực khan hiếm trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh đó một số người sẽ được hưởng
nhiều nguồn lực hơn do vị trí xã hội (quyền lực) của họ (cách giải thích này đã dựa
vào lý thuyết xung đột) và do tài năng tự nhiên của họ (cách giải thích này đã dựa
vào lý thuyết chức năng). Địa vị xã hội tác động đến cơ may con người để phát triển
tài năng của họ. Mặt khác, kỹ năng và đào tạo lại giúp con người đạt được những vị
trí xã hội nhất định. Kết quả cuối cùng của cuộc đấu tranh là sự bất bình đẳng xã
hội. Như vậy, quyền lực là nguồn gốc hàng đầu của những bất bình đẳng xã hội cơ
bản. Đồng thời, một số bất bình đẳng này có thể mang tính chức năng đối với xã
hội, bởi vì mỗi người đều thực hiện những vai trò nhất định trong xã hội. Khi bất
bình đẳng xã hội được xác lập, con người có xu hướng dùng vị trí (quyền lực) của
họ và các nguồn lực khác để duy trì và nâng cao ưu thế của mình lên. Theo cách
như vậy, sự bất bình đẳng tiếp tục được mở rộng và trở thành phân tầng xã hội ổn
định lâu dài. (dẫn theo Persell, 1987:194-195, 201).
Đại biểu Beegley (1989) cũng đã cố gắng kết hợp hai lý thuyết chức năng và
xung đột với nhau. Sự kết hợp này được thể hiện qua 3 điểm chính: (1) Quyền lực
là yếu tố quyết định chủ yếu đối với sự phân bố các nguồn lực khan hiếm. Xã hội có
thể được hiểu như là các nhóm cạnh tranh để giành lấy nguồn lực khan hiếm. (2) Sự
phân bố của quyền lực (và các nguồn lực khan hiếm) là bị cấu trúc về mặt xã hội.
Tức là cấu trúc xã hội quy định những cơ hội và sự phân bố các nguồn lực. (3)
Năng lực và tài năng cá nhân khác nhau đã tạo nên sự khác biệt xã hội. Hai điểm
đầu được rút ra từ lý thuyết xung đột, điểm thứ ba bắt nguồn từ lý thuyết chức năng.
Trong đó, quyền lực (hay là cấu trúc xã hội của quyền lực) có vai trò quan trọng
nhất. Tức là, cấu trúc xã hội là quan trọng hơn tài năng cá nhân (dẫn theo Nguyễn
Hữu Minh, 2013:60-61).
Khi đánh giá hai lý thuyết chức năng và lý thuyết xung đột, Harold R. Kerbo
đã cân đối so sánh những bằng chứng (với sự gia trọng/gia giảm chúng) theo quan
điểm lịch sử và đưa ra “kết luận rằng các lý thuyết xung đột có thể trả lời tốt hơn
đối với những câu hỏi về phân tầng xã hội”. Đó là câu hỏi chủ yếu Ai có được cái gì
và tại sao lại như vậy? Liên quan đến câu hỏi chủ yếu này là những câu hỏi khác:
Sự bất bình đẳng đã được duy trì như thế nào? Tại sao sự bất bình đẳng và các
nhóm lại nhận được phần lớn các nguồn lợi trong xã hội thường là khá ổn định qua
thời gian dài? Tại sao hệ thống phân tầng lại thay đổi? Sau đó, Kerbo giới thiệu một
giả thuyết chủ yếu rằng hệ thống phân tầng sẽ hướng tới giảm bớt sự xung đột công

19
khai thông qua sự phân phối những hàng hóa và dịch vụ có giá trị trong xã hội
(Kerbo, 2000:150-151). Kết luận nói trên của Kerbo về sự kết hợp giữa hai lý
thuyết chức năng và lý thuyết xung đột (trong đó lý thuyết xung đột đóng vai trò
chủ đạo) đã được thể hiện nhiều trong những nghiên cứu về phân tầng xã hội đương
đại. Các nhà nghiên cứu phân tầng xã hội đương đại trên thế giới đều xuất phát từ
K. Marx và M. Weber (lý thuyết xung đột), kết hợp với đo lường và xếp hạng điểm
số uy tín nghề nghiệp (lý thuyết chức năng) để xây dựng nên các mô hình phân tầng
xã hội ở mỗi quốc gia. Điều này sẽ được trình bày tiếp tục về lý thuyết ở Mục 2
(Chương I), và về thực nghiệm trong Chương II. Như vậy, họ đã kết hợp với lý
thuyết chức năng trên cơ sở nền tảng lý thuyết xung đột và phát triển tiếp tục M.
Weber (đã bao hàm cả K. Marx) trong nghiên cứu phân tầng xã hội hiện nay.
Nghiên cứu phân tầng xã hội có ba mục tiêu, nhằm: (1) Xác định rõ mức độ
ảnh hưởng/chi phối ở cấp độ xã hội của các hệ thống giai cấp (hoặc địa vị). Các hệ
thống giai cấp có ảnh hưởng lớn đến mức chúng là nền tảng của những kiểu/phương
thức hành động xã hội; (2) Phân tích các cấu trúc giai cấp và địa vị, và những yếu tố
quyết định sự hình thành giai cấp và địa vị; (3) Cung cấp những tài liệu bất bình
đẳng về điều kiện, cơ hội và kết quả, và những cách thức để các nhóm duy trì ranh
giới giai cấp (hoặc địa vị). Tức là, các nhóm có sự khép kín xã hội nhằm duy trì
những đặc quyền của mình và loại trừ các nhóm khác tìm cách tiếp cận những đặc
quyền đó. Như vậy, ở mức độ chung nhất, phân tầng xã hội quan tâm đến vấn đề về
sự hình thành giai cấp và nhóm địa vị. Đó là chìa khóa để hiểu sự hòa nhập xã hội
(Scott, J., 2009:735). Nói chung, các mục tiêu của nghiên cứu phân tầng có thể
được quy giản về miêu tả cấu trúc các giai cấp xã hội và vạch rõ quá trình tạo lập,
duy trì các giai cấp. Từ mục tiêu nghiên cứu quy giản này, một số câu hỏi cơ bản
đặt ra như sau (Grusky, 2001:4, 5):
 Các loại hình và nguồn gốc của phân tầng: Những loại hình bất bình đẳng
chủ yếu trong lịch sử loài người là gì? Tồn tại khắp nơi tình trạng bất bình
đẳng liệu có thể quy về do sự khác biệt tài năng và năng lực cá nhân hay
không? Những dạng bất bình đẳng là đặc tính thường thấy trong đời sống con
người có phải không?
 Cấu trúc của phân tầng hiện nay: Có bao nhiêu giai cấp trong xã hội? Đường
phân ranh chủ yếu xác định cấu trúc giai cấp hiện nay là gì? Đường phân
ranh đó có trở nên rõ ràng hay mờ nhạt khi chuyển dịch tới xã hội hiện đại và
hậu hiện đại hay không?
 Tạo lập phân tầng: Các cá nhân thường xuyên di động vào các giai cấp, nghề
nghiệp và nhóm thu nhập mới như thế nào? Tầng lớp “ngoài lề giai cấp –
underclass” có tồn tại thường xuyên hay không? Trí tuệ, sự cố gắng, trình độ
giáo dục, lòng khát vọng, giao tiếp xã hội và sự may mắn cá nhân đã tác động
tới kết quả nghề nghiệp tới mức độ nào?

20
 Hậu quả của phân tầng: Phong cách sống, quan điểm và hành vi cá nhân
được chia sẻ bởi vị trí giai cấp của họ như thế nào? Có thể nhận biết được
“văn hóa giai cấp” trong các xã hội quá khứ và hiện tại hay không?
 Quá trình quy gán sẵn: Những kiểu loại nào về quá trình xã hội và chính sách
nhà nước đã góp phần duy trì, hoặc thay đổi sự phân biệt sắc tộc, chủng tộc
và giới tính trong thị trường lao động? Những loại hình phân biệt đối xử này
có trở nên rõ ràng hay mờ nhạt khi chuyển dịch tới xã hội hiện đại và hậu
hiện đại hay không?
 Tương lai của phân tầng: Các hệ thống phân tầng sẽ là những loại hình khác
biệt và hoàn toàn mới trong tương lai hay không? Tình trạng bất bình đẳng
trong những hệ thống đó sẽ như thế nào? Khái niệm giai cấp xã hội liệu có
vẫn được sử dụng để miêu tả các loại hình phân tầng hậu hiện đại không?
Các hệ thống phân tầng liệu có loại bỏ dần những đặc tính riêng biệt của nó
và hội tụ vào một vài chế độ hậu hiện đại chung hay không?
Tiếp tục tìm hiểu phân tầng xã hội và phân tích cụ thể hơn nữa, nó có những
nội dung/thông số cơ bản như sau:
 Mức độ bất bình đẳng về những nhóm tài sản chính: “Ai có được cái gì và
tại sao lại như vậy?” “Cái gì” – đó là các loại nguồn lực, nguồn lợi và tài sản
chủ yếu (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, uy tín . . . ) nằm bên dưới quy
định, chi phối hệ thống phân tầng (Bảng 1.1). David B. Grusky đã đưa ra
bảng danh mục 07 loại tài sản, nguồn lực và nguồn lợi này trong xã hội
(Grusky, 2001:4)1. Các loại nguồn lợi và tài sản đó là những cơ sở và tiêu
chuẩn để phân chia thành các tầng lớp xã hội. Từ sự phân chia này, ta có thể
xác định được số lượng các tầng lớp cơ bản trong xã hội và sự bất bình đẳng
giữa các tầng lớp như thế nào. Do đó, cần phải tiếp cận dựa trên cơ sở nhiều
chiều cạnh để làm tiêu chuẩn phân chia thành các tầng lớp xã hội (M. Weber
đã tiếp cận theo 3 chiều cạnh), chứ không chỉ là một chiều cạnh (đại diện là
K. Marx). Đồng thời, quá trình cấu trúc hóa và thiết chế hóa tạo ra sự bất
bình đẳng trong việc phân chia những loại nguồn lực, nguồn lợi và tài sản có
giá trị của xã hội. Đó là những quy tắc trong việc phân chia những nguồn lực,
nguồn lợi này theo những vị trí nghề nghiệp và địa vị xã hội của mỗi người
trong bản đồ hệ thống phân tầng.
 Những nhóm tài sản chính (Bảng 1.1) dùng làm cơ sở, tiêu chuẩn để phân
chia và xếp hạng các tầng lớp thường có mối tương quan chặt chẽ, gắn liền
và đi cùng với nhau trong mỗi tầng lớp. Nếu các mối tương quan là mạnh, thì
sẽ xuất hiện sự nhất quán về địa vị (status consistency) ở những cá nhân trên
đỉnh và dưới đáy hệ thống phân tầng (Grusky, 2001:6). Tức là, nếu mối
tương quan mạnh, thì sẽ có sự “quy tụ”/“hội tụ” các loại tài sản vào cùng mỗi
tầng lớp (để tạo nên sự rõ ràng/kết tinh về địa vị – status crystallization – cho
mỗi tầng lớp đó). Tình trạng này gọi là mức độ kết tinh/hội tụ các địa vị
1
Cụ thể 07 loại tài sản, nguồn lực, nguồn lợi này được trình bày trong Bảng 1.1.

21
(status crystallization). Ví dụ, các loại tài sản thường cùng hội tụ vào tầng lớp
trên đỉnh và không hội tụ vào tầng lớp dưới đáy hệ thống phân tầng để tạo
nên sự rõ ràng/kết tinh về địa vị cho tầng lớp đó. Đối với các tầng lớp ở giữa
có thể ở vị trí cao xét theo tiêu chuẩn này, nhưng lại ở vị trí thấp hơn nếu xét
theo tiêu chuẩn khác. Tình trạng này gọi là sự không nhất quán về vị thế
(status inconsistency) (Grusky, 2001:6). Nói cách khác, sự không nhất quán
về vị thế là “tình trạng các cá nhân trong xã hội có những vị trí cao thấp trái
ngược nhau theo những chiều cạnh của phân tầng xã hội” (Kerbo, 2000:523).
Xã hội càng phát triển, càng công nghiệp hóa thì tình trạng không nhất quán
về vị thế giữa các tầng lớp càng nhiều (đặc biệt là đối với các tầng lớp trung
lưu). Điều này dẫn tới “đường ranh giới” giữa các tầng lớp xã hội thường
không rõ ràng. Các tầng lớp thường có sự “giao thoa” với nhau.
 Từ những nhóm tài sản chính (Bảng 1.1), người ta có thể biết được mức độ
bền vững (rigidity) về địa vị. Khái niệm rigidity của hệ thống phân tầng
nhằm ám chỉ địa vị xã hội của các thành viên được tiếp nối liên tục qua thời
gian. Ví dụ, nếu của cải, quyền lực và uy tín hiện tại của cá nhân đã được dự
báo chính xác trên cơ sở địa vị trước đây (hoặc địa vị của cha mẹ), thì hệ
thống phân tầng đó được gọi là có mức độ bền vững cao, hoặc “khép kín xã
hội” (Grusky, 2001:6).
 Trong hệ thống phân tầng, làm thế nào mà người ta chiếm giữ được một địa
vị KT-XH xác định? Đây chính là câu hỏi: “Ai tiến lên phía trước, và tại
sao?” Có hai con đường để “tiến lên phía trước” và đạt tới địa vị như vậy:
nhờ dựa vào địa vị quy gán sẵn (ascribed status) và địa vị giành đạt được
(achieved status), phải phấn đấu mới giành được (Kerbo, 2000:12). Địa vị
quy gán sẵn là địa vị có được khi nhờ dựa chủ yếu vào những nhân tố sinh
học tự nhiên và xã hội có sẵn (như tuổi, giới tính, chủng tộc, nguồn gốc giai
cấp). Địa vị giành đạt được là khi nhờ dựa chủ yếu vào tài năng và sự nỗ lực
cố gắng của cá nhân (như thông qua học vấn và giáo dục). Hai phương thức
đạt tới địa vị như vậy đều được cấu trúc hóa và thiết chế hóa. Hai phương
thức này thường kết hợp với nhau, trong đó có phương thức nổi trội. Xã hội
càng phát triển, càng công nghiệp hóa thì địa vị giành đạt được càng nổi trội,
còn địa vị quy gán sẵn sẽ mờ dần.
 Đối với mỗi tầng lớp xã hội, hoặc toàn bộ hệ thống phân tầng có thể là di
động khép kín (đóng), hoặc là di động mở. Xã hội càng phát triển, càng công
nghiệp hóa thì trạng thái di động xã hội trong hệ thống phân tầng ngày càng
cao (tức là hệ thống phân tầng mở – ngược lại là hệ thống phân tầng khép
kín/đóng).
 Tồn tại sự khác nhau về hành vi, thái độ, quan điểm, phong cách sống của
các cá nhân (tức là văn hóa giai cấp – vốn văn hóa) giữa các tầng lớp xã hội.
Nói cách khác, giai cấp có xu hướng phát triển và duy trì các nền văn hóa
riêng biệt. Mỗi giai cấp thường có nền tiểu văn hóa riêng của mình. Như vậy,
các tầng lớp xã hội khác nhau có nguồn vốn văn hóa cũng khác nhau. Vốn

22
văn hóa có thể được tích lũy và trao truyền từ cha mẹ sang cho con cái, giống
hệt như cho thừa kế của cải vậy. Đây chính là sự tái tạo văn hóa giai cấp.
Các giai cấp không chỉ tái tạo bản thân họ bằng cách chuyển giao tài sản cho
thế hệ sau, mà còn tái tạo bản thân về mặt văn hóa. Vốn văn hóa có thể
chuyển hóa thành vốn kinh tế, vốn chính trị (quyền lực) và vốn xã hội (mạng
lưới xã hội).

2. Phương pháp đo lường phổ biến các tầng lớp xã hội


Ở Mục 1 (Chương I) trình bày mối quan hệ giữa ba khái niệm (khác biệt xã
hội, bất bình đẳng xã hội và phân tầng xã hội). Trong đó, để hiểu phân tầng xã hội,
trước hết cần biết sự phân nhóm xã hội (dựa theo khái niệm khác biệt xã hội). Tức
là, đầu tiên phải dựa trên một số tiêu chuẩn xác định nào đó để phân chia thành các
nhóm xã hội khác nhau. Nếu chỉ dừng lại ở việc phân nhóm xã hội, ta có được các
nhóm hoàn toàn bình đẳng với nhau (nhóm nào cũng như nhóm nào). Sau khi thực
hiện phân nhóm xã hội, người ta tiếp tục tiến hành sắp xếp thứ bậc giữa các nhóm
(nhóm nọ đứng trên nhóm kia, dựa theo khái niệm bất bình đẳng xã hội) để tạo
thành các tầng lớp theo tôn ti trật tự và dẫn tới phân tầng xã hội. Như vậy, có hai
quy trình cơ bản là phân nhóm và sắp xếp thứ bậc thành các tầng lớp xã hội. Điều
này thể hiện hàm ý rằng, nó sẽ quy định phương pháp đo lường các tầng lớp xã hội
cũng có hai quy trình cơ bản tương tự như vậy (phân nhóm và xếp hạng cao thấp).
Phương pháp đo lường các tầng lớp xã hội đã được trình bày trong ba bài viết (Đỗ
Thiên Kính, 2011b, 2013, 2015b). Nội dung trình bày ở đây là những điều nhấn
mạnh hơn.
Để biết phương pháp đo lường các tầng lớp xã hội, cần phải dựa trên các loại
nguồn lợi và tài sản chủ yếu nằm bên dưới quy định, chi phối hệ thống phân tầng.
Xã hội càng phát triển, các loại nguồn lợi và tài sản chủ yếu ngày càng đa dạng. Đó
là do các xã hội công nghiệp càng phát triển, nhiều nguồn lực có giá trị mới xuất
hiện. David B. Grusky đã đưa ra bảng danh mục 07 loại nguồn lực, nguồn lợi và tài
sản chủ yếu (kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, uy tín . . . ) trong xã hội (Grusky,
2001:4). Trước thực tiễn phát triển của xã hội có nhiều loại nguồn lực và tài sản
như thế, vậy thì sẽ dựa vào cơ sở nào để phân loại và xếp hạng các tầng lớp xã hội?
Hoặc liệu có thể vẫn tiếp tục kiên định bám giữ truyền thống là theo thuyết quy
giản (reductionism) về chỉ một loại nguồn lực và tài sản chủ yếu nhất? Đại diện cho
cách tiếp cận này là K. Marx đã dựa trên một nguồn lực sở hữu tư liệu sản xuất
(TLSX)2. Nếu như vậy, thì sẽ không “bóc tách” được một số tầng lớp khác kiểm
soát các loại nguồn lực còn lại. Hơn nữa, có những nguồn lực riêng rẽ mà nếu đo
lường trực tiếp nó thì rất khó khăn và không khả thi trên thực tế (ví dụ như quyền
lực). Hoặc cách khác là phải tìm hướng đo lường gián tiếp, nhưng là cách đo lường
tổng hợp sao cho “quy tụ” và “hội tụ” được các loại nguồn lực, tài sản chủ yếu đồng

2
K. Marx đã dựa trên một nguồn lực sở hữu TLSX dùng để phân chia và xếp hạng thành hai giai cấp đối kháng chủ
yếu trong xã hội: Giai cấp tư sản có sở hữu TLSX sẽ đứng trên và bóc lột giai cấp vô sản; còn giai cấp vô sản không
sở hữu TLSX ở dưới và chịu sự bóc lột. Như vậy, đối với K. Marx thì cơ sở/chiều cạnh dùng để phân nhóm và xếp
hạng thành hai giai cấp được đồng nhất với nhau.

23
hành với nhau để nhằm phân loại và xếp hạng các tầng lớp xã hội. Tức là, sao cho
“quy tụ” và “hội tụ” được các loại tài sản, nguồn lực vào cùng mỗi tầng lớp (để tạo
nên sự rõ ràng/kết tinh về địa vị – status crystallization – cho mỗi tầng lớp đó). Vậy,
làm thế nào để đo lường một cách tổng hợp các loại nguồn lực và tài sản chủ yếu
cùng với nhau (đồng thời với nhau) trong mỗi tầng lớp xã hội thông qua một chỉ
báo đo lường? Tức là, thao tác hóa khái niệm để đo lường thực nghiệm các tầng lớp
xã hội như thế nào? (Giddens, 2001:287). Hoặc là, làm thế nào để nhận biết (nhận
diện) được các tầng lớp trong xã hội?
Để giải quyết vấn đề đo lường tổng hợp nêu trên và trả lời những câu hỏi đặt
ra, các nhà nghiên cứu đã có nhiều cách đo lường được tóm tắt trong Bảng 1.2.
Bảng 1. 2. Tóm tắt một số cách tiếp cận đo lường các tầng lớp xã hội
Cách tiếp cận Các yếu tố đo lường (dùng để phân nhóm và/hoặc xếp hạng)
1. Vị trí trong quan hệ sản Quyền sở hữu và kiểm soát đối với TLSX, vốn tài chính; Kiểm
xuất xã hội (1) soát đối với sức lao động (mua, bán và quản lý sức lao động);
Mức độ tham gia đưa ra quyết định, quyền uy nơi làm việc, quyền
lực chính trị, và mức độ độc lập, tự định hướng trong công việc.
2. Địa vị kinh tế-xã hội (KT- Bao gồm 3 yếu tố: Thu nhập, Giáo dục, Uy tín nghề nghiệp
XH)
3. Cấu trúc nghề nghiệp và - Phân nhóm dựa vào cấu trúc nghề nghiệp (phân tổ thành các loại
địa vị KT-XH mở rộng nghề).
- Phân tầng dựa vào địa vị KT-XH mở rộng: Tài sản/của cải, thu
nhập; Giáo dục; Uy tín nghề nghiệp; Vốn văn hóa; Vốn xã hội
4. Tự nhận thức chủ quan Những chỉ báo chủ quan tự đánh giá của cá nhân thuộc về tầng
lớp nào
Đại biểu cho cách tiếp cận này là Erik O. Wright và những người khác đã kết hợp những khía cạnh trong cách tiếp
(1)

cận của K. Marx và M. Weber


Nguồn: Biên tập lại (có bổ sung và thay đổi) từ các tài liệu (Persell, 1987:204, 209, 210);
(Grusky, 2001:3, 7); (Giddens, 2001:287-289)
Trong Bảng 1.2, ba cách tiếp cận đầu tiên thuộc về phương pháp đo lường
khách quan. Cách tiếp cận số 4 thuộc về phương pháp đo lường chủ quan. Trong
đó, cách tiếp cận số 1 là khó áp dụng vào thực tế nhất để đo lường các tầng lớp xã
hội. Cách tiếp cận số 2 đã coi nhẹ yếu tố sở hữu/kiểm soát TLSX, tài sản và vị trí
trong quan hệ sản xuất (so với cách tiếp cận số 1). Cách tiếp cận số 3 đã bao hàm và
khắc phục/vượt qua được cả cách tiếp cận số 1 và số 2. Do đó, đa số các nhà nghiên
cứu trên thế giới đã dựa vào nghề nghiệp để đo lường giai cấp xã hội (Rothman,
2005:6) – tức là dựa vào cách tiếp cận số 3. Sở dĩ như vậy, bởi vì nghề nghiệp là
điểm xuất phát hữu ích nhất để người ta có được những nguồn lợi tài chính, địa vị
xã hội và có ý nghĩa lâu dài đối với thế hệ con cái (Rothman, 2005:7). Hơn nữa,
nghề nghiệp là biểu hiện và minh họa cụ thể cho lý thuyết chức năng trong việc giải
thích vì sao có sự phân tầng xã hội. Tức là nó trả lời câu hỏi tại sao người ta lại có
được những nguồn lợi khác nhau trong hệ thống phân tầng. Thậm chí, kiến thức đo
lường thực nghiệm các tầng lớp xã hội qua cấu trúc nghề nghiệp còn được viết
trong giáo trình xã hội học trên thế giới:

24
“Đặc trưng phổ biến của hầu hết các sơ đồ giai cấp là nó dựa trên cơ sở cấu trúc nghề
nghiệp. [...] Nghề nghiệp là một trong những nhân tố then chốt nhất trong vị thế xã hội, cơ
may cuộc sống và mức độ đầy đủ về vật chất của một cá nhân. Các nhà khoa học xã hội sử
dụng nghề nghiệp một cách rất phổ biến để làm chỉ báo của giai cấp xã hội, vì họ tin rằng các
cá nhân làm cùng một nghề có xu hướng trải nghiệm những ưu thế xã hội hoặc bất lợi ở mức
độ tương tự nhau, cùng duy trì những phong cách sống gần nhau, và cùng chia sẻ những cơ
hội tương tự nhau trong cuộc sống. […] Các nhà xã hội học xưa nay vẫn dùng các sơ đồ giai
cấp nghề nghiệp để vẽ nên bản đồ cấu trúc giai cấp của xã hội” (Giddens, 2001:287, 305)3.
Cụ thể hơn, theo hai quy trình đo lường, người ta đã phân nhóm dựa vào cấu
trúc nghề nghiệp. Tức là phân tổ, phân nhóm các loại nghề nghiệp – chứ không phải
dựa vào ngành kinh tế như các nhà nghiên cứu ở Việt Nam thường hiểu. Tiếp theo,
họ đã xếp hạng theo tôn ti trật tự trên dưới (tức là phân tầng sau khi phân nhóm)
dựa vào địa vị KT-XH mở rộng (Tài sản/của cải, thu nhập; Giáo dục; Uy tín nghề
nghiệp; Vốn văn hóa; Vốn xã hội) của mỗi nhóm nghề để tạo thành các tầng lớp
trong xã hội (Đỗ Thiên Kính, 2013:97). Sở dĩ như vậy, bởi vì nghề nghiệp là nơi
“quy tụ” và “hội tụ” tương đối đầy đủ các loại nguồn lực, nguồn lợi, tài sản và vị trí
xã hội của mỗi cá nhân. Nói cách khác, các loại nguồn lực, nguồn lợi, tài sản và vị
trí xã hội thường gắn liền với nhau qua nghề nghiệp của mỗi cá nhân. Có thể nói
rằng, ba chiều cạnh kinh điển về phân tầng xã hội (kinh tế/tài sản, chính trị/quyền
lực và uy tín xã hội) đều thể hiện đồng thời cùng nhau trong nghề nghiệp – theo
ngôn ngữ dân gian thì đó gọi là “3 trong 1”. Chính vì vậy, mà Parkin (1971:18) đã
coi cấu trúc nghề nghiệp như là “chiếc xương sống của toàn hệ thống nguồn lợi
trong xã hội phương Tây hiện đại”. Hoặc là Hauser và Featherman (1977:4) cũng
cho rằng nghiên cứu “cấu trúc di động nghề nghiệp [...] đã mang lại những thông
tin đồng thời (mặc dù là gián tiếp) về quyền lực địa vị, quyền lực kinh tế và quyền
lực chính trị”. Ngay cả Duncan (1968:689-90) và Parsons (1954:326-29) cũng cho
là như vậy (trích lại từ Grusky, 2001:7 – tôi in nghiêng). Từ đây, nghề nghiệp đã thể
hiện và minh họa không những cho lý thuyết chức năng, mà cả lý thuyết xung đột
(tức là sự kết hợp giữa hai lý thuyết này) trong việc giải thích vì sao có phân tầng xã
hội. Hơn nữa, sự phân loại và xếp hạng uy tín nghề nghiệp thường có tính khả thi và
độ chính xác cao hơn so với việc thu thập những tiêu chuẩn khác vốn khó đo lường.
Như vậy, đa số các nhà xã hội học quốc tế hiện nay đã lựa chọn nghề nghiệp được
hiểu như là bộ tiêu chí (chỉ báo) tổng hợp để phân loại/phân nhóm và xếp hạng các
tầng lớp trong xã hội.
Ở xã hội Việt Nam truyền thống ngày xưa, cũng tồn tại cách phân chia và
xếp hạng thứ bậc cho hầu hết dân cư làng/xã theo nghề nghiệp gọi là tứ dân: Sĩ –
Nông – Công – Thương.

3
Nguyên văn tiếng Anh như sau: “A common feature of most class schemes is that they are derived on the basis of
the occupational structure. […] occupation is one of the most critical factors in an individual’s social standing, life
chances and level of material comfort. Social scientists have used occupation extensively as an indicator of social
class because of the belief that individuals in the same occupation tend to experience similar degrees of social
advantage or disadvantage, maintain comparable lifestyles, and share similar opportunities in life. […] Sociologists
have traditionally used occupational class schemes to map the class structure of society.” (Giddens, 2001: 287, 305)

25
“Người ta vốn quen phân biệt bốn giai cấp hoặc đẳng cấp trong xã hội người Việt: Sĩ (nho
sĩ), Nông (nông dân), Công (thợ thủ công) và Thương (người buôn bán). Đấy là một sự phân
biệt hoàn toàn đại khái, phần lớn dựa trên nghề nghiệp của từng người hơn là dựa trên vai
trò của mỗi cá nhân trong xã hội. Điều đó rất rõ nét trong làng xã người Việt, nơi mà cách
phân biệt đó chẳng có giá trị gì lắm” (Nguyễn Văn Huyên, 1995:409).
Như vậy, sự phân loại các tầng lớp xã hội ở làng/xã nông thôn Việt Nam
truyền thống có thể quy giản về tiêu chí nghề nghiệp là chủ yếu. Danh từ “nghề
nghiệp” trong tiếng Việt (tôi nhấn mạnh chữ “nghiệp”) như là nơi thể hiện những
cơ may và rủi ro, thành đạt và thất bại đều được “hội tụ” vào cái “nghiệp” để tạo
nên vị thế xã hội của mỗi cuộc đời một con người. Như thế, tài liệu lịch sử về xã hội
Việt Nam truyền thống đã thể hiện phương pháp đo lường các tầng lớp của xã hội
học. Thiết nghĩ rằng, những người nghiên cứu về phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện
nay nên hội nhập với xã hội học quốc tế. Điều này cũng là phù hợp với tiêu chuẩn
phân chia và sắp xếp tôn ti trật tự giữa các tầng lớp trong lịch sử Việt Nam.
Trên đây là những tìm hiểu về phân tầng xã hội và phương pháp đo lường
chủ yếu các tầng lớp xã hội như thế nào. Phương pháp đo lường chủ yếu này sẽ
được áp dụng vào nghiên cứu ở Việt Nam trong Chương II.

3. Di động xã hội
Sau quá trình phân nhóm và xếp hạng các tầng lớp được trình bày ở Mục 1 và
Mục 2 (Chương I), ta có thể hình dung được mô hình phân tầng xã hội (tháp phân
tầng) theo góc nhìn “tĩnh”. Còn góc nhìn “động” về mô hình phân tầng xã hội sẽ
như thế nào? Tức là, sự di động xã hội của những cá nhân giữa các tầng lớp trong
hệ thống phân tầng ra sao? Sự di động như vậy chính là con đường/phương thức
làm thế nào mà người ta ở vào một địa vị KT-XH xác định. Từ đây, họ sẽ giành
được những nguồn lợi xã hội tương ứng. Nói cách khác, góc nhìn “tĩnh” nhằm trả
lời cho câu hỏi: “Ai có được cái gì, và tại sao lại như vậy? – Who gets what, and
why”, thì góc nhìn “động” nhằm trả lời câu hỏi tiếp theo: “Ai tiến lên phía trước, và
tại sao?” (“Who gets ahead, and why?” – Kerbo, 2000:332). Như vậy, trong nghiên
cứu phân tầng, chúng ta không chỉ xem xét sự khác nhau giữa các địa vị KT-XH,
mà còn điều gì xảy ra đối với các cá nhân chiếm giữ những địa vị đó. Để trả lời
những câu hỏi đặt ra ở đây, ta hãy tiếp tục tìm hiểu trong Mục 3 và Mục 4 (Chương
I) về di động xã hội.
Di động xã hội thường là sự chuyển dịch trở thành khuôn mẫu của các cá
nhân (nhưng cũng đôi khi là cả nhóm) giữa các địa vị KT-XH khác nhau trong hệ
thống phân tầng của bất kỳ xã hội nào (Scott, J., 2009:477; Kerbo, 2000:332, 355).
Nói chung, người ta thường phân chia thành di động theo chiều dọc và theo chiều
ngang. Di động theo chiều dọc là sự chuyển dịch đi lên hoặc đi xuống trong dãy tôn
ti thứ bậc xã hội, nhưng khả năng di động đi xuống ít khi được xem xét (Persell,
1987:228). Sở dĩ như vậy, bởi vì xã hội càng công nghiệp hóa thì khả năng di động
đi lên của các cá nhân càng lớn. Điều này giải thích vì sao mà các tầng lớp trung
lưu càng lớn trong quá trình công nghiệp hóa (Giddens, 2001:293).

26
“Với sự xuất hiện cuộc cách mạng công nghiệp, di động đi lên trở nên dễ xảy ra hơn di động
đi xuống, bởi vì công nghiệp hóa có nghĩa là mở rộng các vị trí địa vị cao và được trả lương
tốt hơn, trong khi việc làm về nông nghiệp tiếp tục co lại. [...] Sự biến đổi dần dần cơ cấu
nghề nghiệp với việc mở rộng việc làm trong khu vực thư ký, kỹ thuật, chuyên môn và sự giảm
đi công việc lao động chân tay và nông nghiệp đã lý giải nhiều cho sự di động đi lên trong
các xã hội công nghiệp phương Tây. Ngoài những biến đổi trong cơ cấu nghề nghiệp, sự di
động đi lên còn tăng lên bởi những khác biệt giai cấp trong tỷ lệ sinh. Giai cấp thượng lưu và
trung lưu lớp trên có xu hướng đẻ ít con hơn các gia đình giai cấp hạ lưu, do vậy có thể tạo ra
những chỗ trống nghề nghiệp để các cá nhân ở địa vị thấp hơn có thể nhảy vào” (Persell,
1987:229).
Còn di động theo chiều ngang là sự dịch chuyển từ địa vị xã hội này sang địa
vị khác ngang hàng. Các nhà nghiên cứu thường quan tâm đặc biệt đến di động theo
chiều dọc hơn là di động theo chiều ngang, bởi vì quy mô tổng thể của di động theo
chiều dọc cho ta biết được một số điều rất quan trọng về hệ thống phân tầng. Chẳng
hạn như, mức độ di động theo chiều dọc càng lớn, thì hệ thống phân tầng càng mở
và xã hội càng tiến gần đến sự bình đẳng về cơ hội. Hoặc, xã hội trở nên bất bình
đẳng hơn là do người ta dựa trên các yếu tố thuộc về trình độ, năng lực và kỹ năng
cá nhân (tức những yếu tố giành đạt được) hơn là quy gán sẵn (Kerbo, 2000:334).
Hoặc cách khác, người ta cũng phân biệt di động xã hội giữa các thế hệ và di
động xã hội trong một thế hệ. Di động giữa các thế hệ là sự so sánh địa vị KT-XH
của cá nhân với địa vị của cha mẹ họ. Tức là sự biến đổi địa vị KT-XH từ một thế
hệ này sang thế hệ tiếp theo. Còn di động trong một thế hệ là sự di động đi lên hoặc
đi xuống (tức di động theo chiều dọc) của một cá nhân trải qua trong một thời kỳ
dài, thậm chí trong cả cuộc đời lao động của họ. Trên cơ sở phương pháp đo lường
phổ biến các tầng lớp xã hội là dựa vào nghề nghiệp, cho nên các nhà nghiên cứu
cũng thường khảo sát di động xã hội thông qua nghề nghiệp. Công trình này (ở
Chương III) cũng sẽ tập trung nghiên cứu di động theo chiều dọc trong một thế hệ
qua sự thay đổi nghề nghiệp của họ (bởi vì giới hạn của nguồn số liệu quy định).
Trong nghiên cứu di động xã hội, người ta thường tập trung nhiều vào nghiên cứu
các mẫu hình (patterns – các khuôn mẫu) di động theo chiều dọc đi lên hoặc đi
xuống từ một thế hệ này sang thế hệ tiếp theo trong cấu trúc nghề nghiệp. Tức là, có
bao nhiêu người di động đi lên hoặc đi xuống so với địa vị của cha mẹ họ, và bao
nhiêu người không di động – vẫn giống với cha mẹ, hoặc gọi là kế thừa nghề
nghiệp. Cả hai loại di động xã hội giữa các thế hệ và di động xã hội trong một thế
hệ đều có thể cho ta biết về mức độ mở (hoặc đóng) của hệ thống phân tầng.
Nhưng, phần lớn các nhà nghiên cứu thường quan tâm nhiều hơn đến di động xã hội
giữa các thế hệ, bởi vì tính có thể kế thừa vị thế nghề nghiệp từ cha mẹ đến con cái
được xem xét như là chỉ báo then chốt của sự quy gán sẵn đối lập với sự giành đạt
được như thế nào (Kerbo, 2000:335).
“Ở thế kỷ 19, những người lao động chân tay không lành nghề và nửa lành nghề, như công
nhân nhà máy và nông dân có trải nghiệm một sự di động nào đó, nhưng nói chung chỉ tiến
lên một hai bước trên bậc thang nghề nghiệp (Thernstrom, 1964) [...] Các mô hình di động ở
thế kỷ 20 cũng tương tự. Trong một nghiên cứu đồ sộ của họ về hơn 20.000 người đàn ông và

27
cha họ, Blau và Duncan (1967) thấy rằng sự di động trong một đời và giữa các thế hệ thường
xảy ra nhưng hạn chế về phạm vi. Hầu hết con người có xu hướng đi lên chỉ một hay hai
bước, và hầu hết các chuyển dịch xảy ra trong nội bộ các khu vực cổ cồn trắng, cổ cồn xanh
hay nông trại hơn là giữa các khu vực nghề nghiệp đó” (Persell, 1987:229-230).
Cuối cùng, đáng chú ý nhất là các nhà nghiên cứu cũng xem xét sự phân chia
di động xã hội thành hai loại di động cấu trúc (structural mobility) và di động trao
đổi/tuần hoàn (exchange mobility, circulation mobility), hoặc gọi là di động thuần
(pure mobility) – tức là di động phi cấu trúc nói chung (non-structural mobility).
Đây là cách phân chia gây ra nhiều tranh cãi hơn cả (Scott, J., 2009:477). Di động
cấu trúc là do sự thay đổi của cấu trúc nghề nghiệp tạo ra. Đó là sự chênh lệch khác
nhau về cấu trúc nghề nghiệp giữa hai thời điểm diễn ra di động xã hội. Còn di
động tuần hoàn được giải thích như là tổng số của sự chuyển dịch cả đi lên và đi
xuống đồng thời (chuyển dịch tuần hoàn) trong cấu trúc nghề nghiệp (Kerbo,
2000:339). Tức là có bao nhiêu cá nhân di động đi lên, thì cũng có bấy nhiêu cá
nhân tương ứng di động đi xuống. Để hiểu cụ thể hơn về di động cấu trúc và di
động tuần hoàn – hai loại di động này sẽ được trình bày ở Mục 4 (Chương I) và ở
Chương III. Sự phân chia di động xã hội thành hai loại như thế này là một trong
những cách xem xét nguyên nhân gây ra di động xã hội – nghĩa là trả lời một phần
câu hỏi tại sao: “Ai tiến lên phía trước, và tại sao?” nêu trên. Nguyên nhân gây ra di
động xã hội theo cách xem xét này sẽ được tiếp tục trình bày về lý thuyết ở Mục 4
(Chương I) và trình bày qua thực nghiệm ở Mục 2 (Chương III).

Học vấn Học vấn của


của bố con trai

Nghề nghiệp của


con trai (1962)

Nghề nghiệp
của bố
Nghề nghiệp đầu tiên
của con trai

Hình 1. 1. Mô hình cơ bản về quy trình phân tầng xã hội


Nguồn: Dẫn theo Grusky, 2001:394 và Kerbo, 2000:358
Cùng với di động xã hội theo chiều dọc hoặc chiều ngang, người ta cũng
thường tập trung nhiều vào nghiên cứu sự đạt được về địa vị KT-XH. Nó đặt ra
câu hỏi tại sao sự di động như vậy (như trên) lại xảy ra, hay không xảy ra? Những
nhân tố nào giải thích cho khuôn mẫu di động theo chiều dọc, hay không di động?

28
Nói cách khác, nghiên cứu sự đạt được về địa vị KT-XH sẽ trả lời cho câu hỏi tại
sao: “Ai tiến lên phía trước, và tại sao?” Đây cũng là một trong những cách xem xét
nguyên nhân gây ra di động xã hội. Nội dung nghiên cứu này nhằm tập trung vào
khuôn mẫu của sự chuyển dịch trong cấu trúc nghề nghiệp (Kerbo, 2000:331-332,
357). Blau và Duncan (1967) đã trình bày một khuôn mẫu kinh điển sự chuyển dịch
này trong Mô hình cơ bản về quy trình phân tầng xã hội (tức là quy trình đạt được
về vị thế nghề nghiệp) ở Mỹ năm 1962 (Hình 1.1) trên cơ sở số liệu của hơn 20.000
người đàn ông và cha của họ.
Trong khuôn mẫu về di động xã hội ở Hình 1.1 của Blau và Duncan, chiều
các mũi tên chỉ sự tác động của nhân tố này đến nhân tố khác: (1) Học vấn của cha
tác động đến nghề nghiệp của con trai thông qua học vấn của anh ta; (2) Nghề
nghiệp của cha cũng tác động đến nghề nghiệp của con trai thông qua học vấn và
nghề nghiệp đầu tiên của anh ta; (3) Trong bốn nhân tố, học vấn của con trai có tác
động mạnh nhất đến nghề nghiệp (1962) của anh ta. (4) Nhưng dù sao, bốn nhân tố
cũng chỉ có thể lý giải được khoảng 43% khác biệt về vị thế nghề nghiệp của con
trai (còn khoảng 57% khác biệt – hoặc nguyên nhân/điều gì gây ra vị thế nghề
nghiệp của con trai – thì chưa được lý giải) (Kerbo, 2000:358). Phân tích tiếp tục
cho thấy, tỉ trọng so sánh giữa tác động của học vấn con trai và tác động của nghề
nghiệp bố đến nghề nghiệp của anh ta (1962) là 2,9 trên 1. Phát hiện này đã đưa
Blau và Duncan đi đến kết luận rằng sự giành đạt được là quan trọng hơn sự quy
gán sẵn trong việc quyết định tình trạng vị thế nghề nghiệp ở Mỹ giữa thế kỷ 20
(Scott, J., 2009:731). Như vậy, từ Hình 1.1 có thể quy giản thành hai loại nhân tố cơ
bản tác động để xác định địa vị KT-XH của một cá nhân trong hệ thống phân tầng.
Đó là nguồn gốc gia đình (bao gồm học vấn/giáo dục và nghề nghiệp/địa vị KT-XH
của cha mẹ - như là sự biểu lộ cho địa vị quy gán sẵn đối với thế hệ con cái) và học
vấn/giáo dục của bản thân cá nhân (đặc biệt là giáo dục bậc cao - như là sự biểu lộ
cho địa vị giành đạt được của họ). Sự phân chia thành hai loại nhân tố cơ bản như
thế này nhằm minh họa và là phù hợp với nội dung lý thuyết phân tầng xã hội được
trình bày ở Mục 1 (Chương I). Đó là hai phương thức đạt tới địa vị KT-XH: nhờ
dựa vào địa vị quy gán sẵn và địa vị giành đạt được. Hai phương thức này thường
kết hợp với nhau, trong đó có phương thức nổi trội. Xã hội càng phát triển, càng
công nghiệp hóa thì địa vị giành đạt được càng nổi trội, còn địa vị quy gán sẵn sẽ
mờ dần.
“Vị thế nghề nghiệp giữa các thế hệ của các cá nhân xem ra có thể được lý giải bằng hai
nhân tố cơ bản – trình độ giáo dục, đặc biệt là giáo dục bậc cao, và nguồn gốc gia đình. Bằng
cách so sánh thành công tương đối của các anh em trai, Jencks và những người khác (1979)
thấy rằng nguồn gốc gia đình lý giải được gần một nửa khác biệt về vị thế nghề nghiệp và
khoảng 1/4 khác biệt về số tiền kiếm được hàng năm. Nền tảng giáo dục có tác dụng rõ rệt
đến vị thế nghề nghiệp và tiền kiếm được. Giáo dục xem ra tăng số tiền kiếm được chủ yếu
bằng cách mở cửa đến với các nghề nghiệp có địa vị cao (và được trả lương cao)” (Persell,
1987:230).
So sánh giữa hai loại nhân tố cơ bản nói trên cho thấy rằng, mặc dù xã hội
càng công nghiệp hóa thì địa vị giành đạt được càng nổi trội hơn địa vị quy gán sẵn,

29
nhưng nguồn gốc xã hội (trong đó có nguồn gốc gia đình là quan trọng) vẫn có tác
động bền vững đến địa vị KT-XH của con cái (ở xã hội phương Tây) và tác động
đến mọi nhân tố trong quá trình đạt được về địa vị KT-XH (Hình 1.1). Có lẽ đây là
phát hiện then chốt (key finding) trong quá trình này: “Tóm lại, nguồn gốc giai cấp
xã hội không thể không liên quan [đến sự đạt được về địa vị KT-XH – Đỗ Thiên
Kính giải thích]! ” (Rothman, 2005:225). Điều này đã được Raymond Boudon
chứng minh bằng lý thuyết và bằng thực nghiệm trong công trình nổi tiếng của ông
(Boudon, 1974). Đồng thời, nó cũng được thể hiện qua sự kế thừa nghề nghiệp là
cao hơn ở hai tầng lớp trên đỉnh và dưới đáy của cơ cấu nghề nghiệp (tháp phân
tầng xã hội) ở Mỹ. Giữa hai cực (tức là các tầng lớp trung lưu) thì sự kế thừa nghề
nghiệp ít hơn và sự di động giữa các thế hệ lớn hơn (Kerbo, 2000:356, 374). Điều
đó có nghĩa rằng những người sinh ra ở hai cực đỉnh và đáy tháp phân tầng thường
có xu hướng gắn liền với địa vị của cha mẹ hơn. Sở dĩ như vậy, bởi vì giai cấp ở
đỉnh tháp thường có sự “khép kín xã hội” cao hơn các giai cấp phía dưới để bảo vệ
quyền lợi của họ và ngăn cản không giai cấp trung lưu cho xâm nhập vào giai cấp
họ; còn giai cấp lao động (working class – thường dịch sang tiếng Việt là giai cấp
công nhân) ở dưới đáy cũng buộc phải chịu đựng sự “khép kín xã hội” và sự bất lợi
của họ, không thể di động đi lên được (Bilton et al., 1993: 94-95).
Khuôn mẫu về di động xã hội ở Hình 1.1 chính là sự trả lời cho câu hỏi tại
sao đặt ra ở trên: “Ai tiến lên phía trước, và tại sao?” Tuy nhiên, trong Hình 1.1 vẫn
còn khoảng 57% khác biệt về vị thế nghề nghiệp của con trai chưa được lý giải.
Đồng thời, người ta cũng muốn biết học vấn và nghề nghiệp của bố tác động đến
học vấn của con trai như thế nào? Và người ta cũng muốn tìm hiểu những nhân tố
khác (không có trong mô hình của Blau và Duncan) lý giải vị thế nghề nghiệp và
học vấn của con trai như thế nào? Để trả lời những câu hỏi này, William H. Sewell
cùng với các trợ lý của ông đã đưa ra cái gọi là Mô hình Wisconsin nhằm phát triển
tiếp tục mô hình của Blau và Duncan. Mô hình Wisconsin đã bổ sung thêm một vài
biến số tâm lý xã hội, hoặc thái độ (như khát vọng về học vấn, nghề nghiệp, khả
năng trí tuệ và thành tích học tập) nhằm lý giải đầy đủ hơn mô hình gốc của Blau và
Duncan. Tức là nhằm giải thích tại sao một số người lại đạt được nhiều học vấn và
vị thế nghề nghiệp cao. Phát hiện quan trọng trong mô hình Wisconsin cho rằng, địa
vị KT-XH của cha mẹ có tác động đến học vấn và nghề nghiệp của con cái thông
qua những nhân tố khác (đặc biệt là khát vọng về học vấn và nghề nghiệp). Như
vậy, tầm quan trọng của khát vọng về học vấn và nghề nghiệp trong quy trình đạt
được về địa vị KT-XH đã thể hiện ở mô hình Wisconsin. Mô hình Wisconsin cũng
cho thấy sự đạt được về học vấn có tác động mạnh nhất đến sự đạt được về nghề
nghiệp (điều này cũng giống với mô hình của Blau và Duncan). Về tổng thể, mô
hình Wisconsin lý giải được khoảng 40% khác biệt về vị thế nghề nghiệp và khoảng
57% khác biệt về học vấn đạt được (Kerbo, 2000:359-361).
Cuối cùng, từ hai mô hình nêu trên, giới xã hội học quốc tế đã trình bày tổng
hợp lại chúng trong mô hình mới đầy đủ hơn (Hình 1.2).

