File 20220303 144809 File 20220222 164324 Nlvh-Viếng-Lăng-Bác-1

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

VIẾNG LĂNG BÁC – VIỄN PHƯƠNG

Đề 1: Viết bài văn trình bày cảm nhận về khổ thơ sau:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
DÀN Ý CHI TIẾT:
I. Mở Bài:
- Văn học là cuộc đời. Văn học vẫn luôn sống một cuộc đời cao đẹp gắn liền với
con người và kết tinh những hạt ngọc của thời đại. Tất cả những giá trị vĩnh cửu đó
đã thăng hoa cùng ngòi bút của Viễn Phương. Thơ ông tập trung khám phá, ngợi
ca vẻ đẹp của nhân dân, đất nước trong công cuộc chiến đấu trường kì, gian
khổ của dân tộc. Thơ ông dễ nhớ, cảm xúc sâu lắng, thiết tha; giọng thơ nhỏ
nhẹ; trong sáng; ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân tộc.
- “Viếng lăng Bác” là tác phẩm in đậm phong cách nghệ thuật độc đáo đó của Viễn
Phương và được đánh giá là một trong những bài thơ thành công xuất sắc trong
mảng đề tài về lãnh tụ Hồ Chí Minh. Tác phẩm thể hiện niềm xúc động thiêng
liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn xót đau của tác giả từ miền
Nam lần đầu tiên ra viếng lăng Bác.
- Khổ thơ sau đã ghi lại cảm xúc của nhà thơ trước cảnh vật bên ngoài lăng
Bác, để lại trong lòng người đọc những cảm nhận sâu sắc:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
II.Thân Bài:
1. Khái Quát Đầu:
- Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1976, đây là thời điểm miền Nam vừa giải phóng,
đất nước thống nhất, công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa được hoàn
thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ “Viếng
lăng Bác” được sáng tác trong dịp đó. Bài thơ được in trong tập thơ “Như mây
mùa xuân” (1978).
- Mạch cảm xúc: Bài thơ gồm 4 khổ, viết theo mạch vận động của tâm trạng
tác giả ở các chặng vào viếng lăng Bác: từ xa nhìn về lăng - đứng trước lăng –
vào trong lăng và chuẩn bị chia xa. Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc
động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của
tác giả.
- Vị trí, nội dung: Đoạn thơ trên là khổ thơ thứ nhất, diễn tả cảm xúc của nhà
thơ trước cảnh vật bên ngoài lăng Bác.
2. Cảm Nhận:
a.Luận điểm 1 – câu thơ đầu: Lời giới thiệu, tâm tình
Ngay từ câu thơ đầu tiên, nỗi niềm xúc động của người con miền Nam khi ra
Hà Nội viếng lăng Bác được thể hiện thật ấn tượng qua lời giới thiệu, tâm
tình:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
- Viễn Phương sáng tác bài thơ này khi Bác đã qua đời. Hơn thế nữa thi phẩm lại
có nhan đề là “Viếng lăng Bác”. Thế nhưng, ở câu thơ này tác giả đã thay từ
“viếng” bằng từ “thăm”. Với từ “thăm” ấy nhà thơ đã sử dụng thật tài tình nghệ
thuật nói giảm nói tránh. Biện pháp tu từ này vừa làm dịu bớt nỗi đau mất Bác,
vừa gợi cảm giác Bác như vẫn còn sống và đây như là cuộc trở về thăm cha của
một người con. Với biện pháp nói giảm nói tránh này, Viễn Phương đã vĩnh
viễn hóa, bất tử hoá hình ảnh của Bác Hồ. Bác vẫn còn sống mãi trong lòng
mỗi người dân Việt Nam, với dân tộc Việt Nam.
