Professional Documents
Culture Documents
Tuyến Giáp Và Cận Giáp in Nộp
Tuyến Giáp Và Cận Giáp in Nộp
Tuyến Giáp Và Cận Giáp in Nộp
Là tuyến nội tiết lớn nhất của cơ thể, nằm ở phần trước của cổ, ở trước các
vòng sụn khí quản trên và hai bên thanh quản, ngang mức các đốt sống cổ C5, C6,
C7 và N1. Có hình chữ H hoặc chữ U với hai thùy trái và phải nối nhau ở giữa bằng
eo tuyến giáp. Đôi khi còn có một mẫu tuyến nhỏ, dài, hình tam giác từ bờ trên eo
tuyến giáp chạy lên trên, lệch sang trái, gọi là thùy tháp. Nó thường nối với xương
móng bằng một dãi xơ, là di tích của ống giáp lưỡi.
Là tuyến có nhiều mạch máu, có màu nâu đỏ, nặng khoảng 30g. Tuyến giáp ở
phụ nữ thường to hơn nam giới và to lên trong thời kỳ kinh nguyệt và thai nghén.
Tuyến giáp có một tầm quan trọng về sinh lý cũng như bệnh lý, với chức năng
chuyển hoá i-ốt để sản xuất ra các hormon giáp trạng là thyroxin (T4) và
triiodothyronin (T3)
sau thùy bên tuyến giáp có liên quan mật thiết với các tuyến cận giáp và là mốc để
tìm tuyến này.
Động mạch cấp máu cho tuyến là các nhánh của động mạch giáp dưới nên một
mốc khác để tìm tuyến là các nhánh của động mạch giáp dưới vào các tuyến đó.
Tuyến cận giáp ở người trưởng thành gồm 2 loại tế bào: tế bào chính và tế bào
ưa oxy. Trong đó tế bào chính là thành phần cấu tạo chủ yếu của tuyến cận giáp, tế
bào ưa oxy chỉ có ở người trưởng thành.
Tế bào chính bài tiết ra parathyroid hormon (PTH), còn chức năng của tế bào
ưa oxy đến nay còn chưa biết rõ.
Tuyến cận giáp cũng là tuyến nội tiết điều hoà ion Ca của cơ thể, thiếu kích tố
này gây bệnh co cơ và cơn co giật Tetanie (do giảm Ca máu) và bệnh thừa vôi ở
xương (xương dễ gẫy) vì vậy nếu cần phải cắt tuyến giáp nên để lại tuyến cận giáp.
T4 được sản xuất bởi tuyến giáp khi tuyến yên giải phóng hormon TSH. Chỉ có 1
phần nhỏ T3 được sản xuất trực tiếp từ tuyến giáp phần lớn T3 được sản xuất bởi
các mô biến đổi T4 thành T3.
3.2. Quá trình bài tiết và chuyển chổ hormon tuyến giáp:
Sau khi được tổng hợp bởi tuyến giáp T3 T4 được phóng thích vào máu, trong
máu các hormon tuyến giáp tồn tại dưới 2 dạng:
- Dạng gắn với protein huyết tương chủ yếu là TBG (thyroxine binding
globuline) 75%, các dạng gắn khác gồm TBPA (thyroxine binding
prealbumine) 15% và TBA (thyroxine binding albumine) 10%.
- Dạng tự do FT3 (Free Triiodothyroxine) FT4 (Free Thyroxine), chỉ chiếm 1
phần nhỏ của T3 và T4 nhưng thể hiện chức năng sinh lý rõ ràng.
6
FT3, FT4 là phần chịu trách nhiệm về hoạt động sinh học của tuyến giáp, như
vậy đo nồng độ FT3, FT4 trong chẩn đoán bệnh tuyến giáp sẽ có độ tin cậy và chính
xác hơn.
3.3. Điều hòa bài tiết hormon tuyến giáp:
3.3.1. Điều hòa xuôi:
Vùng dưới đồi tiết ra yếu tố giải phóng là TRF,TRH tác dụng lên tuyến yên,
tuyến yên tiết ra TSH, TSH tác dụng lên tuyến giáp làm cho tuyến giáp tiết ra T3
T4.
3.3.2. Tác dụng ngược âm tính:
Nếu T3 T4 tăng đến 1 mức nào đó thì có tác dụng ức chế lại tuyến yên hay
vùng dưới đồi để không tiết ra TRH hay TSH nữa, như thế thì tuyến giáp không bị
kích thích tiết ra T3 T4 nữa.