30
Năng lực học
tập, trí tuệ

Học vấn
cha mẹ

Nghề Những
Học vấn
đầu tiên nghề sau

Nghề nghiệp
g cha mẹ
Khát vọng học vấn,
nghề nghiệp, v.v…

Hình 1. 2. Mô hình đạt được địa vị của di động xã hội


Nguồn: Biên tập lại từ tài liệu của Rothman, 2005:225.
Trong Hình 1.2, mô hình của Blau và Duncan được thể hiện qua 5 ô in đậm
nằm trên trục chính: Học vấn cha mẹ, Nghề nghiệp cha mẹ, Học vấn, Nghề nghiệp
đầu tiên, Những nghề sau. Năm ô này là trục xương sống trong Hình 1.2. Nó thể
hiện cuộc đời cá nhân từ khi sinh ra, trải qua quá trình học tập và trưởng thành để
đạt tới những bậc thang xã hội về sau. Trong đó, nguồn gốc giai cấp xã hội của cha
mẹ luôn gắn liền theo suốt quá trình này. Hai ô còn lại thuộc về mô hình Wisconsin:
Năng lực học tập, trí tuệ và Khát vọng học vấn, nghề nghiệp, v.v… Tóm tắt lại,
Hình 1.2 thể hiện ba giai đoạn của quy trình đạt được về địa vị KT-XH: (1) Giai
đoạn thứ nhất: Nguồn gốc giai cấp xã hội của cha mẹ có ảnh hưởng trực tiếp đến
học vấn đạt được, năng lực học tập và những khát vọng của con cái. Những khát
vọng và năng lực của con cái có tác động độc lập đến quá trình học tập; (2) Giai
đoạn thứ hai: Nguồn gốc xã hội và trình độ học vấn có tác động đến nghề nghiệp
đầu tiên; (3) Giai đoạn thứ ba: Nguồn gốc xã hội, trình độ học vấn và nghề nghiệp
đầu tiên có ràng buộc chặt chẽ đến những nghề sau (Rothman, 2005:224-225). Hình
1.2 là một trong những cách xem xét tương đối đầy đủ nguyên nhân gây ra di động
xã hội.
Những kết quả nghiên cứu lý thuyết, cùng thực nghiệm về di động xã hội và
mô hình về quy trình đạt được về địa vị KT-XH trình bày trên đây được đặt trong
bối cảnh rộng lớn hơn. Đó là bối cảnh của mối quan hệ giữa quá trình công nghiệp
hóa và phân tầng xã hội. Tức là, quá trình công nghiệp hóa đã có ảnh hưởng lớn đến
hệ thống phân tầng xã hội như thế nào. Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với Việt
Nam đang tiến hành công nghiệp hóa đất nước hiện nay. Chủ đề về mối quan hệ
giữa quá trình công nghiệp hóa và phân tầng xã hội đã được các nhà nghiên cứu
trên thế giới quan tâm từ những năm 1960~1970 cho đến tận năm 2000 (Imada,

31
2000:51), và tiếp tục sau năm 2000 thì tôi chưa rõ. Những nghiên cứu về chủ đề này
trên thế giới đều dựa trên các số liệu thực nghiệm và đã đưa ra một số luận điểm cơ
bản (có ý nghĩa như các luận đề kinh điển – classical thesis) về mối quan hệ giữa
quá trình công nghiệp hóa và phân tầng xã hội. Đặc biêt, Treiman là người đã
nghiên cứu và biên soạn lại các luận đề một cách có hệ thống. Ông đã lập luận và
dựa trên những nghiên cứu thực nghiệm để đưa ra 24 luận điểm, hoặc phát biểu về
chủ đề này trong một bài viết của mình (Treiman, 1970). Các luận điểm tập trung
vào những lĩnh vực nghề nghiệp, giáo dục, thu nhập, di động xã hội và quy trình đạt
được về địa vị, hậu quả của phân tầng. Nhiều nhà xã hội học gọi đó là những luận
đề kinh điển về công nghiệp hóa (Imada, 2000:35-36). Tức là những luận đề nói về
tác động của công nghiệp hóa đến hệ thống phân tầng xã hội. Trong số 24 luận
điểm, có vài luận điểm được thực nghiệm khẳng định là đúng. Phần lớn các luận
điểm còn là giả thuyết và cần được thực nghiệm kiểm tra. Trên cơ sở Hình 1.1,
cuốn sách này giới thiệu một số luận điểm về di động xã hội và quy trình đạt được
về địa vị KT-XH (trong bối cảnh tác động của công nghiệp hóa đến phân tầng xã
hội) của Treiman đưa ra còn là giả thuyết khi ấy (Treiman, 1970:221):
“I.B.1. Xã hội càng công nghiệp hóa, thì ảnh hưởng trực tiếp của vị thế nghề nghiệp của cha
lên vị thế nghề nghiệp của con trai càng giảm.
I.B.2. Xã hội càng công nghiệp hóa, thì ảnh hưởng trực tiếp của sự đạt được về học vấn lên vị
thế nghề nghiệp càng lớn.
I.B.3. Xã hội càng công nghiệp hóa, thì ảnh hưởng của địa vị của cha mẹ lên sự đạt được về
học vấn càng giảm.
I.B.4. Xã hội càng công nghiệp hóa, thì tỉ lệ di động tuần hoàn càng lớn.”
Những luận điểm công nghiệp hóa của Treiman được dựa trên số liệu thực
nghiệm của các nước công nghiệp vào năm 1950s~1960s. Những năm tiếp theo về
sau, đã có nhiều nhà xã hội học ở Nhật Bản tiếp tục kiểm chứng những luận điểm
này thông qua các cuộc khảo sát Phân tầng xã hội và Di động xã hội (gọi tắt là
SSM). Một số luận điểm tiếp tục được sự ủng hộ bằng số liệu thực nghiệm mới,
một số luận điểm khác lại không được sự ủng hộ đó. Luận điểm I.B.4 của Treiman
cũng sẽ được kiểm chứng trong sách này (Chương III). Vấn đề đặt ra là cần tiếp tục
nghiên cứu để phát triển mở rộng nhằm hoàn thiện hơn những hiểu biết về tác động
của công nghiệp hóa đến phân tầng xã hội trong quá trình phát triển của xã hội loài
người. Hy vọng rằng, các luận điểm trên đây sẽ được những người nghiên cứu ở
Việt Nam kiểm chứng là rất thiết thực trong bối cảnh công nghiệp hóa đất nước
hiện nay.

4. Đo lường di động xã hội


Mục này nhằm tìm hiểu phương pháp đo lường sự thay đổi từ địa vị gốc ban
đầu tới địa vị xã hội tại một thời điểm xác định nào đó. Trước đây, chỉ số gắn kết
(Index of Association) thường được sử dụng rộng rãi trong việc đo lường mức độ
gắn kết về địa vị xã hội giữa hai thế hệ. Sau đó, chỉ số này tỏ ra sai lệch. Vì vậy,
Saburo Yasuda (nhà xã hội học Nhật Bản) đã nghiên cứu ra phương pháp đo lường

32
mới được thể hiện qua chỉ số Yasuda (Yasuda Index) mang tên ông. Phương pháp
đo lường di động xã hội giữa các thế hệ của Yasuda và ý nghĩa xã hội học của
chúng được trình bày chi tiết trong nguồn tài liệu (Yasuda, 1964, 1971; Kosaka,
1994:54~60, 186~187). Mục này trình bày tóm tắt lại phương pháp đó từ các nguồn
tài liệu này dựa trên cơ sở xuất phát từ Bảng 1.3.
Bảng 1. 3. Đo lường di động xã hội từ thế hệ cha sang thế hệ con
Địa vị xã hội của con
Tổng
1.........i........ k
1 n11 n1k n1.
Địa vị xã hội của cha

:
i nii ni.
:
k nk1 nkk nk.

Tổng n.1 n.i n.k N


Nguồn: Biên tập lại từ (Yasuda, 1964:17; 1971:70) và (Kosaka, 1994:186)
Ta có Bảng 1.3 vuông (k  k) thể hiện mối tương quan giữa địa vị xã hội của
cha và địa vị xã hội của con. Công trình nghiên cứu này áp dụng Bảng 1.3 để đo
lường sự di động dọc trong một thế hệ. Bảng 1.3 thể hiện và biểu lộ (demonstrate)
sự biến đổi của cấu trúc xã hội trong quãng thời gian dài một thế hệ (khoảng 25
năm). Điều này đã thể hiện ý nghĩa xã hội học một cách tổng quát của Bảng 1.3 về
di động xã hội. Bảng 1.3 thể hiện hai dòng di động đi ra (outflow mobility) và di
động đi vào (inflow mobility). Đây là điều quan trọng khi nghiên cứu về di động xã
hội. Dòng di động đi ra chính là các hàng ni. (tỉ lệ % tính theo mỗi hàng = 100%),
còn dòng di động đi vào chính là các cột n.i (tỉ lệ % tính theo mỗi cột = 100%).
Dòng di động đi ra cho thấy những người cha với địa vị xã hội của mình đã sinh ra
những người con chiếm giữ các địa vị xã hội hiện tại như thế nào. Tức là, dòng di
động đi ra cho biết những người cha đã có bao nhiêu người con kế thừa địa vị của
họ và bao nhiêu người con khác di chuyển đến những địa vị xã hội mới (không kế
thừa). Mặt khác, dòng di động đi vào xác định rõ nguồn gốc địa vị xã hội trước đây
của những người con gia nhập vào các địa vị xã hội hiện tại là từ đâu. Tức là, dòng
di động đi vào cho biết hiện tại có bao nhiêu người con được tuyển dụng kế thừa từ
địa vị xã hội trước đây của cha mình và bao nhiêu người con còn lại được tuyển
dụng từ những địa vị xã hội khác với cha mình (không kế thừa). Như vậy, tiêu điểm
chính của dòng di động đi ra là mức độ kế thừa nghề nghiệp từ cha sang con, còn
tiêu điểm chính của dòng di động đi vào là mức độ gia nhập nghề nghiệp hiện tại
của con từ các nghề nghiệp trước đây của cha mình như thế nào.

33
Trong Bảng 1.3, dãy số nằm trên đường chéo chính (n11 . . . nii . . . nkk) thể
hiện sự không thay đổi về địa vị xã hội từ cha đến con. Những con số còn lại nằm ở
hai phía đường chéo chính thể hiện sự di động xã hội: di động đi lên (upward
mobility) và di động đi xuống (downward mobility). Tổng số hai loại di động đi lên
và đi xuống chính là tổng số di động thực tế trong Bảng 1.3:
Tổng số di động thực tế = Tổng số di động đi lên + Tổng số di động đi xuống
Như vậy, tổng số di động thực tế (factual mobility, hoặc gross mobility) trong
Bảng 1.3 bằng tổng số N trừ đi tổng số địa vị không thay đổi từ cha sang con (nii),
tức là trừ đi tổng dãy số nằm trên đường chéo chính từ n11 đến nkk . Biểu diễn bằng
công thức toán học ta có:
Tổng số di động thực tế = N — nii (1)
Khi tính toán tỉ lệ di động thực tế trong xã hội từ công thức (1), ta sẽ có:
N   nii
Tỉ lệ di động thực tế = (2)
N
Căn cứ vào xu hướng thay đổi của tỉ lệ di động thực tế ở công thức (2) ta có
thể biết được xã hội đó vận động như thế nào (vận động đi lên, hoặc tụt lùi, hoặc ổn
định không thay đổi). Ví dụ, nếu một xã hội tất cả những người con hoàn toàn có
địa vị xã hội giống hệt như những người cha của họ thì ta có thể biết rằng xã hội đó
là đóng kín một cách nghiêm ngặt về mặt cấu trúc xã hội. Lúc đó, tỉ lệ di động thực
tế bằng 0. Mặt khác, nếu địa vị xã hội của những người con khác hoàn toàn với cha
của họ thì ta có thể nói rằng xã hội đó đã trải qua một cuộc cách mạng về cấu trúc
xã hội (hình ảnh ví von như là xảy ra một cuộc cách mạng xã hội). Lúc đó, tỉ lệ di
động thực tế bằng 1. Điều này cũng thể hiện ý nghĩa xã hội học tiếp theo qua công
thức (2) từ Bảng 1.3.
Yasuda cho biết, di động thực tế của xã hội được tạo ra bởi di động của các
cá nhân. Nó có thể do ba nhóm nguyên nhân: (1) Sự thay đổi khách quan về kết cấu
của những tầng lớp trong xã hội; (2) Sự thay đổi về quy mô dân số trong mỗi tầng
lớp xã hội khác nhau (sinh, chết, nhập cư, chuyển cư); và (3) Sự thay thế dịch
chuyển lẫn nhau của những cá nhân giữa các nhóm địa vị xã hội4. Chúng ta không
thể quy gán được di động của từng cá nhân vào một trong ba nhóm nhân tố kể trên.
Nhưng chúng ta có thể phân tách được tổng số di động thực tế của toàn xã hội thành
hai loại: (a) Di động cưỡng bức, hoặc di động cấu trúc (forced mobility, structural
mobility) được tạo ra do hai nhóm nguyên nhân đầu tiên (tức nguyên nhân thuộc về
cấu trúc); và (b) Di động thuần, hoặc di động tuần hoàn, hoặc di động trao đổi (pure
mobility, circulation mobility, exchange mobility) được tạo ra do nhóm nguyên
nhân thứ ba (nguyên nhân không thuộc về cấu trúc). Đồng thời, chúng ta có thể
đánh giá được phần đóng góp của mỗi loại di động chiếm bao nhiêu phần trăm
(Yasuda, 1964:16). Cụ thể, biểu diễn bằng phương trình toán học ta có:

4
Nguyên nhân thứ ba này được truyền đạt chính xác hơn so với thể hiện trước đây của tác giả (Đỗ Thiên Kính,
2012:151).

34
Tổng số di động thực tế5 = Tổng số di động cấu trúc + Tổng số di động tuần hoàn
Di động cấu trúc thể hiện sự thay đổi về địa vị xã hội từ thế hệ cha sang thế
hệ con do hai nhóm nguyên nhân thứ nhất và thứ hai quy định. Như thế, nó cũng
biểu lộ sự biến đổi cấu trúc xã hội trong quá trình phát triển. Cụ thể, tổng số di động
cấu trúc trong toàn xã hội là sự khác nhau của những con số thể hiện tần suất ở mép
lề của cha và con trong Bảng 1.36. Khi tính theo tỉ lệ, ta có công thức sau đây
(Kosaka, 1994:187):
| n i. - n .i |
Tỉ lệ di động cấu trúc = 2N (3)
Ý nghĩa xã hội học của công thức (3) đã được trình bày ở đoạn trên. Hoặc, từ
hai nhóm nguyên nhân thứ nhất và thứ hai ta sẽ hiểu rõ hơn ý nghĩa của công thức
(3)7. Cuối cùng là di động tuần hoàn ở Bảng 1.3:
Số di động tuần hoàn (cho tầng lớp i) = min(ni. , n.i) – nii (Yasuda, 1964:18)8.
Hoặc, viết theo cách khác (Yasuda, 1971:91):
Số di động tuần hoàn = n.i – nii nếu ni. > n.i
Số di động tuần hoàn = ni. – nii nếu ni. < n.i

5
Từ Bảng 1.3, người ta cũng phân tách chi tiết hơn nữa rằng, tổng số di động thực tế đi ra khỏi (factual out-mobility)
hàng địa vị thứ 1 của cha bằng (=) tổng số hàng địa vị thứ 1 của cha (n1.) trừ đi tổng số địa vị không thay đổi từ cha
sang con (n11). Tức là (bằng) = n1. – n11 . Ở các hàng địa vị khác (hàng thứ i, . . . thứ k) cũng tương tự. Khái quát lại ta
có, tổng số di động thực tế đi ra khỏi hàng thứ i (bằng) = ni. – nii (Yasuda, 1964:18; 1971:91).
Mặt khác, tổng số di động thực tế đi vào (factual in-mobility) cột địa vị thứ 1 của con bằng (=) tổng số địa vị cột thứ
1 của con (n .1) trừ đi tổng số địa vị không thay đổi từ cha sang con (n11). Tức là (bằng) = n.1 – n11 . Ở các cột địa vị
khác (cột thứ i, . . . thứ k) cũng tương tự. Khái quát lại ta có, tổng số di động thực tế đi vào cột thứ i (bằng) = n.i – nii
(Yasuda, 1964:18; 1971:91).
6
Về đại thể, từ Bảng 1.3 di động cấu trúc được hiểu như sau: Di động cấu trúc là sự khác nhau giữa phân bố tần suất
ở mép lề của cha và con trong bảng và nó phản ánh sự thay đổi nghề nghiệp hoặc công nghiệp từ thế hệ cha sang thế
hệ con. Nó thường được đo lường bởi phần trăm khác nhau giữa hai mép lề trong bảng (Kosaka, 1994:56). Từ đây,
tôi suy ra công thức tính toán tỉ lệ khác nhau giữa hai mép lề trong Bảng 1.3 là = | ni. – n.i | / N (Kosaka, 1994:57).
7
Từ Bảng 1.3 và công thức (3), người ta cũng phân chia thành di động cấu trúc đi ra khỏi (structural out-mobility) và
di động cấu trúc đi vào trong (structural in-mobility) từng nhóm địa vị xã hội. Tổng số di động cấu trúc đi ra khỏi
hàng địa vị thứ 1 của cha bằng (=) tổng số hàng địa vị thứ 1 của cha (n 1.) trừ đi số nhỏ hơn trong hai số (n1.) và (n.1).
Tức là (bằng) = n1. – min(n1. , n.1). Ở các hàng địa vị khác (hàng thứ i, . . . thứ k) cũng tương tự. Khái quát lại ta có,
tổng số di động cấu trúc đi ra khỏi hàng thứ i (bằng) = ni. – min(ni. , n.i) (Yasuda, 1964:18). Như vậy, nếu n i.  n.i (tức
biểu lộ cho sự thu hẹp tầng lớp i – Đỗ Thiên Kính giải thích thêm) thì di động cấu trúc đi ra (bằng) = ni. – n.i , còn nếu
ni. < n.i (tức biểu lộ cho sự mở rộng tầng lớp i – Đỗ Thiên Kính giải thích thêm) thì di động cấu trúc đi ra (bằng) = ni.
– ni. = 0 (Yasuda, 1971:91).
Mặt khác, tổng số di động cấu trúc đi vào cột địa vị thứ 1 của cha bằng (=) tổng số cột địa vị thứ 1 của cha (n .1) trừ đi
số nhỏ hơn trong hai số (n1.) và (n.1). Tức là (bằng) = n.1 – min(n1. , n.1). Ở các cột địa vị khác (cột thứ i, . . . thứ k)
cũng tương tự. Khái quát lại ta có, tổng số di động cấu trúc đi vào cột thứ i (bằng) = n.i – min(ni. , n.i) (Yasuda,
1964:18). Như vậy, nếu n i.  n.i thì di động cấu trúc đi vào (bằng) = n.i – n.i = 0 , còn nếu n i. < n.i thì di động cấu trúc
đi vào (bằng) = n.i – ni. (Yasuda, 1971:91).
Từ sự phân chia thành di động cấu trúc “đi ra” và “đi vào” trên đây, Kenji Kosaka cho biết tổng tỉ lệ di động cấu trúc
đi ra và đi vào (Bảng 1.3) đều là = ∑ | ni. – n.i | / N . Do vậy, tổng tỉ lệ di động cấu trúc cho toàn xã hội sẽ bao gồm cả
hai hướng “đi ra” và “đi vào” = ∑ | ni. – n.i | / 2N (Kosaka, 2004). Từ đây, tôi suy ra tỉ lệ di động cấu trúc cho phạm
trù (tầng lớp) i được đo lường bằng tỉ lệ khác nhau giữa hai mép lề trong bảng (Kosaka, 1994:72) sẽ = | ni. – n.i | / N .
8
Từ đây, tôi suy ra tỉ lệ di động tuần hoàn (cho tầng lớp i) = [min(ni. , n.i) – nii ] / N

35
Tỉ lệ di động tuần hoàn (cho toàn xã hội) được tính toán theo công thức sau
đây (Kosaka, 1994:187):

Tỉ lệ di động tuần hoàn =


 min( n i. , n.i )  nii 
(4)
N
Ý nghĩa xã hội học của công thức (4) được suy ra từ nhóm nguyên nhân thứ
ba trình bày trên đây. Dựa vào xu hướng thay đổi của tỉ lệ di động tuần hoàn ở công
thức (4), ta có thể biết được sự vận động của xã hội là mở (khi dãy chỉ số tăng dần),
hay khép kín (khi dãy chỉ số giảm dần), và thậm chí khép kín hoàn toàn (khi di
động tuần hoàn bằng 0). Yasuda đã cho biết mối quan hệ giữa di động thực tế, di
động cấu trúc và di động tuần hoàn thông qua ba nhóm nguyên nhân ở trên. Người
ta cũng dễ dàng chứng tỏ rằng:
Tỉ lệ di động thực tế = Tỉ lệ di động cấu trúc + Tỉ lệ di động tuần hoàn

Hoặc là:
N   nii
=
| n i. - n .i |
+  min( n i. , n.i )  nii 
N 2N N
Tóm lại: Từ Bảng 1.3, Yasuda đã trình bày theo cách khác về số di động thực tế, số
di động cấu trúc và số di động tuần hoàn cho phạm trù (tầng lớp) i như sau:
Nếu ni. > n.i , thì:
Đi ra Đi vào
Số di động thực tế = ni. – nii n.i – nii
Số di động cấu trúc = ni. – n.i 0
Số di động tuần hoàn = n.i – nii
Nếu ni. < n.i , thì:
Đi ra Đi vào
Số di động thực tế = ni. – nii n.i – nii
Số di động cấu trúc = 0 n.i – ni.
Số di động tuần hoàn = ni. – nii
Nguồn: Yasuda, 1971:91
Mặc dù di động xã hội được tạo ra bởi di động của các cá nhân, nhưng các
khái niệm di động thực tế, di động cấu trúc và di động tuần hoàn là những khái
niệm ở cấp độ toàn xã hội, hoặc từng nhóm địa vị xã hội, mà không phải ở cấp độ
cá nhân. Trong số các công thức nêu trên, người ta thường đề cập nhiều đến công
thức (4). Sở dĩ như vậy, bởi vì từ công thức (4), người ta có thể tìm ra hệ số mở
(coefficient of openness) cho toàn xã hội, hoặc cho từng nhóm/tầng lớp xã hội. Hệ
số mở cho từng nhóm/tầng lớp xã hội được tính toán như sau (Yasuda, 1964:18):
min( ni. , n.i )  nii
yii = (5)
min( ni. , n.i )  fii

36
Hệ số mở cho toàn xã hội (tức là cho tổng số các nhóm địa vị xã hội) còn gọi
là chi số Yasuda tổng thể (Overall Yasuda Index), gọi tắt là chỉ số Yasuda (Yasuda
Index) sẽ là (Yasuda, 1964:18; Kosaka, 1994:187):

Y=  min( ni. 
, n.i )  nii
(6)
 min( ni. ,n ) f 
.i ii

Trong công thức (5) và (6), fii = (ni. × n.i)/N chính là giá trị kỳ vọng (expected
value) với điều giả sử có sự độc lập thống kê. Điều này có nghĩa rằng, giả sử số
quan sát ở ô nii đạt tới giá trị kỳ vọng, thì ta có thể kết luận rằng những người con ở
ô đó đã di chuyển tới địa vị xã hội mới một cách độc lập hoàn toàn với địa vị xã hội
cũ của cha họ. Nói cách khác, địa vị xã hội của cha đã không có tí ảnh hưởng nào
tới địa vị xã hội của con.
Cả hai giá trị yii và Y đều bằng 1 khi ô thứ i và tất cả các ô nii trên đường
chéo chính đạt giá trị kỳ vọng. Lúc đó, di động xã hội ở Bảng 1.3 đạt tới trạng thái
gọi là di động hoàn hảo (perfect mobility) độc lập hoàn toàn với địa vị xã hội của
cha. Mặt khác, cả hai giá trị yii và Y đều bằng 0 khi không có di động tuần hoàn, tức
là di động tuần hoàn bằng 0 (Yasuda, 1964:18; Kosaka, 1994:58). Đến khi ấy, di
động xã hội ở Bảng 1.3 đạt tới trạng thái gọi là tình trạng xã hội khép kín hoàn toàn
(totally closed).
Một số lưu ý về phuơng pháp đo lường di động xã hội giữa các thế hệ:
(a) Thời điểm so sánh giữa các thế hệ (Yasuda, 1964:20-22)
Khi nghiên cứu di động giữa các thế hệ, việc chọn thời điểm so sánh giữa
nghề nghiệp của con trai và của cha là vào khi nào? Đây là yêu cầu quan trọng về
mặt phương pháp luận để tính toán chỉ số Yasuda trong Bảng 1.3 sao cho chính xác
và có ý nghĩa. Trong cuộc đời của người con trai, từ khi anh ta sinh ra đến khi có
nghề nghiệp để sinh sống là khoảng thời gian mà địa vị xã hội của anh ta phụ thuộc
vào địa vị xã hội của cha (hoặc địa vị mượn – borrowed status). Tại thời điểm mà
người con trai có nghề nghiệp để sinh sống là thời điểm đánh dấu sự trưởng thành
của anh ta. Lúc đó, người con trai đã trưởng thành và độc lập với cha của họ. Khi
ấy, để xác định địa vị xã hội của người con trai thì phải dựa vào nghề nghiệp của
anh ta, mà không dựa vào địa vị của người bố nữa. Đây là thời điểm có nghề nghiệp
đầu tiên (nghề nghiệp thứ nhất) của cuộc đời con người. Cũng tại thời điểm này, địa
vị xã hội của bố thường có ảnh hưởng đến nghề nghiệp đầu tiên của con trai
(Yasuda, 1964:20-21). Hoặc đó cũng là thời điểm ghi nhận thành quả hướng nghiệp
cho con trai trong suốt quá trình sống phụ thuộc vào cha mẹ để anh ta có được nghề
nghiệp đầu tiên. Như vậy, nghề nghiệp đầu tiên của con trai có thể giống và cũng có
thể khác với nghề nghiệp của cha tại cùng thời điểm đó. Điều này đã phản ánh sự
thay đổi nghề nghiệp từ cha sang con trai. Đây chính là thời điểm tốt nhất để đo
lường di động xã hội giữa các thế hệ. Tức là, việc so sánh nghề nghiệp đầu tiên của
người con trai với nghề nghiệp của cha tại cùng thời điểm (cùng thời điểm có nghề
nghiệp đầu tiên của người con trai) là yêu cầu quan trọng trong việc đo lường di

37
động xã hội giữa các thế hệ. Nếu thỏa mãn yêu cầu này thì phép đo lường mới thể
hiện chính xác sự di động giữa các thế hệ. Ngoài ra, việc chọn những thời điểm đo
lường khác rất có thể dẫn đến những kết quả khác nhau và sẽ không thể hiện chính
xác sự di động giữa các thế hệ. Ví dụ sau khi có nghề nghiệp đầu tiên, người con
trai có thể không thay đổi, hoặc tiếp tục thay đổi sang những nghề nghiệp khác.
Điều này nó phản ánh sự di động nội tại trong một thế hệ (intra-generational
mobility). Tức là, sau thời điểm có nghề nghiệp đầu tiên, sự di động trong một thế
hệ đã có thể bắt đầu diễn ra. Nếu đo lường di động xã hội vào thời kỳ này thì nó sẽ
phản ánh sự di động nội tại trong một thế hệ, mà không thể phản ánh chính xác di
động giữa các thế hệ.
(b) Gia đình trong di động thế hệ (Yasuda, 1964:22-23)
Chúng ta thường xem xét di động xã hội dưới góc độ của hành vi cá nhân
thuần túy, mà lại quên rằng giữa cha và con trai đều cùng thuộc một đơn vị gia
đình. Do vậy, các nhà xã hội học đã chỉ ra sự cần thiết phải lưu ý đến quan hệ gia
đình khi nghiên cứu di động xã hội. Dưới đây là trình bày cụ thể hơn.
(b.1) Chọn mẫu nghiên cứu là con trai trưởng, hay là con trai thứ?
Trong một gia đình, những người con trai khác nhau sẽ kế tục nghề nghiệp
của cha cũng khác nhau. Trong đó, người con trai trưởng thường kế tục nghề nghiệp
của cha hơn là những người con trai thứ. Đặc biệt ở các nước phương Đông – nơi
có truyền thống quyền thừa kế thường dành cho người con trai trưởng – thì vấn đề
con trai trưởng kế tục nghề nghiệp của cha lại càng nổi rõ. Ví dụ điển hình về vấn
đề này là tầng lớp nông dân trong xã hội Nhật Bản. Những hộ gia đình nông dân ở
Nhật Bản thường dành cho con trai trưởng sự kế tục nghề nông của gia đình để giữ
lấy quyền thừa kế đất đai là vốn quý ở Nhật Bản (Yasuda, 1964:22). Ta có thể suy
ra hai trường hợp khi nghiên cứu về di động xã hội trong tầng lớp nông dân ở Nhật
Bản như sau: (1) Trường hợp thứ nhất, nếu lấy mẫu nghiên cứu chỉ bao gồm những
người con trai trưởng, thì ta sẽ quan sát thấy sự di động giữa các thế hệ rất ít xảy ra
trong tầng lớp nông dân ở Nhật Bản. Tức là tầng lớp nông dân ở Nhật Bản là nhóm
xã hội tương đối khép kín và có độ mở rất nhỏ, bởi vì nghề nghiệp của con trai
trưởng thường giống với nghề nghiệp của cha họ. (2) Trường hợp thứ hai, nếu lấy
mẫu nghiên cứu chỉ bao gồm những người con trai thứ thì kết quả sẽ khác với
trường hợp thứ nhất. Lúc đó, ta sẽ quan sát thấy tầng lớp nông dân ở Nhật Bản
không còn là nhóm xã hội khép kín như trường hợp thứ nhất nữa. Cả hai trường hợp
này đều phản ánh sai lệch về di động xã hội giữa các thế hệ. Các cuộc điều tra thực
nghiệm xã hội học khi tiến hành nghiên cứu thường không rơi vào một trong hai
trường hợp kể trên. Người ta thường chọn mẫu những người con trai một cách ngẫu
nhiên và có thể bao gồm cả con trai trưởng cùng với con trai thứ. Nêu ra hai trường
hợp ở đây nhằm lưu ý đến điều này khi tiến hành nghiên cứu di động xã hội giữa
các thế hệ. Nếu ngẫu nhiên rơi vào một trong hai trường hợp như vậy, thì chúng ta
sẽ biết cách giải thích sự sai lệch của kết quả nghiên cứu là do đâu.
(b.2) Xác định thế hệ được bắt đầu từ bố, hay là từ con trai?

38
Thứ nhất là bắt đầu từ con trai. Những nghiên cứu về di động xã hội giữa các
thế hệ thường sử dụng người con trai như là xuất phát điểm (tức là dùng làm đơn vị
chọn mẫu) để đi tìm thông tin về bố của anh ta. Nhưng trong thực tế xã hội, một
người cha lại thường có nhiều hơn một người con trai. Do vậy, nếu bắt đầu từ
những người con trai thì rất có thể sẽ tìm đến và trùng lặp vào cùng một người cha
của họ. Như thế, số lượt người cha được gắn vào con trai sẽ nhiều hơn những người
cha trong thực tế. Nói cách khác, số lượng người cha sẽ bị “phóng đại” lên, bởi vì
một người cha có thể được tính “lặp lại” tới hai lần. Tất nhiên, mẫu nghiên cứu thực
tế về những người con trai thì số con trai cùng chung một bố có thể là không đáng
kể. Hơn nữa, nếu người ta chọn mỗi hộ gia đình một người con trai đại diện thì số
lượng người bố được tính “lặp lại” sẽ ít đi rất nhiều. Thứ hai là bắt đầu từ bố. Tuy
nhiên, ta có thể tránh xa trường hợp thứ nhất bằng cách xác định thế hệ được bắt
đầu từ bố. Tức là, đầu tiên hãy sử dụng người cha làm đơn vị chọn mẫu để đi tìm
thông tin về con trai của họ. Trong trường hợp này, mỗi người con trai đều có tương
ứng một người cha riêng biệt. Sẽ không có người bố nào được tính “lặp lại” tới hai
lần. Tuy nhiên, trường hợp này sẽ có những hạn chế nhất định so với trường hợp
thứ nhất. Dưới đây là ví dụ minh họa cho hai trường hợp nêu trên (Yasuda,
1964:22~23).
Giả sử ta có một xã hội tưởng tượng X bao gồm 3 hộ gia đình. Gia đình A chỉ
có 1 con trai và anh ta kế tục theo nghề của cha. Gia đình B có 2 con trai. Trong đó,
người con trai cả theo nghề của cha, còn người con trai thứ thì không. Gia đình C có
3 người con trai. Trong đó, một trong hai người con trai thứ theo nghề của cha, hai
con trai còn lại thì không. Tùy thuộc vào cách phân tích di động giữa các thế hệ mà
ta có những kết quả khác nhau dưới đây:
(b.2.1) Theo cách tiếp cận thông thường và phổ biến, như ở trường hợp thứ
nhất là bắt đầu từ tất cả những người con trai, ta có trong xã hội X bao gồm tất cả 6
người con trai trong mẫu nghiên cứu. Trong đó, có 3 con trai kế tục nghề của bố và
3 con trai còn lại thì không. Như vậy, tỉ lệ kế tục nghề nghiệp là 3 con trai/tổng số 6
con trai = 50% = 0,5. Phần còn lại sẽ là 50% con trai không kế tục nghề của bố. Tức
là tỉ lệ di động nghề nghiệp là 50% và tỉ lệ không di động (cố định) nghề nghiệp
cũng là 50%. Hoặc là dựa vào công thức (2) = (N — nii)/N, ta cũng tính được tỉ lệ
di động nghề nghiệp thực tế là: (6 – 3)/6 = 3/6 = 50%. Từ đây suy ra tỉ lệ không di
động thực tế cũng là 50%.
(b.2.2) Theo cách tiếp cận khác, như ở trường hợp thứ hai là bắt đầu từ tất cả
những người cha, ta có trong xã hội X bao gồm tất cả 3 người bố trong mẫu nghiên
cứu. Kết quả nghiên cứu sẽ khác hẳn với mục (b.2.1). Cụ thể như sau:
- Ta có thể xem xét theo một cách nhìn và cho rằng tỉ lệ kế tục nghề nghiệp trong
xã hội X là 100%, bởi vì mỗi nghề nghiệp của một người cha đều được một
người con trai kế tục.
- Cũng có thể xem xét theo cách nhìn khác: Nếu bổ sung thêm tiêu chí chỉ lựa
chọn những người con trai trưởng để gắn vào 3 người cha, thì tỉ lệ kế tục nghề

39
nghiệp trong xã hội X là 2 người bố/tổng số 3 người bố được những người con
trai trưởng kế tục nghề nghiệp. Tỉ lệ 2/3 là 66,7%. Phần còn lại sẽ là 1/3 =
33,3% người bố không được con trai trưởng kế tục nghề nghiệp. Tức là tỉ lệ di
động nghề nghiệp là 33,3% và tỉ lệ không di động (cố định) nghề nghiệp là
66,7%. Hoặc là dựa vào công thức (2) = (N — nii)/N, ta cũng tính được tỉ lệ di
động nghề nghiệp thực tế là: (3 – 2)/3 = 1/3 = 33,3%. Từ đây suy ra tỉ lệ không
di động thực tế là 66,7%.
- Cuối cùng là cách nhìn khác hẳn với hai trường hợp trên đây: Nếu tính toán tỉ
lệ kế tục nghề nghiệp riêng rẽ cho từng hộ gia đình, thì tỉ lệ kế tục nghề nghiệp
là 100% ở gia đình A, 50% ở gia đình B và 33,3% ở gia đình C, bởi vì ở hai gia
đình B và C những người con trai chỉ kế tục một phần nghề nghiệp cha của họ.
Từ đây, ta có tỉ lệ kế tục nghề nghiệp trong toàn xã hội sẽ là (100% + 50% +
33,3%)/3 = 61,1%.
Trong hai cách tiếp cận kể trên (xuất phát từ cha, hoặc con), cách tiếp cận
nào phản ánh sát thực tế nhất về xã hội? Điều đó sẽ phụ thuộc vào từng hoàn cảnh
xã hội cụ thể. Nhưng dù sao trong trường hợp thứ hai (tức mục b.2.2), tỉ lệ kế tục
nghề nghiệp theo ba cách nhìn kể trên (bằng 100%, 66,7% và 61,1%) đều lớn hơn
trường hợp thứ nhất (tức mục b.2.1) bằng 50%. Sở dĩ có điều này, bởi vì tỉ lệ kế tục
nghề nghiệp được xác định theo phương pháp bắt đầu từ bố thường cao hơn bắt đầu
từ con trai. Điều này càng thể hiện rõ hơn trong những xã hội phương Đông – nơi
có truyền thống quyền thừa kế thường dành cho người con trai trưởng (ví dụ, xã hội
Nhật Bản chẳng hạn). Như vậy trong ví dụ của xã hội tưởng tượng X trên đây, việc
xác định thế hệ được bắt đầu từ con trai hay là từ người bố, đã cho ta hai bức tranh
khác hẳn về di động xã hội. Dẫn ra hai trường hợp của việc xác định thế hệ được
bắt đầu từ đâu là nhằm để lưu ý đến điều này khi tiến hành nghiên cứu di động xã
hội giữa các thế hệ. Trên thực tế, những nghiên cứu về di động xã hội giữa các thế
hệ thường sử dụng người con trai như là xuất phát điểm để dùng làm đơn vị chọn
mẫu.
Trên đây là những tìm hiểu về di động xã hội và phương pháp đo lường di
động xã hội giữa các tầng lớp như thế nào. Phương pháp đo lường này sẽ được áp
dụng vào nghiên cứu ở Việt Nam trong Chương III.


Tóm lại, dựa trên thực tế lịch sử và những trình bày lý thuyết về phân tầng xã
hội, di động xã hội, ta có thể tóm lược một số đặc trưng cơ bản và các thông số về 8
hệ thống phân tầng xã hội điển hình trong lịch sử loài người như sau:
Bảng 1. 4. Các thông số và đặc trưng cơ bản về những hệ thống phân tầng xã hội
điển hình trên thế giới

40
Hệ thống Những tài Các giai Bất Bền Mức độ Phương Di Hệ tư tưởng
sản chính tầng chủ bình vững9 hội tụ10 thức đạt động
yếu đẳng về địa các địa tới địa xã
vị vị vị hội
A. Xã hội săn bắn và hái lượm
1. Bộ lạc Con người Thủ lĩnh, Thấp Thấp Cao - - Chọn lựa
(săn bắn và pháp sư và người tài
kỹ năng đặc các thành
biệt) viên bộ lạc
B. Xã hội nông nghiệp
2. Hình Chính trị (giữ Người có Cao Trung Cao - -Giáo lý tín
thái chức vụ) chức vụ và bình ngưỡng và
châu Á nông dân tôn giáo
3. Chiếm Kinh tế (tài Chủ nô, nô Cao Trung Cao Quy gán Khép Giáo lý về
hữu nô sản con lệ, người tự bình – sẵn kín bản chất & sự
lệ người) do Cao thấp kém xã
hội của nô lệ
4. Xã hội Uy tín và văn Các đẳng Cao Cao Cao Quy gán Khép Giáo lý tín
đẳng hóa (dân tộc cấp, tiểu sẵn kín ngưỡng và
cấp thượng đẳng, đẳng cấp tôn giáo
lối sống) Hindu
5. Phong Kinh tế (đất Quý tộc, Cao Trung Cao Quy gán Khép Giáo lý
kiến đai và sức lao tăng lữ, bình – sẵn kín Catholic La
(châu động) thường dân Cao Mã và tín
Âu) ngưỡng
C. Xã hội công nghiệp
6. Hệ Kinh tế (tư Tư sản và Trung Trung Cao Quy gán Ít Chủ nghĩa tự
thống liệu sản xuất) người lao bình – bình sẵn, khép do kinh
giai cấp động Cao giành kín điển/cổ điển
đạt được
7. Chủ Chính trị Người quản Thấp – Thấp – Cao Quy gán Ít Chủ nghĩa
nghĩa xã (đảng phái và lý, bị quản Trung Trung sẵn, khép Marx và
hội nhà quyền hành lý bình bình giành kín Lenin
nước nơi làm việc) đạt được
8. Công Con người Các nhóm Trung Thấp – Trung Quy gán Mở Chủ nghĩa tự
nghiệp (học vấn, kỹ năng bình Trung bình sẵn, do kinh
phát chuyên môn) nghề nghiệp bình giành điển/cổ điển
triển đạt được
Nguồn: Biên tập lại (có bổ sung và thay đổi) từ tài liệu (Grusky, 2001:9)

9
Mức độ “bền vững về địa vị” được chuyển ngữ từ khái niệm cơ bản “rigidity”. Khái niệm này của hệ thống phân
tầng nhằm ám chỉ địa vị xã hội của các thành viên được tiếp nối liên tục qua thời gian. Ví dụ, nếu của cải, quyền lực
và uy tín hiện tại của cá nhân đã được dự báo chính xác trên cơ sở địa vị trước đây (hoặc địa vị của cha mẹ), thì hệ
thống phân tầng đó được gọi là có mức độ bền vững cao, hoặc “khép kín xã hội” (Grusky, 2001:6).
10
Mức độ “kết tinh/hội tụ các địa vị” được chuyển ngữ từ khái niệm cơ bản “status crystallization”. Khái niệm này
nhằm ám chỉ mối tương quan giữa các loại tài sản (ở Bảng 1.1). Nếu các mối tương quan là mạnh, thì sẽ xuất hiện sự
nhất quán về địa vị (status consistency) ở những cá nhân trên đỉnh và dưới đáy hệ thống phân tầng (Grusky, 2001:6).
Tức là, nếu mối tương quan mạnh, thì sẽ có sự “quy tụ”/“hội tụ” các loại tài sản vào cùng mỗi tầng lớp (để tạo nên sự
rõ ràng/kết tinh về địa vị – status crystallization – cho mỗi tầng lớp đó). Các loại tài sản thường cùng hội tụ vào tầng
lớp trên đỉnh và không hội tụ vào tầng lớp dưới đáy hệ thống phân tầng. Như vậy, khái niệm “status crystallization”
có phần tương đương với “status consistency”.