- Nhà thơ xưng con và gọi Bác, đây là một trong những cách xưng hô rất quen
thuộc, gần gũi, mang đặc trưng của người dân Nam Bộ; diễn tả nỗi xúc động, tình
cảm máu thịt chân thành, xóa nhòa khoảng cách giữa lãnh tụ và nhân dân. Cách
xưng hô này đã trở nên quen thuộc với mọi người dân Việt Nam bởi vì lẽ đơn giản:
“Người là Cha, là Bác, là Anh/ Quả tim lớn lọc trăm dòng máu đỏ” hay “Người
không con mà có triệu con/ Nhân dân ta gọi người là Bác/ Cả đời người là của
nước non”. “Con” ở đây không chỉ đơn thuần chỉ mỗi mình nhân vật trữ tình
nữa, mà đó là tiếng xưng đại diện cho tất cả đoàn người trong hành trình
thăm Bác, cũng là lời gửi gắm thăm hỏi dành cho Bác của tất cả những người
đồng bào phương Nam chưa có dịp đến thăm Người.
- Câu thơ đầu tiên chậm rãi, giản dị, nhẹ nhàng như một thông báo ngắn gọn
nhưng lại rưng rưng bao nỗi niềm xúc động. Nỗi niềm ấy kết đọng trong hai tiếng
“Miền Nam”. Miền Nam không chỉ là địa danh, trong kháng chiến chống Mỹ,
miền Nam là chiến trường, là thành đồng Tổ quốc “đi trước về sau”. Mảnh đất đau
thương nhưng vô cùng anh dũng đã nhuốm máu đỏ suốt mấy chục năm trời; là
mảnh đất mà Bác Hồ đã dành cho biết bao nhiêu tình cảm nhớ thương. Bác
từng nói: “miền Nam trong trái tim tôi” và Người luôn dành một tình cảm đặc biệt
cho đồng bào miền Nam. Tình cảm ấy, Bác luôn đau đáu cho đến tận ngày ra đi.
- Giờ đây, khi hòa bình lập lại cũng là lúc những người con miền Nam đến bên
Người, gặp Người để chia sẻ niềm vui, dù nó chưa hẳn vẹn tròn khi vắng Bác. Có
hiểu điều đó ta mới cảm nhận được hết tâm trạng xúc động đến nghẹn ngào của
một người con từ nơi chiến trường máu lửa, sau bao năm mong mỏi, nhớ thương
mới được ra viếng Bác, báo công với Bác. Nỗi nhớ thương ấp ủ bấy lâu như chỉ
chờ gặp lại bóng dáng thân yêu là trào dâng thổn thức.
- Nói về tình cảm của Bác dành cho miền Nam cũng như của đồng bào miền Nam
dành cho Bác, nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà/
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”, vì vậy khi nhà thơ Viễn Phương đặt chân
lên mảnh đất thiêng liêng Hà Nội – trái tim của tổ quốc, ngỡ ngàng tưởng
chừng như một giấc mơ.
=> Câu thơ chứa đựng sự vui mừng khôn xiết lại vừa thật xót xa. Con ra đây
như muốn nói với Bác về sự thắng lợi của dân tộc, về những điều mong ước bấy
lâu nay đã thành hiện thực. Chuyến ra thăm lăng Bác này là một cuộc hành hương
của tác giả. Hai mảnh đất Nam - Bắc như được nối gần với nhau hơn bởi cuộc hành
hương này.
b. Luận điểm 2 – ba câu thơ cuối: Cảm xúc về hình ảnh hàng tre trước lăng
Bác Hình ảnh đầu tiên mà nhà thơ nhìn thấy khi đến thăm lăng Bác là hình
ảnh hàng tre xanh quen thuộc mang dáng đứng, phẩm chất của con người
Việt Nam:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
- Từ xa nhìn lại, ấn tượng đậm nhất của nhà thơ chín là hình ảnh “hàng tre bát
ngát” trong làn sương sớm. Màn sương trắng là dấu hiệu của cảnh trời hãy còn
sớm tinh mơ. Ấy thế mà tác giả đã có mặt tự bao giờ! Điều đó chứng tỏ Viễn
Phương đã rất mong mỏi và cũng rất hào hức khi được đến thăm lăng Bác.