3.3.3. Tác dụng ngược dương tính:
Nếu T3 T4 giảm sẽ kích thích lên tuyến yên hay vùng dưới đồi tăng tiết TRH
hay TSH dẫn đến kích thích tuyến giáp tăng tiết T3 T4.
Việc tuyến yên sản xuất TSH hay không là 1 vấn đề quan trọng trong điều hòa
để kích thích tuyến giáp sản xuất ra T3 và T4 (điều hòa xuôi), còn ảnh hưởng của
nồng độ T3 T4 tăng hay giảm (điều hòa ngược) thường ít xảy ra hơn.
hòa sự phát triển của xương dài; làm tăng trưởng thần kinh và tăng nhạy cảm của cơ
thể với catecholamine (vd như adrenaline).
Các hormon tuyến giáp là rất cần thiết để phát triển đặc trưng và khác biệt của
tất cả các tế bào trong cơ thể. Những hormone này cũng điều hòa chuyển hóa của
protein, chất béo, và carbohydrate; ảnh hưởng đến cách các tế bào sử dụng các hợp
chất năng lượng. Chúng cũng kích thích chuyển hóa vitamine. Nhiều tác nhân kích
thích sinh lý và bệnh lý ảnh hưởng đến sinh tổng hợp hormon tuyến giáp.
Hormon tuyến giáp cũng có vai trò quan trọng trong tạo nhiệt và điều hòa thân
nhiệt. Tuy nhiên, chức năng của thyronamines thông qua một vài cơ chế chưa được
biết để ức chế hoạt động thần kinh; điều này đóng một vai trò quan trọng trong chu
kỳ ngủ đông của động vật có vú và các hành vi thay lông của chim. Một tác dụng
phụ khi sử dụng thyronamines là giảm thân nhiệt nghiêm trọng.
Calcitonine là hormon làm hạ canxi máu, có tác dụng ngược với hormon cận
giáp, do "tế bào C" của tuyến giáp bài tiết. Tác dụng chính ở ba nơi:
• Xương: ức chế tiêu xương bằng ức chế hoạt tính của các hủy cốt bào, đồng thời
làm tăng tạo xương do kích thích tạo cốt bào.
• Thận: gây tăng thải trừ canxi và phosphat qua nước tiểu do tác dụng trực tiếp.
Tuy nhiên, do ức chế tiêu xương nên calcitonine làm giảm bài tiết Ca 2+, Mg2+
và hydroxyprolin qua nước tiểu.
• Ống tiêu hóa: làm tăng hấp thu canxi.
• Thuốc gây suy giáp: thuốc chứa iod, lithium, Interferon α, Interleukin 2,
thalidomide
• Suy giáp thứ phát do thiếu TSH
4.1.2. Chẩn đoán:
4.1.2.1. Biểu hiện lâm sàng:
Không đặc hiệu và diễn tiến từ từ, gồm sợ lạnh, mệt mỏi, ngủ gà, giảm trí nhớ,
táo bón, rong kinh, đau cơ và khàn tiếng.
4.1.2.2. Bệnh sử:
Suy giáp có thể điều trị và nên được nghi ngờ ở bất kỳ bệnh nhân có các triệu
chứng suy giáp nhất là khi có kèm tuyến giáp to lan tỏa hoặc có điều trị iod phóng
xạ hoặc phẫu thuật tuyến giáp.
4.1.2.3. Khám lâm sàng:
Triệu chứng:
Giảm phản xạ gân xương, nhịp tim chậm, phù mặt và quanh mắt, da khô, và
phù niêm (myxedema), tăng cân nhẹ có thể xảy ra, nhưng suy giáp không là nguyên
nhân gây béo phì. Biểu hiện hiếm gặp bao gồm giảm thông khí, tràn dịch màng
ngoài tim hoặc tràn dịch màng phổi, điếc, và hội chứng ống cổ tay.
Xét nghiệm chẩn đoán:
- Xét nghiệm có thể thấy hạ natri máu và tăng cholesterol, triglyceride, và creatine
kinase huyết tương.
- Trong suy giáp nguyên phát, TSH huyết tương là các xét nghiệm ban đầu tốt nhất.
• Giá trị TSH bình thường loại trừ suy giáp nguyên phát và một giá trị tăng rõ
rệt (> 20 μU/mL) khẳng định chẩn đoán.