41
Từ Bảng 1.4, ta có thể rút ra một số đặc điểm của hệ thống phân tầng xã hội
theo tiến trình phát triển từ xã hội nông nghiệp lên xã hội công nghiệp như sau:
 Càng đến xã hội công nghiệp, các hệ thống phân tầng có sự di động xã hội
nhiều hơn (ít khép kín hơn) và người ta kỳ vọng di động đi lên nhiều hơn. Do
vậy, hệ thống phân tầng xã hội cũng có tính mở nhiều hơn (tức là hệ thống
phân tầng mở, không phải khép kín/đóng).
 Hệ thống phân tầng trong xã hội công nghiệp có tầng lớp trung lưu ngày càng
đông đảo, bởi vì di động đi lên đã tạo lập nên quá trình hình thành tầng lớp
trung lưu.
 Hệ thống phân tầng trong xã hội công nghiệp có địa vị giành đạt được thường
nổi trội hơn địa vị quy gán sẵn. Tức là, quá trình đạt được về địa vị KT-XH
của cá nhân thường dựa nhiều hơn vào những nhân tố có thể phấn đấu để
giành đạt được (như học vấn, bằng cấp, tri thức, kỹ năng và kinh nghiệm),
chứ không phải những nhân tố quy gán sẵn.
 Xã hội công nghiệp càng phát triển, các loại nguồn lợi và tài sản chủ yếu
(Bảng 1.1) dùng để phân nhóm và xếp hạng các tầng lớp ngày càng đa dạng
(do nhiều nguồn lực có giá trị mới xuất hiện). Do vậy, hệ thống phân tầng trở
nên phức hợp hơn, bởi vì những tiêu chuẩn phân nhóm và xếp hạng các tầng
lớp đã tương tác và đan chéo lẫn nhau. Từ đây dẫn đến việc sắp xếp thứ hạng
các cá nhân và các nhóm theo những chiều cạnh khác nhau trong tôn ti thứ
bậc xã hội thường không trùng hợp nhau, do vậy dẫn đến tình trạng không
nhất quán về vị thế.
Mặc dù đa số các nhà nghiên cứu trên thế giới nhất trí rằng vị thế nghề
nghiệp và công ăn việc làm đã tạo lập nên chiếc xương sống của phân tầng hiện đại,
nhưng họ cũng thừa nhận còn có thể nảy sinh các tầng lớp xã hội xung quanh các
nhóm tài sản và nguồn lợi khác (ảnh hưởng chính trị, quyền uy, vị thế chủng tộc-sắc
tộc, giới, uy tín, học vấn, kỹ năng, vốn con người, tri thức, mạng lưới xã hội, vốn xã
hội, vốn văn hóa, thị hiếu, phong cách sống, quyền con người). Các nhà nghiên cứu
hiện nay về phân tầng xã hội thường kết hợp các chiều cạnh giai cấp (kinh tế), vị
thế nghề nghiệp và quyền uy với nhau để tạo lập nên những sơ đồ phân tầng và bản
đồ giai cấp mang tính tổng hợp. Đặc biệt, Erick Olin Wright (1997) đã lần lượt
phân tích giai cấp, nghiên cứu phân tầng theo giới và tộc người đặt cạnh nhau
(Pakulski, 2006:586). Như vậy, bước phát triển tiếp tục là sự chuyển hướng quan
tâm nghiên cứu đến vai trò của tộc người và giới trong sự phân tầng, tức là sự phân
tầng theo tộc người và giới (từ 1960~1970 cho tới nay). Trong xã hội hiện đại ngày
nay, giới có ảnh hưởng nhất định đến sự phân tầng và nó độc lập tương đối so với
giai cấp. Tuy nhiên đời sống hàng ngày, giới, tộc người và giai cấp cùng kết hợp
với nhau trong hệ thống phân tầng, tương tác với nhau nhằm tiếp cận những nguồn
tài sản, nguồn lợi của con người và thể hiện câu hỏi: “Ai có được cái gì?” Quá trình
toàn cầu hóa tăng lên hiện nay, nhiều nhà xã hội học nhìn thế giới trong một tổng
thể như là được phân tầng điển hình theo chiều cạnh kinh tế và quyền lực. Do vậy,

42
quốc gia phụ thuộc và các nhà lý luận về hệ thống thế giới đã phân biệt các tầng lớp
quốc gia quyền lực giữa các nước trung tâm quyền lực, các nước vùng ven và các
nước ngoại vi (Pakulski, 2006:586-587).
Như vậy, các lý thuyết phân tầng xã hội đều xuất phát từ K. Marx, M. Weber
và đã phát triển tiếp tục về sau này. Từ chỗ chỉ thừa nhận chiều cạnh kinh tế trong
sự phân chia thành các giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp là quan hệ bóc lột
(K. Marx), đã đi đến chỗ cho rằng ba chiều cạnh căn bản (kinh tế, quyền lực và uy
tín) làm cơ sở xác định các tầng lớp xã hội (M. Weber). Đồng thời, mối quan hệ
giữa các giai cấp là quan hệ chức năng và xung đột (tức là kết hợp giữa thuyết chức
năng và thuyết xung đột), chứ không chỉ là quan hệ bóc lột như trước nữa. Tiếp tục,
các chiều cạnh vốn văn hóa, vốn xã hội, vốn con người và quyền công dân cũng
đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo lập nên hệ thống phân tầng xã hội. Cuối
cùng, chiều cạnh giới và tộc người cũng tham gia đan chéo với các chiều cạnh đã có
làm khuếch đại thêm những bất bình đẳng trong hệ thống phân tầng. Thành tựu
nghiên cứu này về phân tầng xã hội trên thế giới là những kiến thức cơ bản cần nắm
vững để suy ngẫm và gợi ra những vấn đề cho xã hội học Việt Nam trong quá trình
hội nhập quốc tế hiện nay.

5. Khái quát về phân tầng xã hội ở Việt Nam từ truyền thống đến trước
đổi mới
Các mục trên đây đã trình bày những kiến thức khái lược về phân tầng và
thực tế lịch sử phân tầng xã hội trên thế giới. Vậy còn trường hợp ở Việt Nam thì
sao? Bảng 1.5 trình bày tóm tắt về hệ thống phân tầng xã hội ở Việt Nam trong lịch
sử dựa trên kết quả nghiên cứu ở đề tài cấp Bộ năm 2009-2010 (Đỗ Thiên Kính,
2011a:35~58).
Bảng 1. 5. Những nét đại cương về phân tầng xã hội ở Việt Nam từ truyền thống
đến trước đổi mới
1. Mô hình đẳng cấp-giai 2. Mô hình giai cấp 3. Mô hình giai cấp ở miền
cấp (XVI~giữa XIX): (1858~1945): Thuộc địa Bắc (1954~1975) & cả
Phong kiến nửa phong kiến nước (1975~1986): XHCN
Tiêu chí Dựa trên quyền lực, địa vị Dựa trên quyền lực chính Dựa trên quyền lực chính trị
phân chính trị-xã hội, sở hữu trị, sở hữu tài sản và nghề và công hữu tài sản (toàn
chia ruộng đất và nghề nghiệp nghiệp dân và tập thể)
- Vua-quan và địa chủ - Tư sản và địa chủ (vua - - Công nhân (cán bộ, “Hai
Các giai - Nho sĩ/sĩ phu bù nhìn) công nhân, v.chức) giai,
tầng và - Nông dân tự canh (trung - Tiểu tư sản (trí thức, - Nông dân một
thứ bậc nông) công chức, tiểu thương, - Trí thức tầng”
cao thấp - Nông dân nghèo tiểu chủ) và phú nông "Trời xanh, mây trắng, nắng
- Thợ thủ công - Nông dân tự canh (trung vàng.
- Thương nhân nông) và công nhân Công, nông, binh, trí sắp
- Bần nông và cố nông hàng tiến lên"
Một số nhận xét chung về 3 mô hình ở Bảng 1.5 như sau:

43
 Mô hình 1, 2 trong lịch sử thể hiện sự chuyển đổi từ cấu trúc đẳng cấp (với
hai đẳng cấp thống trị và bị trị) sang cấu trúc giai cấp (với giai cấp tư sản và
địa chủ thống trị, còn lại là giai cấp công nhân và nông dân bị trị). Tiêu chuẩn
phân chia các tầng lớp xã hội dựa trên quyền lực và tài sản. Bên cạnh tiêu
chuẩn này, mô hình xã hội trong lịch sử luôn tồn tại tiêu chuẩn khác phân
chia các tầng lớp xã hội theo nghề nghiệp: “Sĩ – Nông – Công – Thương”.
Tiêu chuẩn khác này đã bổ sung, làm phong phú và cụ thể hơn bức tranh
phân tầng xã hội trong lịch sử Việt Nam. Một ví dụ nghiên cứu trường hợp
về phân tầng xã hội trong lịch sử qua quán Giá ở hai làng Yên Sở và Sở Đắc
(tỉnh Hà Đông) được trình bày dưới đây là minh họa sống động về cấu trúc
xã hội thời kỳ này.
 Mô hình 3 thể hiện cấu trúc giai cấp công nhân, nông dân tập thể và tầng lớp
trí thức xã hội chủ nghĩa (XHCN), hay còn gọi là cơ cấu “hai giai, một tầng”.
Hai giai cấp thời kỳ này được quy định bởi cơ sở kinh tế với hai hình thức sở
hữu nhà nước và tập thể đối với tư liệu sản xuất (chế độ công hữu). Các tầng
lớp xã hội khác còn lại đều nhằm củng cố và phát triển hai giai cấp chủ chốt
của xã hội. Hai giai cấp đều là anh em, trong đó giai cấp công nhân giữ vai
trò lãnh đạo. Lý luận phân tầng xã hội theo lý thuyết giai cấp của Marx-
Lenin giữ địa vị thống trị tuyệt đối. Mô hình “hai giai, một tầng” là có tính
phổ biến trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hồi bấy giờ nói chung.
Một ví dụ về phân tầng xã hội ở Việt Nam trong lịch sử
Tài liệu lịch sử trong ví dụ này được trích dẫn chủ yếu từ những công trình
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Huyên (1995): “Góp phần nghiên cứu văn hóa
Việt Nam” – Tập I. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội11. Việc thờ thành hoàng
làng được thực hiện ở nhiều làng quê người Việt vùng Đồng bằng sông Hồng
(ĐBSH). Thành hoàng Lý Phục Man – một viên tướng trung thành của ông vua Lý
Bí (503~548) – là một trong những trường hợp như vậy. Lý Phục Man được thờ
làm thành hoàng làng trong 20 làng ở vùng ĐBSH.
Tại quán Giá – nơi trung tâm thờ Lý Phục Man được thực hiện bởi hai làng
Yên Sở và Đắc Sở cùng nhau trông nom việc thờ cúng – đã thể hiện toàn bộ cấu
trúc xã hội của hai làng qua hai dãy hành lang trong quán Giá dành cho hai làng
này (Hình 1.3). Toàn bộ đàn ông của mỗi làng được chia thành 12 hạng. Mỗi dãy
hành lang đều có 11 ô ngăn dành cho các đẳng cấp của mỗi làng. Trong đó, 10 ô
ngăn dành cho 10 đẳng cấp và 1 ô ngăn còn lại. Vào những ngày lễ hội Lý Phục
Man hàng năm, các đẳng cấp được phân chia theo những ô ngăn đã quy định của
hành lang. Tôn ti trật tự cao thấp (ngôi thứ) giữa các ô ngăn được tính từ điện thờ.
Đẳng cấp nào ở gần điện thờ hơn, thì có địa vị xã hội cao hơn. Tiếp theo, mỗi ô

11
Tác giả Đỗ Thiên Kính đã tham khảo bài viết của ông Bùi Xuân Đính đăng trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An (bản
điện tử) ngày 5/9/2020: "Bàn thêm về phân tầng xã hội ở nước ta trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945" -
http://vanhoanghean.com.vn/component/k2/35-dien-dan/14390-ban-them-ve-phan-tang-xa-hoi-o-nuoc-ta-truoc-cach-
mang-thang-8-nam-1945, để đính chính một số tư liệu của tác giả Nguyễn văn Huyên. Đặc biệt là sửa chữa bản dịch
khái niệm/từ ngữ "đình" chuyển thành "quán Giá".

44
ngăn lại còn được chia nhỏ thành 3 bậc (bên trên rải chiếu) có độ cao thấp khác
nhau (mỗi bậc cao hơn bậc dưới khoảng 10~15 cm) dành cho 3 lớp người cũng
khác nhau trong cùng một đẳng cấp (Nguyễn Văn Huyên, 1995:332, 347, 349, 409,
410). Như vậy, mỗi lớp người sẽ ngồi ăn uống cùng một chiếu và có “chiếu trên,
chiếu dưới” trong cùng đẳng cấp. Sơ đồ hai dãy hành lang trong quán Giá:

ĐIỆN THỜ
Số người: Số người:
Lão thượng (> 70 tuổi) 50 Tư văn Yên Thái 30
Lão trung (60~69 tuổi) 100 Tư văn Đại Đồng 30
Kỳ mục Tư văn Diễm Xá 120
Quan viên chính 52 Chức dịch Tam thôn
Tư văn 38 Trung đình Diễm Xá 100
Tư võ (xã binh) 143 Trung đình Đại Đồng 160
Xã dân Trung đình Yên Thái 100
Quan viên tôn 40 Lão Diễm Xá 60
Quan viên mới 23 Lão Đại Đồng 60
Lão hạ (55~59 tuổi) 95 Lão Yên Thái 40
Hàng phiên 30 Hàng phiên kiệu
Hành lang Yên Sở = 571 B Hành lang Đắc Sở = 700
(nhất xã nhất thôn) (nhất xã tam thôn: Yên Thái, Đại Đồng, Diễm xá)
Dân số > 5000 người N Dân số < 3000 người
Hình 1. 3. Vị trí các đẳng cấp trong hành lang quán Giá (năm 1937)
Nguồn: Biên tập lại từ tài liệu (Nguyễn Văn Huyên, 1995:312, 343~349)
Dưới đây là miêu tả về hành lang phía tây dành cho làng Yên Sở:
“Thật ra, chỉ có 10 hạng kỳ mục; thập tịch, gọi nôm na là mười nóc. Hạng kỳ mục chỉ tồn tại
khi người ta bàn việc làng. Lúc ăn uống, hội hè, các kỳ mục trở về chỗ của họ. Người đứng
đầu hội đồng xã có thể là một người nhà binh, hàm ngũ phẩm. Khi ăn uống, người này ngồi ở
chiếu đầu tiên của các xã binh. Lý trưởng ngồi chiếu xã dân. Bởi thế trong ngày hội, các chiếu
kỳ mục dùng làm nơi tiếp đón. […]
Mỗi đẳng cấp được dành những chỗ ngồi riêng biệt ở ngôi nhà công cộng của làng gọi là quán
Giá. Những ngày lễ hội, cả mười đẳng cấp thân hào tập họp ở hành lang, tức là một dãy nhà
gạch không cửa ngõ gì, nằm ở phía trái cái sân chính. Dãy hành lang có 11 ô ngăn, trong đó có
10 ô dành cho 10 đẳng cấp thân hào, và một ô dành cho các đại diện chính thức của làng gọi là
Kỳ mục. […]
Người ta nhận thấy rằng những ngày có họp bàn việc làng, cái ô thứ ba được dành riêng cho
những người Kỳ mục tức là những đại diện chính thức của làng. Nếu không thì đó là nơi tiếp
khách long trọng trong những ngày lễ hội.
Mỗi đẳng cấp còn được chia nhỏ làm ba lớp, mỗi lớp có góc chiếu ngồi riêng. Mỗi ô ngăn
được chia thành ba phần: lớp thân hào thứ nhất ngồi vào chiếc chiếu trải phần trên ô ngăn thứ

45
nhất ở phía trái, đắp cao hơn hai phần ô ngăn kia 25 cm. Rồi đến lớp thân hào thứ hai. Lớp
thân hào thứ 3 ngồi trên chiếc chiếu ở phía sân quán.
Những người thuộc cùng đẳng cấp, cùng tầng lớp, cùng ngồi một chiếu, cùng ăn một mâm.
Muốn gia nhập đẳng cấp người ta phải đáp ứng những điều kiện đặc biệt được xác định
nghiêm ngặt. Thí dụ: phần thứ nhất của ô dành cho đẳng cấp Tư văn, được dành cho những ai
đỗ giải ưu trong kỳ thi văn học. Ở đó ngày nay bị bỏ trống vì chẳng ai trong làng đáp ứng
được điều kiện đó cả. […]
Muốn cho thể chế đẳng cấp đó có một cơ sở vững chắc, người ta đã tạo cho nó một tính chất
tôn giáo. Những ai thỏa mãn những điều kiện vật chất và đạo đức để gia nhập một đẳng cấp,
trước tiên phải hiến một lễ tế Thần Thành hoàng. Do đấy, địa vị xã hội của họ mang tính chất
tôn giáo” (Nguyễn Văn Huyên, 1995:349, 409, 410).
Bên dưới các đẳng cấp thuộc hai dãy hành lang trên đây là những dân đinh
(hạng thứ 12 – cùng đinh). Chỉ những người thuộc 11 hạng mới có quyền có chỗ ở
quán Giá (còn hạng thứ 12 thì không như vậy). Tiếp theo, ta hãy phân tích cấu trúc
xã hội của hai làng Yên Sở và Đắc Sở theo những kiến thức khái lược về phân tầng
xã hội như trình bày dưới đây:
 Về đại thể, cấu trúc xã hội của hai làng Yên Sở và Đắc Sở được phân chia
thành hai loại hạng người: Những người quản lý xã thôn (thể hiện qua 11 ô
ngăn ở hai dãy hành lang) và đa số dân đinh còn lại (hạng 12). Nói theo ngôn
ngữ của M. Weber, sự phân chia thành hai loại hạng người như thế này là
dựa theo tiêu chuẩn về quyền lực chính trị (đồng thời cũng bao hàm và hội tụ
cả về địa vị KT-XH trong đó). Thứ bậc cao thấp rõ ràng là những người quản
lý xã thôn ở trên đa số dân đinh.
 Cụ thể hơn, đối với những người quản lý xã thôn thì mỗi làng Yên Sở và Đắc
Sở lại có sự phân chia theo tôn ti trật tự (ngôi thứ) theo hai cách khác nhau.
Trong đó, cả hai làng đều sắp xếp hạng thứ 11 (hàng phiên) đứng cuối cùng
là do sự di động luân phiên cắt cử từ hạng 12 đưa lên. Hết thời gian luân
phiên (thường là một/vài năm) thì họ lại trở về hạng 12, và được thay mới
bằng những người khác cũng từ hạng 12. Các đẳng cấp ở bậc trên hàng phiên
không giống hoàn toàn với đẳng cấp ở Ấn Độ cổ đại là cha truyền con nối và
đóng kín, mặc dù các đẳng cấp này ở làng xã Việt Nam được duy trì địa vị xã
hội của họ như vậy khá dài (có thể đến già) và có thể di động lên các đẳng
cấp trên. Biểu hiện của đẳng cấp được thể hiện rất rõ ở quán Giá qua sinh
hoạt ăn uống, đứng ngồi, tế lễ và thờ cúng. Các tiêu chuẩn để phân chia và
xếp hạng các đẳng cấp này ở hai làng là sự kết hợp về tuổi tác, chức tước,
bằng cấp và địa vị.
 Cuối cùng là cách phân chia và xếp hạng tổng quát cho toàn bộ dân cư làng
xã theo cái gọi là tứ dân: Sĩ – Nông – Công – Thương. Điều này được thể
hiện qua các hình trang trí trên những viên gạch đỏ trạm trổ tạo thành đường
gờ của bức tường hai bên tam quan (gần hai hành lang) ở quán Giá:

46
“Các gờ tường ở đây trình bày rồng, phượng, và lân. Sự yên ổn chỉ có thể được thực hiện
trong nước bằng lao động và sự tổ chức hài hòa của các giai tầng trong xã hội. Nghệ thuật
trang trí thể hiện ý này bằng cách trình bày nhóm tứ dân: sĩ, nông, công, thương; hoặc bốn
cảnh của đời sống bình thường: ngư, tiều, canh, mục. Ta thấy bốn cảnh này trong bốn hình
trạm khắc ở đây: người đọc sách,... người tiều phu,... người câu cá,…và người làm ruộng […]
Người ta vốn quen phân biệt bốn giai cấp hoặc đẳng cấp trong xã hội người Việt: Sĩ (nho sĩ),
Nông (nông dân), Công (thợ thủ công) và Thương (người buôn bán). Đấy là một sự phân biệt
hoàn toàn đại khái, phần lớn dựa trên nghề nghiệp của từng người hơn là dựa trên vai trò của
mỗi cá nhân trong xã hội. Điều đó rất rõ nét trong làng xã người Việt, nơi mà cách phân biệt
đó chẳng có giá trị gì lắm” (Nguyễn Văn Huyên, 1995:330, 409).
Cách phân chia theo 4 loại hình tứ dân này đã bao hàm thêm cả hạng 12 trên
đây (gồm có Nông – Công – Thương). Theo ngôn ngữ của xã hội học hiện
đại, thì đó là dựa theo tiêu chuẩn nghề nghiệp đã bao hàm cả địa vị xã hội. Ta
có thể tổng hợp lại tôn ti trật tự từ trên xuống dưới các đẳng cấp ở làng xã
Việt Nam trong lịch sử (thời kỳ phong kiến) như sau: Quản lý xã/thôn (bao
gồm cả Sĩ) – Nông – Công – Thương. Sự phân chia này trước hết là dựa trên
quyền lực chính trị, sau đó là dựa theo nghề nghiệp. Theo ý nghĩa của sự
phân loại các nhóm nghề nghiệp hiện nay, thì nhóm Quản lý xã thôn cũng là
một loại nghề đặc biệt. Do vậy, sự phân loại các tầng lớp xã hội ở làng/xã
nông thôn trên đây có thể quy giản về tiêu chuẩn nghề nghiệp.
 Việc sắp xếp theo tôn ti trật tự ở hai dãy hành lang trong quán Giá đã thể hiện
sự bất bình đẳng mang tính cấu trúc của xã hội. Bất bình đẳng giữa các đẳng
cấp ở làng/xã là thuộc tính của cấu trúc xã hội Việt Nam. Sự bất bình đẳng
này được thể hiện qua việc phân chia những loại tài sản, nguồn lực, nguồn lợi
của xã hội. Cụ thể hơn, đó là những quy tắc trong việc phân chia những
nguồn lực, nguồn lợi này theo địa vị xã hội của mỗi đẳng cấp nơi chốn quán
Giá và đã trả lời cho nửa đầu câu hỏi: “Ai có được cái gì và tại sao?” Dẫn
chứng từ lịch sử dưới đây là thể hiện sự trả lời cho nửa đầu câu hỏi này.
“Con vật bị giết (bò, lợn, gà...) thường được quy định thành một “bản đồ khu vực” rất tỉ
mỉ, dành cho từng chức tước, đẳng cấp nhất định. […] Sự phân chia các bộ phận con vật làm
quà biếu cho các ngôi thứ không chỉ đơn thuần theo một thứ tự ưu tiên, mà là theo một quy
định nghiêm ngặt được quy chế hóa trong làng xã” (Nguyễn Thừa Hỷ, 1978:128).
 Phương thức di động xã hội gia nhập vào các đẳng cấp ở làng Yên Sở bằng
nhiều con đường khác nhau: thiên định (hay Xỉ, trọng lão đối với người già),
thi cử (đối với Tư văn), đề bạt và chuẩn y (đối với Quan viên chính), mua
ngôi (đối với Quan viên mới), và cắt cử (đối với tuần đinh, tức hàng phiên).
Phương thức di động xã hội như thế này đã tạo nên địa vị xã hội cho các đẳng
cấp. Theo kiến thức khái lược về phân tầng xã hội, có hai con đường để đạt
tới địa vị KT-XH: nhờ dựa vào địa vị quy gán sẵn (ví dụ điển hình như đẳng
cấp Lão) và địa vị giành đạt được, phải phấn đấu mới giành được (ví dụ điển
hình như đẳng cấp Tư văn). Phương thức di động xã hội như thế này chính là
đã trả lời cho câu hỏi: “Ai tiến lên phía trước và tại sao?” Dù cho phương

47
thức di động xã hội bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng dẫu sao tất cả
các đẳng cấp ở bậc trên hàng phiên đều phải hiến một lễ tế Thần Thành
hoàng. Tức là đều phải làm lễ cúng ở quán Giá và sau đó là tiệc tùng khao
vọng:
“Một câu ngạn ngữ nói: vô vọng bất thành quan, nghĩa là “nếu không có tiệc tùng khao vọng,
thì không thành quan (của làng) được”. Muốn được chấp nhận vào hạng mình có quyền được
vào, cần phải có lễ cúng ở quán Giá, tức là cho các kỳ mục của làng ăn uống” (Nguyễn Văn
Huyên, 1995:346).
Như vậy, phương thức di động xã hội trong đời sống hiện thực nơi trần thế đã
được bao phủ bởi màu sắc tôn giáo. Tôn giáo đã tạo thêm sự ràng buộc và
làm tăng thêm sức mạnh cho thể chế nơi trần tục.
Qua những điểm phân tích trên đây, ta thấy cấu trúc xã hội Việt Nam truyền
thống đã thể hiện lý thuyết phân tầng xã hội của xã hội học hiện đại.

6. Một số vấn đề đặt ra từ tổng quan nghiên cứu giai tầng trong thời kỳ
đổi mới
Trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), Việt Nam đã thực hiện nhất
quán mô hình kinh tế tổng quát là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa bao gồm nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Dưới sự
tác động tổng hợp của mô hình kinh tế đó, cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta cũng
đã có sự thay đổi. Từ chỗ chỉ có một cơ cấu xã hội - giai cấp đơn giản "hai giai, một
tầng" đã chuyển sang hình thành cơ cấu xã hội - giai cấp mới đa dạng hơn với nhiều
tầng lớp xã hội. Phản ánh hiện thực mới đó, Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của
Đảng cũng đã cho rằng: "Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu
sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ
cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội đã thay đổi nhiều cùng với những
biến đổi to lớn về kinh tế - xã hội" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001:85). Trong bối
cảnh này, những nghiên cứu về biến đổi cơ cấu xã hội – giai cấp hiện đang đứng
trước ngã ba đường và rẽ theo ba hướng nghiên cứu khác nhau.
Hướng thứ nhất cố gắng thoát khỏi tư duy lý luận cũ thời bao cấp bằng cách
tập trung nghiên cứu về sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng mức sống (Tương Lai,
1995; Trịnh Duy Luân, 1992, 2001; Lê Du Phong et al., 2000; Đỗ Thiên Kính,
2001, 2003; Nguyễn Đình Tấn, 2005; Tổng cục Thống kê, 2000, 2006, 2007, 2011,
2014; Ngân hàng thế giới, 2012). Về đại thể, hướng nghiên cứu này khẳng định
rằng đang tồn tại khá phổ biến sự phân tầng xã hội theo mức sống (tức là phân hóa
giàu - nghèo). Bởi vì hiện tượng phân hóa giàu nghèo diễn ra ở mọi nơi (nông thôn,
đô thị và các vùng/miền KT-XH khác nhau) và ngày càng doãng ra. Chẳng hạn, qua
cuộc Khảo sát Mức sống Dân cư Việt Nam (VHLSS) năm 2014 cho thấy hệ số
chênh lệch về thu nhập bình quân 1 người 1 tháng giữa nhóm hộ giàu nhất và nhóm
hộ nghèo nhất năm 2014 là 9,7 lần, tăng so với các năm trước (năm 2002 là 8,1 lần,
năm 2004 là 8,3 lần, năm 2006 là 8,4 lần, năm 2008 là 8,9 lần, năm 2010 là 9,2 lần
và năm 2012 là 9,4 lần) (Tổng cục Thống kê, 2016:19, 303). Tóm lại, hướng nghiên

48
cứu này đã đưa ra những nét khái quát về sự phân hóa giàu nghèo đang diễn ra rõ
rệt trong phạm vi toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
Hướng thứ hai vẫn tiếp tục nghiên cứu theo lối tư duy cũ. Chính xác hơn,
hướng nghiên cứu này còn chịu ảnh hưởng bởi tư duy lý luận về cơ cấu xã hội - giai
cấp trong thời kỳ quan liêu bao cấp trước đây, nhưng có thừa nhận hiện thực cơ cấu
xã hội mới đa dạng. Do vậy, hướng nghiên cứu này cố gắng khuôn mẫu mô hình cơ
cấu xã hội mới trong mô hình cũ “2 giai, 1 tầng”; thành phần nào không phù hợp
với mô hình cũ thì coi đó là những tầng lớp xã hội mới xuất hiện (Đỗ Nguyên
Phương, 1994; Lê Ngọc Triết, 2003; Nam Sơn, 2009; Nguyễn Thanh Tuấn, 2007;
Phạm Ngọc Quang - Đinh Quang Ty, 2006; Phạm Quang Trung et al., 2001; Phạm
Xuân Nam, 2001, 2008, 2010; Văn Tạo, 2002, 2008; Viện Chủ nghĩa xã hội khoa
học, 1992). Về đại thể, hướng nghiên cứu này đưa ra một cơ cấu xã hội - giai cấp
mới đa dạng, bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức, tầng
lớp doanh nhân, tầng lớp tiểu thương, tiểu chủ, chủ trang trại và một số nhóm xã hội
khác (Phạm Xuân Nam, 2008, 2010). Về thực chất, đây chính là mô hình cũ mở
rộng thành “2 giai, nhiều tầng”.
Từ hai hướng nghiên cứu trên đây, nổi lên một số vấn đề cơ bản đặt ra có liên
quan trực tiếp đến lý luận và phương pháp luận nghiên cứu như sau:
1. Tiêu chuẩn phân chia các tầng lớp xã hội như thế nào?
Hướng thứ nhất dựa vào tiêu chuẩn thu nhập/chi tiêu để phân chia thành các
nhóm giàu nghèo về mức sống (thường gọi là phân tầng xã hội về mức sống). Thực
chất, hướng này không phải là nghiên cứu về phân tầng xã hội, mà chỉ là nghiên
cứu sự “khác biệt giàu nghèo”, hoặc “phân hóa giàu nghèo”, hoặc về bản chất đó là
“bất bình đẳng xã hội”. Tình trạng nghiên cứu như thế về phân tầng xã hội ở Việt
Nam là phổ biến. Do vậy, những người nghiên cứu thường gọi là “phân tầng về
mức sống” (mà không phải là “phân tầng xã hội”). Tồn tại tình trạng nghiên cứu về
phân tầng xã hội như thế là tất yếu, bởi vì họ gặp phải vấn đề lý luận và phương
pháp luận chưa giải quyết được. Hướng thứ hai lại xuất phát từ tiền đề ngầm định
mặc nhiên rằng, tiêu chuẩn phân chia thành các tầng lớp xã hội ở Việt Nam hiện
nay là dựa vào sở hữu tư liệu sản xuất (TLSX), bởi vì hệ tư tưởng nền tảng của lý
luận này là chủ nghĩa Marx-Lenin. Theo đó, cách phân chia thành hai giai cấp và
một tầng lớp (tức là “2 giai, 1 tầng”: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức) vẫn còn ảnh hưởng lớn đến những nghiên cứu về phân tầng xã hội hiện
nay. Mặc dù những nghiên cứu về cơ cấu xã hội - giai cấp hiện nay có những nội
dung mới (như cho rằng cơ cấu xã hội - giai cấp không đơn giản là 2 giai cấp, 1
tầng lớp như trước đây nữa, mà có sự xuất hiện những tầng lớp xã hội mới: doanh
nhân, tiểu thương - tiểu chủ và các nhóm xã hội khác), nhưng về cơ bản cơ cấu xã
hội - giai cấp Việt Nam hiện nay vẫn được cấu thành bởi hai giai cấp công nhân,
nông dân và tầng lớp trí thức. Nói cách khác, cơ cấu cũ “2 giai, 1 tầng” là cơ cấu
“hạt nhân/lõi” của cấu trúc mở rộng thành “2 giai, nhiều tầng”. Sở dĩ tồn tại nhận
thức về “2 giai, nhiều tầng”, bởi vì tiêu chuẩn phân chia chủ yếu là dựa vào sở hữu
TLSX, trong đó công hữu giữ vai trò chủ yếu. Do vậy, khi chúng ta thừa nhận sự

49
tồn tại nhiều hình thức sở hữu TLSX khác nhau (ngoài công hữu) thì sẽ dẫn tới thừa
nhận sự xuất hiện của những tầng lớp xã hội mới.
Đối với tiêu chuẩn ngầm định mặc nhiên trong hướng nghiên cứu thứ hai ở
trên, nhiều người nghiên cứu ở Việt Nam không biết được rằng trên thế giới người
ta đã phân tách ra thành quyền sở hữu và quyền kiểm soát đối với TLSX. Lý luận về
sở hữu TLSX của K. Marx đã được bổ sung thêm mặt kiểm soát đối với chúng.
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, có nhiều hình thức sở hữu ở Việt Nam (kể cả sở
hữu tư nhân), trong đó công hữu về TLSX giữ vai trò chủ yếu. Do vậy, cái gọi là
“quyền sở hữu” những TLSX thuộc nhà nước (công hữu) sẽ không nổi trội bằng
“quyền kiểm soát” chúng. Bởi vì quyền sở hữu những TLSX thuộc nhà nước là
ngang nhau giữa mọi người trong xã hội, nhưng quyền kiểm soát chúng thì không
ngang nhau. Những người lãnh đạo các cấp và các ngành (những người có chức vụ,
quan chức) gắn liền với “quyền kiểm soát” tài sản công (tài sản nhà nước) nhiều
hơn đa số dân chúng trong xã hội.
Đồng thời với tiêu chuẩn dựa vào sở hữu TLSX trên đây, những người
nghiên cứu còn kết hợp thêm cả tiêu chuẩn dựa vào ngành sản xuất (như các ngành
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) để phân chia các tầng lớp trong xã hội. Cụ thể
hơn, khi xác định một giai cấp (hoặc một tầng lớp), người ta thường đưa ra định
nghĩa giai cấp (hoặc tầng lớp) đó là gì. Sau đó xác định những thành viên xã hội
nào thỏa mãn định nghĩa đã đưa ra thì gộp chung lại vào một giai cấp (hoặc tầng
lớp) đó. Chẳng hạn như định nghĩa về giai cấp công nhân12. Trong định nghĩa này,
theo tiêu chuẩn ngành sản xuất (chứ không phải là nghề nghiệp), chẳng lẽ người lái
xe riêng cho Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN & PTNT) và
người lái xe khác cho Bộ trưởng Bộ Công Thương lại thuộc về 2 tầng lớp xã hội
khác nhau. Trong khi đó, 2 người lái xe này có địa vị xã hội giống hệt nhau hoàn
toàn (và 2 người Bộ trưởng cũng như vậy). Cũng theo tiêu chuẩn ngành sản xuất,
chẳng lẽ Bộ trưởng Bộ Công thương thuộc về giai cấp công nhân, còn Bộ trưởng
Bộ NN & PTNN không phải là giai cấp công nhân? Hoặc là, cũng theo định nghĩa
này, thì Bộ trưởng Bộ Công Thương và tất cả mọi người trong các xí nghiệp, nhà
máy công nghiệp (từ giám đốc cho tới nhân viên bảo vệ, quét dọn vệ sinh) đều
thuộc về giai cấp công nhân. Trong khi đó, nhân vật Bộ trưởng, giám đốc nhà máy
và các nhân viên bảo vệ, quét dọn vệ sinh có địa vị KT-XH khác hẳn nhau hoàn
toàn, bởi vì các nhân vật xã hội đó có sự kiểm soát khác nhau đối với TLSX, mặc
dù họ đều làm công hưởng lương trong lĩnh vực công nghiệp và không có sở hữu tư
nhân bất kỳ loại TLSX nào trong nhà máy đó. Đây chính là cơ sở thực tiễn để người
ta phân tách ra thành quyền sở hữu và quyền kiểm soát đối với TLSX. Trên cơ sở
thực tiễn này, chúng ta không thể áp dụng máy móc và giáo điều lý luận Marx-
Lenin về sở hữu TLSX làm tiêu chuẩn phân chia thành các tầng lớp trong xã hội

12
“Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động
chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản
xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2008)

50
được nữa, mà phải dựa vào quyền kiểm soát đối với TLSX (và quyền kiểm soát đối
với các nguồn lực khác) để nghiên cứu những vấn đề thuộc về phân tầng xã hội.
Từ vấn đề đặt ra đối với tiêu chuẩn phân chia thành các tầng lớp trong xã hội
như đã phân tích, công trình nghiên cứu này sẽ áp dụng tiêu chuẩn phân chia phổ
biến trên thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế. Đó là hệ tiêu chuẩn dựa vào
nghề nghiệp và địa vị KT-XH để xác định các tầng lớp trong xã hội như đã trình
bày ở Mục 2 (Chương I). Phương pháp đo lường này sẽ được áp dụng vào nghiên
cứu ở Việt Nam trong Chương II.
2. Hệ thống phân tầng xã hội bao gồm những tầng lớp nào?
Từ tiêu chuẩn phân chia ở hướng nghiên cứu thứ hai trên đây sẽ quy định số
lượng các nhóm, tầng lớp trong cấu trúc xã hội. Cụ thể, hướng nghiên cứu này cho
rằng cơ cấu xã hội - giai cấp không đơn giản là 2 giai cấp, 1 tầng lớp như trước đây
nữa, mà có sự xuất hiện những tầng lớp xã hội mới: doanh nhân, tiểu thương - tiểu
chủ và các nhóm xã hội khác. Tức là, từ mô hình cũ mở rộng thành “2 giai, nhiều
tầng” như đã đề cập ở trên. Bởi vì tiêu chuẩn ngầm định căn bản của những nghiên
cứu về cơ cấu xã hội trước đây là dựa trên sở hữu TLSX (trong đó công hữu là chủ
yếu, tiếp theo là sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân . . . ), do vậy về cơ bản cơ cấu xã
hội - giai cấp Việt Nam được cấu thành bởi hai giai cấp công nhân, nông dân và
tầng lớp trí thức. Khi phân tách riêng giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát đối với
TLSX, kết hợp với tiêu chuẩn nghề nghiệp (đã trình bày ở Mục 2, Chương I), thì ta
có thể phân nhóm lại giai cấp công nhân theo cách hiểu trước đây (là cán bộ, công
nhân, viên chức) và hiện nay (theo định nghĩa về giai cấp công nhân đã dẫn) đại thể
thành 3 tầng lớp xã hội khác nhau: (1) Những người lãnh đạo các cấp, các ngành;
(2) Những người thợ công nhân; (3) Những người viên chức, nhân viên. Tiếp theo,
sẽ xuất hiện những tầng lớp xã hội mới do cơ cấu kinh tế thay đổi và xã hội phát
triển theo hướng công nghiệp. Đồng thời, một số tầng lớp trong xã hội truyền thống
(như Công, Thương) đã xuất hiện trở lại trên thực tế theo tiêu chuẩn phân chia dựa
vào nghề nghiệp. Như vậy, việc xác định giai cấp công nhân theo cách hiểu trước
đây và hiện nay là không thỏa đáng và cần phải thay đổi lại nhận thức lý luận về
giai cấp này.
3. Sắp xếp thứ bậc các tầng lớp xã hội như thế nào?
Trong xã hội truyền thống ngày xưa, thứ bậc cao thấp giữa các tầng lớp xã
hội được sắp xếp như sau: Vua-quan-địa chủ – Sĩ – Nông – Công – Thương (Mục 5,
Chương I). Tiếp theo, trong thời kỳ quan liêu - bao cấp, thứ bậc cao thấp (tôn ti trật
tự) giữa các tầng lớp xã hội được sắp xếp theo nhận thức chủ quan duy ý chí: Công
nhân, nông dân và trí thức (“Công – Nông – Binh – Trí sắp hàng tiến lên” – dân
gian). Thứ bậc chủ quan này ở hướng nghiên cứu thứ hai vẫn còn ảnh hưởng và tồn
tại đến hiện nay (so sánh hai ảnh ở hàng trên trong Hình 1.4). Chuyển sang thời kỳ
đổi mới hiện nay, trật tự sắp xếp các giai tầng xã hội dường như đang trở về trạng thái thứ
bậc tự nhiên vốn có của nó (ảnh ở hàng dưới trong Hình 1.4). Đó là những hình ảnh về
chân dung các tầng lớp xã hội đang thay đổi theo thời gian dưới góc nhìn xã hội học.

51
Ở Hình 1.4, khi phân nhóm lại giai cấp công nhân như phân tích trên đây, thì
thứ bậc đầu tiên phải là những người Lãnh đạo các cấp, các ngành. Đó mới chính là
những người lãnh đạo xã hội. Tầng lớp trí thức (Sĩ) ở vị trí cao hơn so với Nông
dân (như ảnh ở hàng dưới, chứ không phải như ở hàng trên trong Hình 1.4). Tầng
lớp Nông dân sẽ nằm trong nhóm các thứ bậc cuối cùng. Tầng lớp Thương (ngày
xưa còn gọi là “con buôn” – không thể hiện trong Hình 1.4) đã vươn lên vị trí xã
hội mới cao hơn Nông dân trong quá trình biến chuyển của xã hội. Đây chính là sự
thay đổi địa vị xã hội (hoặc là sự thay đổi bảng giá trị) khi chuyển từ xã hội tiền
công nghiệp sang xã hội công nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Tôn ti trật tự mới này sẽ
được trình bày ở Chương II (Hình 2.2).
Ngoài 3 vấn đề cơ bản đặt ra trên đây, còn tồn tại 2 vấn đề cơ bản nữa mà hai
hướng nghiên cứu ở trên chưa đề cập đến. Đó là mô hình tổng thể các tầng lớp xã
hội như thế nào? Di động xã hội giữa các tầng lớp ra sao? Tất cả 3 vấn đề đã đặt ra
cùng với 2 vấn đề mới này sẽ được đề cập trong hướng nghiên cứu thứ ba dưới đây.
Hướng thứ ba nghiên cứu về phân tầng xã hội theo hội nhập với xã hội học
quốc tế (Đỗ Thiên Kính, 2011b, 2012, 2013, 2014, 2015b; Bùi Thế Cường, 2010,
2015, 2016; Lê Thanh Sang, 2010, 2013). Hướng nghiên cứu này đề cập đến nhiều
nội dung của phân tầng xã hội như các nhà xã hội học trên thế giới thường nghiên
cứu về chủ đề này. Do vậy, hướng nghiên cứu này đã áp dụng phương pháp đo
lường các tầng lớp xã hội như đa số các nhà xã hội học trên thế giới sử dụng (Mục
2, Chương I) – tức là dựa vào tiêu chuẩn “phân nhóm” chủ yếu là nghề nghiệp và
tiêu chuẩn “xếp hạng” là địa vị KT-XH. Từ nghề nghiệp, tiếp tục dựa vào địa vị
KT-XH để tiến hành sắp xếp thứ bậc giữa các nhóm và tạo thành phân tầng xã hội.
Kết quả của hướng nghiên cứu này đã đưa ra được mô hình phân tầng xã hội bao
gồm 9~12 tầng lớp xã hội (tùy theo mỗi tác giả). Cụ thể, đối với tác giả Đỗ Thiên
Kính đã phân chia thành 9 tầng lớp cơ bản trong xã hội Việt Nam từ bộ số liệu
VHLSS 2002, 2004, 2006, 2008 theo thứ bậc từ cao (trên đỉnh tháp phân tầng)
xuống thấp (dưới đáy tháp phân tầng) như sau: (1) Những người Lãnh đạo các cấp
và các ngành; (2) Nhóm Doanh nhân; (3) Những người Chuyên môn bậc cao; (4)
Những người Nhân viên; (5) Những người Công nhân (thợ thuyền); (6) Tầng lớp
Buôn bán – Dịch vụ; (7) Những người Tiểu thủ công nghiệp; (8) Những người Lao
động giản đơn; (9) Tầng lớp Nông dân. Chín tầng lớp này tạo thành mô hình phân
tầng xã hội có hình dạng “Kim tự tháp” với tầng lớp nông dân chiếm tỉ lệ đông đảo
nhất và nằm ở dưới đáy tháp phân tầng (Đỗ Thiên Kính, 2012). Công trình nghiên
cứu này sẽ kế tiếp hướng nghiên cứu thứ ba của chính tác giả, nhằm giải quyết tốt
hơn 5 vấn đề cơ bản đặt ra nêu trên trong lĩnh vực nghiên cứu về phân tầng xã hội ở
Việt Nam.