- Hình ảnh “hàng tre” là hình ảnh rất thực, đó là hình ảnh hàng tre được
trồng ở bên lăng Bác. Hình ảnh hàng tre không chỉ là hình ảnh hết sức quen
thuộc, gần gũi của làng quê Việt Nam, đất nước Việt Nam mà còn biểu tượng cho
dân tộc Việt Nam muôn đời. Tre anh hùng trong chiến đấu từ thời Thánh Gióng
đến các cuộc kháng chiến chống giặc cứu nước; tre anh hùng trong sản xuất và tre
bầu bạn trong đời sống nhân dân. Đi thăm một người thân lâu ngày không gặp, lại
nhìn thấy hình ảnh gần gũi từ thưở còn thơ, cảm giác thật giống như được trở về lại
chốn quê hương, thôn làng xưa cũ chứ nào phải một nơi xa lạ chưa từng đặt chân.
- Ấn tượng nhất với nhà thơ là màu “xanh xanh Việt Nam” của hàng tre. Từ “Việt
Nam” vẫn là danh từ riêng nhưng trong cụm từ này nó đã được dùng với chức
năng của tính từ. Ý thơ theo đó cũng trở nên sâu sắc hơn. Cái màu “xanh xanh”
ấy không chỉ gợi lên sắc xanh của tre trúc mà còn là biểu tượng cho sức sống dồi
dào, mãnh liệt của dân tộc Việt Nam trong suốt 4000 năm lịch sử. Linh hồn
Việt Nam, cốt cách Việt Nam đã in dấu ấn trọn vẹn của mình vào trong sắc xanh
ấy.
- Câu cảm thán “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”: thể hiện tâm trạng xúc
động, tình cảm ngưỡng mộ, ngợi ca, tự hào về non sông, đất nước và con người
Việt Nam cùa nhà thơ Viễn Phương. Thông qua việc sử dụng từ cảm thán, câu
cảm thán có thể thấy được rằng, nhà thơ Viễn Phương là một trong những
người chiến sĩ
trung kiên, bất khuất đã từng nếm mật nằm gai trong cuộc sinh tử dữ dội của dân
tộc thì mới có thể có cảm xúc ấy khi đứng trước hàng tre bên lăng Bác.
- Bằng việc sử dụng có hiệu quả các biện pháp tu từ ẩn dụ, sử dụng thành ngữ
“bão táp mưa sa”, biện pháp nhân hóa “đứng thẳng hàng”, nhà thơ Viễn
Phương đã tái hiện tư thế đứng thẳng hàng của hàng tre trước “bão táp mưa sa”.
Cái tư thế “thẳng hàng” hiên ngang, bất khuất ấy có được là do “Bão bùng thân
bọc lấy thân/ tay ôm, tay níu, tre gần nhau hơn” và dù trong hoàn cảnh nào thì
“Nòi tre đâu chịu mọc cong/ Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường” (Trích “Tre
Việt Nam” - Nguyễn Duy). Trải qua bao giông tố của thời đại, trước biến cố chông
gai và thử thách, hàng tre vẫn đứng thẳng hàng như non sông Việt Nam vẫn ngẩng
cao đầu tiến bước. Và đó là tượng trưng cho những phẩm chất của dân tộc Việt
Nam, con người Việt Nam, bền bỉ, đoàn kết, kiên cường, bất khuất trong mọi gian
khó.
- Đồng thời khắc họa hình ảnh “hàng tre bát ngát” quây quần bên lăng Bác là
nhà thơ như muốn khẳng định Bác vẫn sống mãi cùng non sông đất nước,
trong tâm hồn dân tộc. Suy nghĩ như vậy, nhà thơ tự hào, kiêu hãnh về con người
Việt Nam, về dân tộc Việt Nam, về Bác Hồ vĩ đại. Bác sống mãi dưới bóng tre
xanh mát của làng quê, đất nước Việt Nam, trong lũy thành của những người con
trung hiếu. Tình cảm của nhà thơ đối với Bác không chỉ là tình cảm của người
dân đối với lãnh tụ mà còn là tình cảm của người con đối với người cha thân
yêu của mình, tình cảm của một con người đối với người cha thân yêu của mình,
tình cảm của một con người cùng chung lí tưởng, chung một đội ngũ được trở về
bên Người đã thắp sáng lí tưởng ấy.