• Tăng nhẹ TSH huyết tương (< 20 μU/mL) có thể là do bệnh ngoài tuyến giáp,
nhưng thường chỉ ra suy giáp nguyên phát nhẹ (suy giáp dưới lâm sàng), trong
đó chức năng tuyến giáp bị suy yếu nhưng tăng tiết TSH, duy trì nồng độ T4
tự do trong huyết tương bình thường. Những bệnh nhân này có thể có triệu
chứng không đặc hiệu suy giáp và tăng nhẹ cholesterol và LDL cholesterol
huyết thanh. Chúng phát triển thành suy giáp lâm sàng với tỷ lệ 2,5% mỗi
năm.
9
- Nếu nghi ngờ suy giáp thứ phát do bệnh tuyến yên, nên đo FT4
• Nồng độ TSH thường trong giới hạn bình thường ở suy giáp thứ phát và không
thể sử dụng một mình để chẩn đoán bệnh. Bệnh nhân suy giáp thứ phát nên
được đánh giá những nguyên nhân thiếu hormone tuyến yên khác và bướu
tuyến yên hoặc vùng dưới đồi
- Trong bệnh ngoài tuyến giáp nặng: chẩn đoán suy giáp có thể khó khăn. Xét
nghiệm T4 và FT4 thường quy có thể thấp.
• TSH huyết tương là xét nghiệm chẩn đoán ban đầu tốt nhất. Một giá trị TSH
bình thường là bằng chứng mạnh mẽ rằng bệnh nhân là bình giáp, trừ khi có
bằng chứng của bệnh tuyến yên hoặc bệnh ở vùng dưới đồi hoặc ở những bệnh
nhân điều trị bằng dopamine hoặc liều cao glucocorticoid. TSH huyết tương
tăng rõ (> 20 μU/mL) chẩn đoán suy giáp nguyên phát
• TăngTSH huyết tương trung bình (< 20 μU/mL) có thể xảy ra ở những bệnh
nhân bình giáp với bệnh ngoài tuyến giáp và không đặc hiệu cho suy giáp.
FT4 huyết thanh nên được đo nếu TSH tăng trung bình hoặc nếu nghi ngờ suy
giáp thứ phát, và bệnh nhân nên được điều trị suy giáp nếu FT4 huyết thanh
thấp. chức năng tuyến giáp ở những bệnh nhân này nên được đánh giá lại sau
khi hồi phục từ bệnh
4.1.3. Điều trị:
- Thyroxine là thuốc được lựa chọn. Liều thay thế bình quân là 1,6 μg/kg mỗi ngày,
và hầu hết bệnh nhân cần liều giữa 75-150 μg/ngày. Ở những bệnh nhân lớn tuổi,
liều dùng thay thế bình quân thấp hơn. Sự cần thiết điều trị suốt đời nên được nhấn
mạnh. Thyroxine nên được uống 30 phút trước bữa ăn, vì một số loại thực phẩm cản
trở hấp thu của nó, và không nên dùng cùng với các thuốc có ảnh hưởng đến sự hấp
thu của nó.
- Bắt đầu điều trị: thanh niên và trung niên nên được bắt đầu 100 μg mỗi ngày điều
chỉnh dần suy giáp, cần vài tuần để đạt được trạng thái ổn định trong huyết tương
của T4. Ở những bệnh nhân lớn tuổi khỏe mạnh, liều khởi đầu là 50 μg/ngày. Bệnh
nhân bệnh tim nên được bắt đầu 25 – 50 μg/ngày và theo dõi cẩn thận các triệu
chứng tim do thuốc làm tăng các chuyển hóa của cơ thể.
10
- Trong các trường hợp hiếm, hấp thụ i-ốt phóng xạ 24 giờ (RAIU) là cần thiết để
phân biệt bệnh Graves hay bướu giáp đa nhân độc (trong đó RAIU tăng cao) với
viêm tuyến giáp sau sinh, cường giáp do iốt gây ra, hoặc cường giáp giả (trong đó
RAIU thấp).
- Trong nghi ngờ cường giáp, TSH huyết tương là các xét nghiệm chẩn đoán ban
đầu tốt nhất:
• Một mức độ TSH > 0,1 μU/mL loại trừ cường giáp lâm sàng. Nếu TSH huyết
thanh < 0,1 μU/mL, FT4 trong huyết thanh nên được đo để xác định mức độ
nặng của cường giáp và làm cơ sở cho điều trị. Nếu FT4 huyết thanh tăng,
chẩn đoán cường giáp lâm sàng.