52
"Trời xanh, mây trắng, nắng vàng.
Công nông binh trí sắp hàng tiến lên"

Hình 1. 4. Mô hình “2 giai, 1 tầng”


(hoặc nhiều tầng) đang thay
đổi theo thời gian

53
Chương II – THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI MÔ
HÌNH PHÂN TẦNG XÃ HỘI
Chương I đã trình bày khái lược những vấn đề lý thuyết, phương pháp nghiên
cứu phân tầng xã hội và di động xã hội. Chương này sẽ trình bày việc áp dụng lý
thuyết và phương pháp nghiên cứu vào thực tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Cụ
thể hơn, Chương II nhằm trả lời một phần câu hỏi then chốt thứ nhất về phân tầng
xã hội đặt ra ở Chương I: “Ai có được cái gì và tại sao lại như vậy?” Đây là một
trong hai câu hỏi thể hiện hai góc nhìn “tĩnh” và “động” về cấu trúc xã hội.

1. Cơ sở số liệu
Trong quá trình hội nhập quốc tế, công trình nghiên cứu này áp dụng lý
thuyết, phương pháp nghiên cứu và cách đo lường về phân tầng xã hội của xã hội
học hiện đại trên thế giới (Chương I). Để thực hiện điều này, tôi sẽ phân tích bổ
sung và chỉnh sửa lại kết quả đã nghiên cứu trước đây của mình (Đỗ Thiên Kính,
2012) từ các bộ số liệu Khảo sát Mức sống Dân cư Việt Nam: VHLSS 2002, 2004,
2006, 2008. Đồng thời, cập nhật các bộ số liệu tiếp theo: VHLSS 2010, 2012, 2014.
Đây là các bộ số liệu có quy mô chọn mẫu đại diện cho cả nước và hai khu vực
nông thôn, đô thị (mẫu thu nhập và chi tiêu), do Tổng cục Thống kê (TCTK) thực
hiện (với cỡ mẫu tương ứng cho các năm 2002~2014 là 29.530 hộ, 9.189 hộ, 9.189
hộ, 9.189 hộ, 9.399 hộ, 9.399 hộ và 9.399 hộ). Phạm vi chọn mẫu VHLSS được
phân bố đều ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước (trừ các hải đảo) và phân bố
đồng đều theo các vùng địa lý- kinh tế xã hội. Đồng thời, mẫu được chọn độc lập
cho 2 khu vực thành thị và nông thôn. Do vậy, số liệu đảm bảo đại diện cho cả
nước, 2 khu vực nông thôn, đô thị và 6 vùng KT-XH trong mỗi năm khảo sát. Công
trình này sẽ nghiên cứu ở cấp độ vĩ mô cả nước (có vài phân tích so sánh giữa nông
thôn và đô thị) nhằm tìm hiểu khái quát thực trạng và xu hướng biến đổi mô hình
phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay (2002~2014). Các cuộc điều tra VHLSS là
thích hợp cho việc nghiên cứu về phân tầng xã hội. Bởi vì các bộ số liệu này có
thông tin về nghề nghiệp (bảng mã nghề cấp II) của những cá nhân dùng để “phân
nhóm” và có những chỉ báo đo lường địa vị kinh tế cá nhân dùng để “phân tầng”
(thu nhập trung bình của thành viên trong hộ, học vấn cá nhân). Đối tượng khảo sát
trong VHLSS bao gồm những hộ gia đình và các thành viên trong hộ.
Đối với số liệu về địa vị xã hội (uy tín nghề nghiệp) không có trong các cuộc
khảo sát VHLSS, công trình nghiên cứu này sử dụng kết quả một cuộc điều tra xã
hội học về điểm số uy tín các nhóm nghề nghiệp ở Hà Nội và Bắc Ninh vào năm
2010 (Đỗ Thiên Kính, 2012:16, 19-21, 35-36, 50-51). Trong cuộc điều tra này, có
câu hỏi đo lường về điểm số uy tín nghề nghiệp do người trả lời đánh giá. Tuy
nhiên, do điều kiện khảo sát hạn chế và nhằm bổ sung cho kết quả xử lý số liệu của
VHLSS, điểm số uy tín nghề nghiệp trong cuộc khảo sát này được đo lường cho 9
nhóm nghề (chứ không phải là từng nghề nghiệp cụ thể như thông lệ quốc tế).
Người trả lời được yêu cầu chấm điểm cho 9 nhóm nghề với thang điểm từ thấp
nhất là 1 điểm đến cao nhất là 9 điểm, sao cho 9 nhóm nghề có số điểm khác nhau.

54
Mục đích của việc chấm điểm uy tín nghề nghiệp này là để sắp xếp theo thứ bậc các
tầng lớp xã hội. Đồng thời, công trình nghiên cứu này cũng tham khảo một cuộc
điều tra tương tự khác về điểm số uy tín các nhóm nghề nghiệp ở vùng Đông Nam
Bộ vào năm 2015 (Bùi Thế Cường, 2016:15-17). Hai nguồn số liệu này ở Việt Nam
(Bảng 2.1) là đáng tin cậy khi so sánh với nghiên cứu tương tự về điểm số uy tín
nghề nghiệp trên thế giới (Bảng 2.2).
Bảng 2. 1. Điểm số uy tín các nhóm nghề nghiệp ở Hà Nội, Bắc Ninh (2010) và
Đông Nam Bộ (2015)
Hà Nội, Bắc Ninh Đông Nam Bộ
Nhóm nghề Điểm Nhóm nghề nghiệp Điểm Thứ
nghiệp số số bậc
Chuyên môn 8,2 Người có chức vụ quản lý cao cấp, trung cấp khu vực Đảng, 2,2 1
cao Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước, đoàn thể xã hội.
Lãnh đạo 7,5 Sĩ quan lực lượng vũ trang (công an, quân đội). 3,2 2
Doanh nhân 7,1 Người có trình độ chuyên môn cao (chuyên viên kỹ thuật cao 3,2 2
cấp trên đại học, bác sĩ, giảng viên đại học).
Công nhân 5,1 Người có chức vụ quản lý cấp thấp, chuyên viên, nhân viên khu 4,6 4
vực Đảng, Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước, đoàn thể xã hội.
Buôn bán, 4,7 Chủ sở hữu hoặc người quản lý công ty hoặc tổ chức tư nhân 4,9 5
dịch vụ khác (bệnh viện, trường học,…).
Nhân viên 4,4 Người có trình độ chuyên môn trung bình (chuyên viên kỹ 5,5 6
thuật đại học, cao đẳng, trung cấp, giáo viên phổ thông).
Tiểu thủ 4,0 Người có trình độ chuyên môn thấp (nhân viên dịch vụ, hành 7,4 7
công nghiệp chính, y tá, nhà trẻ mẫu giáo).
Nông dân 2,1 Chủ cơ sở sản xuất kinh doanh không chính thức (cửa hàng, 8,1 8
cửa hiệu, kiot).
Lao động 1,9 Nông dân lớp trên (có nhiều ruộng, thuê 8,7 9
giản đơn mướn lao động).
Công nhân, thợ thủ công lành nghề. 9,0 10
Người làm dịch vụ, buôn bán, kinh doanh nhỏ. 9,1 11
Lao động chân tay giản đơn, công nhân, thợ không lành nghề. 11,2 12
Nông dân lao động (ít ruộng, tự làm, đi làm mướn). 11,4 13
Nguồn: Đỗ Thiên Kính, 2012:50; Bùi Thế Cường, 2016:16. Chú thích: cột “Điểm số” ở Hà Nội
và Bắc Ninh từ thấp nhất đến cao nhất (1~9 điểm); cột “Thứ bậc” ở Đông Nam Bộ từ cao
nhất đến thấp nhất (1~13)
Nhận xét về Bảng 2.1, tác giả Bùi Thế Cường viết: “Nghiên cứu của chúng
tôi ở vùng Đông Nam Bộ năm 2015 cho kết quả tương tự v ớ i nghiên cứu của
Đỗ Thiên Kính ở Hà Nội và Bắc Ninh năm 2010. Nó cho thấy ở hai vùng đất nước
tương đối xa nhau về địa lý, song tương đối gần nhau về trình độ phát triển kinh tế
- xã hội, người dân có quan niệm khá giống nhau về thứ bậc uy tín các nghề
nghiệp” (Bùi Thế Cường, 2016:17). Kết quả nghiên cứu điểm số uy tín các nhóm
nghề nghiệp ở Việt Nam (Bảng 2.1) cũng tương tự với nghiên cứu về điểm số uy tín
nghề nghiệp trên thế giới (Bảng 2.2).

55
Bảng 2. 2. Điểm số trung bình về uy tín nghề nghiệp ở 55 nước trên thế giới
Nghề nghiệp 55 Nghề nghiệp 55 Nghề nghiệp 55
nước nước nước
Chủ tịch trường cao đẳng 86 Giám mục 60 Thợ hàn chì 34
Thẩm phán tòa án tối cao 82 Nhạc sĩ cổ điển 56 Thợ nề 34
Bác sĩ 78 Người công tác xã hội 56 Nhân viên bán hàng 34
Giáo sư trường cao đẳng 78 Kế toán 55 Người đưa thư 33
Luật sư 73 Nhà báo 55 Lái xe tải 33
Kiến trúc sư 72 Y tá chính thức 54 Thợ cắt tóc 30
Nha sĩ 70 Thư ký 53 Công nhân nhà máy 29
Nhà sinh vật học 69 Diễn viên 52 Lái xe taxi 28
Nhà xã hội học 67 Huấn luyện viên điền kinh 50 Nhân viên trạm gas 25
Chủ ngân hàng 67 Người quản lý bất động sản 49 Người phục vụ quầy bar 23
Nhà tâm lý học 66 Vận động viên 48 Người hầu bàn nhà hàng 23
Phi công 66 Nông dân 47 Người gác cổng 21
Kỹ sư điện 65 Thợ điện 44 Người sống nhờ trợ giúp 16
công cộng
Giáo viên trung học 64 Nhân viên cảnh sát 40 Người thu dọn rác 13
Dược sĩ 64 Nhạc sĩ nhạc Jazz 38 Người quét đường 13
Bác sĩ thú y 61 Thợ mộc 37 Người đánh giầy 12
Nguồn: Treiman, 1977 (trích lại từ Giddens, 2000:154). Chú thích: Cột điểm số trung bình từ thấp
nhất (10 điểm) đến cao nhất (90 điểm).
Donald J. Treiman đã nghiên cứu so sánh về điểm số uy tín nghề nghiệp ở 60
nước trên thế giới. Kết luận quan trọng của ông trong nghiên cứu so sánh rằng, trên
thực tế mọi người có sự đồng thuận rộng rãi về chỗ đứng tương đối của các vị trí
nghề nghiệp trong một xã hội, cũng như trong phần lớn các nước công nghiệp (dẫn
theo Kerbo, 2000:127). Cụ thể, kết quả nghiên cứu điểm số uy tín nghề nghiệp trên
thế giới chứng tỏ rằng, bác sĩ, giáo sư trường cao đẳng, luật sư và nha sĩ được đánh
giá và xếp hạng vào bậc cao nhất. Trong khi đó, người thu dọn rác và nhân viên
trạm gas được xếp vào bậc cuối cùng. Những người ở giữa bao gồm y tá chính thức,
lập trình computer, nhân viên bảo hiểm. Điều thú vị là, dãy xếp hạng đều tương tự
giống nhau, bất kể người xếp hạng và họ ở nước nào. So sánh dãy xếp hạng địa vị
giữa 55 nước chứng tỏ rằng có sự đồng thuận nói chung về một nghề có địa vị cao
là như thế nào – Bảng 2.2 (Giddens, 2000:154): “Chúng tôi có thể kết luận rằng
[…] mọi người trong các xã hội công nghiệp có quan niệm cực kỳ tương tự nhau về
các xếp hạng nghề nghiệp” (Kerbo, 2000:129). Mặc dù việc chấm điểm nghề
nghiệp là theo ý kiến đánh giá chủ quan của mỗi người, nhưng kết quả đo lường
điểm số uy tín nghề nghiệp cho toàn bộ cấu trúc nghề nghiệp thường là ổn định
trong thời gian khá dài cho từng nước, kể cả so sánh giữa các nước khác nhau cũng
thường giống nhau:
“90 nghề nghiệp ở Mỹ được xếp hạng theo điểm số, chúng được những người trả lời khác
nhau tại Mỹ đánh giá vào năm 1963 và 1947. Điểm số của các nghề nghiệp nằm trong khoảng
từ cao (96 điểm) đến thấp (33 điểm). Các điểm số này và thứ hạng tương đối của các nghề
nghiệp khác nhau thay đổi rất ít từ năm 1963. Các nghề nghiệp được xếp hạng theo những

56
cách rất giống như thế ở 60 nước công nghiệp cũng như nông nghiệp khác” (Persell, 1987:
205).

2. Phương pháp nghiên cứu


2.1. Phân nhóm và xếp hạng uy tín nghề nghiệp trên thế giới và Nhật Bản
Ở mỗi nước trên thế giới có khoảng vài trăm (thậm chí tới cả hàng nghìn)
nghề nghiệp cụ thể khác nhau (tương đương với mã số cấp IV về nghề nghiệp của
Tổng cục Thống kê Việt Nam) được các nhà xã hội học dựa vào đó để phân chia
thành các nhóm nghề (nhóm xã hội). Trước tiên, người ta chọn ngẫu nhiên một mẫu
dân cư và yêu cầu mọi người cho điểm đánh giá về vị thế nói chung của khoảng
80~90 nghề nghiệp cụ thể khác nhau. Thang điểm số đánh giá về vị thế nói chung
để xếp hạng nghề nghiệp gồm có 5 bậc. Theo cách chấm điểm này, nghề nghiệp
được đánh giá ở mức độ có uy tín cao nhất (bậc cao nhất) được ghi là 100 điểm, bậc
nghề nghiệp ở mức độ có uy tín cao thứ hai là 75 điểm, bậc nghề nghiệp thứ ba là
50 điểm, bậc thứ tư là 25 điểm và nghề ở bậc thấp nhất là 0 điểm (Kosaka,
1994:196; Persell, 1987:204). Mặc dù việc chấm điểm uy tín nghề nghiệp là theo ý
kiến đánh giá chủ quan của mỗi người, nhưng kết quả điều tra ở khoảng 60 nước
công nghiệp và nông nghiệp trên thế giới đều cho thấy điểm số uy tín nghề nghiệp
của từng nghề cụ thể thường là tương tự nhau giữa các nước khác nhau (Bảng 2.2).
Tiếp theo, người ta nhóm gộp những người có nghề nghiệp tương tự gần nhau vào
thành một nhóm13. Thông thường, từ vài trăm nghề cụ thể được nhóm gộp lại thành
khoảng 10 nhóm nghề cơ bản thể hiện những đặc trưng cho khoảng 10 tầng lớp chủ
yếu trong xã hội. Sau đó, tính điểm trung bình của mỗi nhóm nghề nghiệp bằng
trung bình cộng các điểm số của từng nghề cụ thể trong nhóm nghề đó. Đồng thời,
mỗi nhóm nghề nghiệp cũng sẽ có con số thống kê trung bình về thu nhập, học vấn .
. . của nhóm nghề đó dùng để sắp xếp thứ bậc cao thấp. Cuối cùng, sắp xếp thứ bậc
cao thấp giữa các nhóm nghề dựa trên điểm số uy tín nghề nghiệp và một số chỉ tiêu
khách quan (thu nhập, học vấn . . . ) trung bình của các cá nhân thuộc nhóm nghề
đó. Cả hai quá trình sắp xếp thứ bậc cao thấp theo điểm số uy tín nghề nghiệp và
những chỉ tiêu khách quan (thu nhập, học vấn . . . ) thường là phù hợp tương ứng
với nhau. Kết hợp cả hai cách sắp xếp này, ta sẽ có được những chỉ báo phản ánh
địa vị KT-XH để phân chia thành các tầng lớp xã hội.
Ở Nhật Bản, các cuộc điều tra xã hội học về phân tầng xã hội và di động xã
hội được thực hiện rất cụ thể và đầy đủ. Đại thể là, để xác định và đo lường các tầng
lớp xã hội, phải thực hiện một cuộc điều tra chọn mẫu đại diện cấp quốc gia về
Phân nhóm và xếp hạng uy tín nghề nghiệp (Occupational Clasification and
13
Hệ thống nghề nghiệp Việt Nam được Tổng cục Thống kê phân loại dựa trên hai khái niệm chính: loại công việc đã
làm và tay nghề. Loại công việc là tập hợp các nhiệm vụ và trách nhiệm gắn liền với phương tiện để thực hiện nó.
Loại công việc là cơ sở để phân loại nghề. Tay nghề là khả năng thực hiện các nhiệm vụ và trách nhiệm mà một nghề
đòi hỏi. Tay nghề được thể hiện trên 2 mặt: (a) Trình độ tay nghề: là sự kết hợp của mức độ phức tạp và phạm vi mà
các nhiệm vụ và trách nhiệm phải giải quyết; (b) Đặc tính chuyên môn hóa: bao gồm lĩnh vực chuyên môn mà công
việc đòi hỏi, các công cụ máy móc đã sử dụng, các nguyên liệu vật liệu dùng trong sản xuất và loại sản phẩm và dịch
vụ đã làm ra (Tổng cục Thống kê, 2008). Dựa vào những khái niệm và tiêu chuẩn này, TCTK đã phân chia thành 48
lĩnh vực nghề nghiệp (mã số nghề cấp II, gồm 2 chữ số) được sử dụng trong các cuộc khảo sát VHLSS (Bảng 2.3).

57
Prestige). Từ cuộc điều tra này làm cơ sở để phân nhóm và xếp hạng các tầng lớp
xã hội theo nghề nghiệp. Độc lập với cuộc điều tra này là cuộc điều tra khác về
phân tầng xã hội và di động xã hội. Tuy nhiên, cuộc điều tra về Phân nhóm và xếp
hạng uy tín nghề nghiệp thường có kết quả ổn định khoảng vài chục năm (20 năm)
trong một quốc gia. Kể cả giữa các nước công nghiệp và nông nghiệp khác nhau thì
kết quả về điều tra Phân nhóm và xếp hạng uy tín nghề nghiệp cũng tương tự nhau
(Bảng 2.2). Do vậy, không cần thiết phải tiến hành 2 cuộc điều tra này đồng thời
với nhau mỗi khi điều tra. Cụ thể hơn, ở Nhật Bản đã thực hiện điều tra về phân
tầng xã hội và di động xã hội cứ 10 năm/lần (1955, 1965, 1975, 1985, 1995, 2005,
2015?). Nhưng họ chỉ thực hiện 2 cuộc điều tra về Phân nhóm và xếp hạng uy tín
nghề nghiệp vào năm 1975 và 1995. Bạn đọc có thể tìm hiểu cụ thể hơn về phương
pháp thực hiện cuộc điều tra này ở Nhật Bản trong tài liệu (Kosaka, 1994: 193-196)
lưu giữ tại thư viện Viện Xã hội học và những tài liệu liên quan khác trên thế giới.
Cuộc điều tra Phân nhóm và xếp hạng uy tín nghề nghiệp như các nước trên
thế giới chưa có điều kiện khả thi ở Việt Nam hiện nay (do thiếu kiến thức về
phương pháp luận, phương pháp và kỹ thuật phân tích số liệu…). Điều này đòi hỏi
những người nghiên cứu xã hội học nước ta cần phải cố gắng nhiều để hội nhập với
xã hội học quốc tế. Những trình bày trong công trình nghiên cứu này và kết quả áp
dụng chúng vào Việt Nam là nỗ lực của bản thân tác giả trong điều kiện hạn chế
hiện nay. Hy vọng rằng, thế hệ những người nghiên cứu xã hội học tương lai ở nước
ta sẽ thực hiện tiếp tục công việc này để hội nhập với xã hội học quốc tế. Đây cũng
là vấn đề đặt ra và gợi mở cho những nghiên cứu tiếp theo về sau.
2.2. Phân nhóm và xếp hạng các tầng lớp xã hội dựa vào nghề nghiệp và địa
vị KT-XH ở Việt Nam
Mục này trình bày chi tiết hơn về sự áp dụng phương pháp nghiên cứu và
cách đo lường phân tầng xã hội trên thế giới (Mục 2, Chương I) vào việc phân tích
các bộ số liệu VHLSS ở Việt Nam. Đồng thời, nó cũng đã được áp dụng thích hợp
vào cuộc điều tra xã hội học về đánh giá điểm số uy tín nghề nghiệp ở Hà Nội, Bắc
Ninh (2010) và Đông Nam Bộ (2015) đã dẫn trên đây (Mục 1, Chương II). Đối với
thông tin về nghề nghiệp, Tổng cục Thống kê ban hành tài liệu “Danh mục nghề
nghiệp Việt Nam” (Tổng cục Thống kê, 2008). Tài liệu này được soạn thảo dựa theo
bảng phân loại chuẩn quốc tế về nghề nghiệp 2008 (ISCO 08). Do vậy, danh mục
nghề nghiệp trong tài liệu có thể so sánh quốc tế. Hệ thống phân loại nghề trong tài
liệu này được thiết kế theo hình tháp gồm 4 cấp: Cấp 1 (mã số nghề gồm 1 chữ số)
có 10 trình độ tay nghề; cấp 2 (mã số nghề gồm 2 chữ số) có 48 lĩnh vực nghề được
chia nhỏ từ 10 nhóm nghề cấp 1; tương tự cấp 3 (mã số nghề gồm 3 chữ số) có 147
nhóm nghề và cấp 4 (mã số nghề gồm 4 chữ số) có 506 nghề. Đó là 506 tên nghề
nghiệp cụ thể trong thực tế xã hội. Nhưng, các cuộc khảo sát VHLSS chỉ ghi mã
nghề tới mã số cấp II, mà không ghi mã nghề tới cấp IV để liệt kê từng nghề nghiệp
cụ thể (thông lệ quốc tế là ghi tới mã số nghề cấp IV trong nghiên cứu thực nghiệm
phân tầng xã hội). Bảng mã số cấp II về các lĩnh vực nghề là tương tự nhau ở những
cuộc khảo sát VHLSS 2002-2004-2006-2008-2010-2012-2014 (Bảng 2.3). Do vậy,

58
ta có thể nghiên cứu so sánh được về sự biến đổi của phân tầng xã hội từ năm 2002
đến 2014 ở Việt Nam.
Từ các mã số cấp II (Bảng 2.3), tiếp theo là lựa chọn tất cả các cá nhân có mã
nghề này (chứ không chỉ là chủ hộ đại diện cho gia đình) trong độ tuổi 15 trở lên14
và đã nghỉ học. Đây là lực lượng lao động chủ yếu trong xã hội. Áp dụng sự “phân
nhóm” dựa vào nghề nghiệp, ta nhóm gộp những người có nghề nghiệp tương tự
gần nhau để tạo thành một nhóm nghề đặc trưng cho một tầng lớp xã hội nào đó.
Sau quá trình nhóm gộp, phân chia và sắp xếp thứ bậc cao thấp theo một số chỉ tiêu
về địa vị KT-XH (thu nhập, trị giá chỗ ở, học vấn, điểm số uy tín nghề nghiệp), ta
được cấu trúc bao gồm 9 tầng lớp xã hội cơ bản trong cả nước (không kể lực lượng
quân đội15). Tuy nhiên, sự phân chia thành 9 tầng lớp xã hội như trình bày dưới đây
không phải dựa trên vài trăm nghề cụ thể như thông lệ quốc tế, mà là dựa trên vài
chục lĩnh vực nghề cấp II ở VHLSS.
(1) Những người Lãnh đạo các cấp và các ngành (bao gồm các nhóm mã nghề từ
số 11 đến số 17). Nhóm này bao gồm những người làm việc trong các ngành,
các cấp có giữ các chức vụ, có quyền quản lý, chỉ huy, điều hành từ Trung ương
tới cơ sở. Nhóm này đã từng thuộc về giai cấp công nhân theo quan niệm thời
quan liêu, bao cấp trước đây. Bởi vì trước đây, giai cấp công nhân có thể được
hiểu ngắn gọn trong cụm từ cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước. Việc tách
riêng thành nhóm lãnh đạo là phù hợp với cấu trúc phân tầng xã hội Việt Nam
trong lịch sử và cũng phù hợp với cách phân loại phổ biến các tầng lớp trong xã
hội công nghiệp (Hộp 1.1), bởi vì bất kỳ xã hội nào cũng phải có những người
làm công việc lãnh đạo và quản lý đất nước.
(2) Nhóm Doanh nhân (bao gồm các nhóm mã nghề số 18 và số 19). Các nước trên
thế giới thường gộp nhóm doanh nhân vào nhóm lãnh đạo trên đây, bởi vì doanh
nhân cũng là người lãnh đạo và quản lý chủ chốt trong đơn vị sản xuất và kinh
doanh của họ. Nhưng ở Việt Nam đang chuyển sang nền kinh tế thị trường,
nhóm doanh nhân đang hình thành và phát triển. Do vậy, chúng tôi tách riêng
thành một nhóm độc lập.
(3) Những người Chuyên môn bậc cao (bao gồm các nhóm mã nghề từ số 21 đến số
26). Nhóm này bao gồm những nghề đòi hỏi phải có kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ và kinh nghiệm ở trình độ cao (đại học trở lên) trong lĩnh vực khoa
học và kỹ thuật, sức khỏe, giáo dục, công nghệ thông tin và truyền thông và luật
pháp, văn hóa, xã hội. Đây là nhóm người có trình độ chuyên môn cao, kỹ thuật
cao, chuyên nghiệp. Ở Việt Nam, tầng lớp Trí thức hiện nay xếp vào nhóm này
và tầng lớp Sĩ trong thời kỳ phong kiến ngày xưa cũng xếp vào nhóm này.

14
Nghiên cứu trước đây của tác giả (Đỗ Thiên Kính, 2012) lựa chọn các cá nhân trong độ tuổi từ 15 đến 60 tuổi để
sắp xếp họ vào các tầng lớp xã hội. Do vậy, tỉ lệ các tầng lớp xã hội và số liệu về mức sống của họ trong nghiên cứu
trước đây có sự chênh lệch chút ít so với nghiên cứu này.
15
Các mã số cấp II về lực lượng quân đội là khác nhau trong những cuộc khảo sát VHLSS.

59
Bảng 2. 3. 48 lĩnh vực nghề nghiệp ở Việt Nam (mã số nghề cấp II, gồm 2 chữ số)
(1) NHÀ LÃNH ĐẠO TRONG CÁC NGÀNH, CÁC CẤP VÀ CÁC ĐƠN VỊ (5) NHÂN VIÊN DỊCH VỤ VÀ BÁN HÀNG
11. Nhà lãnh đạo cơ quan Đảng Cộng sản Việt Nam cấp Trung ương 51. Nhân viên dịch vụ cá nhân
và địa phương (chuyên trách ) 52. Nhân viên bán hàng
12. Nhà lãnh đạo Quốc hội và Văn phòng Chủ tịch nước 53. Nhân viên chăm sóc cá nhân
13. Nhà lãnh đạo Chính phủ 54. Nhân viên dịch vụ bảo vệ
14. Nhà lãnh đạo Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân (6) LAO ĐỘNG CÓ KỸ NĂNG TRONG NÔNG NGHIỆP, LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN
15. Nhà lãnh đạo Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân địa phương 61. Lao động có kỹ năng định hướng thị trường trong nông nghiệp
(kể cả các cơ quan chuyên môn ở địa phương, trừ tư pháp và đoàn thể ) 62. Lao động có kỹ năng thị trường trong lâm nghiệp, thủy sản và săn bắn
16. Khối đoàn thể; Mặt trận Tổ quốc, Liên đoàn Lao động, Hội Phụ nữ, 63. Lao động nông nghiệp, đánh cá, săn bắt và thu hái tự cung tự cấp
Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên CSHCM, Hội cựu chiến binh (7) LAO ĐỘNG THỦ CÔNG VÀ CÁC NGHỀ NGHIỆP CÓ LIÊN QUAN KHÁC
17. Nhà lãnh đạo Tổ chức nghiệp chủ, nhân đạo và vì quyền lợi đặc thù khác 71. Lao động xây dựng và lao động có liên quan đến nghề xây dựng
18. Lãnh đạo của các đơn vị lớn (các tập đoàn, tổng công ty và tương đương) (trừ thợ điện )
19. Lãnh đạo các đơn vị nhỏ ( các công ty, doanh nghiệp, các trường nhỏ ) 72. Thợ kim loại, thợ máy và thợ có liên quan
(2) NHÀ CHUYÊN MÔN BẬC CAO 73. Thợ thủ công và thợ liên quan đến in
21. Nhà chuyên môn trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật 74. Thợ điện và thợ điện tử
22. Nhà chuyên môn về sức khỏe 75. Thợ chế biến thực phẩm, công việc đồ gỗ, may mặc
23. Nhà chuyên môn về giáo dục và đào tạo và nghề thủ công khác và thợ khác có liên quan
24. Nhà chuyên môn về kinh doanh và quản lý (8) THỢ LẮP RÁP VÀ VẬN HÀNH MÁY MÓC, THIẾT BỊ
25. Nhà chuyên môn trong lĩnh vực CNTT và truyền thông 81. Thợ vận hành máy móc và thiết bị cố định
26. Nhà chuyên môn về luật pháp, văn hóa, xã hội 82. Thợ lắp ráp
(3) NHÀ CHUYÊN MÔN BẬC TRUNG 83. Lái xe và thợ vận hành thiết bị chuyển động
31. Kỹ thuật viên khoa học và kỹ thuật (9) LAO ĐỘNG GIẢN ĐƠN
32. Kỹ thuật viên sức khỏe 91. Người quét dọn và giúp việc
33. Nhà chuyên môn về kinh doanh và quản lý 92. Lao động giản đơn trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản
34. Nhà chuyên môn luật pháp, văn hóa, xã hội 93. Lao động trong khai thác mỏ, xây dựng, công nghiệp và giao thông vận tải
35. Kỹ thuật viên thông tin và truyền thông 94. Người phụ giúp chuẩn bị thực phẩm
36. Giáo viên bậc trung 95. Lao động trên đường phố và lao động có liên quan đến bán hàng
(4) NHÂN VIÊN TRỢ LÝ VĂN PHÒNG 96. Người thu dọn vật thải và lao động giản đơn khác
41. Nhân viên tổng hợp và nhân viên làm các công việc bàn giấy (0) LỰC LƯỢNG QUÂN ĐỘI
42. Nhân viên dịch vụ khách hàng 01. Sĩ quan
43. Nhân viên ghi chép số liệu và vật liệu 02. Người không phải là sĩ quan
44. Nhân viên hỗ trợ văn phòng khác 03. Lực lượng quân đội khác
(4) Những người Nhân viên (bao gồm các nhóm mã nghề từ số 31 đến số 44).
Nhóm này chủ yếu là những người công chức nhà nước và bao gồm thêm những
người làm việc trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước đang phát triển trong nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (trong thời kỳ quan liêu, bao cấp trước
đây, nhóm này đã từng thuộc về giai cấp công nhân và được thể hiện trong cụm
từ cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước).
(5) Những người Công nhân (thợ thuyền) (bao gồm các nhóm mã nghề từ số 81 đến
số 83). Nhiệm vụ chính của họ là vận hành và giám sát các máy móc thiết bị
trong khai thác mỏ, trong công nghiệp và xây dựng, trong xử lý sản phẩm và sản
xuất; lái các phương tiện giao thông; lái và vận hành các máy móc, thiết bị và
lắp ráp thành sản phẩm hoàn chỉnh. Đó là những người thợ chuyên nghiệp, có
kỹ năng, kỹ thuật trong các lĩnh vực và họ thường sử dụng máy móc trong hoạt
động nghề nghiệp. Trong thời kỳ quan liêu, bao cấp trước đây, nhóm này thuộc
về giai cấp công nhân, và hiện nay vẫn có thể xếp nhóm này vào giai cấp công
nhân công nghiệp theo quan niệm (cách hiểu) phổ thông.
(6) Tầng lớp Buôn bán – Dịch vụ (bao gồm các nhóm mã nghề từ số 51 đến số
54)16. Họ hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực thương nghiệp, buôn bán và dịch
vụ. Ở Việt Nam, tầng lớp Thương trong thời kỳ phong kiến ngày xưa – hiện nay
gọi là Tiểu thương - cũng xếp vào nhóm này.
(7) Những người Tiểu thủ công nghiệp (bao gồm các nhóm mã nghề từ số 71 đến số
75). Họ hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực xây dựng, công nghiệp nhẹ và
công nghiệp chế biến. Ở Việt Nam, tầng lớp Công trong thời kỳ phong kiến
ngày xưa cũng xếp vào nhóm này. Do vậy, nhóm này bao chứa trong mình nó
tầng lớp xã hội truyền thống ngày xưa và thể hiện nhiều đặc trưng của xã hội
truyền thống hơn là xã hội hiện đại.
(8) Những người Lao động giản đơn – lao động tự do (bao gồm các nhóm mã nghề
91 và từ số 93 đến số 96)17. Họ thường làm các công việc phổ thông, đơn giản
và đơn điệu. Họ hoạt động rải rác trong nhiều ngành và nhiều lĩnh vực sản xuất
khác nhau, nhưng tập trung chủ yếu trong lĩnh vực khai thác mỏ, xây dựng,
công nghiệp chế biến và giao thông vận tải.
(9) Tầng lớp Nông dân (bao gồm các nhóm mã nghề từ số 61 đến số 63 và số 92).
Họ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Đây
là nhóm có sự định hình ổn định và tồn tại lâu dài trong lịch sử phát triển của
Việt Nam từ xưa đến nay. Do vậy, nhóm này hầu như trùng khớp hoàn toàn
(trùng khớp về lĩnh vực/ngành kinh tế và quan trọng hơn là trùng khớp cả về sự

16
Tầng lớp này được phân nhóm lại so với nghiên cứu trước đây của tác giả (Đỗ Thiên Kính, 2012). Cụ thể, nhóm
mã nghề số 91 “Lao động giản đơn về bán hàng và làm dịch vụ” ở VHLSS 2002~2008 – nó từng được phân nhóm
vào tầng lớp Buôn bán – Dịch vụ trong nghiên cứu trước đây, nay được phân nhóm trở lại vào tầng lớp Lao động giản
đơn. Nó chính là mã nghề số 95 ở VHLSS 2010~2014. Do vậy, tỉ lệ hai tầng lớp Buôn bán – Dịch vụ và Lao động
giản đơn và số liệu về mức sống của họ trong nghiên cứu trước đây có sự chênh lệch chút ít so với nghiên cứu này.
17
Tầng lớp này được phân nhóm lại so với nghiên cứu trước đây của tác giả (Đỗ Thiên Kính, 2012) (như chú thích 15
ở trên).
phân loại dựa trên cơ sở nghề nghiệp để đặt tên là tầng lớp Nông dân) với giai
cấp nông dân trong xã hội truyền thống ngày xưa và thời kỳ quan liêu, bao cấp.
Nói cách khác, đây là tầng lớp thể hiện nhiều đặc trưng nhất của xã hội truyền
thống so với các tầng lớp khác.
Mô hình 9 tầng lớp trên đây được tạo dựng dựa trên mô hình phổ biến về 5
giai cấp cơ bản trong xã hội công nghiệp (Hộp 1.1, Chương I). Về cơ bản, nó cũng
phù hợp với mô hình ở Hộp 1.1, nhưng không có giai cấp tinh hoa/thượng lưu trên
đỉnh và giai cấp hạ lưu/nghèo dưới đáy tháp phân tầng. Đây là hạn chế thứ nhất của
công trình nghiên cứu, bởi vì hạn chế của phương pháp đo lường giai cấp dựa vào
nghề nghiệp đã không phản ánh được hai tầng lớp đó. Trên thực tế, ở Việt Nam
cũng có tầng lớp tinh hoa/thượng lưu, nhưng bất khả thi trong điều tra thực nghiệm
đối với tầng lớp này. Đối với tầng lớp hạ lưu/nghèo có thể điều tra thực nghiệm
được, nhưng đã không thể hiện trong công trình nghiên cứu. Có thể một số thành
viên tầng lớp nông dân sẽ rơi xuống tầng lớp hạ lưu/nghèo?
Lưu ý rằng, cần phân biệt sự khác nhau giữa nghề nghiệp (dùng để phân
nhóm) và uy tín nghề nghiệp (dùng để phân tầng). Uy tín nghề nghiệp được thể hiện
qua điểm số đánh giá về nghề nghiệp đó. Dựa vào điểm số uy tín nghề nghiệp để
người ta sắp xếp thứ bậc giữa các tầng lớp trong xã hội. Cách sắp xếp này sẽ bổ
sung cho cách sắp xếp khách quan – tức địa vị kinh tế (thu nhập, trị giá chỗ ở, học
vấn) dựa theo 9 nhóm nghề nghiệp nêu trên. Kết hợp cả hai cách sắp xếp (địa vị
kinh tế và uy tín nghề nghiệp) sẽ có được những chỉ báo phản ánh địa vị KT-XH
của các tầng lớp trong xã hội. Mã số các lĩnh vực nghề nghiệp cấp II là thông tin
cuối cùng về nghề nghiệp cá nhân. Do vậy, tác giả bị giới hạn trong khuôn khổ của
bảng mã số này, mà không được chủ động phân nhóm và xếp hạng từ các nghề cụ
thể ở mã số cấp IV như thông lệ quốc tế (sẽ chính xác hơn so với mã số cấp II). Đây
cũng là giới hạn bắt buộc đối với những nghiên cứu phân tầng xã hội dựa vào bộ số
liệu VHLSS. Nhưng dù sao, dựa vào mã số cấp II cũng sẽ tạo dựng được mô hình
tổng thể và khái quát về phân tầng xã hội đại diện cho cả nước, phù hợp với chuẩn
mực và phương pháp nghiên cứu trên thế giới. Hơn nữa, các nhóm mã nghề cấp II ở
VHLSS 2002~2014 là tương tự nhau. Từ đây, ta có thể so sánh và kết nối các cuộc
điều tra VHLSS với nhau để tìm hiểu xu hướng biến đổi mô hình phân tầng xã hội ở
Việt Nam hiện nay (2002~2014). Do vậy, những phát hiện và kết luận về mô hình
phân tầng xã hội có ý nghĩa ở mức độ khái quát trong phạm vi cả nước và hai khu
vực nông thôn, đô thị ở Việt Nam, mà không đi sâu được vào mỗi tầng lớp xã hội
cụ thể (trừ tầng lớp nông dân). Đó cũng là giới hạn khoa học thứ hai của công trình
này. Trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay, cách phân chia dựa vào mã số cấp II về
các lĩnh vực nghề nghiệp là tối ưu và có tính khả thi để thực hiện nghiên cứu.
Phương pháp sắp xếp thứ bậc cao thấp các tầng lớp xã hội theo địa vị KT-XH
trình bày trên đây sẽ được thể hiện cụ thể hơn ở Mục 3 tiếp theo.

62
3. Địa vị kinh tế - xã hội cao thấp giữa các tầng lớp xã hội
Mục trên đã trình bày phương pháp phân nhóm các tầng lớp xã hội theo nghề
nghiệp và trình bày trước về kết quả sắp xếp thứ bậc giữa chúng theo địa vị KT-
XH. Ở mục này, tôi trình này chi tiết hơn về sắp xếp thứ bậc cao thấp theo địa vị
KT-XH như thế nào. Địa vị KT-XH được thể hiện qua những chỉ báo cơ bản, như
thu nhập, trị giá chỗ ở của hộ gia đình, học vấn và uy tín nghề nghiệp (VHLSS
2014 có thêm chỉ báo đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam). Trong đó, thu nhập và
trị giá nhà ở được đo lường bằng tiền. Học vấn được đo lường qua số năm đi học.
Ba chỉ báo này có số liệu trong khảo sát VHLSS. Uy tín nghề nghiệp được đo lường
qua điểm số trung bình của các tầng lớp xã hội do người dân đánh giá theo ý kiến
chủ quan của họ (khảo sát ở Hà Nội và Bắc Ninh, năm 2010). Kết quả đo lường các
chỉ báo này và đồ thị minh họa của nó được thể hiện ở Bảng 2.4 và Hình 2.1. Trong
Bảng 2.4, những người lãnh đạo các cấp, các ngành được xếp đặt ở vị trí cao nhất,
bởi vì đây là nhóm lãnh đạo toàn xã hội. Thứ bậc cao nhất này là phù hợp với mô
hình phổ biến về 5 giai cấp cơ bản trong các xã hội công nghiệp (Hộp 1.1, Chương
I) và cũng phù hợp với xã hội truyền thống Việt Nam trong lịch sử. Các tầng lớp xã
hội còn lại được sắp xếp theo trật tự lớn nhỏ giữa các con số. Trong đó, tầng lớp
nông dân và những người lao động giản đơn ở vị trí thấp nhất. Các cột con số trong
Bảng 2.4 được sắp xếp thứ bậc cao thấp từ trên (lớn hơn) xuống dưới (thấp hơn).
Bảng 2.4 thể hiện các tầng lớp ở trên có nhiều thứ (nguồn lực, nguồn lợi) hơn các
tầng lớp ở dưới. Tức là thể hiện câu hỏi: “Ai có được cái gì?” Các năm trước đó
(VHLSS 2008, 2006, 2004, 2002) cũng thể hiện thứ bậc cao thấp giữa các con số
(không trình bày ở đây) tương tự như Bảng 2.4.
Bảng 2. 4. Một số chỉ báo về địa vị kinh tế - xã hội của các tầng lớp ở Việt Nam
(2010~2014)
(giá hiện hành)
2010 2012 2014
Tầng lớp
Thu Trị giá Số năm Điểm Thu Trị giá Số năm Thu Trị giá Số năm Đảng
xã hội nhập chỗ ở đi học số nghề nhập chỗ ở đi học nhập chỗ ở đi học viên (%)
Lãnh đạo 1.745 524 12,4 7,5 2.618 892 12,0 3.775 1.137 13,0 68,0
Doanh nhân 7.263 3.391 14,5 7,1 9.122 3.132 15,2 6.891 2.877 15,1 35,9
Chuyên môn cao 3.939 2.187 15,8 8,2 5.432 2.323 15,8 5.165 2.226 15,8 28,2
Nhân viên 2.827 1.027 11,9 4,4 3.163 1.073 12,1 3.680 1.288 12,7 24,1
Công nhân 1.977 760 9,1 5,1 2.539 791 9,1 3.129 862 9,3 1,6
B.bán-D.vụ 2.074 818 8,5 4,7 2.875 1.053 8,6 3.236 1.117 8,8 2,9
Tiểu thủ CN 1.442 447 8,5 4,0 2.147 636 8,6 2.522 687 8,8 1,9
L.động g.đơn 1.337 425 7,2 1,9 1.896 502 7,2 2.276 563 7,5 0,8
Nông dân 1.061 215 6,4 2,1 1.519 324 6,6 1.829 363 6,7 3,4
Trung bình 1.580 526 8,0 2.215 668 8,1 2.550 725 8,4 5,8
Ghi chú: Thu nhập (đ.v = 1000 đ/người/tháng). Trị giá chỗ ở chính của hộ gia đình (đ.v = 1.000.000 đ). Tỉ lệ đảng
viên tính riêng cho mỗi tầng lớp xã hội (ví dụ, tầng lớp lãnh đạo có 68,0% là đảng viên, 32,0% không là đảng viên)
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu VHLSS 2010~2014
Phân tích sâu hơn về chỉ báo đảng viên (là lực lượng lãnh đạo xã hội Việt
Nam và thể hiện một phần chiều cạnh quyền lực trong lý thuyết phân tầng xã hội
của M. Weber), ta có kết quả ở Bảng 2.5 (năm 2014). Sở dĩ chỉ báo “đảng viên

63
Đảng Cộng sản Việt Nam” thể hiện một phần chiều cạnh quyền lực, bởi vì dựa vào
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013: Điều 4) quy định
rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam [...] là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Bảng 2. 5. Địa vị kinh tế - xã hội Trong Bảng 2.5, tỉ lệ đảng viên chiếm
của đảng viên và người 5,8%, còn lại 94,2% người ngoài đảng (trên
ngoài đảng (2014) tổng mẫu 20.765 người thuộc các tầng lớp xã
(giá hiện hành) hội). Bảng này thể hiện đảng viên có nhiều thứ
2014 (thu nhập, trị giá chỗ ở, số năm đi học) hơn
Đảng viên Thu Trị giá Số năm người ngoài đảng. Như vậy, những người có
nhập chỗ ở đi học
Đảng viên 3.914 1.270 12,7
quyền lực sẽ được nhiều thứ hơn người khác.
Không đảng viên 2.467 692 8,1 Kết quả này thể hiện một phần chiều cạnh
Trung bình 2.550 725 8,4 quyền lực trong lý thuyết phân tầng xã hội của
Ghi chú: Thu nhập (đ.v = 1000 M. Weber và nó phù hợp với lý thuyết này.
đ/người/tháng). Trị giá chỗ ở chính của Đáng chú ý rằng, so sánh thu nhập, trị giá chỗ
hộ gia đình (đ.v = 1.000.000 đ) ở và số năm đi học của đảng viên ở Bảng 2.5
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu VHLSS cũng tương tự (phù hợp lẫn nhau) với các số
2014 liệu của tầng lớp lãnh đạo ở Bảng 2.4.
Đường kết nối giữa các con số trong Bảng 2.4 của mỗi tầng lớp (năm 2014)
sẽ cho ta đồ thị Hình 2.1. Mỗi đường kết nối sẽ cho ta hình ảnh về một tầng lớp xã
hội. Các đường đồ thị này tương đối tách bạch với nhau. Tuy vậy, vẫn có một số
đoạn thẳng cắt nhau làm cho đường đồ thị không tách bạch hoàn toàn với nhau.
Điều này thể hiện cái gọi là sự không nhất quán về vị thế (status inconsistency) giữa
các tầng lớp xã hội. Trong các xã hội công nghiệp có tình trạng không nhất quán về
vị thế phổ biến hơn các xã hội trước đó. Sự không nhất quán về vị thế ở Hình 2.1 là
minh họa cụ thể cho lý thuyết phân tầng xã hội (các thông số cơ bản) đã trình bày ở
Mục 1 (Chương I). Từ số liệu ở Bảng 2.4, ta có thể vẽ được 3 đồ thị thể hiện các
tầng lớp xã hội qua cho 3 năm 2010, 2012, 2014, nhưng chúng đều có hình dạng
tương tự như nhau. Hình 2.1 là đồ thị của năm 2014 đại diện.