=> Như vậy hành trình về thăm lăng Bác không đơn giản là chuyến tham quan một
công trình kiến trúc; không phải đến để chiêm ngưỡng di hài của một bậc vĩ nhân.
Đó là hành trình tìm về cội, sông trở về nguồn, máu chảy về tim - một cuộc hành
hương về với cội nguồn. Nhà thơ đến với lăng Bác bằng cả tình cảm của người
con trở về với người cha thân yêu, tình cảm của người dân đối với vị lãnh tụ vĩ
đại.
3. Đánh Giá:
- Khổ thơ tiêu biểu cho ngòi bút độc đáo của Viễn Phương. Những dòng thơ trang
trọng, tha thiết; ngôn ngữ bình dị, giàu cảm xúc; hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm có
sức lay động lòng người. Các biện pháp tu từ nói giảm nói tránh, nhân hóa và
ẩn dụ cũng được sử dụng đầy sáng tạo.
- Tất cả những đặc sắc nghệ thuật ấy đã góp phần tô đậm dòng cảm xúc của nhà
thơ Viễn Phương trước cảnh vật bên ngoài lăng Bác. Đó là sự thành kính, ngưỡng
mộ, ngợi ca, tự hào và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ cũng như của cả dân
tộc kính dâng lên Bác.
- Sáng tạo: Cùng nói về tình cảm chân thành của người con dành cho Bác. Nhà thơ
Tố Hữu có bài thơ “Bác ơi”. Tố Hữu và Viễn Phương đều xem Bác là Cha và có
cách gọi rất gần gũi thân thương “Bác”. Cả hai tác giả đều thể hiện niềm xúc
động nghẹn ngào trước sự ra đi của Bác. Nhưng mỗi tác giả lại đem đến cho
người đọc một cảm nhận riêng biệt. Nếu như Tố Hữu thể hiện rõ nỗi xót xa đau
đớn, trào dâng nước mắt trước sự ra đi của Bác thì những câu thơ của Viễn
Phương đem lại cho ta một cảm giác như Bác vẫn còn ở đây, luôn hiện hữu,
dõi theo con người và đất nước Việt Nam. Đó chính là sự độc đáo riêng trong
phong cách sáng tác của Viễn Phương.
III.Kết Bài:
- Khổ thơ đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn về cảm xúc bồi hồi, thành
kính của nhà thơ trước cảnh vật quanh lăng Bác.
- Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng viết: “Văn chương gây cho ta những
tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”. Và đến với tác phẩm
“Viếng lăng Bác”, tác giả Viễn Phương đã khơi dậy trong lòng độc giả những tình
cảm yêu mến, trân trọng, tự hào và biết ơn Bác - vị Cha già của dân tộc Việt
Nam, Người đã dành cả cuộc đời để hiến dâng cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc Việt Nam.
- Liên hệ bản thân: Chúng ta – thế hệ trẻ hôm nay có thêm nghị lực đi tiếp con
đường của Bác, thực hiện tâm nguyện của Người:
“Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn”
(“Bác ơi” - Tố Hữu)
******************************************************************
Đề 2: Viết bài văn trình bày cảm nhận về khổ thơ sau:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân.”
DÀN Ý CHI TIẾT:
I. Mở Bài:
- Văn học là cuộc đời. Văn học vẫn luôn sống một cuộc đời cao đẹp gắn liền với
con người và kết tinh những hạt ngọc của thời đại. Tất cả những giá trị vĩnh cửu đó
đã thăng hoa cùng ngòi bút của Viễn Phương. Thơ ông tập trung khám phá, ngợi
ca vẻ đẹp của nhân dân, đất nước trong công cuộc chiến đấu trường kì, gian
khổ của dân tộc. Thơ ông dễ nhớ, cảm xúc sâu lắng, thiết tha; giọng thơ nhỏ
nhẹ; trong sáng; ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân tộc.