• Nếu TSH huyết tương < 0,1 μU/mL nhưng T4 tự do bình thường, bệnh nhân
có thể có cường giáp lâm sàng do tăng T3 huyết thanh; và T3 huyết thanh nên
được đo trong trường hợp này.
• Cường giáp nhẹ (dưới lâm sàng) có thể gây ra TSH < 0,1 μU/mL, và do đó
TSH giảm đơn độc không thể khẳng định các triệu chứng là do cường giáp.
• TSH cũng có thể bị giảm bởi bệnh ngoài tuyến giáp nặng.
4.2.2.4. Điều trị:
- Một số dạng cường giáp (viêm tuyến giáp bán cấp hoặc sau sinh) thường thoáng
qua và chỉ yêu cầu điều trị triệu chứng.
• Kháng β-adrenergic (như atenolol 25 – 100 mg mỗi ngày) được dùng giảm
triệu chứng cường giáp, chẳng hạn như đánh trống ngực, run rẩy và lo lắng,
cho đến khi cường giáp được trị bằng điều trị đặc hiệu hoặc cho đến khi những
dạng cường giáp thoáng qua giảm bớt. Liều được điều chỉnh để giảm các triệu
chứng và nhịp tim nhanh, sau đó giảm dần khi cường giáp được kiểm soát.
• Verapamil 40 – 80 mg uống 3 lần/ngày điều trị mạch nhanh ở bệnh nhân
chống chỉ định kháng β-adrenergic.
- Ba phương pháp có sẵn để điều trị đặc hiệu (không kiểm soát cường giáp nhanh
chóng): RAI, thionamides, và cắt tuyến giáp gần trọn.
Trong thời gian điều trị, bệnh nhân được theo dõi bằng đánh giá lâm sàng và
đo FT4 trong máu. TSH máu không có ích trong việc đánh giá các đáp ứng
12
ban đầu của điều trị, bởi vì nó vẫn bị ức chế cho đến sau khi bệnh nhân trở
về bình giáp.
Bất kể phương pháp điều trị nào, tất cả các bệnh nhân bị bệnh Graves cần
theo dõi lâu dài sự tái phát cường giáp hoặc sự phát triển của suy giáp.
- Lựa chọn điều trị đặc hiệu:
Trong bệnh Graves, điều trị RAI là lựa chọn điều trị cho gần như tất cả các
bệnh nhân. Nó đơn giản và có hiệu quả cao nhưng không thể sử dụng trong
thai kỳ. Propylthiouracil (PTU) nên được sử dụng để điều trị cường giáp trong
thai kỳ. Thionamides đạt được kiểm soát bệnh lâu dài trong ít hơn một nửa
bệnh nhân bị bệnh Graves, và chúng có một số nguy cơ nhỏ tác dụng phụ đe
dọa tính mạng. Cắt tuyến giáp nên được sử dụng ở những bệnh nhân từ chối
điều trị RAI và những bệnh nhân tái phát hoặc gặp các tác dụng phụ với điều
trị thionamide.
Các nguyên nhân khác của cường giáp. Bướu giap đa nhân độc và bướu tuyến
độc nên được điều trị với RAI (trừ khi có thai). Những dạng thoáng qua của
cường giáp do viêm tuyến giáp nên được điều trị triệu chứng với atenolol.
Cường giáp do iốt gây ra nên được điều trị với thionamides và atenolol đến
khi bệnh nhân bình giáp. Mặc dù điều trị một số bệnh nhân cường giáp do
amiodarone gây ra với glucocorticoid đã được ủng hộ, gần như tất cả các bệnh
nhân cường giáp do amiodarone đáp ứng tốt với điều trị thionamide
- Điều trị iod phóng xạ (RAI):
• Một liều duy nhất kiểm soát bệnh lâu dài cường giáp ở 90% bệnh nhân, và nếu
cần có thể điều trị thêm.
• Xét nghiệm mang thai được thực hiện ngay trước khi điều trị ở phụ nữ có khả
năng sinh sản.
• Hấp thu iod phóng xạ 24 giờ (RAIU) thường được đo và được sử dụng để tính
toán liều lượng.
• Thionamides ảnh hưởng điều trị RAI và phải được dừng ít nhất 3 ngày trước
khi điều trị. Nếu điều trị iốt, nó nên được dừng ít nhất 2 tuần trước khi điều trị
RAI.