Phân lớp địa vị kinh tế-xã hội


(2014)
10 Lãnh đạo

Do anh nhân

8 Chuyên M .cao
Thứ bậc cao thấp

Nhân viên

6 Cô ng nhân

B .bán-D.vụ

4 Tiểu thủ CN

LĐ giản đơn

2 Nô ng dân

0
Thu nhập Giá trị chỗ ở Số năm đi học Tỉ lệ đảng viên Điểm số uy tín nghề
nghiệp (2010)

Hình 2. 1. Địa vị kinh tế - xã hội của các tầng lớp ở Việt Nam (2014)

64
Dựa trên mô hình phổ biến về 5 giai cấp cơ bản trong xã hội công nghiệp
(Hộp 1.1, Chương I), ta có thể nhóm gộp 9 tầng lớp ở Bảng 2.4 và Hình 2.1 thành 3
tầng lớp xã hội lớn hơn (Hình 2.2)18. Đó là ba tầng lớp cao (1, 2), tầng lớp trung lưu
(3, 4, 5, 6) và tầng lớp thấp (7, 8, 9). Tầng lớp trung lưu được chia ra trung lưu bậc
trên (3) và trung lưu bậc dưới (4, 5, 6). Công trình nghiên cứu này sẽ sử dụng cách
phân chia thành 9 tầng lớp, và/hoặc 3 tầng lớp thượng lưu, trung lưu, hạ lưu ở Hình
2.2. Trong Hình 2.2, tầng lớp cao chiếm hữu và kiểm soát nhiều loại nguồn lực và
nguồn lợi của xã hội hơn cả, còn tầng lớp thấp có ít nguồn lực nhất. Hình 2.2 có
dạng tổng thể tựa như hình ảnh “Kim tự tháp”, bởi vì tầng lớp nông dân dưới đáy
chiếm tỉ lệ lớn nhất trong tháp phân tầng. Điều này sẽ được lý giải và biểu hiện cụ
thể hơn ở Mục 4 tiếp theo.
Lãnh đạo 1
Tầng lớp cao (thượng lưu)
Doanh nhân 2
Chuyên môn cao 3 Trung lưu bậc trên
Nhân viên 4
Thợ công nhân 5 Trung lưu bậc dưới
B.bán-D.vụ 6
Tiểu thủ CN 7
L.động g.đơn 8 Tầng lớp thấp (hạ lưu)
Nông dân 9

Hình 2. 2. Sơ đồ 3 tầng lớp xã hội (cao, trung lưu, thấp) ở Việt Nam
Tóm lại: Dựa vào tiêu chuẩn nghề nghiệp và địa vị KT-XH, ta đã phân chia
và sắp xếp được thành 9 tầng lớp xã hội (Hình 2.2). Nếu so sánh trở lại với xã hội
Việt Nam truyền thống trong lịch sử, thì trật tự/thứ bậc giữa các tầng lớp xã hội
hiện nay đã có sự thay đổi. Tầng lớp thợ thủ công và tiểu thương (“con buôn”)
trước kia được xếp ở vị trí cuối cùng trong xã hội (Vua-quan-địa chủ – Sĩ – Nông –
Công – Thương), thì hiện nay hai tầng lớp này đã có vị trí cao hơn. Trong khi đó,
tầng lớp nông dân chuyển xuống vị trí phía dưới trong bậc thang xã hội. Riêng tầng
lớp Sĩ/trí thức (trung lưu bậc trên) vẫn giữ địa vị cao từ trong xã hội truyền thống
ngày xưa cho đến hiện nay. Ấy thế mà, tư duy lý luận chủ quan thời bao cấp (và
vẫn còn ảnh hưởng đến hiện nay) lại xếp tầng lớp trí thức ở vào vị trí cuối cùng
trong xã hội: “Công – Nông – Binh – Trí sắp hàng tiến lên”.

18
Sự phân chia thành 3 tầng lớp xã hội ở Hình 2.2 có khác chút ít so với phân chia thành 3 tầng lớp trong nghiên cứu
trước đây của tác giả (Đỗ Thiên Kính, 2012).

65
4. Mô hình phân tầng xã hội có hình dạng “kim tự tháp” trong cả nước
và hình “quả trám” ở khu vực đô thị
Sau khi trình bày thứ bậc cao thấp giữa các tầng lớp xã hội trên đây, mục này
sẽ trình bày tiếp bảng số liệu tỉ lệ % thể hiện 9 tầng lớp xã hội qua các năm
2002~2014 như sau:
Bảng 2. 6. Tỉ lệ dân số các tầng lớp xã hội ở Việt Nam (2002~2014)19
Tầng lớp xã hội 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014
Lãnh đạo 0,8 1,0 1,1 1,0 0,6 0,5 0,6
Doanh nhân 0,2 0,4 0,5 0,4 0,5 0,6 0,6
Chuyên môn cao 1,8 2,4 2,8 3,7 4,7 5,1 5,4
Nhân viên 4,0 4,6 4,6 4,5 5,2 5,1 5,1
Công nhân 2,2 2,4 2,7 3,1 5,3 5,9 5,8
Buôn bán, dịch vụ 2,8 3,2 3,7 4,6 12,9 13,4 13,6
Tiểu thủ công nghiệp 9,3 10,3 11,4 12,4 13,1 13,4 13,6
Lao động giản đơn 20,9 22,3 21,7 19,8 10,4 9,0 9,7
Nông dân 58,0 53,4 51,6 50,4 47,3 47,0 45,6
Tổng số (N) 70.453 21.579 21.474 21.280 20.721 20.947 20.765
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu VHLSS 2002~2014
Trong Bảng 2.6, các nhóm thuộc tầng lớp trung lưu (chuyên môn bậc cao,
nhân viên, công nhân và buôn bán–dịch vụ) thể hiện những đặc trưng của xã hội
công nghiệp còn chiếm tỉ lệ ít (mặc dù tỉ lệ này đang tăng dần từ các năm 2002 đến
2014). Cụ thể, tỉ lệ các tầng lớp trung lưu tăng lên qua 7 cuộc khảo sát VHLSS từ
năm 2002 đến 2014 như sau: 10,8% →12,6% →13,8% →15,9% → 28,1% →
29,5% → 29,9% (trung bình mỗi năm tăng khoảng 1,6%). Trong bảng này có 3
tầng lớp (tiểu thủ công nghiệp, lao động giản đơn và nông dân) thể hiện như là tầng
lớp của xã hội truyền thống ngày xưa (Nông – Công). Nói cách khác, đây là những
tầng lớp thể hiện nhiều đặc trưng của xã hội truyền thống hơn là xã hội hiện đại, với
tổng dân số của 3 tầng lớp này chiếm 88,2% (năm 2002) giảm xuống còn 68,9%
(năm 2014). Trong đó, tỉ lệ tầng lớp lao động giản đơn và nông dân có xu hướng
giảm, còn tiểu thủ công nghiệp có xu hướng tăng lên. Riêng tỉ lệ tầng lớp nông dân
có xu hướng giảm đi rõ rệt (nhưng còn chậm) qua 7 cuộc khảo sát VHLSS từ năm
2002 đến 2014 như sau: 58,0% → 53,4% → 51,6% → 50,4% → 47,3% → 47,0%
→ 45,6% (trung bình mỗi năm giảm được khoảng 1,0% nông dân – đây là tốc độ
giảm chậm chạp). Sự giảm đi của tầng lớp nông dân là phù hợp với quá trình công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đang tiến hành ở nước ta.
Từ số liệu ở Bảng 2.6, ta có thể vẽ được 7 đồ thị thể hiện các tầng lớp xã hội
cho 7 cuộc điều tra VHLSS (2002~2014), nhưng chúng đều có hình dạng tương tự
như nhau. Hình 2.3 là đồ thị của 2 năm 2002, 2014 đại diện cho xu hướng biến đổi
mô hình phân tầng xã hội trong cả nước từ năm 2002 đến 2014. Qua Hình 2.3 ta
thấy, mô hình phân tầng xã hội trong thời gian qua (2002~2014) có hình dạng kim

19
Tỉ lệ các tầng lớp xã hội trong bảng này có sự chênh lệch chút ít so với nghiên cứu trước đây của tác giả (Đỗ Thiên
Kính, 2012) do mở rộng độ tuổi trong phân tích số liệu (đã giải thích ở phần trước).

66
tự tháp với đa số nông dân ở dưới đáy. Mô hình này bao chứa trong nó nhiều tầng
lớp của xã hội truyền thống (ví dụ, tiểu thủ công nghiệp và nông dân). Các tầng lớp
đại diện cho xã hội công nghiệp còn nhỏ bé (chuyên môn bậc cao, nhân viên, công
nhân và buôn bán - dịch vụ).
Cả nước (2002) Cả nước (2014)
Lãnh đạo 0.8 Lãnh đạo 0.6

Doanh nhân 0.2 Doanh nhân 0.6

ChuyênM.cao 1.8 ChuyênM.cao 5.4

Nhân viên 4.0 Nhân viên 5.1

Công nhân 2.2 Công nhân 5.8

B.bán-D.vụ 2.8 B.bán-D.vụ 13.6

Tiểu thủ CN 9.3 Tiểu thủ CN 13.6

Lđộng giảnđ. 20.9 Lđộng giảnđ. 9.7

Nông dân 58.0 Nông dân 45.6

Tỷ lệ % Tỷ lệ %

Hình 2. 3. Mô hình các tầng lớp xã hội ở Việt Nam (2002~2014)


Trên đây là mô hình phân tầng xã hội trong tổng thể cả nước. Khi phân tách
thành hai khu vực nông thôn và đô thị, ta có 9 tầng lớp xã hội cho mỗi khu vực
được thể qua Bảng 2.7 đại diện cho thời gian từ năm 2002 đến 2014.
Bảng 2. 7. Tỉ lệ dân số các tầng lớp xã hội ở khu vực nông thôn và đô thị (2002,
2014)
Tầng lớp xã hội 2002 2014
Nông thôn Đô thị Nông thôn Đô thị
N % N % N % N %
Lãnh đạo 377 0,7 167 1,1 83 0,6 41 0,7
Doanh nhân 58 0,1 103 0,7 21 0,1 94 1,7
Chuyên môn cao 398 0,7 846 5,7 285 1,9 808 14,3
Nhân viên 1.298 2,3 1.499 10,1 520 3,4 529 9,4
Công nhân 717 1,3 785 5,3 735 4,9 459 8,1
B.bán-D.vụ 902 1,6 1.067 7,2 1.408 9,3 1.361 24,0
Tiểu thủ CN 4.088 7,4 2.422 16,3 1.994 13,2 827 14,6
L.động giản đơn 9.297 16,7 5.328 35,9 1.354 9,0 647 11,4
Nông dân 38.490 69,2 2.610 17,6 8.703 57,6 895 15,8
Chung 55.626 100,0 14.827 100,0 15.103 100,0 5.662 100,0
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ VHLSS 2002, 2014
Từ số liệu ở Bảng 2.7, ta vẽ được 2 cặp đồ thị ở Hình 2.4 thể hiện xu hướng
biến đổi mô hình phân tầng xã hội từ nông thôn chuyển lên đô thị trong thời kỳ 12
năm (2002~2014).

67
Đô thị (2002)
Nông thôn (2002)
Lãnh đạo 1.1
Lãnh đạo 0.7

Doanh nhân 0.7


Doanh nhân 0.1

ChuyênM.cao 5.7
ChuyênM.cao 0.7

Nhân viên 10.1


Nhân viên 2.3

Công nhân 1.3 Công nhân 5.3

B.bán-D.vụ 1.6 B.bán-D.vụ 7.2

Tiểu thủ CN 7.4 Tiểu thủ CN 16.3

Lđộng giảnđ. 16.7 Lđộng giảnđ. 35.9

Nông dân 69.2 Nông dân 17.6

Tỷ lệ % Tỷ lệ %

Nông thôn (2014) Đô thị (2014)

Lãnh đạo 0.6 Lãnh đạo 0.7

Doanh nhân 0.1 Doanh nhân 1.7

ChuyênM.cao 1.9 ChuyênM.cao 14.3

Nhân viên 3.4 Nhân viên 9.4

Công nhân 4.9 Công nhân 8.1

B.bán-D.vụ 9.3 B.bán-D.vụ 24.0

Tiểu thủ CN 13.2 Tiểu thủ CN 14.6

Lđộng giảnđ. 9.0


Lđộng giảnđ. 11.4

Nông dân 57.6


Nông dân 15.8
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %

Hình 2. 4. Mô hình các tầng lớp xã hội ở nông thôn và đô thị (2002, 2014)
Nhìn vào đồ thị ở Hình 2.4 ta thấy, mô hình các tầng lớp xã hội ở khu vực
nông thôn vẫn có hình dạng kim tự tháp, còn ở đô thị là hình quả trám. Mô hình này
thể hiện sự tương phản rõ rệt giữa hai khu vực nông thôn và đô thị ở Việt Nam.
Nông thôn vẫn là xã hội truyền thống, còn đô thị đã biểu lộ hình dáng của xã hội
hiện đại. Điều này cho thấy, tiến hành công nghiệp hóa mới thể hiện rõ ở khu vực
đô thị. Như vậy, quá trình chuyển biến từ xã hội truyền thống sang xã hội công
nghiệp (được thể hiện qua mô hình phát triển xã hội là chuyển từ mô hình khu vực
nông thôn sang mô hình đô thị) ở Việt Nam còn rất dài mới đạt được mô hình cả
nước có hình quả trám.
Tóm lại: Mục này trình bày mô hình kim tự tháp về phân tầng xã hội ở Việt
Nam. Dựa trên thứ bậc cao thấp giữa các tầng lớp xã hội và tỉ lệ mỗi tầng lớp trong
cấu trúc xã hội tổng thể, ta có thể mô phỏng hình dạng phân tầng xã hội ở Việt Nam
như là hình ảnh “kim tự tháp” với tầng lớp nông dân chiếm tỉ lệ đông đảo nằm ở
dưới đáy và có địa vị kinh tế - xã hội vào loại thấp nhất (so với các tầng lớp xã hội
khác). Trong mô hình này, các tầng lớp xã hội truyền thống chiếm tỉ lệ lớn và là chủ
yếu (ví dụ, tiểu thủ công nghiệp và nông dân), các tầng lớp của xã hội hiện đại (là
sản phẩm của quá trình công nghiệp hóa) chiếm phần nhỏ bé (ví dụ, chuyên môn
bậc cao và nhân viên). Các tầng lớp đại diện cho xã hội hiện đại có địa vị kinh tế -
xã hội cao hơn và nằm ở nửa trên tháp phân tầng. Các tầng lớp của xã hội truyền
thống có địa vị thấp hơn và nằm ở nửa dưới tháp. Trong đó, tầng lớp nông dân có
địa vị kinh tế - xã hội vào loại thấp nhất (ở dưới đáy). Điều này đã thể hiện câu hỏi:
“Ai có được cái gì?” (chưa trả lời được câu hỏi: Tại sao lại như vậy?). Đây là mô

68
hình của xã hội chưa hiện đại, mà đang trong quá trình chuyển đổi sang xã hội công
nghiệp – chính xác hơn là đang ở giai đoạn đầu của xã hội công nghiệp. Xu hướng
vận động của mô hình “kim tự tháp” sẽ tiến tới hình dạng “quả trám” – như từ nông
thôn chuyển lên đô thị (Hình 2.4). Sở dĩ như vậy, bởi vì khi trở thành một nước
công nghiệp, thì các tầng lớp đặc trưng cho xã hội công nghiệp phải thể hiện rõ và
chiếm tỉ lệ đông đảo, còn các tầng lớp của xã hội truyền thống (đặc biệt là nông
dân) chỉ còn tỉ lệ nhỏ bé. Do đó, mô hình hệ thống phân tầng xã hội của một nước
công nghiệp là phải có hình dạng “quả trám”. Trên thế giới, hệ thống phân tầng xã
hội hình quả trám với các tầng lớp trung lưu ở giữa (middle class) phình to ra và
nông dân ở dưới đáy thu hẹp là dạng mô hình phổ biến ở các nước công nghiệp hiện
đại: “Theo hầu hết những quan sát, giai cấp trung lưu hiện nay bao gồm phần lớn
dân số nước Anh và hầu hết các nước đã công nghiệp hóa khác” (Giddens,
2001:293).

5. Tình trạng bất bình đẳng ngày càng tăng giữa các tầng lớp xã hội
Bức tranh tổng quan về bất bình đẳng nói chung ở Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới cho thấy khoảng cách giữa các nhóm hộ từ giàu đến nghèo ngày càng
doãng ra và bất bình đẳng đang gia tăng. Cụ thể, qua 7 cuộc khảo sát định lượng
VHLSS 2002, 2004, 2006, 2008, 2010, 2012, 2014 đã cho biết hệ số chênh lệch về
thu nhập bình quân 1 người 1 tháng giữa nhóm hộ giàu nhất và nhóm hộ nghèo nhất
lần lượt tăng lên qua các năm tương ứng như sau: 8,1 lần → 8,3 lần → 8,4 lần →
8,9 lần → 9,2 lần → 9,4 lần → 9,7 lần (Tổng cục Thống kê, 2016:19, 303). Kết quả
nghiên cứu định tính của Ngân hàng Thế giới qua trải nghiệm thực tế trong cuộc
sống của người dân cũng cho rằng bất bình đẳng đã gia tăng đáng kể trong vòng 5
năm trở lại đây: “Nghiên cứu về nhận thức cho thấy người dân Việt Nam, dù ở đô
thị hay nông thôn, dù giàu hay nghèo đều cho rằng tình trạng bất bình đẳng đã gia
tăng đáng kể trong vòng 5 năm trở lại đây” (Ngân hàng Thế giới, 2012:148). Nhận
thức và đánh giá về bất bình đẳng xã hội đang gia tăng cũng thường xuất hiện qua
báo chí và các nhà hoạch định chính sách, các học giả ở Việt Nam. Phân tích
chuyên sâu các bộ số liệu VHLSS (2002~2012), tôi đã đưa ra nhận định khái quát
rằng:
“Qua 20 năm đổi mới (1992~2012), bất bình đẳng trong phạm vi cả nước ngày càng tăng lên
và ở mức cao nhất, tiếp đó là khu vực đô thị, cuối cùng là nông thôn. […] bất bình đẳng mức
sống ở Việt Nam nói chung ít nhất đã thuộc loại mức độ bất bình đẳng vừa từ năm 2008 đến
nay. […] Trong quá trình bất bình đẳng tăng lên ở Việt Nam (cũng như khu vực nông thôn)
đã xuất hiện sự phân cực xã hội. Một cực là nhóm giàu có mức sống cao nhất, cực kia là các
nhóm còn lại (trong đó nhóm nghèo là thấp nhất). Như vậy, ta có thể nhận định rằng sự bất
bình đẳng hiện nay ở Việt Nam nói chung và khu vực nông thôn nói riêng có xu hướng phân
hóa thành hai cực. Đây là nhận định mới và tổng kết khái quát về xu hướng bất bình đẳng ở
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” (Đỗ Thiên Kính, 2015a:18).
Vậy, khái niệm “phân cực” trong nhận định trên đây là gì? Theo cuốn sách
“Từ điển xã hội học Oxford”, thì: “Phân cực là xu hướng tập trung vào hai cực đối
lập. […] Nhưng dù sao, phát biểu một cách chặt chẽ, thuật ngữ phân cực nhằm nói

69
đến sự phân rẽ và đối lập của hai nhóm bất bình đẳng nhau ở hai đầu mút của sự
phân bố các nguồn lực” (Scott, J., 2009:570). Tức là sự phân bố các nguồn lực,
nguồn lợi xã hội có xu hướng phân rẽ và tập trung vào hai cực đối lập (tương phản)
bất bình đẳng nhau. Dựa vào khái niệm phân cực này, ta hãy tìm hiểu tình trạng bất
bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội như thế nào?
Nội dung trình bày trong mục này là bất bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội
về tài sản chỗ ở (gồm nhà ở và đất ở). Tài sản chỗ ở là chỉ báo rất cơ bản thể hiện
mức sống tổng hợp của dân cư. Các nhà lý luận mác-xít đã từng nhấn mạnh con
người ta trước hết cần phải ăn, mặc, ở, sau đó mới đến hoạt động chính trị, khoa
học và nghệ thuật. Sau khi lao động có nguồn thu nhập để trang trải những nhu cầu
thiết yếu trong đời sống hàng ngày, các hộ gia đình thường cố gắng để dành ra phần
tích lũy cho việc tu tạo và xây dựng chỗ ở của mình. Như vậy, ta có thể coi trị giá
tài sản chỗ ở như là tài khoản thu nhập “cộng dồn” sau nhiều năm lao động. Theo
cách hiểu như thế, tài sản chỗ ở có ý nghĩa “gấp nhiều lần” so với chỉ báo thu nhập
(hoặc chi tiêu) trong sự phản ánh mức sống của người dân. Cuộc sống của cư dân
Việt Nam ngày trước thường mơ ước tới hình ảnh “nhà ngói, cây mít”, còn hiện nay
thì vươn tới ước mơ cao hơn là “nhà lầu, xe hơi”. Vậy, sự bất bình đẳng giữa các
tầng lớp xã hội được thể hiện qua các chỉ báo cụ thể về tài sản chỗ ở như thế nào?
Ta hãy trả lời câu hỏi này dưới các góc độ bất bình đẳng về trị giá chỗ ở chính, kiểu
loại ngôi nhà ở chính và có mảnh đất ở, hoặc nhà ở khác được trình bày dưới đây.
5.1. Bất bình đẳng qua trị giá chỗ ở chính
Các tầng lớp xã hội trong Bảng 2.8 được phân chia dựa theo Hình 2.2. Trong
bảng hỏi các cuộc điều tra VHLSS có câu hỏi thu thập số liệu về trị giá chỗ ở chính
(đơn vị = 1000 đồng): “Nếu mua toàn bộ chỗ ở này bây giờ, theo ông/bà khoảng
bao nhiêu tiền?” Kết quả xử lý số liệu câu hỏi này được trình bày trong Bảng 2.8 và
đồ thị Hình 2.5 tương ứng. Trị giá tiền trong Bảng 2.8 là giá hiện hành, không so
sánh được các năm với nhau. Do vậy, tôi đã dựa trên trị giá tiền của chỗ ở để tính
toán khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp xã hội nhằm so sánh các năm với
nhau. Số liệu ở Bảng 2.8 được minh họa bằng đồ thị Hình 2.5 thể hiện khoảng cách
chênh lệch trị giá chỗ ở chính giữa các tầng lớp xã hội được rõ ràng và trực quan
hơn. Đối chiếu với khái niệm phân cực nêu trên, ta thấy Hình 2.5 (a) có hai cực
phân biệt nhau rõ rệt. Một cực gồm tầng lớp doanh nhân và chuyên môn bậc cao có
2 đường đồ thị nổi lên cao nhất và cách xa các tầng lớp phía dưới. Cực thứ hai bao
gồm 7 tầng lớp còn lại (trong đó tầng lớp nông dân ở vị trí thấp nhất) với 7 đường
đồ thị gần nhau hơn. Như vậy, ta thấy có sự phân cực giữa các tầng lớp xã hội ở
Việt Nam. Khi quy giản từ 9 tầng lớp thành 3 tầng lớp (cao/thượng lưu, trung lưu,
thấp/hạ lưu), ta thấy 3 đường đồ thị có xu hướng ngày càng loe ra ở Hình 2.5 (b),
nhưng thể hiện sự loe ra với bắt đầu thu hẹp. Đồ thị loe ra ở Hình 2.5 (b) là rõ ràng
hơn ở Hình 2.5 (a). Khi tìm hiểu đến chỉ báo có mảnh đất ở, hoặc nhà ở khác thì sự
loe ra của đồ thị sẽ còn rõ ràng hơn nữa (tiểu mục 5.3). Điều này thể hiện khoảng
cách chênh lệch giữa 3 tầng lớp xã hội ngày càng tăng lên. Nói cách khác, tồn tại

70
tình trạng bất bình đẳng ngày càng tăng giữa các tầng lớp xã hội với sự bắt đầu thu
hẹp.
Bảng 2. 8. Trị giá chỗ ở chính và khoảng cách chênh lệch giữa các tầng lớp xã hội
(2002~2014)
Tầng lớp xã hội 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014
Trị giá chỗ ở chính (1000 đ/người – giá hiện hành)
Lãnh đạo 33.406 38.600 64.093 94.582 131.499 232.877 342.358
Doanh nhân 89.456 163.148 245.416 399.467 831.347 747.136 705.155
Chuyên môn cao 94.445 218.884 209.959 328.847 604.502 576.968 542.349
Nhân viên 56.709 88.558 114.802 171.008 260.698 281.310 309.791
Công nhân 48.155 62.921 83.719 105.326 189.399 188.658 214.916
Buôn bán, dịch vụ 53.344 82.541 84.793 164.829 208.452 270.539 299.835
Tiểu thủ công nghiệp 31.199 53.531 55.770 83.337 108.755 158.778 167.580
Lao động giản đơn 32.556 57.344 71.273 102.976 105.441 128.429 142.861
Nông dân 7.818 17.562 21.225 33.408 56.593 84.895 95.428
Chung (1000 đ/người) 21.219 42.187 51.041 80.978 135.687 169.674 184.751
Khoảng cách chênh lệch (nông dân = 1 lần)
Lãnh đạo 4,3 2,2 3,0 2,8 2,3 2,7 3,6
Doanh nhân 11,4 9,3 11,6 12,0 14,7 8,8 7,4
Chuyên môn cao 12,1 12,5 9,9 9,8 10,7 6,8 5,7
Nhân viên 7,3 5,0 5,4 5,1 4,6 3,3 3,2
Công nhân 6,2 3,6 3,9 3,2 3,3 2,2 2,3
Buôn bán, dịch vụ 6,8 4,7 4,0 4,9 3,7 3,2 3,1
Tiểu thủ công nghiệp 4,0 3,0 2,6 2,5 1,9 1,9 1,8
Lao động giản đơn 4,2 3,3 3,4 3,1 1,9 1,5 1,5
Nông dân 1,0 1,0 1,0 1,0 1,0 1,0 1,0
Trị giá chỗ ở chính (1000 đ/người – giá hiện hành)
Tầng lớp cao (thượng lưu) 46.315 73.134 117.181 184.149 444.308 517.196 520.331
Tầng lớp trung lưu 60.397 106.943 119.746 193.375 281.011 308.695 329.077
Tầng lớp thấp (hạ lưu) 16.137 32.214 38.671 57.570 73.405 104.795 116.345
Khoảng cách chênh lệch (hạ lưu = 1 lần)
Tầng lớp cao (thượng lưu) 2,9 2,3 3,0 3,2 6,1 4,9 4,5
Tầng lớp trung lưu 3,7 3,3 3,1 3,4 3,8 2,9 2,8
Tầng lớp thấp (hạ lưu) 1,0 1,0 1,0 1,0 1,0 1,0 1,0
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu VHLSS 2002~2014
Khoảng cách chênh lệch trị giá chỗ ở chính Khoảng cách chênh lệch trị giá chỗ ở chính
15 15

Lãnh đạo 12
12
Doanh nhân
Chênh lệch (lần)

Chênh lệch (lần)

Chuyên M.cao
9 9
Nhân viên
Công nhân
6 6 Thượng lưu
B.bán-D.vụ
Trung lưu
Tiểu thủ CN
3 3
LĐ giản đơn Hạ lưu
Nông dân
0 0
2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014

(a) (b)
Hình 2. 5. Bất bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội qua trị giá chỗ ở chính
(2002~2014)

71
Lưu ý ở Hình 2.5 (a) vào năm 2010, tầng lớp doanh nhân và chuyên môn bậc
cao có 2 đường đồ thị vọt lên cao đột ngột. Sở dĩ như vậy, vì năm 2010 là đỉnh
điểm của cơn sốt trong thị trường đất đai đã làm cho trị giá chỗ ở chính của 2 tầng
lớp này tăng lên cao hơn. Tương tự như vậy, cơ sốt đất đai năm 2010 cũng được thể
hiện ở Hình 2.5 (b). Riêng tầng lớp lãnh đạo ở Hình 2.5 (a) có trị giá chỗ ở không
cao tương ứng so với địa vị xã hội của tầng lớp này. Tuy nhiên, khi tìm hiểu về chỉ
báo kiểu loại ngôi nhà ở chính và có mảnh đất ở, hoặc nhà ở khác thì lại không như
vậy. Tức là, tầng lớp lãnh đạo sẽ thể hiện có nhiều tài sản về chỗ ở hơn tầng lớp
trung lưu bậc dưới và hạ lưu. Chúng ta hãy tiếp tục xem xét hai chỉ báo này ở các
mục tiếp theo sau đây.
5.2. Bất bình đẳng qua kiểu loại ngôi nhà ở chính
Bảng 2. 9. Các tầng lớp xã hội sống trong loại nhà ở nào (2014)
Tổng Biệt thự Kiên cố Kiên cố không Bán kiên Tạm và
Tầng lớp xã hội (%) khép kín khép kín cố khác
Lãnh đạo 100 3,8 34,9 18,8 42,0 0,6
Doanh nhân 100 3,1 68,9 3,6 24,1 0,3
Chuyên môn cao 100 2,7 60,4 5,4 31,1 0,4
Nhân viên 100 0,8 36,3 13,4 48,0 1,6
Công nhân 100 0,5 25,5 14,0 56,4 3,6
Buôn bán, dịch vụ 100 1,0 35,5 11,7 48,2 3,7
Tiểu thủ công nghiệp 100 0,3 22,8 16,6 56,8 3,5
Lao động giản đơn 100 0,6 18,4 12,9 60,7 7,5
Nông dân 100 0,3 8,1 15,0 66,7 10,0

Tầng lớp cao (thượng lưu) 100 3,5 51,6 11,3 33,2 0,4
Tầng lớp trung lưu 100 1,2 38,2 11,3 46,6 2,7
Tầng lớp thấp (hạ lưu) 100 0,3 12,5 15,0 63,9 8,4
Chung 100 0,6 20,6 13,8 58,4 6,6
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu VHLSS 2014

Các tầng lớp xã hội sống trong kiểu loại nhà ở


70

60

50
Tỉ lệ (%)

40

30

20 Thượng lưu
Trung lưu
10
Hạ lưu
0
Biệt thự Kiên cố khép kín Kiên cố không Bán kiên cố Tạm và khác
khép kín

Hình 2. 6. Các tầng lớp xã hội sống trong loại nhà ở nào (2014)
Cùng với trị giá chỗ ở chính trình bày trên đây, trong bảng hỏi các cuộc điều
tra VHLSS còn có câu hỏi: “Ngôi nhà chính hộ ông/bà đang ở thuộc loại nào?”

72
Các phương án trả lời câu hỏi này được thể hiện trong Bảng 2.9. Đây là câu hỏi
dành cho đơn vị hộ gia đình, còn các tầng lớp xã hội lại theo đơn vị cá nhân. Do
vậy, sẽ có tình trạng hai cá nhân ở hai tầng lớp khác nhau (ví dụ, lãnh đạo và nông
dân) cùng sống trong một ngôi nhà. Điều này dẫn đến mỗi kiểu loại nhà ở hầu như
thể hiện đầy đủ tất cả các tầng lớp xã hội. Nhưng dù sao, quy luật thống kê số lớn
trong toàn mẫu khảo sát vẫn thể hiện tình trạng nhà ở giữa các tầng lớp xã hội có sự
phân hóa thành hai cực rõ rệt (Bảng 2.9). Ở cực thứ nhất, những tầng lớp trên đỉnh
tháp phân tầng (lãnh đạo, doanh nhân, chuyên môn bậc cao) có tỉ lệ sinh sống trong
những ngôi nhà biệt thự và kiên cố khép kín là lớn hơn những tầng lớp khác (xem
những con số in đậm đối với 3 nhóm đỉnh). Mặt khác, ở cực thứ hai, những tầng lớp
thuộc nửa dưới tháp phân tầng (tiểu thủ công nghiệp, lao động giản đơn, nông dân)
có tỉ lệ sinh sống trong những ngôi nhà bán kiên cố và nhà tạm là lớn hơn những
tầng lớp khác (xem những con số in đậm đối với 3 tầng lớp đáy). Quay trở lại tầng
lớp lãnh đạo ở Hình 2.5 (a) có trị giá chỗ ở không cao tương ứng so với địa vị xã
hội của họ, nhưng ở Bảng 2.9 đã thể hiện “đẳng cấp cao” tương ứng của tầng lớp
này với tỉ lệ nhà biệt thự là cao nhất (3,8%).
Khi quy giản từ 9 tầng lớp thành 3 tầng lớp cao (thượng lưu), tầng lớp trung
lưu và tầng lớp thấp (hạ lưu), ta thấy sự phân cực cũng tương tự và rõ ràng hơn (đồ
thị Hình 2.6 thể hiện cho 3 tầng lớp thượng lưu, trung lưu và hạ lưu trong Bảng
2.9). Cụ thể, đối với kiểu loại nhà ở biệt thự và nhà tạm, nhà khác đều có ít người
sinh sống trong đó, nhưng cột đồ thị của tầng lớp cao (thượng lưu) vẫn nổi lên cao
hơn ở loại nhà biệt thự. Ngược lại, cột đồ thị của tầng lớp thấp (hạ lưu) lại nổi lên
cao hơn ở loại nhà tạm và nhà khác. Tiếp theo, đối với hai loại nhà kiên cố khép kín
và bán kiên cố cũng thể hiện hình ảnh hai cột đồ thị tương phản nhau giữa hai tầng
lớp thượng lưu và hạ lưu (Hình 2.6). Như vậy, mặc dù trị giá chỗ ở dễ gây ra sự
hoài nghi về thu thập số liệu, còn kiểu loại ngôi nhà thì ai cũng nhìn thấy, nhưng cả
hai Hình 2.5 (a) và Hình 2.6 đều thể hiện sự phân cực rõ ràng về chỗ ở chính. Cả
hai hình này đều phù hợp với khái niệm phân cực nêu trên.
5.3. Bất bình đẳng qua tài sản có mảnh đất ở, hoặc nhà ở khác
Ngoài nơi ở chính hiện tại, VHLSS có câu hỏi thu thập thông tin về nơi ở thứ
hai trở lên, hoặc có mảnh đất ở khác nữa: “Ngoài chỗ đang ở, hộ ông/bà còn mảnh
đất ở hoặc nhà ở khác không?” Phương án trả lời là Có, hoặc Không. Kết quả phân
tích tỉ lệ % có mảnh đất ở, hoặc nhà ở khác của các tầng lớp xã hội được trình bày
trong Bảng 2.10 và đồ thị Hình 2.7 tương ứng. Tỉ lệ % trong Bảng 2.10 hoàn toàn
so sánh trực tiếp được các năm với nhau, do vậy không cần tính toán khoảng cách
chênh lệch giữa các tầng lớp xã hội như Bảng 2.8 nữa. Số liệu ở Bảng 2.10 được
minh họa bằng đồ thị Hình 2.7 thể hiện tỉ lệ % có mảnh đất ở, hoặc nhà ở khác giữa
các tầng lớp xã hội được rõ ràng và trực quan hơn. Đối chiếu với khái niệm phân
cực nêu trên và so sánh với Hình 2.5 (a), Hình 2.6, ta thấy Hình 2.7 (a) cũng có hai
cực phân biệt nhau rõ rệt. Một cực là tầng lớp doanh nhân có đường đồ thị nổi lên
cao nhất và cách xa các tầng lớp phía dưới. Cực thứ hai bao gồm 8 tầng lớp còn lại
với 8 đường đồ thị gần nhau hơn (trong đó tầng lớp nông dân vẫn ở vị trí thấp nhất,

73
còn tầng lớp lãnh đạo và chuyên môn bậc cao vẫn ở trên cùng). Quay trở lại tầng
lớp lãnh đạo ở Hình 2.5 (a) có trị giá chỗ ở không cao tương ứng so với địa vị xã
hội của họ, nhưng ở Hình 2.7 (a) đã thể hiện “đẳng cấp cao” tương ứng của tầng lớp
này (họ chỉ ở dưới tầng lớp doanh nhân và tương đương với tầng lớp chuyên môn
bậc cao). Như vậy, ta thấy có sự phân cực giữa các tầng lớp xã hội ở Việt Nam. Khi
quy giản từ 9 tầng lớp thành 3 tầng lớp cao (thượng lưu), tầng lớp trung lưu và tầng
lớp thấp (hạ lưu), ta thấy 3 đường đồ thị có xu hướng ngày càng loe ra ở Hình 2.7
(b). Đồ thị loe ra ở Hình 2.7 (b), Hình 2.7 (a) và Hình 2.5 (b) đều tương tự như
nhau. Điều này thể hiện tình trạng bất bình đẳng ngày càng tăng giữa các tầng lớp
xã hội với sự bắt đầu thu hẹp.
Bảng 2. 10. Tỉ lệ các tầng lớp xã hội có mảnh đất ở, hoặc nhà ở khác (2002~2014)
Tầng lớp xã hội 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014
Đơn vị = %
Lãnh đạo 7,2 14,1 17,9 19,9 18,3 15,8 14,9
Doanh nhân 12,5 28,7 29,9 41,4 29,1 20,5 24,2
Chuyên môn cao 10,0 16,6 15,9 20,9 14,0 16,5 16,2
Nhân viên 6,8 14,8 14,0 18,1 13,5 10,1 13,5
Công nhân 7,2 13,1 11,7 12,8 9,5 11,8 8,9
Buôn bán, dịch vụ 7,5 14,2 10,6 15,1 12,5 10,6 13,3
Tiểu thủ công nghiệp 5,4 9,8 9,8 9,1 9,2 8,0 8,3
Lao động giản đơn 5,2 10,4 9,5 10,0 7,2 6,8 6,1
Nông dân 3,5 7,2 7,6 7,5 6,3 5,5 6,7
Chung 4,5 9,3 9,2 9,9 8,6 7,9 8,9
Đơn vị = %
Tầng lớp cao (thượng lưu) 8,4 18,2 21,4 26,2 23,2 18,4 19,5
Tầng lớp trung lưu 7,6 14,7 13,0 16,9 12,4 11,8 13,0
Tầng lớp thấp (hạ lưu) 4,1 8,3 8,4 8,3 6,9 6,1 6,9
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu VHLSS 2002~2014
Có mảnh đất ở, nhà ở khác

45
Lãnh đạo
40
Doanh nhân
35
Chuyên M.cao
30
Nhân viên
Tỉ lệ (%)

25 Công nhân
20 B.bán-D.vụ
15 Tiểu thủ CN

10 LĐ giản đơn
Nông dân
5
0
2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014

(a) (b)
Hình 2. 7. Tỉ lệ các tầng lớp xã hội có mảnh đất ở, hoặc nhà ở khác (2002~2014)

Kết quả nghiên cứu bất bình đẳng về tài sản chỗ ở trình bày trên đây cũng
được bổ sung bằng nghiên cứu trước đó từ phân tích số liệu VHLSS của tác giả cho
thấy, hộ gia đình của tầng lớp lãnh đạo ở khu vực nông thôn có diện tích sử dụng
các loại đất trồng trọt (đất trồng cây hàng năm, lâu năm và đất rừng) nhiều nhất.

74
Còn hộ gia đình nông dân ngày càng sử dụng ít diện tích đất trồng trọt hơn so với
tầng lớp lãnh đạo: “Tổng hợp lại diện tích các loại đất trồng trọt đặt cạnh nhau
(Hình 2.8), có thể thấy xu hướng dịch chuyển (dòng dịch chuyển) diện tích các loại
đất trồng trọt tập trung vào nhóm hộ lãnh đạo, quản lý là nhiều hơn so với nhóm hộ
nông dân” (Đỗ Thiên Kính, 2015c:43).
2000
1000 3000
Đất hàng năm Đất lâu năm Đất lâm nghiệp
1600

TB (m2/ng/HGĐ)
800
TB (m2/ng/HGĐ)

TB (m2/ng)
2000
1200 Hộ L.đạo 600 Hộ L.đạo
Hộ L.đạo
Hộ giữa 400 Hộ giữa
800 Hộ giữa 1000
Hộ N.dân 200 Hộ N.dân Hộ N.dân
400
0 0
0 2004 2006 2008 2004 2006 2008 2004 2006 2008 2010

Hình 2. 8. Diện tích đất trồng trọt do các hộ gia đình ở nông thôn quản lý và sử
dụng
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu VHLSS 2004, 2006, 2008, 2010
Tóm lại, qua trình bày cả ba chỉ báo về trị giá chỗ ở chính, kiểu loại ngôi nhà
ở chính và có mảnh đất ở, hoặc nhà ở khác ta thấy, có sự phân cực giữa các tầng
lớp xã hội ở Việt Nam. Một cực là tầng lớp cao (thượng lưu) có nguồn tài sản chỗ ở
chính nhiều hơn cực kia – các tầng lớp còn lại. Điều này thể hiện các tầng lớp ở trên
có nhiều thứ hơn (cụ thể là tài sản chỗ ở chính) so với các tầng lớp ở dưới. Tức là
thể hiện câu hỏi: “Ai có được cái gì?” (chưa trả lời được câu hỏi: Tại sao lại như
vậy?). Đồng thời với quá trình phân cực là tình trạng bất bình đẳng ngày càng tăng
giữa các tầng lớp xã hội với sự bắt đầu thu hẹp. Tình trạng phân cực giữa các tầng
lớp xã hội và bất bình đẳng tăng lên là biểu hiện trên bề mặt cuộc sống. Vậy, lý giải
hiện trạng này như thế nào? Hoặc là, tại sao có sự phân cực trong mô hình phân
tầng xã hội ở Việt Nam? Để trả lời câu hỏi này, ta hãy xem xét trong tiểu mục tiếp
theo.
5.4. Tại sao có sự phân cực giữa các tầng lớp xã hội?
Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời từ vấn đề là ở chỗ, do mô hình phân tầng xã
hội có dạng “kim tự tháp” với tầng lớp trung lưu còn nhỏ bé, đã tạo nên mô hình
phân tầng xã hội hai cực trong thời kỳ đổi mới. Ta hãy tìm hiểu vấn đề này trên thế
giới để soi tỏ cho trường hợp Việt Nam.
Nước Mỹ đã từng có một giai cấp trung lưu đông đảo. Nhưng, từ năm 1968
đến 1983, quy mô dân cư được phân loại là “giai cấp trung lưu” theo thu nhập bắt
đầu co lại. Trong khi đó, những hộ gia đình kiếm được tiền ở mức cao và mức thấp
lại tăng lên. Các hộ giàu và hộ nghèo đang thay thế vào khoảng trống rộng rãi của
các hộ trung lưu trước đây bị co lại. Tức là, các hộ gia đình ở hai mức thu nhập cao
nhất và thấp nhất tăng nhanh hơn các hộ gia đình trung lưu ở giữa. Tình trạng này
dẫn tới sự phân cực về thu nhập đã tăng lên ở nước Mỹ trong thời kỳ này. Sở dĩ như
vậy, bởi vì những biến đổi về kinh tế, chính trị và nhân khẩu đã góp phần vào sự
thay đổi này (Persell, 1987:211).