- “Viếng lăng Bác” là tác phẩm in đậm phong cách nghệ thuật độc đáo đó của Viễn
Phương và được đánh giá là một trong những bài thơ thành công xuất sắc trong
mảng đề tài về lãnh tụ Hồ Chí Minh. Tác phẩm thể hiện niềm xúc động thiêng
liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn xót đau của tác giả từ miền
Nam lần đầu tiên ra viếng lăng Bác.
- Khổ thơ sau đã ghi lại cảm xúc của nhà thơ khi cùng dòng người xếp hàng vào
lăng viếng Bác, để lại trong lòng người đọc những cảm nhận sâu sắc:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy chín mùa xuân.”
II.Thân Bài:
1.Khái Quát Đầu:
- Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1976, đây là thời điểm miền Nam vừa giải phóng,
đất nước thống nhất, công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa được hoàn
thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ “Viếng
lăng Bác” được sáng tác trong dịp đó. Bài thơ được in trong tập thơ “Như mây
mùa xuân” (1978).
- Mạch cảm xúc: Bài thơ gồm 4 khổ, viết theo mạch vận động của tâm trạng
tác giả ở các chặng vào viếng lăng Bác: từ xa nhìn về lăng - đứng trước lăng –
vào trong lăng và chuẩn bị chia xa. Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc
động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của
tác giả.
- Vị trí, nội dung: Đoạn thơ trên là khổ thơ thứ hai, diễn tả cảm xúc của nhà thơ
khi cùng dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác.
2. Cảm Nhận:
a.Luận điểm 1 - hai câu thơ đầu: Cảm xúc trước công lao, sự nghiệp vĩ
đại của Bác
Khi đứng trước lăng, Viễn Phương trào dâng cảm xúc tự hào, ngưỡng
mộ, ngợi ca trước sự vĩ đại và công lao to lớn của Bác với dân tộc Việt
Nam:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
*Khi cùng dòng người vào viếng lăng Bác, không chỉ có con người mà cả thiên
nhiên cũng nghiêng mình ngưỡng mộ Bác:
- Hai hình ảnh “mặt trời” có tính sóng đôi với nhau.
+ “Mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực, chỉ mặt trời tự nhiên,
vầng thái dương vĩ đại của vũ trụ, chiếu tỏa ánh sáng ấm áp muôn nơi.
Không có mặt trời thì không có sự sống trên Trái Đất.
+ Còn “mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ để chỉ Bác. Bác là ánh sáng soi
đường, là nguồn sống đem lại tự do cho dân tộc Việt Nam. Không có Bác thì
không có đất nước Việt Nam ngày hôm nay.
=>Cách nói ẩn dụ đã cho ta thấy sự vĩ đại của Người được sánh
ngang với vũ trụ, với trung tâm thiên hà. Nhưng mặt trời của vũ trụ kia
phải chăng lúc nào cũng hiện hữu nguyên vẹn? Không! Mặt trời kia cũng có
lúc bị bóng mây che lấp, bị bóng đêm làm cho lụi tàn ánh sáng; còn “mặt trời
trong lăng” thì mãi
mãi vĩnh cửu tồn tại, sưởi ấm và soi đường cho con người Việt Nam, cho
dân tộc Việt Nam.
- Điệp ngữ “Ngày ngày”:
+ Diễn tả bước đi của thời gian
+ Thể hiện sự trân trọng, ngưỡng mộ thường xuyên, liên tục của mặt trời
thiên nhiên hay của chính con người Việt Nam dành cho Bác.
- Nhân hóa mặt trời tự nhiên bằng cách trao cho nó hành động và
nhận xét: “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”. Vầng thái dương vĩ đại nhất
thế gian phải công nhận “mặt trời trong lăng” là “rất đỏ”, đã phải nghiêng
mình trước Bác, đây là một sự tôn vinh chưa từng thấy bao giờ. Vẻ đẹp, sự
lớn lao của thiên nhiên, vũ trụ cũng phải nghiêng mình ngưỡng mộ
vẻ đẹp cùng sự vĩ đại của Bác.
- Màu sắc “rất đỏ” ấy làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp gây ấn tượng sâu xa:
+ Nói lên tư tưởng cách mạng và lòng yêu nước nồng nàn của Bác.