13
- Thionamides:
• Methimazole và PTU ức chế tổng hợp hormon tuyến giáp. PTU cũng ức chế
T4 thành T3 ngoài tuyến giáp. Một khi dự trữ hormone tuyến giáp giảm (sau
vài tuần đến vài tháng), T4 giảm. Những loại thuốc này không có hiệu quả lâu
dài trên chức năng tuyến giáp. Trong đa số các bệnh nhân với bệnh Graves,
cường giáp tái phát trong vòng 6 tháng sau khi ngưng điều trị. Sự thuyên giảm
tự phát của bệnh Graves xảy ra trong khoảng một phần ba số bệnh nhân trong
khi điều trị thionamide, và trong thiểu số này, không cần điều trị khác. Thuyên
giảm nhiều trong những trường hợp cường giáp mới khởi phát và nhẹ và nếu
bướu giáp nhỏ. Bởi vì tính an toàn tốt hơn, methimazole nên được sử dụng
thay vì PTU, ngoại trừ trong các tình huống cụ thể
• Bắt đầu điều trị. Trước khi bắt đầu điều trị, bệnh nhân phải được cảnh báo về
tác dụng phụ và những cẩn trọng. liều khởi đầu thông thường methimazole, 10
– 40 mg uống hàng ngày, hoặc PTU, 100 – 200 mg uống 3 lần ngày; liều ban
đầu cao hơn có thể được sử dụng trong cường giáp nặng.
- Cắt tuyến giáp gần trọn:
Thủ thuật này cho phép kiểm soát lâu dài cường giáp trong hầu hết các bệnh
nhân. Phẫu thuật có thể làm nặng hơn tình trạng cường giáp chu phẫu, và bệnh nhân
cần được chuẩn bị phẫu thuật bởi một trong hai phương pháp:
• Một thionamide được cho đến khi bệnh nhân bình giáp hoàn toàn. SSKI 40 –
80 mg (1-2 giọt) uống 2 lần/ ngày, kế đến thêm 1-2 tuần trước khi phẫu thuật.
Cả hai loại thuốc được dừng lại sau mổ.
• Atenolol (50 – 100 mg mỗi ngày) được bắt đầu từ 1-2 tuần trước khi phẫu
thuật. Liều atenolol được tăng lên, nếu cần thiết, để làm giảm nhịp tim nghỉ
ngơi dưới 90 nhịp/phút và được tiếp tục trong 5-7 ngày sau mổ. SSKI cho như
trên.
Theo dõi:
o Dấu hiệu lâm sàng và T4 tự do máu và TSH máu nên được đánh giá 4-6 tuần
sau phẫu thuật.
14
o Nếu chức năng tuyến giáp bình thường, bệnh nhân được tái khám ở 3 và 6
tháng và sau đó hàng năm.
o Nếu suy giáp có triệu chứng phát triển, điều trị thyroxine được bắt đầu.
o Cường giáp vẫn tồn tại hoặc tái phát ở 3-7% bệnh nhân.
o Các biến chứng của cắt tuyến giáp bao gồm suy giáp (30-50%) và suy tuyến
cận giáp (3%). Biến chứng hiếm bao gồm liệt dây thanh âm vĩnh viễn do chấn
thương dây thần kinh quặt ngược thanh quản, và tử vong chu phẫu. Tỷ lệ biến
chứng xuất hiện phụ thuộc vào kinh nghiệm của phẫu thuật viên.
• Một số ít bệnh nhân có biểu hiện cường giáp (bướu giáp đa nhân độc).
• Rất hiếm trường hợp, tuyến giáp chèn ép khí quản hoặc thực quản, gây khó
thở hoặc khó nuốt, do đó cần phải điều trị. Điều trị thyroxine có rất ít hiệu quả
trên kích thước của bướu giáp đa nhân. Liệu pháp RAI làm giảm kích thước
tuyến giáp và các triệu chứng ở hầu hết các bệnh nhân. Cắt tuyến giáp gần
toàn bộ cũng có thể được sử dụng để làm giảm triệu chứng chèn ép.
• Nguy cơ ung thư của bướu giáp đa nhân thấp. Nếu có một nhân giáp nổi trội
thì nên sinh thiết kim để loại trừ ung thư tuyến giáp. Ở một vài trung tâm chấp
thuận siêu âm tuyến giáp và sinh thiết kim các nhân giáp lớn hơn 1cm ở bệnh
nhân có bướu giáp đa nhân.