75
“Những xu hướng như trên rất có thể dẫn chúng ta đến xã hội hai cực. Trong đó, người
nghèo và phụ nữ không phải da trắng sẽ tạo thành một giai cấp ở dưới, còn người giàu và
nam giới da trắng sẽ thống trị từ trên xuống. Kết quả rất có thể là sự phân cực ngày càng
tăng ở tất cả mọi khía cạnh của xã hội. Điều này được phản ánh trong mọi thứ từ các sản
phẩm tiêu dùng, đến nhà ở, chăm sóc sức khỏe và xuất hiện sự khác biệt về văn hóa giai cấp.
Chúng ta cũng có thể lường trước sự va chạm và xung đột giữa các nhóm xã hội. […]
Theo truyền thống, sự tồn tại một giai cấp trung lưu đông đảo đáp ứng như là cái giảm xóc về
chính trị và kinh tế, và nhen nhóm lên hy vọng di động xã hội của con người và trách nhiệm
của họ đối với trật tự xã hội, kinh tế và chính trị. Trái lại, các nước Mỹ La tinh có dân cư giai
cấp trung lưu nhỏ bé lại nghiêng về đầu tư cho lực lượng cảnh sát để kiểm soát giai cấp bên
dưới. Các chế độ độc tài quân phiệt nở rộ. Những người giàu sống trong lo lắng bị vây bọc
xung quanh, trong những khu vực có tường bao quanh với dây thép gai, có chó gác và những
người bảo vệ có vũ trang. Những người nghèo đấu tranh để nuôi con cái họ và ngày càng
giận dữ với chế độ có ít hy vọng cải thiện tình trạng. Những điều kiện như thế là không thuận
lợi cho một xã hội dân chủ rộng mở. Đó là điều có thể xảy ra những hậu quả giống như các
hậu quả này đã khiến cho các nhà xã hội học quan tâm khi họ xem xét xu hướng dẫn tới một
xã hội hai cực ở Mỹ” (Persell, 1987:214).
Như vậy, nước Mỹ từ cấu trúc xã hội có giai cấp trung lưu đông đảo chuyển
sang trạng thái co lại đối với giai cấp này, còn các giai cấp ở hai đầu đỉnh và đáy
tháp phân tầng phình to ra. Quá trình này đã dẫn đến xã hội hai cực trong thời kỳ
1968~1983. Còn ở Việt Nam thì ngược lại. Tức là, tầng lớp trung lưu ở nước ta nhỏ
bé từ trước (giống với các nước Mỹ La tinh trên đây). Quá trình công nghiệp hóa ở
Việt Nam đang làm cho tầng lớp trung lưu lớn dần lên, nhưng còn chậm chạp (xem
lại Bảng 2.6). Cụ thể, tỉ lệ các tầng lớp trung lưu tăng lên qua 7 cuộc khảo sát
VHLSS từ năm 2002 đến 2014 như sau: 10,8% →12,6% →13,8% →15,9% →
28,1% → 29,5% → 29,9% (trung bình mỗi năm tầng lớp trung lưu tăng khoảng
1,6% do tầng lớp thấp giảm trung bình 1,6% di động đi lên tầng lớp trung lưu). Do
tầng lớp trung lưu còn nhỏ bé, cho nên mô hình phân tầng xã hội hai cực ở Việt
Nam đã thể hiện trong thời kỳ đổi mới. Đến khi nào Việt Nam hoàn thành công
nghiệp hóa và trở thành nước công nghiệp, thì cấu trúc xã hội sẽ có tầng lớp trung
lưu đông đảo. Cũng đến lúc ấy, mô hình phân tầng hai cực hiện nay sẽ thay đổi và
bất bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội sẽ giảm đi.
Còn hiện nay, mô hình phân tầng hai cực biểu hiện qua đánh giá tổng hợp về
sự cải thiện cuộc sống nói chung của các tầng lớp xã hội ở hai đầu tháp phân tầng
cũng thể hiện sự tương phản nhau (qua kết quả xử lý số liệu câu hỏi trong Bảng
2.11 từ VHLSS).

76
Bảng 2. 11. So với 5 năm trước, cuộc sống gia đình ông/bà có được cải thiện hơn
không?
Đơn vị: %
Tổng 2012 (so với năm 2008) 2014 (so với năm 2010)
Tầng lớp
xã hội (%) Hơn Hơn ít Như Giảm Không Hơn Hơn ít Như Giảm Không
nhiều cũ sút biết nhiều cũ sút biết
Lãnh đạo 100 48,8 45,9 3,1 2,2 0,0 31,1 62,7 4,7 1,5 0,0
Doanh nhân 100 44,3 49,0 5,4 1,3 0,0 41,0 46,6 11,6 1,0 0,0
Chuyên môn cao 100 36,9 55,5 4,7 2,4 0,5 37,5 54,9 6,0 1,6 0,0
Nhân viên 100 37,8 53,1 6,3 2,8 0,0 38,2 52,8 5,9 3,0 0,1
Công nhân 100 22,4 61,5 11,3 4,6 0,2 26,0 63,7 7,4 2,9 0,0
B.bán-D.vụ 100 29,1 53,2 12,2 5,4 0,1 27,2 58,1 10,0 4,6 0,1
Tiểu thủ CN 100 28,4 58,3 9,1 4,1 0,1 26,0 60,8 8,7 4,2 0,3
L.động g.đơn 100 24,3 55,8 12,6 7,1 0,3 20,6 61,4 12,2 5,4 0,5
Nông dân 100 28,3 57,4 9,5 4,8 0,1 27,3 58,5 9,2 4,6 0,3
Chung 100 28,8 56,6 9,7 4,7 0,2 27,6 58,8 9,1 4,2 0,3
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu VHLSS 2012, 2014
Trong Bảng 2.11 ta thấy, các tầng lớp ở phía trên tháp phân tầng có tỉ lệ cuộc
sống hộ gia đình được cải thiện nhiều hơn so với các tầng lớp ở phía dưới tháp. Trái
lại, các tầng lớp ở phía dưới tháp lại có tỉ lệ cuộc sống hộ gia đình bị giảm sút là
nhiều hơn so với các tầng lớp ở phía trên tháp. Các dãy số in đậm ở Bảng 2.11 thể
hiện sự tương phản hai cực trong tháp phân tầng xã hội ở Việt Nam. Một cực có
cuộc sống gia đình được cải thiện nhiều hơn, còn cực kia thì ngược lại và bị giảm
sút cuộc sống gia đình nhiều hơn. Đây là quá trình diễn ra theo xu hướng trái chiều
nhau (tương phản) ở hai phía trên và dưới tháp phân tầng.
Như vậy, tình trạng bất bình đẳng hai cực trình bày trên đây là sự bất bình
đẳng bền vững thuộc về cấu trúc xã hội và là thuộc tính của hệ thống phân tầng xã
hội hình kim tự tháp ở Việt Nam. Đây là cách nhìn cơ bản, bởi vì đó là cách nhìn về
bất bình đẳng từ trong cốt lõi bản chất thuộc về mô hình phân tầng xã hội.

77
Chương III – DI ĐỘNG XÃ HỘI GIỮA CÁC TẦNG LỚP
Chương này tiếp tục áp dụng lý thuyết và phương pháp nghiên cứu vào thực
tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, nhằm trả lời một phần câu hỏi then chốt thứ hai
về phân tầng xã hội đặt ra ở Chương I: “Ai tiến lên phía trước, và tại sao?” Đây là
một trong hai câu hỏi thể hiện hai góc nhìn “tĩnh” và “động” về cấu trúc xã hội –
Đó là nội dung về di động xã hội.

1. Di động xã hội trong cả nước và xu hướng biến đổi của nó


Ở Chương I đã trình bày về lý thuyết và phương pháp đo lường di động xã
hội. Chương này sẽ tập trung nghiên cứu di động theo chiều dọc trong một thế hệ
qua sự thay đổi nghề nghiệp của cá nhân, mà không phải giữa các thế hệ (bởi vì
khảo sát VHLSS không thu thập thông tin về lịch sử nghề nghiệp các thế hệ). Do
vậy, chương này không áp dụng nghiên cứu quy trình đạt được về địa vị KT-XH
(Hình 1.1 và Hình 1.2) – tức là không trả lời được đầy đủ câu hỏi: “Tại sao?”
Chương này sẽ áp dụng phương pháp và các công thức ở Mục 4 (Chương I) để đo
lường sự di động theo chiều dọc trong một thế hệ giữa hai thời điểm xác định cụ
thể. Đồng thời, chương này cũng sẽ kiểm chứng luận điểm I.B.4 của Treiman được
đề cập ở Mục 3 (Chương I): “Xã hội càng công nghiệp hóa, thì tỉ lệ di động tuần
hoàn càng lớn.”
Sở dĩ có thể nghiên cứu di động theo chiều dọc trong một thế hệ giữa hai thời
điểm xác định cụ thể là do cách chọn mẫu lặp lại ở VHLSS – các cuộc khảo sát
định kỳ 2 năm một lần. Ở bộ số liệu VHLSS, chỉ có lựa chọn những cá nhân đã
khảo sát lặp lại thì mới biết được họ có di động xã hội hay không. Để xác định được
những cá nhân này, trước hết ta hãy tìm hiểu quy trình chọn mẫu lặp lại ở các
VHLSS. Về đại thể, Tổng cục Thống kê đã thực hiện việc chọn mẫu theo cách luân
phiên lặp lại cho các cuộc điều tra VHLSS 2002, 2004, 2006, 2008 dựa trên dàn
mẫu chủ của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999. Đến Tổng điều tra dân số và
nhà ở năm 2009 có dàn mẫu mới, do vậy các cuộc điều tra VHLSS 2010, 2012,
2014 đã thực hiện từ đầu việc chọn mẫu theo cách luân phiên lặp lại dựa trên dàn
mẫu mới này. Cụ thể, chọn mẫu cho VHLSS 2008 như sau: Chọn lại 50% số địa
bàn của VHLSS 2006 (trong đó có một nửa số địa bàn đã được khảo sát cả trong
VHLSS 2004 và 2006, và nửa số địa bàn còn lại chỉ được khảo sát trong VHLSS
2006) và 50% số địa bàn còn lại được chọn mới hoàn toàn từ dàn mẫu chủ, phần
chưa được chọn vào mẫu của VHLSS 2004 và 2006. Đối với VHLSS 2006, quy
trình chọn mẫu cũng tương tự như vậy. Nhưng trở về VHLSS 2004, việc chọn mẫu
theo cách luân phiên chỉ còn chọn lại 50% số địa bàn đã điều tra ở VHLSS 2002 và
50% được chọn mới hoàn toàn. Với VHLSS 2002 thì không có sự chọn mẫu luân
phiên lặp lại, bởi vì đây là cuộc khảo sát đầu tiên. Như vậy, cứ hai cuộc điều tra
VHLSS kế tiếp nhau thì cuộc điều tra sau đều chọn lại 50% số địa bàn đã điều tra ở
cuộc điều tra trước – tức là mỗi Panel cũng chiếm tới 50% trong tổng thể mẫu cả
nước. Đối với các cuộc điều tra VHLSS 2010, 2012, 2014 cũng thực hiện từ đầu

78
việc chọn mẫu theo cách luân phiên lặp lại tương tự như vậy, nhưng dựa trên dàn
mẫu mới của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009.
Cùng với số địa bàn điều tra được chọn lặp lại theo cách luân phiên như trên,
Tổng cục Thống kê cũng đã chọn tất cả các hộ gia đình trong địa bàn để khảo sát
lặp lại. Như vậy, có nhiều hộ gia đình đã được khảo sát lặp lại trong cả 2 cuộc điều
tra, số ít hơn được khảo sát lặp lại trong cả 3 cuộc điều tra (không hộ gia đình nào
được khảo sát lặp lại tới lần thứ 4). Phần mẫu các hộ gia đình được khảo sát lặp lại
gọi là Panel. Cụ thể là, phần mẫu các hộ gia đình được khảo sát lặp lại trong cả 2
cuộc điều tra từ 2002 đến VHLSS 2004 gọi là Panel 2002-2004. Tương tự như vậy,
ta có Panel 2004-2006, Panel 2006-2008, Panel 2010-2012, Panel 2012-2014. Do
đó, việc xác định những cá nhân trong 9 tầng lớp xã hội để nghiên cứu về di động
xã hội ở chương này sẽ được lựa chọn trong các phần mẫu đã khảo sát lặp lại 2 lần
của các Panel: 2002-2004, 2004-2006, 2006-2008, 2010-2012, 2012-2014. Những
Panel này sẽ được sắp đặt liên tục kế tiếp nhau để nhằm tìm hiểu quá trình diễn ra
di động xã hội và xu hướng biến đổi của nó trong 12 năm vừa qua (2002~2014).
Bởi vì nghiên cứu di động xã hội từ các Panel, cho nên kết quả nghiên cứu ở
Chương III này không đại diện cho cả nước như ở Chương II. Do vậy, những phân
tích trong chương này là có giới hạn và chưa thể hiện được nhiều luận điểm lý
thuyết đề cập ở Chương I. Nhưng dù sao, lựa chọn số liệu từ các Panel là tối ưu
nhất và có tính khả thi cao để thực hiện nghiên cứu di động xã hội ở Việt Nam
trong thời gian này (2002~2014). Ta có 5 bảng số liệu thể hiện sự di động xã hội
giữa các tầng lớp trong 5 Panel: 2002-2004, 2004-2006, 2006-2008, 2010-2012,
2012-2014 (từ Bảng 3.1 đến Bảng 3.5).
Bảng 3. 1. Ma trận dịch chuyển cá nhân giữa các tầng lớp xã hội (2002-2004)
Nghề nghiệp Nghề nghiệp (2004) Quy giản về 3 giai tầng
(2002) Lãnh Doanh C.môn Nhân Công B.B- TTC LĐ Nông Tổng Thượng Trung Hạ Tổng
đạo nhân cao viên nhân D.V N g.đơn dân lưu lưu lưu
Lãnh đạo 40 3 0 9 0 1 0 3 6 62
Doanh nhân 0 9 1 6 0 0 0 2 0 17 Thượng lưu 52 17 11 80
C.môn cao 2 8 82 37 0 0 4 3 2 138
Nhân viên 11 6 38 208 3 12 7 22 20 327
Công nhân 0 0 1 9 74 5 14 39 17 160 Trung lưu 31 565 240 836
B.bán-D.vụ 3 1 5 14 3 72 12 71 29 210
Tiểu thủ CN 1 3 0 14 27 16 357 158 91 667
LĐ giản đơn 2 6 4 18 34 88 184 915 330 1583 Hạ lưu 33 291 6680 7005
Nông dân 17 4 7 26 16 41 158 437 4050 4755
Tổng 75 40 139 341 158 235 735 1651 4545 7920 Tổng 115 873 6932 7920
Ghi chú: Những con số trong bảng này được làm tròn (bởi vì yêu cầu xử lý số liệu VHLSS phải được gia trọng/weight). Các chỉ số
về di động xã hội của bảng này được tổng hợp lại trong Bảng 3.9.

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ VHLSS 2002, 2004


Bảng 3. 2. Ma trận dịch chuyển cá nhân giữa các tầng lớp xã hội (2004-2006)
Nghề nghiệp Nghề nghiệp (2006) Quy giản về 3 giai tầng
(2004) Lãnh Doanh C.môn Nhân Công B.B- TTC LĐ Nông Tổng Thượng Trung Hạ Tổng
đạo nhân cao viên nhân D.V N g.đơn dân Lưu lưu lưu
Lãnh đạo 55 0 1 12 0 4 2 3 12 89
Doanh nhân 0 18 11 3 0 0 1 1 0 33 Thượng lưu 73 30 19 122
C.môn cao 5 6 96 37 0 2 0 2 6 155
Nhân viên 10 5 44 226 1 11 15 13 19 343 28 649 249 925
Công nhân 0 1 0 7 104 2 22 42 15 192 Trung lưu

79
B.bán-D.vụ 1 1 1 9 3 106 19 72 23 235
Tiểu thủ CN 0 2 0 7 30 15 533 186 93 866
LĐ giản đơn 4 4 1 18 59 140 179 1133 292 1832 Hạ lưu 31 366 6887 7284
Nông dân 19 2 0 22 20 53 136 365 3970 4586
Tổng 94 37 154 340 218 333 907 1817 4430 8332 Tổng 132 1045 7155 8332
Ghi chú: Những con số trong bảng này được làm tròn (bởi vì yêu cầu xử lý số liệu VHLSS phải được gia trọng/weight). Các chỉ số
về di động xã hội của bảng này được tổng hợp lại trong Bảng 3.9.

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ VHLSS 2004, 2006


Bảng 3. 3. Ma trận dịch chuyển cá nhân giữa các tầng lớp xã hội (2006-2008)
Nghề nghiệp Nghề nghiệp (2008) Quy giản về 3 giai tầng
(2006) Lãnh Doanh C.môn Nhân Công B.B- TTC LĐ Nông Tổng Thượng Trung Hạ Tổng
đạo nhân cao viên nhân D.V N g.đơn dân lưu lưu lưu
Lãnh đạo 57 0 1 7 0 1 0 3 17 86
Doanh nhân 1 12 4 7 1 1 1 0 2 28 Thượng lưu 71 21 23 114
C.môn cao 2 8 159 37 2 1 1 1 1 211
Nhân viên 6 8 70 194 1 13 22 18 14 346
Công nhân 1 0 0 5 102 10 29 28 16 191 Trung lưu 24 730 279 1033
B.bán-D.vụ 0 0 4 9 5 119 7 112 30 286
Tiểu thủ CN 1 2 5 10 26 24 566 188 103 924
LĐ giản đơn 0 7 7 29 58 139 249 965 269 1722 Hạ lưu 23 372 6589 6984
Nông dân 12 1 1 15 19 40 155 330 3766 4337
Tổng 80 38 250 312 214 346 1030 1644 4217 8131 Tổng 118 1122 6890 8131
Ghi chú: Những con số trong bảng này được làm tròn (bởi vì yêu cầu xử lý số liệu VHLSS phải được gia trọng/weight). Các chỉ số
về di động xã hội của bảng này được tổng hợp lại trong Bảng 3.9.

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ VHLSS 2006, 2008


Bảng 3. 4. Ma trận dịch chuyển cá nhân giữa các tầng lớp xã hội (2010-2012)
Nghề nghiệp Nghề nghiệp (2012) Quy giản về 3 giai tầng
(2010) Lãnh Doanh C.môn Nhân Công B.B- TTC LĐ Nông Tổng Thượng Trung Hạ Tổng
đạo nhân cao viên nhân D.V N g.đơn dân Lưu lưu lưu
Lãnh đạo 23 0 8 12 0 2 2 0 7 53
Doanh nhân 0 23 6 3 0 1 0 0 0 33 Thượng lưu 46 32 9 86
C.môn cao 3 13 225 53 2 10 8 1 2 317
Nhân viên 8 3 65 203 18 27 19 13 28 384
Công nhân 0 0 2 13 250 20 40 21 41 386 Trung lưu 33 1644 393 2070
B.bán-D.vụ 0 5 9 30 19 698 37 101 83 983
Tiểu thủ CN 2 0 5 25 77 56 632 97 124 1019
LĐ giản đơn 0 0 5 13 65 122 123 278 159 766 Hạ lưu 16 521 5314 5852
Nông dân 11 2 0 23 42 87 156 170 3575 4067
Tổng 48 47 325 374 474 1023 1017 681 4019 8008 Tổng 95 2197 5716 8008
Ghi chú: Những con số trong bảng này được làm tròn (bởi vì yêu cầu xử lý số liệu VHLSS phải được gia trọng/weight). Các chỉ số
về di động xã hội của bảng này được tổng hợp lại trong Bảng 3.9.

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ VHLSS 2010, 2012


Bảng 3. 5. Ma trận dịch chuyển cá nhân giữa các tầng lớp xã hội (2012-2014)
Nghề nghiệp Nghề nghiệp (2014) Quy giản về 3 giai tầng
(2012) Lãnh Doanh C.môn Nhân Công B.B- TTC LĐ Nông Tổng Thượng Trung Hạ Tổng
đạo nhân cao viên nhân D.V N g.đơn dân Lưu lưu lưu
Lãnh đạo 27 1 2 6 0 0 1 0 5 43
Doanh nhân 4 20 7 1 0 0 2 0 0 34 Thượng lưu 53 17 8 77
C.môn cao 3 9 279 65 0 10 6 2 1 375
Nhân viên 3 3 60 194 17 37 19 12 26 371
Công nhân 0 4 3 13 251 26 62 43 24 426 Trung lưu 22 1699 493 2214
B.bán-D.vụ 1 1 5 19 24 695 63 131 103 1042
Tiểu thủ CN 1 0 8 24 51 42 653 106 138 1023
LĐ giản đơn 0 0 3 6 44 120 110 306 121 711 Hạ lưu 10 467 5056 5533
Nông dân 9 0 6 16 41 105 149 167 3306 3799
Tổng 47 37 374 345 428 1035 1066 767 3725 7824 Tổng 85 2182 5557 7824
Ghi chú: Những con số trong bảng này được làm tròn (bởi vì yêu cầu xử lý số liệu VHLSS phải được gia trọng/weight). Các chỉ số
về di động xã hội của bảng này được tổng hợp lại trong Bảng 3.9.

80
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ VHLSS 2012, 2014
Các tầng lớp xã hội trong 5 bảng ma trận (từ Bảng 3.1 đến Bảng 3.5) được
xác định dựa theo Hình 2.2 (Mục 3, Chương II)20. Các chỉ số cơ bản về di động xã
hội của 5 bảng ma trận này được tổng hợp lại trong Bảng 3.9.
Trước hết, ta hãy phân tích các bảng di động đi ra (outflow mobility) và di
động đi vào (inflow mobility). Đây là hai trong số những công cụ quan trọng khi
nghiên cứu về di động xã hội. Theo bảng lý thuyết (Bảng 1.3, Chương I), di động đi
ra chính là các hàng ni. (tỉ lệ % tính theo mỗi hàng = 100%), còn di động đi vào
chính là các cột n.i (tỉ lệ % tính theo mỗi cột = 100%). Bảng di động đi ra cho thấy
những cá nhân xuất phát từ các địa vị xã hội trước đây để họ chiếm giữ những địa
vị xã hội nào ở hiện tại. Tức là bảng di động đi ra cho biết, từ các địa vị xã hội gốc
trước đây đã có bao nhiêu cá nhân kế thừa địa vị gốc và bao nhiêu cá nhân còn lại
di chuyển đến những địa vị xã hội mới (không kế thừa). Mặt khác, bảng di động đi
vào xác định rõ nguồn gốc địa vị xã hội trước đây của những cá nhân gia nhập vào
các địa vị xã hội hiện tại là từ đâu. Tức là, bảng di động đi vào cho biết hiện tại có
bao nhiêu cá nhân được tuyển dụng kế thừa từ chính địa vị xã hội gốc trước đây và
bao nhiêu cá nhân còn lại được tuyển dụng từ những địa vị xã hội khác (không kế
thừa). Như vậy, tiêu điểm chính của bảng di động đi ra là mức độ kế thừa nghề
nghiệp gốc trước đây, còn tiêu điểm chính của bảng di động đi vào là mức độ gia
nhập nghề nghiệp hiện tại từ các nghề nghiệp gốc trước đây như thế nào (Kerbo,
2000:336). Từ 5 bảng ma trận (Bảng 3.1~Bảng 3.5), ta có các bảng di động đi ra và
di động đi vào được trình bày trong Bảng 3.6, Bảng 3.7 và Bảng 3.8.
Bảng 3. 6. Di động đi ra từ nghề nghiệp trước đây đến các nghề nghiệp hiện tại
Đơn vị: %
Nghề nghiệp hiện tại
Nghề nghiệp trước Lãnh Doanh Chuyên Nhân Công B.bán TTCN L.động Nông
đây đạo nhân môn viên nhân -D.vụ giản dân Tổng
cao đơn
Lãnh đạo
Panel 2002-2004 63,8 4,8 0,0 14,4 0,0 1,3 0,0 5,5 10,2 100
Panel 2004-2006 61,9 0,0 1,0 13,2 0,0 4,2 2,4 3,8 13,5 100
Panel 2006-2008 66,5 0,0 0,9 7,9 0,0 1,3 0,0 3,5 20,0 100
Panel 2010-2012 42,7 0,0 15,3 22,0 0,0 3,6 3,1 0,0 13,3 100
Panel 2012-2014 63,6 2,4 5,7 13,6 0,0 0,0 2,6 0,0 12,1 100
Doanh nhân
Panel 2002-2004 0,0 50,5 5,3 34,6 0,0 0,0 0,0 9,6 0,0 100
Panel 2004-2006 0,0 53,4 32,2 9,5 0,0 0,0 2,2 2,8 0,0 100
Panel 2006-2008 4,1 42,9 15,4 23,6 2,8 2,8 2,8 0,0 5,7 100
Panel 2010-2012 0,0 69,0 17,0 10,2 0,0 3,9 0,0 0,0 0,0 100
Panel 2012-2014 11,2 59,5 20,4 3,6 0,0 0,0 5,3 0,0 0,0 100
Chuyên môn cao

20
Số liệu trong các Bảng 3.1, Bảng 3.2 và Bảng 3.3 có sự chênh lệch chút ít so với nghiên cứu trước đây của tác giả
(Đỗ Thiên Kính, 2012) do mở rộng độ tuổi cá nhân và điều chỉnh lại sự phân nhóm nghề nghiệp trong phân tích số
liệu (đã giải thích ở phần trước). Do vậy, các chỉ số về di động xã hội được tổng hợp trong Bảng 3.9 cũng có sự thay
đổi chút ít so với nghiên cứu trước đây của tác giả.

81
Nghề nghiệp hiện tại
Nghề nghiệp trước Lãnh Doanh ChuyênNhân Công B.bán TTCN L.động Nông
đây đạo nhân môn viên nhân -D.vụ giản dân Tổng
cao đơn
Panel 2002-2004 1,3 5,8 59,5 26,6 0,0 0,0 3,2 1,9 1,7 100
Panel 2004-2006 2,9 3,8 62,2 23,9 0,0 1,6 0,0 1,5 4,0 100
Panel 2006-2008 1,0 3,8 75,2 17,6 0,7 0,3 0,6 0,5 0,3 100
Panel 2010-2012 1,0 4,2 71,2 16,7 0,6 3,0 2,5 0,4 0,5 100
Panel 2012-2014 0,8 2,3 74,4 17,3 0,0 2,8 1,6 0,5 0,4 100
Nhân viên
Panel 2002-2004 3,3 2,0 11,7 63,5 0,9 3,7 2,1 6,8 6,0 100
Panel 2004-2006 3,0 1,3 12,8 65,7 0,4 3,2 4,3 3,7 5,5 100
Panel 2006-2008 1,7 2,2 20,3 56,0 0,4 3,7 6,3 5,3 4,1 100
Panel 2010-2012 2,1 0,9 17,0 52,8 4,7 7,0 4,9 3,4 7,3 100
Panel 2012-2014 0,7 0,7 16,1 52,3 4,5 10,1 5,2 3,3 7,0 100
Công nhân
Panel 2002-2004 0,0 0,0 0,9 5,8 46,5 2,9 8,5 24,7 10,7 100
Panel 2004-2006 0,0 0,3 0,0 3,4 53,9 1,0 11,3 22,0 8,1 100
Panel 2006-2008 0,4 0,0 0,0 2,5 53,8 5,1 15,2 14,8 8,1 100
Panel 2010-2012 0,0 0,0 0,5 3,4 64,7 5,1 10,5 5,4 10,5 100
Panel 2012-2014 0,0 0,9 0,8 3,1 58,9 6,0 14,6 10,2 5,6 100
Buôn bán, dịch vụ
Panel 2002-2004 1,3 0,4 2,2 6,8 1,6 34,3 5,5 33,9 13,9 100
Panel 2004-2006 0,4 0,4 0,4 3,7 1,4 45,3 8,2 30,5 9,8 100
Panel 2006-2008 0,0 0,0 1,3 3,2 1,8 41,6 2,5 39,1 10,6 100
Panel 2010-2012 0,0 0,5 0,9 3,0 2,0 71,1 3,8 10,2 8,5 100
Panel 2012-2014 0,1 0,1 0,5 1,9 2,3 66,7 6,1 12,5 9,9 100
Tiểu thủ công nghiệp
Panel 2002-2004 0,2 0,5 0,0 2,1 4,0 2,4 53,5 23,7 13,6 100
Panel 2004-2006 0,0 0,2 0,0 0,8 3,5 1,8 61,6 21,5 10,7 100
Panel 2006-2008 0,1 0,2 0,5 1,1 2,8 2,6 61,2 20,3 11,1 100
Panel 2010-2012 0,2 0,0 0,5 2,4 7,6 5,5 62,0 9,5 12,2 100
Panel 2012-2014 0,1 0,0 0,8 2,3 5,0 4,1 63,8 10,4 13,5 100
Lao động giản đơn
Panel 2002-2004 0,1 0,4 0,3 1,1 2,2 5,6 11,6 57,8 20,8 100
Panel 2004-2006 0,2 0,2 0,1 1,0 3,2 7,6 9,8 61,9 16,0 100
Panel 2006-2008 0,0 0,4 0,4 1,7 3,3 8,1 14,5 56,0 15,6 100
Panel 2010-2012 0,0 0,0 0,7 1,7 8,5 16,0 16,0 36,3 20,8 100
Panel 2012-2014 0,0 0,0 0,4 0,9 6,3 16,9 15,5 43,0 17,0 100
Nông dân
Panel 2002-2004 0,4 0,1 0,1 0,6 0,3 0,9 3,3 9,2 85,2 100
Panel 2004-2006 0,4 0,0 0,0 0,5 0,4 1,1 3,0 7,9 86,6 100
Panel 2006-2008 0,3 0,0 0,0 0,4 0,4 0,9 3,6 7,6 86,8 100
Panel 2010-2012 0,3 0,1 0,0 0,6 1,0 2,1 3,8 4,2 87,9 100
Panel 2012-2014 0,2 0,0 0,2 0,4 1,1 2,8 3,9 4,4 87,0 100
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ VHLSS 2002~2014
Dù cho phân chia thành 9 tầng lớp xã hội (hay quy giản thành 3 giai tầng), ở
bảng di động đi ra (Bảng 3.6, Bảng 3.8a) đều có các ô số liệu nằm trên đường chéo
chính (in đậm) thể hiện từ các địa vị xã hội gốc trước đây đã có phần lớn cá nhân kế

82
thừa địa vị gốc, và số ít hơn những cá nhân còn lại di chuyển đến những địa vị xã
hội mới (không kế thừa). Mặt khác, ở bảng di động đi vào (Bảng 3.7, Bảng 3.8b)
cũng đều có các ô số liệu nằm trên đường chéo chính (in đậm) thể hiện sự tuyển
dụng từ nghề nghiệp gốc trước đây là lớn nhất, và số ít hơn những cá nhân còn lại
được tuyển dụng từ những địa vị xã hội khác (không kế thừa). Như vậy, cả hai dòng
di động đi ra và di động đi vào đều thể hiện sự kế thừa nghề nghiệp trước đây là
chủ yếu. Trong đó, tầng lớp nông dân có tỉ lệ kế thừa nghề nghiệp lớn nhất. Điều
này có nghĩa rằng, sự dịch chuyển ra khỏi nghề nông là rất khó khăn và chậm chạp
trong thời kỳ công nghiệp hóa ở Việt Nam. Đồng thời, điều này cũng thể hiện nhân
tố nguồn gốc xã hội có thể tác động bền vững đến địa vị KT-XH hiện tại và góp
phần kiểm chứng quá trình đạt được về địa vị KT-XH (Hình 1.1 và Hình 1.2):
“Tóm lại, nguồn gốc giai cấp xã hội không thể không liên quan [đến sự đạt được về
địa vị KT-XH – Đỗ Thiên Kính giải thích]! ” (Rothman, 2005:225). Từ đây sẽ gợi
mở cho ta trả lời câu hỏi tại sao: “Ai tiến lên phía trước, và tại sao?” Đây cũng là
vấn đề đặt ra và gợi mở cho những nghiên cứu tiếp theo về sau.
Bảng 3. 7. Di động đi vào nghề nghiệp hiện tại từ các nghề nghiệp trước đây
Đơn vị: %
Nghề nghiệp hiện tại
Nghề nghiệp trước Lãnh Doanh Chuyên Nhân Công B.bán TTCN L.động Nông
đây đạo nhân môn cao viên nhân -D.vụ giản dân
đơn
Lãnh đạo
Panel 2002-2004 53,1 7,4 0,0 2,6 0,0 0,3 0,0 0,2 0,1
Panel 2004-2006 58,6 0,0 0,6 3,5 0,0 1,1 0,2 0,2 0,3
Panel 2006-2008 71,6 0,0 0,3 2,2 0,0 0,3 0,0 0,2 0,4
Panel 2010-2012 47,5 0,0 2,5 3,1 0,0 0,2 0,2 0,0 0,2
Panel 2012-2014 57,8 2,8 0,7 1,7 0,0 0,0 0,1 0,0 0,1
Doanh nhân
Panel 2002-2004 0,0 21,5 0,7 1,7 0,0 0,0 0,0 0,1 0,0
Panel 2004-2006 0,0 47,3 6,9 0,9 0,0 0,0 0,1 0,1 0,0
Panel 2006-2008 1,4 31,5 1,7 2,1 0,4 0,2 0,1 0,0 0,0
Panel 2010-2012 0,0 48,6 1,7 0,9 0,0 0,1 0,0 0,0 0,0
Panel 2012-2014 8,1 54,4 1,9 0,4 0,0 0,0 0,2 0,0 0,0
Chuyên môn cao
Panel 2002-2004 2,3 20,0 59,4 10,8 0,0 0,0 0,6 0,2 0,1
Panel 2004-2006 4,8 15,6 62,6 10,9 0,0 0,7 0,0 0,1 0,1
Panel 2006-2008 2,5 21,1 63,5 11,9 0,7 0,2 0,1 0,1 0,0
Panel 2010-2012 6,5 28,2 69,3 14,1 0,4 0,9 0,8 0,2 0,0
Panel 2012-2014 6,1 22,9 74,7 18,8 0,0 1,0 0,5 0,3 0,0
Nhân viên
Panel 2002-2004 14,4 15,8 27,6 61,0 1,9 5,2 0,9 1,3 0,4
Panel 2004-2006 10,8 12,2 28,6 66,4 0,6 3,3 1,6 0,7 0,4
Panel 2006-2008 7,4 20,0 28,1 62,1 0,6 3,7 2,1 1,1 0,3
Panel 2010-2012 17,0 7,1 20,1 54,2 3,8 2,6 1,9 1,9 0,7
Panel 2012-2014 5,3 6,8 16,0 56,3 3,9 3,6 1,8 1,6 0,7
Công nhân
Panel 2002-2004 0,0 0,0 1,0 2,7 47,1 2,0 1,8 2,4 0,4

83
Nghề nghiệp hiện tại
Nghề nghiệp trước Lãnh Doanh Chuyên Nhân Công B.bán TTCN L.động Nông
đây đạo nhân môn cao viên nhân -D.vụ giản dân
đơn
Panel 2004-2006 0,0 1,6 0,0 1,9 47,5 0,6 2,4 2,3 0,3
Panel 2006-2008 1,0 0,0 0,0 1,6 47,9 2,8 2,8 1,7 0,4
Panel 2010-2012 0,0 0,0 0,6 3,5 52,7 1,9 4,0 3,0 1,0
Panel 2012-2014 0,0 10,3 0,9 3,8 58,6 2,5 5,8 5,7 0,6
Buôn bán, dịch vụ
Panel 2002-2004 3,5 2,2 3,4 4,2 2,2 30,6 1,6 4,3 0,6
Panel 2004-2006 0,9 2,7 0,6 2,6 1,5 31,9 2,1 3,9 0,5
Panel 2006-2008 0,0 0,0 1,4 2,9 2,4 34,3 0,7 6,8 0,7
Panel 2010-2012 0,8 10,8 2,6 8,0 4,1 68,2 3,7 14,8 2,1
Panel 2012-2014 1,9 2,8 1,3 5,6 5,5 67,1 5,9 17,0 2,8
Tiểu thủ công nghiệp
Panel 2002-2004 1,4 7,7 0,0 4,1 16,8 6,9 48,5 9,6 2,0
Panel 2004-2006 0,0 4,9 0,0 2,0 13,9 4,6 58,8 10,2 2,1
Panel 2006-2008 1,6 5,8 1,8 3,2 12,2 6,9 55,0 11,4 2,4
Panel 2010-2012 4,1 0,0 1,5 6,6 16,3 5,5 62,2 14,3 3,1
Panel 2012-2014 2,4 0,0 2,2 6,9 11,9 4,0 61,3 13,9 3,7
Lao động giản đơn
Panel 2002-2004 2,9 15,8 3,2 5,1 21,8 37,6 25,1 55,4 7,3
Panel 2004-2006 4,8 10,7 0,8 5,3 27,3 42,0 19,8 62,4 6,6
Panel 2006-2008 0,0 19,4 2,8 9,2 26,9 40,1 24,2 58,7 6,4
Panel 2010-2012 0,0 0,8 1,6 3,5 13,7 12,0 12,1 40,9 4,0
Panel 2012-2014 0,0 0,0 0,7 1,8 10,4 11,6 10,4 39,8 3,2
Nông dân
Panel 2002-2004 22,4 9,5 4,7 7,7 10,2 17,3 21,5 26,5 89,1
Panel 2004-2006 20,1 5,0 0,0 6,5 9,3 15,8 15,0 20,1 89,6
Panel 2006-2008 14,4 2,1 0,3 4,9 8,8 11,5 15,0 20,1 89,3
Panel 2010-2012 24,1 4,6 0,0 6,1 8,9 8,5 15,4 25,0 88,9
Panel 2012-2014 18,3 0,0 1,7 4,8 9,6 10,1 14,0 21,7 88,8
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ VHLSS 2002~2014 (tổng mỗi cột của mỗi Panel = 100%)
Khi xem xét quá trình biến đổi theo thời gian ở các Panel từ năm 2002 đến
2014, ta thấy xu hướng kế thừa địa vị xã hội như sau:
(1) Tầng lớp cao có tỉ lệ kế thừa địa vị gốc trước đây ngày càng nhiều hơn
(Bảng 3.8a): từ 64,7% (Panel 2002-2004) tăng lên 68,1% (Panel 2012-2014). Cụ
thể ở Bảng 3.6, tầng lớp doanh nhân có tỉ lệ kế thừa từ 50,5% (Panel 2002-2004)
tăng lên 59,5% (Panel 2012-2014), và tầng lớp chuyên môn cao (dưới tầng lớp cao,
thuộc trung lưu bậc trên) có tỉ lệ kế thừa từ 59,5% (Panel 2002-2004) tăng lên
74,4% (Panel 2012-2014).
(2) Ngược lại, tầng lớp thấp có tỉ lệ kế thừa địa vị gốc trước đây ngày càng ít
hơn (Bảng 3.8a): từ 95,4% (Panel 2002-2004) giảm xuống 91,4% (Panel 2012-
2014). Trong đó (Bảng 3.6) tập trung vào tầng lớp lao động giản đơn thể hiện xu
hướng kế thừa ngày càng giảm đi rõ ràng nhất từ 57,8% (Panel 2002-2004) xuống

84
còn 43,0% (Panel 2012-2014). Trái lại, tầng lớp nông dân có xu hướng tỉ lệ kế thừa
từ ngày càng tăng lên từ 85,2% (Panel 2002-2004) đến 87,0% (Panel 2012-2014).
(3) Kết luận rút ra từ hai điểm (1) và (2) ở trên là tầng lớp cao và tầng lớp
nông dân có tỉ lệ kế thừa địa vị gốc trước đây ngày càng nhiều hơn. Điều này có
nghĩa rằng, các tầng lớp ở phía trên và đáy tháp phân tầng đã thể hiện sự “kép kín”
trong nội bộ tầng lớp ngày càng rõ hơn. Ta có thể giải thích sự “khép kín” này ở
Việt Nam dựa trên kết quả đã nghiên cứu trên thế giới. Đó là giai cấp ở đỉnh tháp
phân tầng thường có sự “khép kín xã hội” cao hơn các giai cấp phía dưới để bảo vệ
quyền lợi của họ và ngăn cản không giai cấp trung lưu cho xâm nhập vào giai cấp
họ; còn giai cấp lao động ở dưới đáy cũng buộc phải chịu đựng sự “khép kín xã
hội” và sự bất lợi của họ, không thể di động đi lên được (Bilton et al., 1993: 94-95).
Đối với xu hướng gia nhập nghề nghiệp hiện tại ở sơ đồ 3 giai tầng là như
sau: Tầng lớp cao có tỉ lệ gia nhập nghề nghiệp hiện tại từ các nghề nghiệp gốc
trước đây ngày càng nhiều hơn (Bảng 3.8b): từ 44,6% (Panel 2002-2004) tăng lên
62,1% (Panel 2012-2014). Ngược lại, tầng lớp thấp có tỉ lệ gia nhập nghề nghiệp
hiện tại từ các nghề nghiệp gốc trước đây ngày càng ít hơn (Bảng 3.8b): từ 96,4%
(Panel 2002-2004) giảm xuống 91,0% (Panel 2012-2014). Từ đây, ta có thể kết luận
rằng, tầng lớp cao và tầng lớp thấp thể hiện hai xu hướng tuyển dụng từ nghề
nghiệp gốc trước đây là trái chiều nhau. Đối với sơ đồ 9 tầng lớp xã hội (Bảng 3.7)
cũng thể hiện hai xu hướng tuyển dụng từ nghề nghiệp gốc trước đây là trái chiều
nhau giữa các tầng lớp ở phía trên và phía dưới tháp phân tầng.
Bảng 3. 8. Di động đi ra và di động đi vào của ba giai tầng xã hội
Đơn vị: %
(a) Di động đi ra (b) Di động đi vào
Tầng Trung Tầng Tầng Trung Tầng
lớp cao lưu lớp thấp Tổng lớp cao lưu lớp thấp
Tầng lớp cao
Panel 2002-2004 64,7 20,9 14,4 100 44,6 1,9 0,2
Panel 2004-2006 59,6 24,7 15,8 100 55,4 2,9 0,3
Panel 2006-2008 61,7 18,5 19,8 100 59,6 1,9 0,3
Panel 2010-2012 52,9 37,1 10,1 100 48,0 1,5 0,2
Panel 2012-2014 68,1 21,4 10,5 100 62,1 0,8 0,1
Trung lưu
Panel 2002-2004 3,7 67,6 28,8 100 26,4 64,7 3,5
Panel 2004-2006 3,0 70,1 26,9 100 21,0 62,1 3,5
Panel 2006-2008 2,4 70,6 27,0 100 20,7 65,0 4,1
Panel 2010-2012 1,6 79,4 19,0 100 35,2 74,8 6,9
Panel 2012-2014 1,0 76,7 22,3 100 26,3 77,8 8,9
Tầng lớp thấp
Panel 2002-2004 0,5 4,2 95,4 100 28,9 33,4 96,4
Panel 2004-2006 0,4 5,0 94,5 100 23,6 35,0 96,3
Panel 2006-2008 0,3 5,3 94,3 100 19,7 33,1 95,6
Panel 2010-2012 0,3 8,9 90,8 100 16,8 23,7 93,0
Panel 2012-2014 0,2 8,4 91,4 100 11,6 21,4 91,0

85
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ VHLSS 2002~2014
Ghi chú: Tổng mỗi cột di động đi vào của mỗi Panel = 100%
Bảng 3. 9. Các chỉ số về di động xã hội qua khảo sát VHLSS (2002~2014)
9 tầng lớp xã hội Quy giản về 3 giai tầng
Panel 02-04 04-06 06-08 10-12 12-14 Panel 02-04 04-06 06-08 10-12 12-14
Tỉ lệ di động đi lên ,152 ,140 ,153 ,145 ,135 ,045 ,051 ,052 ,071 ,064
Tỉ lệ di động đi xuống ,115 ,111 ,116 ,118 ,133 ,034 ,036 ,040 ,054 ,066
Tỉ lệ di động thực tế ,267 ,251 ,270 ,262 ,267 ,079 ,087 ,091 ,125 ,130
Tỉ lệ di động cấu trúc ,027 ,021 ,029 ,019 ,014 ,009 ,016 ,011 ,017 ,004
Tỉ lệ di động tuần hoàn ,240 ,230 ,240 ,244 ,254 ,070 ,071 ,080 ,108 ,126
Chỉ số Yasuda tổng thể ,417 ,369 ,380 ,358 ,361 ,339 ,324 ,329 ,278 ,304
Chỉ số Yasuda (hệ số mở) cho mỗi tầng lớp xã hội:
Lãnh đạo ,365 ,385 ,287 ,528 ,366 Thượng ,358 ,411 ,389 ,477 ,323
Doanh nhân ,497 ,468 ,573 ,312 ,407 lưu
Chuyên môn cao ,413 ,382 ,256 ,301 ,266
Nhân viên ,381 ,350 ,396 ,481 ,459 Trung ,364 ,341 ,341 ,284 ,309
Công nhân ,540 ,473 ,475 ,376 ,435 lưu
Buôn bán, dịch vụ ,677 ,570 ,610 ,332 ,379
Tiểu thủ công nghiệp ,513 ,431 ,444 ,434 ,419
Lao động giản đơn ,533 ,482 ,524 ,654 ,632 Hạ lưu ,314 ,298 ,310 ,261 ,297
Nông dân ,273 ,231 ,229 ,225 ,218
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ VHLSS 2002~2014
Tiếp theo, ta hãy phân tích ba chỉ số cơ bản về di động xã hội (di động thực
tế, di động cấu trúc và di động tuần hoàn). Thứ nhất, tính toán tỉ lệ di động thực tế
bằng cách áp dụng công thức (2) ở Mục 4 (Chương I) cho tổng thể xã hội:
N   nii
Tỉ lệ di động thực tế =
N
Kết quả tính toán tỉ lệ di động thực tế được thể hiện trong Bảng 3.9. Trong
bảng này, dãy số in đậm về tỉ lệ di động thực tế cho tổng thể 9 tầng lớp (hoặc quy
giản về 3 giai tầng) cho biết rằng có bao nhiêu phần trăm (%) những cá nhân đã di
chuyển khỏi địa vị xã hội ban đầu của mình. Theo lý thuyết đo lường di động xã hội
(Bảng 1.3), tỉ lệ di động thực tế bằng tổng số hai loại di động thành phần như sau
(Bảng 3.9):
Tỉ lệ di động thực tế = Tỉ lệ di động đi lên + Tỉ lệ di động đi xuống
Tỉ lệ di động thực tế21 = Tỉ lệ di động cấu trúc + Tỉ lệ di động tuần hoàn
Quan sát dãy số in đậm ở các cột quy giản về 3 giai tầng đã thể hiện tỉ lệ di
động thực tế trong tổng thể có xu hướng ngày càng tăng lên từ năm 2002 đến 2014:

21
Mục 3 (Chương I) đã cho biết sự phân chia di động xã hội thành hai loại di động cấu trúc và di động tuần hoàn –
Đây là cách phân chia gây ra nhiều tranh cãi hơn cả (Scott, J., 2009:477).