+ Gợi trái tim đầy nhiệt huyết vì Tổ quốc, vì nhân dân, trái tim yêu
thương vô hạn của Bác.
=>Mặt trời Bác mãi tỏa sáng, tỏa ấm, tỏa thắm cho đời. Màu đỏ ấy làm
ấm lại cả khung cảnh thương đau. Đặt mặt trời Bác sóng đôi và trường tồn
cùng mặt trời thiên nhiên là sáng tạo riêng của Viễn Phương. Cách nói đó vừa
ngợi ca sự vĩ đại, bất tử của Bác vừa thể hiện sự tôn kính, ngưỡng
mộ, tự hào và biết ơn đối với Bác.
Như vậy, hình ảnh tả thực và hình ảnh ẩn dụ đã khẳng định công lao
trời biển của Bác đối với dân tộc, đồng thời bộc lộ lòng thành kính biết
ơn của tác giả, của dân tộc Việt Nam đối với Bác.
*Liên hệ: (Trích “Sáng tháng Năm” - Tố Hữu)
“Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà Đế quốc là loại dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người...
Hồ Chí Minh
Người ở khắp nơi.”
b.Luận điểm 2 – hai câu thơ cuối: Cảm xúc của nhà thơ khi hòa cùng
dòng người vào lăng viếng Bác
Khi đến trước lăng Bác, Viễn Phương và dòng người trào dâng cảm
xúc nhớ thương, thành kính biết ơn dành cho Người:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
*Nỗi nhớ thương mà người dân Việt Nam dành cho Bác là mãi mãi:
- Điệp ngữ “ngày ngày” gợi cảm giác về dòng thời gian vô tận, vĩnh viễn
và cùng là cái vô cùng, vô tận trong tình cảm của dân tộc dành cho Bác.
- Trong hai câu thơ này cũng có sự sóng đôi giữa hai hình ảnh tả thực và
ẩn dụ.
+ “Dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực. Tác giả sử dụng từ
“dòng người” chứ không phải là “đoàn người”, “hàng người”, điều đó gợi
lên sự tiếp nối trải dài tới vô tận của những dòng người vào lăng.
Dòng người đó đi trong một không gian rất đặc biệt, đó là không gian thương
nhớ “đi trong thương nhớ”, một lần nữa đã khẳng định được tình cảm kính
yêu, nhớ thương của cả dân tộc cũng như của bạn bè quốc tế dành cho Bác.
+ Hình ảnh “tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ độc đáo: Gợi cảnh dòng người
vào viếng lăng Bác nối nhau đi như thể kết thành một tràng hoa bất tận.
“Tràng hoa” dâng lên Người được kết bằng tình thương và nỗi nhớ, tràng hoa
của lòng biết ơn và ngưỡng mộ. Tuy nhiên, hình ảnh tràng hoa này còn gợi ra
cho ta tới một liên tưởng khác đó là cuộc đời của họ đã được nở hoa dưới ánh
sáng của Người. Và giờ đây những bông hoa tươi thắm nhất đang dâng lên
người những gì tốt đẹp nhất. Đó là tràng hoa tình nghĩa, tràng hoa của
lòng kính yêu vô hạn. Hình ảnh thơ này đã thể hiện thật xúc động tấm
lòng thành kính, biết ơn, ngưỡng mộ của dân tộc Việt Nam dành cho
Bác.
- Sử dụng động từ “dâng”: Gợi sự thiêng liêng trân trọng thành kính trong
tấm lòng của mỗi người khi đến bên Bác. Mỗi con người Việt Nam, đem cả
tấm lòng, con tim và nỗi nhớ thương vô hạn dâng lên Người.
- Viễn Phương đã sáng tạo ra hình ảnh hoán dụ thật đẹp “Bảy mươi chín
mùa xuân” – Bác Hồ hưởng thọ 79 tuổi, cuộc đời của Người sống đẹp như
những mùa xuân và chính Người đã đem lại mùa xuân cho dân tộc, cho đất
nước. Cuộc đời chúng ta nở hoa dưới ánh sáng của Bác.