86
0,079 → 0,087 → 0,091 → 0,125 → 0,13022. Trung bình 12 năm, mỗi năm tỉ lệ di
động thực tế tăng khoảng (0,130 – 0,079)/12 = 0,004 (khoảng 0,43%). Xu hướng
tăng lên này chứng tỏ rằng cấu trúc xã hội đang vận động theo hướng đi lên, nhưng
còn rất chậm chạp. Nhưng dù sao, điều này cũng là hợp quy luật trong quá trình
công nghiệp hóa. So sánh với Nhật Bản (Bảng 3.11), qua sơ đồ 3 tầng lớp ta thấy tỉ
lệ di động thực tế tăng lên trong thời kỳ 1955~1985: 0,358 → 0,496 → 0,506 →
0,497. Đối với 5 tầng lớp, tỉ lệ di động thực tế cũng có xu hướng tăng lên như vậy
(Bảng 3.11). Trung bình 10 năm (1955-1965) công nghiệp hóa mạnh mẽ ở Nhật
Bản, mỗi năm tỉ lệ di động thực tế (sơ đồ 3 tầng lớp) tăng khoảng (0,496 –
0,358)/10 = 0,014 (khoảng 1,38%). Đối với sơ đồ 5 tầng lớp, con số tương ứng
cũng tăng tương tự như vậy (khoảng 1,36%). So sánh con số tăng lên về tỉ lệ di
động thực tế giữa Việt Nam (khoảng 0,43%) và Nhật Bản (khoảng 1,38%), ta thấy
Nhật Bản tăng gấp 3,2 lần (cùng trong thời kỳ công nghiệp hóa). Như vậy, ta có thể
nhận xét rằng tỉ lệ di động thực tế ở Việt Nam có tăng lên nhưng còn rất chậm
chạp23.

22
Nhưng ở sơ đồ 9 tầng lớp xã hội (Bảng 3.9) không thể hiện rõ xu hướng tăng lên, mà là ổn định ít thay đổi của tỉ lệ
di động thực tế. Điều này liệu có thể là do hạn chế của số liệu từ Panel, hay là nguyên nhân nào khác?
23
Phân tích tiếp tục tỉ lệ di động thực tế “đi ra” = (ni. – nii)/N và “đi vào” = (n.i – nii)/N cho mỗi tầng lớp xã hội như
bảng dưới đây:
Bảng: Tỉ lệ di động thực tế ở khảo sát VHLSS (2002~2014)
Panel 02-04 04-06 06-08 10-12 12-14
9 tầng lớp xã hội ,267 ,251 ,270 ,262 ,267
Mỗi tầng lớp xã hội: Ra Vào Ra Vào Ra Vào Ra Vào Ra Vào
Lãnh đạo ,003 ,004 ,004 ,005 ,004 ,003 ,004 ,003 ,002 ,003
Doanh nhân ,001 ,004 ,002 ,002 ,002 ,003 ,001 ,003 ,002 ,002
Chuyên môn cao ,007 ,007 ,007 ,007 ,006 ,011 ,011 ,012 ,012 ,012
Nhân viên ,015 ,017 ,014 ,014 ,019 ,015 ,023 ,021 ,023 ,019
Công nhân ,011 ,011 ,011 ,014 ,011 ,014 ,017 ,028 ,022 ,023
Buôn bán, dịch vụ ,017 ,021 ,015 ,027 ,021 ,028 ,036 ,041 ,044 ,043
Tiểu thủ công nghiệp ,039 ,048 ,040 ,045 ,044 ,057 ,048 ,048 ,047 ,053
Lao động giản đơn ,084 ,093 ,084 ,082 ,093 ,084 ,061 ,050 ,052 ,059
Nông dân ,089 ,063 ,074 ,055 ,070 ,055 ,061 ,055 ,063 ,054
Quy giản về 3 giai tầng ,079 ,087 ,091 ,125 ,130
Mỗi giai tầng xã hội: Ra Vào Ra Vào Ra Vào Ra Vào Ra Vào
Thượng lưu ,004 ,008 ,006 ,007 ,005 ,006 ,005 ,006 ,003 ,004
Trung lưu ,034 ,039 ,033 ,048 ,037 ,048 ,053 ,069 ,066 ,062
Hạ lưu ,041 ,032 ,048 ,032 ,049 ,037 ,067 ,050 ,061 ,064
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ VHLSS (2012~2014)
Ở bảng trên, ta thấy di động thực tế diễn ra chủ yếu ở các tầng lớp phía dưới tháp phân tầng (nông dân, lao
động giản đơn, tiểu thủ công nghiệp). Cả hai loại tỉ lệ di động thực tế đi ra và đi vào 3 tầng lớp này là cao nhất. Điều
đó thể hiện sự di chuyển lẫn nhau giữa 3 tầng lớp này là chủ yếu, một số ít hơn di chuyển lên các tầng lớp trung lưu.
Đến đây, đã trả lời cho câu hỏi: “Ai tiến lên phía trước?” Có thể quan sát trực tiếp điều này qua 5 bảng ma trận ở trên
(từ Bảng 3.1 đến Bảng 3.5). Trong 5 bảng này, khi xem xét những con số thể hiện sự di động xã hội nằm ngoài đường
chéo chính, ta thấy tần suất của chúng thường phân bố và tập trung nhiều ở các tầng lớp phía dưới tháp phân tầng.
Như vậy, sự di động giữa 9 tầng lớp xã hội diễn ra chủ yếu ở khu vực các tầng lớp xã hội truyền thống, mà không
phải ở khu vực các tầng lớp xã hội hiện đại. Điều này có nghĩa rằng, sự hình thành các tầng lớp của xã hội hiện đại
diễn ra còn chậm chạp. Tức là, nó sẽ quy định quá trình chuyển biến từ hệ thống phân tầng xã hội có hình dạng “kim
tự tháp” chuyển sang mô hình “quả trám” chậm chạp một cách tương ứng. Thực trạng di động xã hội này đã phản ánh
quá trình chuyển đổi của cơ cấu kinh tế cũng chậm chạp không kém.
Vẫn trong bảng trên, khi quy giản về 3 giai tầng cũng cho thấy tình trạng có phần tương tự như 9 tầng lớp xã
hội, nhưng lại thể hiện một điều mới. Đó là tỉ lệ di động thực tế đi vào tầng lớp trung lưu là cao nhất (so với hướng đi

87
Khi phân tách di động thực tế thành hai loại, ta biết được có bao nhiêu tỉ lệ %
di động đi lên và di động đi xuống (Bảng 3.9). So sánh giữa hai loại di động này, ta
thấy tỉ lệ di động đi lên có cao hơn di động đi xuống nhưng không nhiều (Bảng 3.9)
và còn chậm chạp. Điều này cũng phù hợp với tỉ lệ di động thực tế ở Việt Nam có
tăng lên nhưng còn rất chậm chạp như đã phân tích ở trên. Hai loại di động này gợi
mở cho ta trả lời câu hỏi: “Ai tiến lên phía trước?” Còn câu hỏi: “Tại sao lại như
vậy?” sẽ dựa vào mô hình đạt được địa vị của di động xã hội (Hình 1.2) ở Mục 3
(Chương I). Câu hỏi này chưa được trả lời trong công trình nghiên cứu. Đây cũng là
vấn đề đặt ra và gợi mở cho những nghiên cứu tiếp theo về sau.
Thứ hai, từ sự phân chia thành di động cấu trúc “đi ra” và “đi vào” từng
nhóm địa vị xã hội, ta có thể quy giản về đại thể rằng, tổng số di động cấu trúc
trong toàn xã hội là sự khác nhau giữa phân bố tần suất được thể hiện qua những
con số ở mép lề của cha và con trong Bảng 1.3 và nó phản ánh sự biến đổi công
nghiệp hoặc nghề nghiệp từ thế hệ cha sang thế hệ con. Nó thường được đo lường
bởi phần trăm (%) khác nhau giữa hai mép lề trong bảng (Kosaka, 1994:56). Từ
đây, tôi suy ra công thức tính toán tỉ lệ khác nhau giữa hai mép lề trong Bảng 1.3 là
= | ni. – n.i | / N (Kosaka, 1994:57). Áp dụng công thức này, ta có tỉ lệ % khác nhau
giữa 2 mép lề từ Bảng 3.1 đến Bảng 3.5 được trình bày trong Bảng 3.10. Tỉ lệ %
khác nhau giữa 2 mép lề của tầng lớp nào đó càng lớn thì cấu trúc của tầng lớp ấy
càng thay đổi nhiều (Bảng 3.10).
Bảng 3. 10. Tỉ lệ % khác nhau giữa hai mép lề trong các bảng ma trận di động xã
hội
Panel: 02-04 04-06 06-08 10-12 12-14
(a) 9 tầng lớp xã hội
Lãnh đạo 0,16 0,06 0,08 0,07 0,05
Doanh nhân 0,29 0,05 0,12 0,17 0,04
Chuyên môn cao 0,00 0,01 0,48 0,11 0,02
Nhân viên 0,17 0,04 0,42 0,13 0,33
Công nhân 0,02 0,31 0,29 1,10 0,03
Buôn bán, dịch vụ 0,32 1,18 0,75 0,51 0,09
Tiểu thủ công nghiệp 0,87 0,49 1,30 0,03 0,54
Lao động giản đơn 0,86 0,18 0,96 1,07 0,72
Nông dân 2,65 1,87 1,48 0,60 0,95
(b) Quy giản về 3 giai tầng
Thượng lưu 0,45 0,11 0,05 0,11 0,10
Trung lưu 0,47 1,44 1,10 1,59 0,41
Hạ lưu 0,92 1,55 1,15 1,69 0,31
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ VHLSS 2002~2014

vào tầng lớp thượng lưu và hạ lưu) trong tất cả các Panel (trừ Panel 12-14): 0,039; 0,048; 0,048; 0,069; 0,62. Điều
này thể hiện tầng lớp trung lưu đang mở rộng do tầng lớp hạ lưu di động đi lên. Có thể quan sát trực tiếp điều này
qua số liệu trung bình mỗi năm tầng lớp trung lưu tăng khoảng 1,6% do tầng lớp hạ lưu giảm trung bình 1,6% di
động đi lên tầng lớp trung lưu (Bảng 2.6, Mục 4, Chương II), hoặc qua 5 bảng ma trận (từ Bảng 3.1 đến Bảng 3.5 ở
các ô số liệu quy giản về 3 giai tầng).

88
Trong mô hình 9 tầng lớp ở Bảng 3.10(a), các tầng lớp ở phía dưới tháp phân
tầng có tỉ lệ % khác nhau giữa 2 mép lề thể hiện sự biến đổi cấu trúc nhiều hơn các
tầng lớp ở phía trên. Đặc biệt, hàng số liệu tỉ lệ % khác nhau giữa 2 mép lề của tầng
lớp nông dân thể hiện sự biến đổi cấu trúc là lớn nhất. Điều này đã thể hiện quá
trình công nghiệp hóa có ảnh hưởng đến cấu trúc tầng lớp nông dân như thế nào (so
với các tầng lớp khác). Như vậy, sự biến đổi của di động cấu trúc diễn ra chủ yếu ở
các tầng lớp phía dưới tháp phân tầng.24 Đối với mô hình quy giản về 3 giai tầng ở
Bảng 3.10(b), các số liệu thể hiện xu hướng biến đổi cấu trúc của 3 giai tầng còn rõ
ràng hơn nữa. Cụ thể đối với 4 Panel từ năm 2002 đến 2012, giai tầng hạ lưu luôn
có tỉ lệ % khác nhau giữa 2 mép lề thể hiện sự thay đổi cấu trúc là lớn nhất, tiếp
theo là giai tầng trung lưu và cuối cùng là thượng lưu. Xu hướng này là nhất quán ở
cả 4 Panel từ năm 2002 đến 2012. Nhưng đến Panel 2012-2014 đã thay đổi xu
hướng qua tỉ lệ % khác nhau giữa 2 mép lề thể hiện sự biến đổi cấu trúc của giai
tầng trung lưu là lớn nhất (0,41%) so với giai tầng hạ lưu (0,31%) và giai tầng
thượng lưu (0,10%). Điều này thể hiện giai tầng trung đang hình thành và đã thể
hiện sự biến đổi cấu trúc của giai tầng này bắt đầu lớn nhất. Nhưng dù sao, tỉ lệ %
khác nhau giữa 2 mép lề thể hiện sự thay đổi cấu trúc của cả 3 giai tầng vẫn còn nhỏ
bé.
Thứ ba, về tính toán tỉ lệ di động tuần hoàn bằng cách áp dụng công thức
(4) ở Mục 4 (Chương I) cho tổng thể xã hội:

Tỉ lệ di động tuần hoàn =


 min( n i. , n.i )  nii 
N
Kết quả tính toán tỉ lệ di động tuần hoàn được thể hiện trong Bảng 3.9. Trong
Bảng 3.9, dãy số tỉ lệ di động tuần hoàn chung cho tổng thể 9 tầng lớp xã hội (hoặc
quy giản về 3 giai tầng) đều thể hiện xu hướng tăng lên theo thời gian (2002~2014).
Đặc biệt, khi quy giản về 3 giai tầng đã thể hiện tỉ lệ di động tuần hoàn chung cho
tổng thể có xu hướng ngày càng tăng lên từ năm 2002 đến 2014: 0,070 → 0,071 →
0,080 → 0,108 → 0,126. Xu hướng này chứng tỏ sự vận động của hệ thống phân
tầng trong cả nước đang mở (tức không khép kín). Điều này phù hợp với quá trình
công nghiệp hóa đang diễn ra ở Việt Nam và phù hợp với luận điểm I.B.4 của
Treiman được đề cập ở Mục 3 (Chương I): “Xã hội càng công nghiệp hóa, thì tỉ lệ
di động tuần hoàn càng lớn.” So sánh với sơ đồ 3 tầng lớp ở Nhật Bản, ta cũng thấy
tỉ lệ di động tuần hoàn tăng lên trong thời kỳ 1955~1985 (Bảng 3.11): 0,188 →
0,202 → 0,205 → 0,218. Đối với 5 tầng lớp, tỉ lệ di động tuần hoàn cũng có xu
hướng tăng lên tương tự (Bảng 3.11). Như vậy, xu hướng tăng lên của tỉ lệ di động
tuần hoàn ở Việt Nam và Nhật Bản đã kiểm chứng luận điểm I.B.4 của Treiman là
đúng25.

24
Điều này cũng tương tự như di động thực tế và di động tuần hoàn diễn ra chủ yếu ở các tầng lớp phía dưới tháp
phân tầng. Như vậy, tất cả ba loại di động thực tế, di động cấu trúc và di động tuần hoàn đều tương tự như nhau. Tức
là chúng đều diễn ra chủ yếu ở các tầng lớp phía dưới tháp phân tầng.
25
Phân tích tiếp tục tỉ lệ di động tuần hoàn cho mỗi tầng lớp xã hội = [min(ni. , n.i) – nii ]/N như bảng dưới đây:
Bảng: Tỉ lệ di động tuần hoàn ở khảo sát VHLSS (2002~2014)

89
Thứ tư, ta hãy phân tích chỉ số Yasuda (vì có liên quan trực tiếp với di động
tuần hoàn) bằng cách áp dụng công thức (6), (5) ở Mục 4 (Chương I) cho tổng thể
(Y) và từng nhóm xã hội (yii):

yii =
min( ni. , n.i )  nii
và Y=  min( n i. 
, n.i )  nii
min( ni. , n.i )  fii  min( n i. ,n ) f 
.i ii

Kết quả tính toán chỉ số Yasuda được thể hiện trong Bảng 3.9. Như nội dung
lý thuyết về di động xã hội ở Mục 4 (Chương I) đã đề cập, chỉ số Yasuda có liên
quan trực tiếp đến di động tuần hoàn (bởi vì chỉ số Yasuda dựa trên cơ sở tỉ lệ di
động tuần hoàn và giá trị kỳ vọng theo lý thuyết). Tức là, khi tỉ lệ di động tuần hoàn
có xu hướng tăng lên (thể hiện sự vận động của hệ thống phân tầng đang mở), thì
chỉ số Yasuda cũng thể hiện xu hướng tương tự như vậy. Ví dụ, tỉ lệ di động tuần
hoàn ở Nhật Bản có xu hướng tăng lên (như so sánh đã trích dẫn ở trên) thì chỉ số
Yasuda tổng thể cũng tăng lên tương tự trong thời kỳ 1955~1985 (đối với sơ đồ 5
tầng lớp): 0,507 → 0,575 → 0,589 → 0,619 (Bảng 3.11). Đối với sơ đồ 3 tầng lớp,
chỉ số Yasuda tổng thể cũng có xu hướng tăng lên tương tự (Bảng 3.11). Cả hai chỉ
số này đều thể hiện sự vận động của hệ thống phân tầng đang mở (tức không khép
kín) trong xã hội công nghiệp. Còn ở Việt Nam, mặc dù tỉ lệ di động tuần hoàn có
xu hướng tăng lên cũng giống với Nhật Bản (và ủng hộ luận điểm I.B.4 của
Treiman), nhưng đối với chỉ số Yasuda tổng thể thì không thể hiện xu hướng tăng
lên tương tự và không phân tích được gì về nó. Điều này liệu có thể là do hạn chế
của số liệu từ Panel, hay là nguyên nhân nào khác? Khi xem xét chỉ số Yasuda cho
mỗi tầng lớp, ta thấy riêng tầng lớp nông dân Việt Nam có hệ số mở (chỉ số
Yasuda) nhỏ nhất và chúng thể hiện xu hướng giảm dần theo thời gian từ năm 2002

9 tầng lớp xã hội Quy giản về 3 giai tầng


Panel 02-04 04-06 06-08 10-12 12-14 Panel 02-04 04-06 06-08 10-12 12-14
Chung ,240 ,230 ,240 ,244 ,254 Chung ,070 ,071 ,080 ,108 ,126
Lãnh đạo ,003 ,004 ,003 ,003 ,002 Thượng ,004 ,006 ,005 ,005 ,003
Doanh nhân ,001 ,002 ,002 ,001 ,002 lưu
Chuyên môn cao ,007 ,007 ,006 ,011 ,012
Nhân viên ,015 ,014 ,015 ,021 ,019 Trung lưu ,034 ,033 ,037 ,053 ,062
Công nhân ,011 ,011 ,011 ,017 ,022
Buôn bán, dịch vụ ,017 ,015 ,021 ,036 ,043
Tiểu thủ công nghiệp ,039 ,040 ,044 ,048 ,047
Lao động giản đơn ,084 ,082 ,084 ,050 ,052 Hạ lưu ,032 ,032 ,037 ,050 ,061
Nông dân ,063 ,055 ,055 ,055 ,054
Nguồn: Kết quả xử lý số liệu từ VHLSS (2002~2014)
Ở bảng trên, ta thấy tỉ lệ di động tuần hoàn cũng thể hiện xu hướng tương tự như tỉ lệ di động thực tế và di động
cấu trúc. Tức là, di động tuần hoàn diễn ra chủ yếu ở các tầng lớp phía dưới tháp phân tầng (nông dân, lao động giản
đơn, tiểu thủ công nghiệp – 3 hàng số liệu in đậm ở cuối bảng). Khi quy giản về 3 giai tầng, tỉ lệ di dộng tuần hoàn
của tầng lớp trung lưu là cao nhất (so với tầng lớp thượng lưu và hạ lưu) trong tất cả các Panel. Điều này cũng thể
hiện xu hướng tương tự như tỉ lệ di động thực tế. Đồng thời, tỉ lệ di động tuần hoàn của tầng lớp trung lưu có xu
hướng tăng lên theo thời gian (2002~2014): 0,034 → 0,033 → 0,037 → 0,053 → 0,062. Tầng lớp hạ lưu cũng thể
hiện xu hướng tương tự. Điều đó có nghĩa rằng, tầng lớp trung lưu và hạ lưu đang mở (tức không khép kín). Sự mở
của hai tầng lớp này đã quy định sự mở của toàn xã hội.

90
đến 2014 như sau: 0,273 → 0,231 → 0,229 → 0,225 → 0,218 (Bảng 3.9). Điều này
chứng tỏ rằng tầng lớp nông dân Việt Nam đang ở trong trạng thái khép kín nhiều
hơn những tầng lớp xã hội khác. Tức là, sự di động ra khỏi tầng lớp nông dân là
chậm nhất và ngày càng khó khăn. Nói cách khác, tỉ lệ giảm bớt tầng lớp nông dân
ngày càng chậm dần. So sánh với sơ đồ 5 tầng lớp ở Nhật Bản, ta cũng thấy hệ số
mở của tầng lớp nông dân là nhỏ nhất và chúng thể hiện xu hướng giảm dần trong
thời kỳ 1955~1985 (Bảng 3.11): 0,250 → 0,234 → 0,213 → 0,162. Đối với sơ đồ 3
tầng lớp, hệ số mở của tầng lớp nông dân cũng thể hiện xu hướng như vậy (Bảng
3.11). Điều này cũng giống với Việt Nam và cho thấy rằng tầng lớp nông dân nói
chung trên thế giới có sự khép kín nhiều hơn những tầng lớp xã hội khác. Như vậy,
quá trình rút bớt lao động nông nghiệp ở Việt Nam để chuyển sang phi nông còn
gặp nhiều khó khăn.
Bảng 3. 11. Các chỉ số về di động xã hội ở Nhật Bản
5 tầng lớp xã hội 3 tầng lớp xã hội
1955 1965 1975 1985 1955 1965 1975 1985
Tỉ lệ di động đi lên ,268 ,405 ,408 ,411
Tỉ lệ di động đi xuống ,091 ,091 ,098 ,086
Tỉ lệ di động thực tế ,464 ,600 ,621 ,634 ,358 ,496 ,506 ,497
Tỉ lệ di động cấu trúc ,200 ,321 ,340 ,334 ,171 ,294 ,301 ,279
Tỉ lệ di động tuần hoàn ,264 ,279 ,281 ,300 ,188 ,202 ,205 ,218
Chỉ số Yasuda tổng thể ,507 ,575 ,589 ,619 ,400 ,500 ,516 ,550
Chỉ số Yasuda (hệ số mở) cho mỗi tầng lớp xã hội:
Cổ trắng có lương ,587 ,628 ,605 ,574 Cổ trắng ,450 ,487 ,506 ,475
Cổ trắng tự làm ,658 ,668 ,725 ,668
Cổ xanh có lương ,600 ,680 ,652 ,789 Cổ xanh ,519 ,686 ,698 ,723
Cổ xanh tự làm ,670 ,680 ,700 ,627
Nông dân ,250 ,234 ,213 ,162 Nông dân ,256 ,256 ,243 ,195
Tỉ lệ % nông dân 40,4 19,9 15,2 7,5
Nguồn: Kosaka, 1994:47, 56, 58, 62 (số liệu 4 hàng trên cùng ở mô hình 3 tầng lớp xã hội do tác
giả Đỗ Thiên Kính tính toán từ bảng ma trận di động trong nguồn tài liệu này: trang 56)
Về mối quan hệ giữa ba chỉ số cơ bản về di động xã hội (di động thực tế, di
động cấu trúc, di động tuần hoàn) sẽ được đề cập trong Mục 2 tiếp theo nhằm trả lời
một phần câu hỏi: “Tại sao?”

2. Nguyên nhân của di động xã hội


Như đã trình bày ở Mục 4 (Chương I) về phương pháp đo lường di động xã
hội, tỉ lệ di động thực tế được phân chia thành 2 phần (=) tỉ lệ di động cấu trúc (di
động cưỡng bức) + tỉ lệ di động tuần hoàn (di động trao đổi). Người ta có thể tính
toán được phần đóng góp của mỗi loại tỉ lệ di động chiếm bao nhiêu phần trăm.
Đồng thời, nguyên nhân tạo nên 2 thành phần tỉ lệ di động này như sau: (a) Di động
cấu trúc (di động cưỡng bức) là do nguyên nhân thuộc về cấu trúc (ví dụ, sự thay
đổi về cơ cấu kinh tế sẽ tất yếu kéo theo sự thay đổi về cấu trúc xã hội, hoặc là sự

91
thay đổi về quy mô dân số trong mỗi tầng lớp cũng kéo theo cấu trúc xã hội thay
đổi); (b) Di động tuần hoàn là do nguyên nhân không thuộc về cấu trúc. Bảng 3.9
thể hiện đầy đủ cả ba thành phần về tỉ lệ di động xã hội:
Tỉ lệ di động thực tế = Tỉ lệ di động cấu trúc + Tỉ lệ di động tuần hoàn
Trong Bảng 3.9, tỉ lệ di động cấu trúc được tính toán theo công thức (3) ở
Mục 4 (Chương I) cho toàn thể xã hội:

Tỉ lệ di động cấu trúc =


| n i. - n .i |
2N
Khi so sánh giữa 2 thành phần trong Bảng 3.9 ta thấy rằng tỉ lệ di động tuần
hoàn luôn cao hơn tỉ lệ di động cấu trúc trong tất cả các Panel chung cả nước. Cụ
thể, đối với 9 tầng lớp: 0,240 > 0,027; 0,230 > 0,021; 0,240 > 0,029; 0,244 > 0,019;
0,254 > 0,014 và đối với 3 giai tầng: 0,070 > 0,009; 0,071 > 0,016; 0,080 > 0,011;
0,108 > 0,017; 0,126 > 0,004. Như vậy, khi xem xét nguyên nhân gây ra sự di động
xã hội giữa 9 tầng lớp (hoặc 3 giai tầng) ở Việt Nam cho thấy rằng nguyên nhân phi
cấu trúc là chính, còn nguyên nhân thuộc về cấu trúc chiếm phần nhỏ. Trong khi đó,
có lẽ xu hướng chung của các nước công nghiệp trên thế giới thì nguyên nhân lại
thuộc về cấu trúc là chủ yếu? Ví dụ như ở Nhật Bản (Bảng 3.11), những năm đầu
thời kỳ công nghiệp hóa (cho đến năm 1955) thì tỉ lệ di động tuần hoàn cao hơn tỉ lệ
di động cấu trúc: 0,264 > 0,200. Những năm sau đó (1965~1985), xu hướng này đã
đảo ngược. Tức là, tỉ lệ di động cấu trúc đã cao hơn tỉ lệ di động tuần hoàn: 0,321 >
0,279 (năm 1965), 0,340 > 0,281 (năm 1975) và 0,334 > 0,300 (năm 1985). Điều
này có nghĩa là quá trình công nghiệp hóa diễn ra mạnh mẽ ở Nhật Bản đã quyết
định sự tác động của cơ cấu kinh tế đến sự biến đổi của cấu trúc xã hội. Tức là
nguyên nhân tạo nên sự biến đổi của cấu trúc xã hội (cũng là gây ra sự di động xã
hội) do những nhân tố thuộc về cấu trúc là chủ yếu. Sở dĩ như vậy, bởi vì sự thay
đổi của cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa sẽ quy định chủ yếu sự biến
đổi về cấu trúc xã hội (chẳng hạn như sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu và nhiều
thành phần kinh tế sẽ làm xuất hiện các tầng lớp xã hội tương ứng). Chỉ khi nào
nguyên nhân tạo nên sự di động xã hội thuộc về cấu trúc là chủ yếu (cụ thể là do sự
thay đổi của cơ cấu kinh tế) thì khi ấy sự thay đổi của cấu trúc xã hội mới là căn
bản. Nhìn vào Việt Nam thì nước ta chưa đạt tới điều này. Thực trạng di động xã
hội này đã phản ánh quá trình chuyển đổi của cơ cấu kinh tế cũng chậm chạp không
kém.
Đến đây ta đã tìm hiểu được nguyên nhân của di động xã hội dưới góc nhìn
nguyên nhân thuộc về cấu trúc và phi cấu trúc. Còn dưới góc nhìn theo quy trình
đạt được về địa vị KT-XH (Hình 1.1 và Hình 1.2) thì chưa được xem xét. Như vậy,
ta đã trả lời được một phần câu hỏi: “Tại sao?”. Phần trả lời còn lại cũng là vấn đề
đặt ra và gợi mở cho những nghiên cứu tiếp theo về sau.

92
Tóm lại: Kết quả nghiên cứu chương này cho thấy sự kế thừa nghề nghiệp
gốc trước đây là chủ yếu. Cụ thể, tầng lớp cao và tầng lớp nông dân có tỉ lệ kế thừa
địa vị gốc trước đây ngày càng nhiều hơn, đặc biệt tầng lớp nông dân có tỉ lệ kế
thừa nghề nghiệp lớn nhất. Hai tầng lớp này thể hiện sự “kép kín” trong nội bộ tầng
lớp ngày càng rõ hơn. Trong đó, tầng lớp nông dân Việt Nam đang ở trong trạng
thái khép kín nhiều hơn những tầng lớp xã hội khác. Tức là, sự di động ra khỏi tầng
lớp nông dân còn chậm chạp và quá trình rút bớt lao động nông nghiệp ở Việt Nam
để chuyển sang phi nông còn gặp nhiều khó khăn. Dù sao, sự di động giữa các tầng
lớp xã hội có tăng lên nhưng còn chậm chạp. Cụ thể hơn, sự di động xã hội diễn ra
chủ yếu ở khu vực các tầng lớp xã hội truyền thống, mà không phải ở khu vực các
tầng lớp xã hội hiện đại. Điều này có nghĩa rằng, sự hình thành các tầng lớp của xã
hội hiện đại diễn ra còn chậm chạp. Thực trạng di động xã hội này đã phản ánh quá
trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế cũng chậm chạp không kém. Mặc dù như vậy, kết
qủa nghiên cứu cũng thể hiện tầng lớp trung lưu đang mở rộng do tầng lớp hạ lưu
di động đi lên và sự vận động của hệ thống phân tầng trong cả nước đang mở (tức
không khép kín).
Đối với nguyên nhân gây ra sự di động xã hội giữa 9 tầng lớp (hoặc 3 giai
tầng) ở Việt Nam cho thấy rằng nguyên nhân phi cấu trúc là chính, còn nguyên
nhân thuộc về cấu trúc chiếm phần nhỏ. Trong khi đó, có lẽ xu hướng chung của
các nước công nghiệp trên thế giới thì nguyên nhân lại thuộc về cấu trúc là chủ yếu.
Chỉ khi nào nguyên nhân tạo nên sự di động xã hội thuộc về cấu trúc (tức là chủ yếu
do sự thay đổi của cơ cấu kinh tế) thì khi ấy sự thay đổi của cấu trúc xã hội mới là
căn bản. Nhìn vào Việt Nam thì nước ta chưa đạt tới điều này. Như vậy, chương
này đã trả lời được một phần câu hỏi then chốt thứ hai về phân tầng xã hội đặt ra ở
Chương I: “Ai tiến lên phía trước, và tại sao?”

93
Chương IV – KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
ĐẶT RA
Chương II và Chương III đã áp dụng lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
vào thực tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới để trả lời hai câu hỏi then chốt nhằm
tìm hiểu bản chất của phân tầng xã hội và di động xã hội: “Ai có được cái gì và tại
sao lại như vậy? Ai tiến lên phía trước, và tại sao?” Chương này sẽ trình bày tóm tắt
một số kết quả nghiên cứu ở hai chương trước. Từ đây, sẽ nêu lên một số vấn đề cơ
bản về nhận thức lý luận và thực tiễn cuộc sống đặt ra. Trên cơ sở đó, đề xuất một
số khuyến nghị nhằm định hướng cho phát triển xã hội.

1. Kết luận
Về mô hình phân tầng xã hội
Từ sự kết hợp giữa lý luận giai cấp của K. Marx và lý thuyết phân tầng xã hội
của M. Weber, đa số các nhà xã hội học quốc tế đã dựa vào nghề nghiệp để phân
nhóm và xếp hạng theo tôn ti trật tự trên dưới thành các tầng lớp xã hội. Trong thời
kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ở Việt Nam, áp dụng sự phân nhóm dựa vào nghề
nghiệp và xếp hạng cao thấp theo một số chỉ báo địa vị KT-XH, ta có được cấu trúc
thứ bậc bao gồm 9 tầng lớp xã hội cơ bản trong cả nước. Đó là (1) Những người
Lãnh đạo các cấp và các ngành; (2) Nhóm Doanh nhân; (3) Những người Chuyên
môn bậc cao; (4) Những người Nhân viên; (5) Những người Công nhân (thợ
thuyền); (6) Tầng lớp Buôn bán – Dịch vụ; (7) Những người Tiểu thủ công nghiệp;
(8) Những người Lao động giản đơn; (9) Tầng lớp Nông dân. Các tầng lớp này tạo
thành mô hình phân tầng xã hội “Kim tự tháp” với đa số nông dân ở dưới đáy (Hình
2.2 được nhắc lại dưới đây).
Lãnh đạo 1
Tầng lớp cao (thượng lưu)
Doanh nhân 2
Chuyên môn cao 3 Trung lưu bậc trên
Nhân viên 4
Thợ công nhân 5 Trung lưu bậc dưới
B.bán-D.vụ 6
Tiểu thủ CN 7
L.động g.đơn 8 Tầng lớp thấp (hạ lưu)
Nông dân 9

Hình 2.2 (được nhắc lại)


Mô hình 9 tầng lớp xã hội được xây dựng trên cơ sở số liệu 7 cuộc khảo sát
VHLSS (2002~2014) do Tổng cục Thống kê thực hiện với quy mô chọn mẫu đại
diện cho cả nước. Tôn ti trật tự trong mô hình (đặc biệt là tầng lớp cao và tầng lớp

94
nông dân ở dưới đáy) cũng tương tự như các nước trên thế giới. Nếu so sánh trở lại
với xã hội Việt Nam truyền thống trong lịch sử, thì trật tự/thứ bậc giữa các tầng lớp
xã hội hiện nay đã có sự thay đổi.
Trong mô hình “kim tự tháp” về phân tầng xã hội ở Việt Nam, các tầng lớp
của xã hội hiện đại có địa vị kinh tế - xã hội cao hơn, nằm ở nửa trên tháp phân tầng
và chiếm phần nhỏ bé, còn các tầng lớp của xã hội truyền thống có địa vị thấp hơn,
nằm ở nửa dưới tháp và chiếm tỉ lệ lớn. Trong đó, tầng lớp nông dân có địa vị kinh
tế - xã hội vào loại thấp nhất (ở dưới đáy). Đây là mô hình của xã hội chưa hiện đại,
mà đang trong quá trình chuyển đổi sang xã hội công nghiệp – chính xác hơn là
đang ở giai đoạn đầu của xã hội công nghiệp. Xu hướng vận động của mô hình
“kim tự tháp” sẽ tiến tới hình dạng “quả trám” với các tầng lớp đặc trưng cho xã hội
công nghiệp (tầng lớp trung lưu) chiếm tỉ lệ đông đảo và phình to ra, còn các tầng
lớp của xã hội truyền thống (đặc biệt là nông dân) chỉ còn tỉ lệ nhỏ bé và thu hẹp
lại. Mô hình “kim tự tháp” cũng thể hiện sự phân cực giữa các tầng lớp xã hội ở
Việt Nam. Một cực là tầng lớp cao (thượng lưu) có nhiều thứ hơn so với cực kia –
các tầng lớp còn lại. Điều này thể hiện các tầng lớp ở trên có nhiều thứ hơn so với
các tầng lớp ở dưới. Tức là thể hiện câu hỏi: “Ai có được cái gì?” (chưa trả lời được
câu hỏi: Tại sao lại như vậy?). Đồng thời với quá trình phân cực là tình trạng bất
bình đẳng ngày càng tăng giữa các tầng lớp xã hội với sự bắt đầu thu hẹp. Đây là sự
bất bình đẳng bền vững thuộc về cấu trúc xã hội và là thuộc tính của hệ thống phân
tầng xã hội hình “kim tự tháp” ở Việt Nam. Đó là cách nhìn rất cơ bản về bất bình
đẳng từ trong cốt lõi bản chất thuộc về mô hình phân tầng xã hội.
Về di động xã hội giữa các giai tầng
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự di động giữa các tầng lớp xã hội có tăng lên
nhưng còn chậm chạp. Về đại thể, sự di động xã hội diễn ra chủ yếu ở khu vực các
tầng lớp xã hội truyền thống, mà không phải ở khu vực các tầng lớp xã hội hiện đại.
Điều này có nghĩa rằng, sự hình thành các tầng lớp của xã hội hiện đại diễn ra còn
chậm chạp. Thực trạng di động xã hội này đã phản ánh quá trình chuyển đổi cơ cấu
kinh tế cũng chậm chạp không kém. Nhưng dù sao, kết qủa nghiên cứu cũng thể
hiện tầng lớp trung lưu đang mở rộng do tầng lớp hạ lưu di động đi lên và sự vận
động của hệ thống phân tầng trong cả nước đang mở (tức không khép kín). Trong
đó, tầng lớp nông dân Việt Nam đang ở trong trạng thái khép kín nhiều hơn những
tầng lớp xã hội khác. Tức là, sự di động ra khỏi tầng lớp nông dân còn chậm chạp
và quá trình rút bớt lao động nông nghiệp ở Việt Nam để chuyển sang phi nông còn
gặp nhiều khó khăn.
Đối với nguyên nhân gây ra sự di động xã hội giữa các giai tầng ở Việt Nam
cho thấy rằng nguyên nhân phi cấu trúc là chính, còn nguyên nhân thuộc về cấu trúc
chiếm phần nhỏ. Chỉ khi nào nguyên nhân tạo nên sự di động xã hội thuộc về cấu
trúc (tức là chủ yếu do sự thay đổi của cơ cấu kinh tế) thì khi ấy sự thay đổi của cấu
trúc xã hội mới là căn bản. Nhìn vào Việt Nam thì nước ta chưa đạt tới điều này.
Như vậy, nghiên cứu này đã trả lời được một phần câu hỏi then chốt thứ hai về
phân tầng xã hội đặt ra ở Chương I: “Ai tiến lên phía trước, và tại sao?”

95
2. Một số vấn đề cơ bản đặt ra
Những nội dung trình bày về lý thuyết và thực nghiệm trong sách này là thiết
thực trước mắt đối với tình trạng nghiên cứu về phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện
nay. Tuy nhiên, từ đây cũng đặt ra một số vấn đề bất cập về lý luận và phương pháp
nghiên cứu phân tầng xã hội và di động xã hội ở nước ta như sau:
Thứ nhất là nội dung về phân tầng xã hội. Đối với nội dung này, chúng ta cần
phải tiến hành một cuộc điều tra Phân nhóm và xếp hạng uy tín nghề nghiệp như
các nước trên thế giới. Thế nhưng, cuộc điều tra như vậy chưa có điều kiện khả thi
ở Việt Nam hiện nay (do thiếu kiến thức về phương pháp luận, phương pháp và kỹ
thuật phân tích số liệu…). Điều này đòi hỏi những người nghiên cứu xã hội học
nước ta cần phải cố gắng nhiều để tiếp tục nắm vững lý luận và phương pháp
nghiên cứu phân tầng xã hội trên thế giới. Hy vọng rằng, thế hệ những người nghiên
cứu xã hội học tương lai ở Việt Nam sẽ thực hiện tiếp tục công việc này để hội nhập
với xã hội học quốc tế. Khi giải quyết được vấn đề đó, tôi hy vọng rằng cuộc điều
tra tiếp theo về Phân tầng xã hội và Di động xã hội (chọn mẫu đại diện cho cả
nước) sẽ được thực hiện như các nước trên thế giới. Đây là vấn đề đặt ra và gợi mở
cho những nghiên cứu tiếp theo về sau.
Thứ hai là nội dung về di động xã hội. Đối với nội dung này, công trình
nghiên cứu di động theo chiều dọc trong một thế hệ, mà không phải giữa các thế hệ.
Hơn nữa, nghiên cứu về di động xã hội trong sách này được lựa chọn trong các
phần mẫu đã khảo sát lặp lại 2 lần của các Panel. Bởi vì nghiên cứu di động xã hội
từ các Panel, cho nên kết quả nghiên cứu không đại diện cho cả nước. Do vậy,
những phân tích trong công trình nghiên cứu này là có giới hạn và chưa thể hiện
được nhiều luận điểm lý thuyết về di động xã hội. Nhưng dù sao, mỗi Panel cũng
chiếm tới 50% trong tổng thể mẫu cả nước. Như thế, nghiên cứu di động theo chiều
dọc trong một thế hệ và lựa chọn số liệu từ các Panel là tối ưu nhất và có tính khả
thi cao để thực hiện nghiên cứu di động xã hội ở Việt Nam hiện nay. Kết quả
nghiên cứu đạt được là phù hợp với lý thuyết, phản ánh sát thực tiễn xã hội và có
thể so sánh với Nhật Bản. Khi nào cuộc điều tra tiếp theo về Phân tầng xã hội và Di
động xã hội (chọn mẫu đại diện cho cả nước) được thực hiện như các nước trên thế
giới, thì kết quả nghiên cứu về di động xã hội giữa các thế hệ ở Việt Nam sẽ đầy đủ
hơn. Đây cũng là vấn đề nữa đặt ra và gợi mở cho những nghiên cứu tiếp theo.
Đồng thời với vấn đề bất cập về lý thuyết và phương pháp nêu trên, một số
vấn đề từ thực tiễn cuộc sống đặt ra dưới góc nhìn phân tầng xã hội và di động xã
hội được trình bày tiếp theo dưới đây.
2.1. Nhận thức lý luận về giai cấp công nhân
(a) Trước hết là về các thành phần của giai cấp công nhân. Từ một số vấn đề
đặt ra về nghiên cứu giai tầng trong thời kỳ đổi mới (Mục 6, Chương I) ta thấy, ở
Việt Nam hiện nay nhận thức về giai cấp công nhân vẫn còn ảnh hưởng bởi nhận
thức từ hồi bao cấp (mặc dù quan niệm về giai cấp công nhân có thay đổi so với
thời kỳ quan liêu, bao cấp). Giai cấp công nhân theo quan niệm thời quan liêu, bao

96
cấp có thể được hiểu ngắn gọn trong cụm từ cán bộ, công nhân, viên chức nhà
nước. Cụm từ này bao gồm ba thành phần, trong đó công nhân là chủ yếu và hai bộ
phận còn lại là cán bộ và viên chức nhà nước. Giai cấp công nhân trong thời kỳ đổi
mới được những người nghiên cứu lý luận chính trị thể hiện qua Nghị quyết số 20-
NQ/TW ngày 28/1/2008 của BCH Trung ương Đảng như sau: “Giai cấp công nhân
Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao
động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh
doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất
công nghiệp”. Từ nội hàm của khái niệm giai cấp công nhân này, đối chiếu nó với
thực tế xã hội và nội dung khái niệm phân tầng xã hội (Mục 1, Chương I), ta thấy
rằng việc đưa các thành phần xã hội có địa vị kinh tế-xã hội khác nhau (thậm chí rất
khác nhau) vào trong cùng một phạm trù giai cấp công nhân là chưa thỏa đáng.
Chẳng lẽ hai vị Bộ trưởng Bộ Công Thương và Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn lại thuộc hai giai cấp khác nhau: một người thuộc giai cấp công
nhân, còn người kia thì không. Trong khi đó, hai vị Bộ trưởng này có địa vị kinh tế-
xã hội giống hệt nhau hoàn toàn. Dù cho tiêu chuẩn phân chia giai tầng như thế nào
thì hai vị Bộ trưởng này cũng phải được phân nhóm và sắp xếp vào cùng một tầng
lớp. Như vậy, sự phân chia và sắp đặt các thành viên vào các tầng lớp xã hội phải
dựa trên cơ sở họ có địa vị kinh tế, xã hội, chính trị và uy tín tương tự gần với nhau.
Đáng lẽ ra phải xuất phát từ địa vị kinh-xã hội tương tự gần với nhau (ví dụ như
cùng nghề nghiệp, hoặc các nhóm nghề, chứ không phải cùng ngành kinh tế) giữa
các thành viên trong xã hội để nhóm gộp thành giai cấp công nhân (hoặc các tầng
lớp xã hội khác), thì trong định nghĩa này lại xác định giai cấp công nhân là gì, rồi
sau đó sắp xếp những thành viên xã hội nào phù hợp với định nghĩa đã nêu thì gọi
là giai cấp công nhân. Điều này là không hợp lý.
(b) Tiếp theo là về thứ bậc giữa các tầng lớp và tầng lớp nào lãnh đạo xã
hội. Từ ba mô hình cơ bản về phân tầng xã hội ở Việt Nam (Bảng 1.5) ta thấy, trong
xã hội truyền thống ngày xưa, thứ bậc các giai tầng xã hội được sắp xếp như sau:
Vua-quan-địa chủ – Sĩ-nông-công-thương. Tiếp theo, trong thời kỳ quan liêu-bao
cấp, thứ bậc giữa các giai tầng được sắp xếp: Công nhân, nông dân và trí thức
(Công – Nông – Binh – Trí sắp hàng tiến lên). Hiện nay, trật tự/thứ bậc giữa các
tầng lớp xã hội đã có sự thay đổi (Hình 2.2). So với nông dân, tầng lớp thợ thủ công
và tiểu thương (“con buôn”) trước kia được xếp ở vị trí cuối cùng trong xã hội (Sĩ –
Nông – Công – Thương), thì hiện nay hai tầng lớp này đã có vị trí cao hơn. Trong
khi đó, tầng lớp nông dân chuyển xuống vị trí phía dưới trong bậc thang xã hội. Đây
chính là sự thay đổi địa vị xã hội (hoặc là sự thay đổi bảng giá trị?) khi chuyển sang
xã hội công nghiệp ở Việt Nam. Riêng tầng lớp Sĩ/trí thức (thuộc trung lưu bậc
trên) vẫn giữ địa vị cao từ trong xã hội truyền thống ngày xưa cho đến hiện nay. Ấy
thế mà, lý luận chính trị ở Việt Nam về thứ bậc các giai tầng lại xếp tầng lớp trí
thức ở vào vị trí cuối cùng trong số “tứ dân”: “Công – Nông – Binh – Trí sắp hàng
tiến lên”. Trong mô hình “kim tự tháp” về phân tầng xã hội ở Việt Nam (Hình 2.2),
công nhân không là tầng lớp đứng đầu trong tháp phân tầng xã hội. Thứ bậc đầu
tiên là những người lãnh đạo các cấp và các ngành. Đó mới chính là những người

97
lãnh đạo xã hội. Giả sử, nếu công nhân là tầng lớp lãnh đạo thì sẽ lý giải như thế
nào về mối quan hệ chủ - thợ giữa người giám đốc (là người lãnh đạo, và là người
chủ đi thuê lao động) với người công nhân (là người bị lãnh đạo, và là người đi làm
thuê) trong các nhà máy, xí nghiệp tư nhân (kể cả cơ sở sản xuất 100% vốn từ nước
ngoài) ở nước ta hiện nay? Chẳng lẽ tầng lớp công nhân trong các nhà máy và xí
nghiệp đó lại thực hiện “quyền lãnh đạo” trở lại với chính người giám đốc – người
chủ đi thuê lao động? Tóm lại, quan điểm lý luận về vai trò lãnh đạo của giai cấp
công nhân là không phù hợp với thực tiễn xã hội hiện nay.
2.2. Khi nào Việt Nam trở thành nước công nghiệp?
Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra một trong những tiêu chuẩn quan
trọng để hoàn thành công nghiệp hóa (CNH) là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong đó được thể hiện qua sự giảm bớt tỉ lệ lao động nông nghiệp. Theo góc nhìn
của xã hội học, thì đó là sự giảm bớt tầng lớp nông dân ở dưới đáy hệ thống phân
tầng xã hội. Có thể tổng hợp lại tiêu chí giảm bớt tỉ lệ lao động nông nghiệp theo
giáo sư Mỹ H. Chenery như sau: Giai đoạn tiền CNH có tỉ lệ lao động nông nghiệp
>60%  Khởi đầu CNH (60~45%)  Phát triển CNH (45~30%)  Hoàn thiện
CNH (30~10%)  Hậu CNH (<10%) (Trích lại từ Bùi Tất Thắng, 2011:25). Đối
với Việt Nam, hệ thống phân tầng xã hội trong cả nước cho đến hiện nay (2014)
vẫn có hình “Kim tự tháp” (Hình 2.2). Trong đó, các tầng lớp của xã hội truyền
thống (đặc biệt là nông dân) còn chiếm quá nửa, các tầng lớp đặc trưng cho xã hội
công nghiệp chưa lớn mạnh và còn nhỏ bé. Đối chiếu với sự phân chia thành các
giai đoạn CNH của H. Chenery, ta thấy vào năm bắt đầu đổi mới (1986), Việt Nam
thuộc Giai đoạn tiền CNH, bởi vì đến năm 1992 tỉ lệ nông dân trong cả nước vẫn là
70%. Sau gần 30 năm đổi mới (1986~2014), Việt Nam mới đang trong giai đoạn
cuối của Khởi đầu CNH (45,6% nông dân – năm 2014) và đang bước sang giai đoạn
Phát triển CNH. Như vậy, xu hướng biến đổi của mô hình “kim tự tháp” trở thành
hình “quả trám” còn chậm và thể hiện sự tụt hậu của đất nước, bởi vì tỉ lệ tầng lớp
nông dân đông đảo nhất ở dưới đáy giảm đi còn chậm chạp (khoảng 1%/năm). Với
tốc độ giảm trung bình như vậy, theo xu hướng vận động này có thể dự báo tỉ lệ
nông dân ở nước ta sẽ còn khoảng 30% vào năm 2030. Từ đây, tôi đưa ra dự báo
rằng Việt Nam sẽ ở vào thời gian cuối “Phát triển CNH” và bắt đầu chuyển sang
thời kỳ “Hoàn thiện CNH” vào năm 2030 (theo tiêu chí tỉ lệ nông dân còn khoảng
30%). Nếu dự báo đúng, thì liệu có thể nói rằng Việt Nam sẽ cơ bản trở thành nước
công nghiệp vào năm 2030 được không? Hay là phải bước vào giai đoạn “Hoàn
thiện CNH” (sau năm 2030 – cụ thể là năm 2040, hoặc năm 2045) thì mới xác định
Việt Nam sẽ cơ bản trở thành nước công nghiệp? Tôi nghiêng về dự báo Việt Nam
sẽ cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2040 (hoặc năm 2045).
2.3. Phân tầng xã hội có hình dạng “kim tự tháp” – mô hình hai cực
Từ mục 4 và mục 5 (Chương II), vấn đề đặt ra là ở chỗ mô hình phân tầng xã
hội có dạng “kim tự tháp” ở Việt Nam với tầng lớp trung lưu còn nhỏ bé. Trong khi
đó, đặc trưng của hệ thống phân tầng xã hội ở các nước công nghiệp là có tầng lớp
trung lưu ngày càng đông đảo. Đây là dạng mô hình phổ biến trong xã hội công

98
nghiệp (Hộp 1.1, Chương I). Do vậy, xu hướng vận động của mô hình “kim tự
tháp” ở Việt Nam sẽ tiến tới hình dạng “quả trám” với các tầng lớp đặc trưng cho
xã hội công nghiệp – các tầng lớp trung lưu sẽ chiếm tỉ lệ đông đảo, còn tầng lớp
nông dân sẽ thu hẹp lại. Nhưng hiện nay, tầng lớp trung lưu còn nhỏ bé đã tạo nên
mô hình phân tầng hai cực giữa các tầng lớp xã hội ở Việt Nam. Những xã hội hai
cực – ví dụ các nước Mỹ La tinh có cư dân giai cấp trung lưu nhỏ bé (Persell,
1987:214) – thường tạo ra rất ít hy vọng và cơ hội để tầng lớp đáy di động đi lên
nhằm cải thiện cuộc sống của họ. Xã hội hai cực thường tạo ra những rào cản “kìm
hãm” xã hội. Tức là, trong những xã hội đó thiếu vắng tầng lớp trung lưu như là
những khoảng không gian về địa vị KT-XH để người ta chuyển dịch đi lên. Tầng
lớp đáy không thể di động “bỏ qua/vượt qua” để vươn lên đỉnh tháp phân tầng
được. Hơn nữa, tầng lớp ở đỉnh tháp thường có sự “khép kín xã hội” không cho
tầng lớp dưới xâm nhập vào “lãnh địa” của họ; còn tầng lớp ở dưới đáy cũng buộc
phải chịu đựng sự “khép kín xã hội” không thể di động đi lên được (Bilton et al.,
1993:94-95). Hai quá trình “khép kín xã hội” theo hướng trái chiều nhau ở mô hình
hai cực sẽ tạo ra những rào cản “kìm hãm” xã hội theo nghĩa như vậy. Chỉ khi nào
tầng lớp trung lưu được phát triển và mở rộng, thì sự “kìm hãm” xã hội mới được
khai thông và trạng thái hai cực của xã hội sẽ dần dần biến mất.
Như vậy, thực trạng phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay biểu lộ như là mô
hình của xã hội nông nghiệp (đang chuyển đổi sang xã hội công nghiệp). Mô hình
đó có hình dạng “kim tự tháp” với đa số nông dân ở dưới đáy. Trong khi đó, xu
hướng biến đổi của nó sẽ trở thành hình “quả trám”. Mô hình xã hội trung lưu có
dạng “quả trám” sẽ thay thế cho mô hình “kim tự tháp” hiện nay. Đây chính là vấn
đề đặt ra đối với sự phát triển xã hội và quản lý sự phát triển xã hội ở nước ta trong
thời kỳ công nghiệp hóa. Để giải quyết vấn đề này, thì phải phát triển mạnh các
tầng lớp trung lưu nói chung (sẽ được trình bày ở mục 3 tiếp theo), mà không nên
quá chú trọng chỉ vào giai cấp công nhân (theo ý muốn chính trị hiện nay). Đồng
thời với quá trình phân tầng hai cực là tình trạng bất bình đẳng ngày càng tăng giữa
các tầng lớp xã hội với sự bắt đầu thu hẹp. Đây là sự bất bình đẳng thuộc về cấu
trúc phân tầng xã hội hình “kim tự tháp” ở Việt Nam.
2.4. Di động xã hội còn chậm chạp
Từ Chương III về di động xã hội giữa các tầng lớp, vấn đề đặt ra là ở chỗ sự
hình thành các tầng lớp của xã hội hiện đại còn chậm chạp. Điều này đã phản ánh
quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế cũng chậm chạp tương ứng. Đồng thời, nó cũng
cho thấy nguyên nhân gây ra di động xã hội giữa các tầng lớp thuộc về phi cấu trúc
là chính, còn nguyên nhân thuộc về cấu trúc chiếm phần nhỏ. Chỉ khi nào nguyên
nhân tạo nên sự di động xã hội thuộc về cấu trúc là chính (tức là chủ yếu do sự thay
đổi của cơ cấu kinh tế) thì khi ấy sự thay đổi của cấu trúc xã hội mới là căn bản. Do
vậy, vấn đề đặt ra là phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế để tạo ra di động xã hội nhanh
hơn. Đây là cơ sở để đưa ra khuyến nghị về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở mục 3.3.

99
3. Khuyến nghị định hướng cho phát triển xã hội
3.1. Thay đổi nhận thức lý luận về giai cấp công nhân
Từ vấn đề đặt ra ở mục 2.1, trước hết chúng tôi đưa ra khuyến nghị rằng nên
phân chia và sắp xếp các thành viên vào các tầng lớp xã hội phải dựa trên cơ sở họ
có vị trí kinh tế, xã hội, chính trị và uy tín tương tự gần với nhau. Điều này có nghĩa
rằng, nên xuất phát từ địa vị kinh tế-xã hội tương tự gần với nhau giữa các thành
viên trong xã hội để nhóm gộp thành mỗi tầng lớp xã hội. Tức là, nên dựa vào nội
dung khái niệm phân tầng xã hội (Mục 1, Chương I) để phân chia thành các tầng
lớp xã hội. Như vậy, những thành viên nào có địa vị kinh tế-xã hội khác nhau sẽ
thuộc về những tầng lớp xã hội cũng khác nhau. Cụ thể, nên dựa vào tiêu chuẩn
nghề nghiệp (chứ không phải ngành kinh tế) để phân nhóm tạo thành tầng lớp công
nhân (và các tầng lớp khác) ở Việt Nam (như Hình 2.2). Phương pháp này là phù
hợp và hội nhập với những nghiên cứu xã hội học trên thế giới về phân tầng xã hội
trong các nước công nghiệp. Khi thay đổi nhận thức lý luận về việc xác định các
giai cấp (hoặc tầng lớp) trong xã hội như thế nào sẽ có ý nghĩa và ảnh hưởng lớn
đến đến hoạt động thực tiễn như thế ấy. Trên cơ sở phân loại chính xác các tầng lớp
xã hội, thì các chính sách của nhà nước mới phù hợp đối với mỗi giai tầng. Tiếp
theo, nên thay đổi nhận thức lý luận về sự sắp xếp thứ bậc các tầng lớp trong xã hội
(như Hình 2.2). Cụ thể, nên thay đổi nhận thức cho rằng giai cấp công nhân là lãnh
đạo xã hội, chuyển sang nhận thức mới và thay vào đó là vai trò lãnh đạo thuộc về
các tầng lớp cao (những người lãnh đạo, doanh nhân và chuyên môn bậc cao). Còn
tầng lớp nông dân có địa vị KT-XH thấp nhất và ở dưới đáy xã hội. Thứ bậc cao
thấp giữa các tầng lớp như vậy cũng tương tự như các nước trên thế giới. Sự thay
đổi nhận thức lý luận sẽ kéo theo sự thay đổi về hoạt động thực tiễn. Cuối cùng,
cũng nên thay đổi nhận thức từ hướng tiếp cận theo “giai cấp xã hội” chuyển thành
hướng tiếp cận theo các “tầng lớp xã hội” với nội dung mới và phản ánh đúng thực
tiễn hơn. Bởi vì, thuật ngữ “giai cấp” thường có ý nghĩa thể hiện một trong những
đặc trưng cơ bản trong định nghĩa về giai cấp của Lênin: “Giai cấp là những tập
đoàn người, mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác.”
(Rôdentan M., 1986:209). Điều này dễ tạo ra tâm lý chia rẽ trong xã hội. Trong khi
đó, triết lý truyền thống của dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ
nước là tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Giá trị của triết lý này đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn coi trọng.
3.2. Xây dựng mô hình xã hội trung lưu
Từ vấn đề đặt ra ở mục 2.2 và mục 2.3, tất cả đều thuộc về mô hình phân
tầng xã hội hình “kim tự tháp” quy định. Đây là những cơ sở để dẫn tới khuyến
nghị rằng cần phải xây dựng mô hình có các tầng lớp xã hội ở giữa (phần thân tháp
– tầng lớp trung lưu) phình ra to nhất. Hoặc gọi là mô hình xã hội trung lưu có hình
dạng “quả trám”. Phần thân tháp này sẽ bao gồm các tầng lớp của xã hội công
nghiệp. Các tầng lớp trung lưu trong mô hình (Hình 2.2) có sự phân biệt rạch ròi
với các tầng lớp khác ở trên đỉnh và dưới đáy tháp, chứ không phải nó bao gồm
những người có mức sống trên trung bình và khá giả của tất cả những tầng lớp khác

100
hợp thành như quan niệm của một số người nghiên cứu ở Việt Nam (Nguyễn Thanh
Tuấn, 2007). Mô hình xã hội trung lưu có dạng “quả trám” sẽ thay thế cho mô hình
phân tầng xã hội hình “kim tự tháp” hiện nay. Đây cũng là xu hướng vận động của
các nước trong quá trình công nghiệp hóa.
Mô hình xã hội có tầng lớp trung lưu đông đảo sẽ ít phân cực hơn. Sự tăng
lên của tầng lớp trung lưu có tác dụng làm giảm đi sự xung đột xã hội. Tầng lớp
trung lưu như là một “khâu trung gian”, như là chiếc “van an toàn” có tác dụng
“điều hòa” sự xung đột xã hội, làm giảm đi sự xung đột giữa các tầng lớp ở hai cực:
“Sự tồn tại một giai cấp trung lưu đông đảo đáp ứng như là cái giảm xóc về chính
trị và kinh tế, và nhen nhóm lên hy vọng di động xã hội của con người và trách
nhiệm của họ đối với trật tự xã hội, kinh tế và chính trị” (Persell, 1987:214). Tầng
lớp xã hội trung lưu sẽ đảm bảo cho sự phát triển ổn định, hài hòa và bền vững của
một cấu trúc xã hội hiện đại. Khi mô hình xã hội trung lưu có dạng “quả trám” trở
thành hiện thực, thì nó sẽ thay thế cho mô hình “kim tự tháp” hiện nay ở Việt Nam.
Đến khi ấy, xã hội Việt Nam mới thực sự trở thành một nước công nghiệp. Cũng
đến lúc ấy, tầng lớp nông dân đông đảo ở đáy kim tự tháp mới bị thu hẹp căn bản và
chuyển dịch đi lên các tầng lớp trung lưu.
Với mô hình xã hội trung lưu có dạng “quả trám”, sự bất bình đẳng giữa các
tầng lớp sẽ được giải quyết một cách căn bản. Còn hiện nay, dù cho mọi cố gắng
làm hạn chế sự phân hóa giàu nghèo và nâng cao mức sống cho người dân (đặc biệt
tầng lớp nông dân) là rất cần thiết, nhưng cố gắng đó vẫn bị giới hạn trong khuôn
khổ của hệ thống phân tầng xã hội hình “kim tự tháp” – một mô hình từ trong bản
chất có sự bất bình đẳng vào loại cao. Đồng thời, người nông dân có mức sống vào
loại thấp nhất trong các tầng lớp xã hội. Theo cách nhìn nghèo đói từ hệ thống phân
tầng xã hội hình “kim tự tháp” cho thấy tầng đáy chiếm hữu và kiểm soát nguồn lực
ít nhất trong xã hội. Do vậy tầng này cũng tập trung nghèo đói cao nhất – là nơi chủ
yếu chứa đựng tình trạng nghèo đói của toàn xã hội. Như thế, một cách nhìn khác
căn bản hơn về nguyên nhân nghèo đói là nằm ở trong bản thân hệ thống phân tầng
xã hội hình “kim tự tháp” quy định. Khi đáy tháp còn lớn (tức là tầng lớp nông dân
còn đông) thì tình trạng nghèo đói ở đáy tháp còn nhiều. Do vậy, giải pháp căn bản
để xóa đói giảm nghèo là phải làm biến đổi mô hình “kim tự tháp” trở thành mô
hình “quả trám”. Theo đó, tầng lớp nông dân cũng giảm đi tương ứng để các thành
viên của tầng lớp này di động lấp đầy những vị trí ở các tầng lớp bên trên sẽ được
mở ra rộng rãi. Sự giảm nghèo như thế mới là căn bản.
3.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế tư nhân
Từ mục 3.2 trên đây (và cả mục 2.4), câu hỏi đặt ra là làm thế nào để xây
dựng mô hình xã hội trung lưu? Để trả lời câu hỏi này, cần tìm hiểu ở tầng sâu hơn
là phải quy về nền tảng kinh tế mà trên đó xây dựng nên mô hình xã hội trung lưu.
Nền tảng kinh tế ở đây, tức là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
sao cho để tạo ra và mở rộng các vị trí lao động, việc làm ở khu vực dành cho tầng
lớp trung lưu. Theo cách diễn đạt của kinh tế học, đó chính là quá trình chuyển dịch
cơ cấu lao động nông nghiệp do cơ cấu kinh tế quy định. Tức là, cơ cấu kinh tế như

101
thế nào sẽ quyết định cơ cấu lao động, việc làm như thế ấy. Cơ cấu lao động, việc
làm sẽ tạo ra cấu trúc nghề nghiệp tương ứng, và tạo nên hệ thống các tầng lớp xã
hội. Sự quy định này được thể hiện khái quát như sau: Cơ cấu kinh tế  Cấu trúc
nghề nghiệp  tạo nên Hệ thống các tầng lớp xã hội. Ở đây, cấu trúc nghề nghiệp –
tầng lớp xã hội thể hiện như là một cấu trúc có hai mặt. Một mặt, nó phản ánh cơ
cấu kinh tế tạo ra nghề nghiệp. Mặt khác, nó lại thể hiện các tầng lớp xã hội tương
ứng.
Như vậy, sự thay đổi cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa sẽ quy
định chủ yếu sự biến đổi về hệ thống các tầng lớp xã hội. Khi cấu trúc lại nền kinh
tế theo hướng công nghiệp sẽ dẫn tới kết quả là giảm tỉ lệ những tầng lớp của xã hội
truyền thống và kéo theo sự tăng dần các tầng lớp đặc trưng cho xã hội công
nghiệp. Nhưng, cơ cấu kinh tế ở Việt Nam hiện nay chưa thay đổi mạnh để tạo ra
và mở rộng các vị trí lao động, việc làm ở khu vực dành cho tầng lớp trung lưu để
người nông dân di chuyển đi lên vào những vị trí đó. Nếu không có sự thay đổi ở
đường lối chiến lược thuộc về cơ cấu kinh tế, thì tầng lớp nông dân đông đảo hiện
nay (kể cả thế hệ tương lai) giảm đi còn chậm chạp. Điều này đòi hỏi phải phát
triển ưu tiên/chủ đạo mạnh mẽ kinh tế tư nhân (dựa trên sở hữu tư nhân, bao gồm
các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) thì sẽ tạo ra việc làm, nghề
nghiệp mới nhiều hơn, so với việc làm được tạo ra từ kinh tế nhà nước (dựa trên sở
hữu nhà nước/công hữu). Từ đây, đến lượt nó đòi hỏi phải chăng nên xem xét lại
quan điểm chiến lược coi kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo? Phải chăng nên
thay đổi quan điểm này bằng chiến lược coi kinh tế tư nhân đóng vai trò chủ đạo?
Kinh tế nhà nước chiếm dụng chủ yếu các nguồn lực của quốc gia, nhưng lại tạo ra
số lượng của cải không tương xứng – đóng góp được khoảng 1/3 GDP cả nước, làm
ăn kém hiệu quả và tạo ra tỉ lệ việc làm ít ỏi (khoảng 10% – Tổng cục Thống kê,
2015:114). Trong khi đó, kinh tế ngoài nhà nước thì không như vậy.
Khuyến nghị trên đây không phải là mới. Điểm mới là ở chỗ nó dựa trên cơ
sở tiếp cận xã hội học, và cùng với cách tiếp cận kinh tế học nhằm xem xét hiện
thực theo hai phương diện kinh tế và xã hội. Do vậy, cả hai cách tiếp cận này cùng
đưa ra cái nhìn căn bản về cấu trúc kinh tế - xã hội. Về khuyến nghị này, cũng đã
được nhiều chuyên gia (trong nước và nước ngoài) làm việc ở Việt Nam đưa ra (Vũ
Tiến Lộc, 2014; Jim Yong Kim, 2014; Trần Đình Thiên và Bùi Kiến Thành, 2014).
Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đang thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW
ngày 3/6/2017 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về
phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2017).

102
Phụ lục
Tỉ lệ dân số các tầng lớp xã hội ở 6 vùng KT-XH, Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh
TP. Hà Nội (2014) Đồng bằng sông Hồng (2014)
Lãnh đạo 1.3
Lãnh đạo 1.0

Doanh nhân 1.3


Doanh nhân 0.7

ChuyênM.cao 17.1
ChuyênM.cao 7.9

Nhân viên 6.4


Nhân viên 5.7

Công nhân 5.8


Công nhân 7.7

B.bán-D.vụ 17.6
B.bán-D.vụ 15.2

Tiểu thủ CN 20.5


Tiểu thủ CN 20.2

Lđộng giảnđ. 6.8


Lđộng giảnđ. 10.3

Nông dân 23.2


Nông dân 31.4
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %

Trung du và miền núi phía Bắc (2014) Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung (2014)
Lãnh đạo 0.7 Lãnh đạo 0.6

Doanh nhân 0.4 Doanh nhân 0.4

ChuyênM.cao 2.9 ChuyênM.cao 3.7

Nhân viên 3.8 Nhân viên 4.9

Công nhân 2.5 Công nhân 3.4

B.bán-D.vụ 7.5 B.bán-D.vụ 11.5

Tiểu thủ CN 8.9 Tiểu thủ CN 14.2

Lđộng giảnđ. 5.7 Lđộng giảnđ. 9.0

Nông dân 67.7 Nông dân 52.2


Tỷ lệ % Tỷ lệ %

Tây Nguyên (2014) Đông Nam Bộ (2014)


Lãnh đạo 0.3
Lãnh đạo 0.4

Doanh nhân 1.3


Doanh nhân 0.1

ChuyênM.cao 4.4 ChuyênM.cao 10.5

Nhân viên 8.3


Nhân viên 3.3

Công nhân 2.0 Công nhân 13.6

B.bán-D.vụ 9.4 B.bán-D.vụ 19.4

Tiểu thủ CN 5.4 Tiểu thủ CN 13.7

Lđộng giảnđ. 4.1 Lđộng giảnđ. 12.5

Nông dân 70.8 Nông dân 20.6


Tỷ lệ % Tỷ lệ %

Đồng bằng sông Cửu Long (2014) TP. Hồ Chí Minh (2014)
Lãnh đạo 0.1
Lãnh đạo 0.4

Doanh nhân 2.4


Doanh nhân 0.4

ChuyênM.cao 18.2
ChuyênM.cao 2.7

Nhân viên 10.9


Nhân viên 4.0

Công nhân 18.0


Công nhân 4.0

B.bán-D.vụ 26.1
B.bán-D.vụ 15.5

Tiểu thủ CN 13.6


Tiểu thủ CN 11.0

Lđộng giảnđ. 8.3


Lđộng giảnđ. 12.6

Nông dân 2.5


Nông dân 49.5 Tỷ lệ %
Tỷ lệ %

Nguồn: Kết quả xử lý số liệu VHLSS 2014


(Ghi chú: Số liệu VHLSS đại diện cho 6 vùng KT-XH, nhưng không đại diện cho cấp tỉnh. Do
vậy, mô hình phân tầng xã hội ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh chỉ có tính chất tham khảo)

103
Tài liệu trích dẫn
Abercrombie, Nicholas. et al. 2006. The Penguin Dictionary of Sociology. Fifth
edition. Penguin Books. London.
Bilton, Tony et al.. 1993. Nhập môn xã hội học (bản dịch tiếng Việt từ nguyên bản
tiếng Anh, 1987). Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội.
Blau, Peter M., and Otis Dudley Duncan. 1967. The American Occupational
Structure. Weley. New York.
Boudon, Raymond. 1974. Education, Opportunity, and Social Inequality. John
Wiley. New York.
Bùi Tất Thắng. 2011. Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong xây dựng nông thôn
mới. Tạp chí Xã hội học. Số 4 (116):22-30.
Bùi Thế Cường. 2016. Người dân ở vùng Đông Nam Bộ xếp bậc uy tín nghề
nghiệp. Tạp chí Xã hội học. Số 1 (133):13-19.
Bùi Thế Cường. 2015. Nông dân trong cấu trúc phân tầng xã hội. Tạp chí Xã hội
học. Số 2 (130):20-31.
Bùi Thế Cường. 2015. Nghiên cứu phân tầng xã hội ở Nam Bộ (Nhìn từ đóng góp
của Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ). Tạp chí Khoa học xã hội. Số 9+10
(205+206):45-60.
Bùi Thế Cường, Lê Thanh Sang. 2010. Một số vấn đề về cơ cấu xã hội và phân tầng
xã hội ở Tây Nam Bộ: Kết quả từ cuộc khảo sát định lượng năm 2008. Tạp chí
Khoa học xã hội. Số 3(139):35-47.
Bùi Xuân Đính. 2020. Bàn thêm về phân tầng xã hội ở nước ta trước Cách mạng
Tháng Tám năm 1945. Tạp chí Văn hóa Nghệ An (bản điện tử), ngày 05-9-2020:
<http://vanhoanghean.com.vn/component/k2/35-dien-dan/14390-ban-them-ve-
phan-tang-xa-hoi-o-nuoc-ta-truoc-cach-mang-thang-8-nam-1945>
Duncan, Otis Dudley. 1968. “Social Stratification and Mobility: Problems in the
Measurement of Trend.” Pages 675-719 in Indicators of Social Change, edited
by Eleanor B. Sheldon and Wilbert E. Moore. Russell Sage Foundation. New
York.
Đảng Cộng sản Việt Nam. 2017. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.
Đảng Cộng sản Việt Nam. 2008. Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/1/2008 của
BCH Trung ương Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam. 2001. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
Đỗ Nguyên Phương (chủ biên). 1994. Về sự phân tầng xã hội ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay. Đề tài KX-07-05. Hà Nội.

104
Đỗ Thiên Kính. 2015a. Xu hướng bất bình đẳng về mức sống ở Việt Nam và khu
vực nông thôn trong giai đoạn 1992-2012. Tạp chí Nghiên cứu Con người. Số 5
(80), 2015.
Đỗ Thiên Kính. 2015b. Xu hướng biến đổi cấu trúc các tầng lớp xã hội ở vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam trong thời kỳ đổi mới. Tạp chí Khoa học xã hội (TP. Hồ
Chí Minh). Số 4 (200), 2015.
Đỗ Thiên Kính. 2015c. Bất bình đẳng về diện tích đất đai trong hệ thống phân tầng
xã hội ở nông thôn hiện nay. Tạp chí Xã hội học. Số 4 (132), 2015:37-44.
Đỗ Thiên Kính. 2014. Cản trở đối với tầng lớp nông dân trong hệ thống phân tầng
xã hội ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Xã hội học. Số 2 (126), 2014:4-14.
Đỗ Thiên Kính. 2013. Khái niệm phân tầng xã hội và cách tiếp cận trong việc đo
lường các tầng lớp xã hội. Tạp chí Xã hội học. Số 1, 2013:91-103.
Đỗ Thiên Kính. 2012. Hệ thống phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay (Qua những
cuộc Điều tra Mức sống Hộ gia đình Việt Nam 2002-2004-2006-2008). Nhà
xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội.
Đỗ Thiên Kính. 2011a. Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ 2009-
2010: “Một số vấn đề cơ bản về biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam giai đoạn
2011-2020” (Tài liệu lưu trữ tại thư viện Viện Xã hội học, Viện Hàn lâm KHXH
Việt Nam)
Đỗ Thiên Kính. 2011b. Cấu trúc xã hội trong cả nước, nông thôn - đô thị và chân
dung tầng lớp nông dân Việt Nam. Tạp chí Xã hội học. Số 4 (116), 2011:8~21.
Đỗ Thiên Kính. 2003. Phân hóa giàu- nghèo và tác động của yếu tố học vấn đến
nâng cao mức sống cho người dân Việt Nam (Qua hai cuộc Điều tra mức sống
dân cư Việt Nam năm 1993, 1998). Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội.
Đỗ Thiên Kính và các tác giả khác. 2001. "Chương II: Bất bình đẳng ":39-52.
Trong sách: Mức sống trong thời kỳ bùng nổ kinh tế ở Việt Nam. Nhóm biên tập:
Haughton, Dominique; Haughton, Jonathan và Nguyễn Phong). Nhà xuất bản
Thống kê. Hà Nội.
Giddens, Anthony. 2001. Sociology - 4th edition. Polity Press. UK.
Giddens, Anthony and Mitchell Duneier. 2000. Introduction to Sociology – 3rd
edition. W. W. Norton & Company. New York. London.
Grusky, David B. (ed.). 2001. Social Stratification: Class, Race, and Gender in
Sociological Perspective – 2nd edition. Westview Press. The United States of
America and the United Kingdom.
Hauser, Robert M., and David L. Featherman. 1977. The Process of Stratification:
Trends and Analyses. Academic Press. New York.

105
Imada, Takatoshi. 2000. "Industrialization and the Regime of Social Mobility in
Postwar Japan". International Journal of Japanese Sociology. Number 9
September 2000:35-52.
Jim Yong Kim (Chủ tịch Ngân hàng Thế giới). 2014. (Truy cập ngày 05-3-2015)
http://www.thesaigontimes.vn/117641/Khu-vuc-tu-nhan-la-chia-khoa-tuong-lai-
tang-truong-kinh-te-VN.html
Kerbo, Harold R. 2000. Social Stratification and Inequality: Class Conflict in
Historical, Comparative, and Global Perspective – 4th edition. McGraw-Hill.
New York.
Kosaka, Kenji (ed.). 1994. Social Stratification in Contemporary Japan. Kegan
Paul International. London and New York.
Kosaka, Kenji. 2004. Tài liệu bài giảng về di động xã hội (tư liệu cá nhân).
Kwansei Gakuin University, Japan.
Lenski, Gerhard. 1966. Power and Privilege. McGraw-Hill. New York.
Lê Du Phong và các tác giả khác. 2000. Giải quyết vấn đề phân hóa giàu nghèo ở
các nước và Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Hà Nội.
Lê Ngọc Triết. 2003. “Xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội của giai cấp nông dân ở
đồng bằng sông Cửu Long”. Tạp chí Cộng Sản. Số 38/2003. Hà Nội.
Lê Thanh Sang và Nguyễn Thị Minh Châu. 2013. Cơ cấu phân tầng xã hội ở Đông
Nam Bộ trong tầm nhìn so sánh với Thành phố Hồ Chí Minh và Tây Nam Bộ.
Tạp chí Khoa học xã hội. Số 2(174):20-32.
Lê Thanh Sang. 2010. Nghiên cứu phân tầng xã hội: Từ lý thuyết đến đo lường thực
nghiệm. Tạp chí Khoa học xã hội. Số 2(138):31-40.
Mai Huy Bích. 2010. Một số quan điểm xã hội học phương Tây (phi Marxist) trong
việc tiếp cận nghiên cứu phân tầng xã hội trên thế giới (Báo cáo chuyên đề,
thuộc đề tài cấp Bộ, năm 2010 – tài liệu cá nhân).
Nam Sơn. 2009. “Biến đổi cơ cấu xã hội và tác động của nó đến nông dân, nông
thôn hiện nay”. Tạp chí Cộng sản. Số 20 (188)/2009. Website:
http://www.tapchicongsan.org.vn
Ngân hàng Thế giới. 2012. Báo cáo đánh giá nghèo 2012. Khởi đầu tốt, nhưng
chưa phải đã hoàn thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam trong giảm nghèo
và những thách thức mới. Hà Nội.
Nguyễn Đình Tấn. 2005. Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội (sách chuyên khảo).
Nhà xuất bản Lý luận chính trị. Hà Nội.
Nguyễn Hữu Minh. 2013. Chương II: Phân tầng xã hội. Trong sách do Bùi Quang
Dũng (chủ biên), 2013. Xã hội học (Giáo trình sau đại học). Nhà xuất bản Khoa
học xã hội. Hà Nội.

106
Nguyễn Thanh Tuấn. 2007. “Về nhóm xã hội trung lưu ở Việt Nam hiện nay”. Tạp
chí Cộng sản. Số 2+3 (122+123)/2007. Hà Nội.
Nguyễn Thừa Hỷ. 1978. “Về sự phát triển và cấu trúc đẳng cấp trong các làng xã cổ
truyền Việt Nam” (Trong sách: Viện Sử học – Nông thôn Việt Nam trong lịch sử
– Tập II. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội.
Nguyễn Văn Huyên. 1995. Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam (bản dịch sang
tiếng Việt) – Tập I. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội.
Pakulski, Jan. 2006. “Social stratification”. Trong: Bryan S. Turner (ed.). The
Cambridge Dictionary of Sociology. Cambridge University Press. Cambridge.
Parkin, Frank. 1971. Class Inequality and Political Order: Social Stratification in
Capitalist and Communist Societies. Praeger. New York.
Parsons, Talcott. 1954. Essays in Sociological Theory. Glencoe. Free Press. IL.
Persell, Caroline Hodges. 1987. Understanding society. An introduction to
sociology. Happer & Row, Publishers. New York.
Phạm Ngọc Quang, Đinh Quang Ty. 2006. “Góp phần nhận diện cơ cấu xã hội ở
nước ta qua 20 năm đổi mới”. Tạp chí Triết học. Website:
http://www.vientriethoc.com.vn
Phạm Quang Trung - Cao Văn Biền - Trần Đức Cường. 2001. Về thực trạng giai
cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội.
Phạm Xuân Nam. 2010. Một số đặc điểm chủ yếu của cơ cấu xã hội – giai cấp ở
nước ta trước và trong thời kỳ đổi mới (Bài viết chuyên đề, thuộc đề tài cấp Bộ,
năm 2010 – tài liệu cá nhân).
Phạm Xuân Nam. 2008. Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu chuyên đề “Xu
hướng biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” (tài liệu cá nhân). Hà Nội.
Phạm Xuân Nam. 2001. “Mấy nét sơ bộ về sự biến đổi cơ cấu xã hội-giai cấp ở
nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Tạp chí Xã hội học. Số 4 (76)/2001: 3-13. Hà Nội.
Rothman, Robert A. 2005. Inequality and Stratification: Race, Class and Gender -
5th edition. Pearson Prentice Hall. United States of America.
Scott, John. and Gordon Marshall. 2009. A Dictionary of Sociology - Third Edition
Revised. Oxford University Press. New York.
Thernstrom, Stephan. 1964. Poverty and Progress: Social Mobility in a Nineteeth-
Century City. MA: Harvard University Press. Cambridge.
Tổng cục Thống kê. 2016. Kết quả Khảo sát Mức sống Dân cư năm 2014. Nhà xuất
bản Thống kê. Hà Nội.

107
Tổng cục Thống kê. 2015. Niên giám thống kê 2014 (văn bản điện tử). Nhà xuất
bản Thống kê. Hà Nội.
Tổng cục Thống kê. 2014. Kết quả Khảo sát Mức sống Dân cư năm 2012. Nhà xuất
bản Thống kê. Hà Nội.
Tổng cục Thống kê. 2011. Kết quả Khảo sát Mức sống Dân cư năm 2010. Nhà xuất
bản Thống kê. Hà Nội.
Tổng cục Thống kê. 2008. Quyết định Về việc ban hành Danh mục Dân tộc, Danh
mục Tôn giáo và Danh mục nghề nghiệp áp dụng cho Tổng điều tra dân số và
nhà ở năm 2009 (Số: 1019/QĐ-TCTK, ngày 12 tháng 11 năm 2008).
Tổng cục Thống kê. 2007. Kết quả Khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2006. Nhà
xuất bản Thống kê. Hà Nội.
Tổng cục Thống kê, 2006. Kết quả Khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2004. Nhà
xuất bản Thống kê. Hà Nội.
Tổng cục Thống kê. 2000. Điều tra Mức sống Dân cư Việt Nam 1997-1998. Nhà
xuất bản Thống kê. Hà Nội.
Tương Lai. 1995. Khảo sát xã hội học về phân tầng xã hội. Nhà xuất bản Khoa học
xã hội. Hà Nội.
Trần Đình Thiên (Viện trưởng Viện Kinh tế VN) và chuyên gia kinh tế Bùi Kiến
Thành. 2014. http://www.thanhnien.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/tien-si-tran-dinh-
thien-vien-truong-vien-kinh-te-vn-doi-moi-da-lam-thay-doi-mot-dan-toc-
450445.html (Truy cập ngày 05-3-2015).
Treiman, Donald. 1977. Occupational Prestige in Comparative Perspective.
Academic Press. New York.
Treiman, Donald J. 1970. “Industrialization and Social Stratification”. Social
Stratification: Research and Theory for the 1970s (Edited by Edward O.
Laumann). Bobbs-Merrill Company, Inc. New York.
Trịnh Duy Luân – Bùi Thế Cường. 2001. “Về phân tầng xã hội và công bằng xã hội
ở nước ta hiện nay”. Tạp chí Xã hội học. Số 2 (74): 3-11.
Trịnh Duy Luân. 1992. “Sự phân tầng xã hội theo mức sống tại thủ đô Hà Nội trong
những năm đầu thực hiện đổi mới”. Tạp chí Xã hội học. Số 4: 16-28.
Rôdentan M. (chủ biên). 1986. Từ điển triết học. Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơ-va
(Bản dịch ra tiếng Việt có sửa chữa và bổ sung của Nhà xuất bản Tiến bộ và Nhà
xuất bản Sự thật). Mát-xcơ-va.
Văn Tạo. 2008. Giai cấp công nhân Việt Nam với nền kinh tế tri thức. Nhà xuất bản
Lý luận chính trị. Hà Nội.
Văn Tạo. 2002. Sử học và hiện thực (Tập III): Đổi mới tư duy về công nhân và giai
cấp công nhân – Kinh tế trí thức và công nhân trí thức. Nhà xuất bản Khoa học
xã hội. Hà Nội.

108
Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học. 1992. Cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta (lý luận
và thực tiễn). Nhà xuất bản Thông tin lý luận. Hà Nội.
Vũ Tiến Lộc (Chủ tịch Phòng TM & CN Việt Nam). 2014. (Truy cập ngày 05-3-
2015) http://www.thesaigontimes.vn/118226/Hay-quen-GDP-nho-chi-tieu-tao-
viec-lam.html
Yasuda, Saburo. 1964. "A Methodological Inquiry into Social Mobility." American
Sociological Review. Volume 29 Number 1:16-23.
Yasuda, Saburo. 1971. SHAKAI IDO NO KENKYU (A Study of Social Mobility).
Tokyo University Press.

109

You might also like