=> Hai câu thơ có cảm giác không ngắt nhịp và câu cuối kéo dài 9 tiếng.
Nhịp điệu chậm rãi của câu thơ vừa gợi sự nhích dần của những bước chân,
vừa gợi sự vô tận của dòng người vào lăng viếng Bác. Tình cảm của dân tộc
dành cho Người được Viễn Phương thể hiện không chỉ bằng hình ảnh mà còn
bằng nhịp điệu. Đây là nhịp điệu của lòng yêu thương mênh mang da diết, nó
góp phần tô đậm không khí nơi Bác yên nghỉ. Hai câu thơ đã tô đậm thêm
sự tôn kính, biết ơn, tự hào của tác giả cũng như của dân tộc Việt
Nam với Bác.
- Liên hệ: Khổ thơ này của nhà thơ Viễn Phương khiến ta liên tưởng tới những
câu thơ của nhà thơ Thu Bồn trong bài “Gửi lòng con đến Cha”:
“Việt Nam ơi giống Tiên Rồng
Bốn nghìn năm lấy máu hồng làm
hoa
Gửi lòng con đến cùng Cha
Chiến công đất nước kết hoa triệu vòng.”
3. Đánh Giá:
- Khổ thơ tiêu biểu cho ngòi bút độc đáo của Viễn Phương. Những dòng thơ trang
trọng, tha thiết; ngôn ngữ bình dị, giàu cảm xúc; hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm có
sức lay động lòng người. Các biện pháp tu từ nói giảm nói tránh, nhân hóa và
ẩn dụ cũng được sử dụng đầy sáng tạo.
- Tất cả những đặc sắc nghệ thuật ấy đã góp phần tô đậm dòng cảm xúc của nhà
thơ Viễn Phương trước cảnh vật bên ngoài lăng Bác. Đó là sự thành kính, ngưỡng
mộ, ngợi ca, tự hào và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ cũng như của cả dân
tộc kính dâng lên Bác.
- Sáng tạo: Cùng nói về cảm xúc trước sự ra đi của Bác, trong bài thơ “Bác ơi”,
Tố Hữu viết:
“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa...
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa!”
+ Cả 2 đoạn thơ đều thể hiện tình cảm của một con đối với Bác. Tố Hữu và Viễn
Phương đều xem Bác là cha và có cách gọi rất gần gũi thân thương “Bác”. Tuy
nhiên, chúng ta nhận được những tình cảm chân thành, xúc động mãnh liệt khác
nhau của mỗi tác giả.
+ Nhưng mỗi tác giả lại đem đến cho người đọc một cảm nhận riêng biệt. Nếu như
Tố Hữu thể hiện rõ nỗi xót xa đau đớn, trào dâng nước mắt trước sự ra đi của
Bác thì những câu thơ của Viễn Phương đem lại cho ta một cảm giác như Bác
vẫn còn ở đây, luôn hiện hữu, dõi theo con người và đất nước Việt Nam. Đó
chính là sự độc đáo riêng trong phong cách sáng tác của Viễn Phương.
III.Kết Bài:
- Khổ thơ đã giúp người đọc cảm nhận sâu sắc hơn về cảm xúc bồi hồi, ngưỡng
mộ, biết ơn sâu sắc của nhà thơ Viễn Phương khi cùng dòng người xếp hàng
vào lăng viếng Bác.
- Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng viết: “Văn chương gây cho ta những
tình cảm ta không có, luyện những tình cảm ta sẵn có”. Và đến với tác phẩm
“Viếng lăng Bác”, tác giả Viễn Phương đã khơi dậy trong lòng độc giả những tình
cảm yêu mến, trân trọng, tự hào và biết ơn Bác - vị Cha già của dân tộc Việt
Nam, Người đã dành cả cuộc đời để hiến dâng cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc Việt Nam.
- Liên hệ bản thân: Chúng ta – thế hệ trẻ hôm nay có thêm nghị lực đi tiếp con
đường của Bác, thực hiện tâm nguyện của Người:
“Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn”
(“Bác ơi” - Tố Hữu)
******************************************************************

You might also like