4.3.3. Nhân giáp đơn độc:
- Những nhân giáp đơn độc sờ thấy thường là lành tính, nhưng khoảng 5% là ung
thư.
Những dấu hiệu lâm sàng nghi ngờ ung thư bao gồm sự hiện diện của hạch cổ, bệnh
sử có xạ trị vùng đầu hoặc cổ, và tiền sử gia đình có ung thư biểu mô tuyến giáp
dạng tuỷ hoặc hội chứng đa bướu nội tiết. Một nhân giáp cứng, dính, mới xuất hiện,
hoặc khàn tiếng do bị liệt dây thanh âm là biểu hiện nghi ngờ khối u ác tính.
- Hầu hết bệnh nhân ung thư tuyến giáp không có yếu tố nguy cơ, và tất cả các nhân
giáp đơn độc sờ thấy nên được đánh giá bằng sinh thiết chọc hút bằng kim. Bệnh
nhân bị ung thư biểu mô tuyến giáp nên được tư vấn với chuyên gia về nội tiết.
- Những nhân giáp với tế bào học lành tính nên được đánh giá lại định kỳ bằng cách
sờ nắn. Điều trị thyroxine không được chỉ định vì ít hoặc không hiệu quả trên kích
thước của nhân giáp đơn độc.
- Một số trung tâm sử dụng siêu âm thường quy cho tuyến giáp có nhân giáp sờ
được và làm sinh thiết tất cả các nhân có chỉ định về kích thước và hình ảnh.
16
gây mê toàn diện. Vì vậy, suy giáp cần được xem xét ở bất kỳ bệnh nhân béo phì,
bệnh nhân suy nhược người hiển thị tim mạch hoặc hô hấp không ổn định khi phẫu
thuật.
Theo Uptodate:
Suy giáp ảnh hưởng đến nhiều hệ thống của cơ thể mà có thể ảnh hưởng đến kết quả
của phẫu thuật
• Giảm chuyển hóa toàn thân do suy giáp làm giảm cung lượng tim qua trung
gian giảm nhịp tim và co bóp.
• Giảm thông khí do yếu cơ hô hấp và giảm đáp ứng của phổi với tình trạng
thiếu oxy và tăng thán.
• Giảm nhu động ruột → táo bón.
• Một loạt các rối loạn chuyển hóa có thể xảy ra trong suy giáp, bao gồm hạ
natri máu, tăng creatinine huyết thanh, giảm độ thanh thải của một số thuốc
(thuốc chống động kinh, thuốc kháng đông, thuốc ngủ và thuốc phiện). Giảm
độ thanh thải của các yếu tố đông máu phụ thuộc vitamin K.
• Bệnh nhân suy giáp có giảm hồng cầu, thiếu máu đẳng sắc đẳng bào.
Quản lý:
Bệnh nhân suy giáp dưới lâm sàng (TSH tăng, FT4 bình thường) không cần
điều trị trước khi phẫu thuật khẩn cấp hoặc cấp cứu. Đối với phẫu thuật chương
trình, bệnh nhân suy giáp dưới lâm sàng thường có thể tiến hành phẫu thuật chương
trình.
Đối với bệnh nhân suy giáp mức độ vừa, người phải phẫu thuật khẩn cấp hoặc
cấp cứu, không cần trì hoãn phẫu thuật, vì với những kiến thức về bệnh có thể giảm
thiểu các biến chứng. Những bệnh nhân này nên được điều trị bằng hormone tuyến
giáp ngay khi được chẩn đoán. Nói chung, bệnh nhân trẻ bắt đầu với liều gần liều
thay thế hoàn toàn T4 (1,6 mcg / kg), trong khi bệnh nhân lớn tuổi hoặc những bệnh
nhân có bệnh tim phổi được bắt đầu với liều 25-50 mcg mỗi ngày với tăng liều mỗi
2-6 tuần.
Đối với bệnh nhân được phẫu thuật chương trình có suy giáp mức độ vừa, nên
hoãn phẫu thuật cho đến khi tình trạng bình giáp được phục hồi.
18
Ở những bệnh nhân suy giáp nặng (hôn mê myxedema, các triệu chứng lâm
sàng nặng của suy giáp mạn tính như: thay đổi tâm thần, tràn dịch màng ngoài tim
hoặc suy tim, hoặc mức T4 rất thấp ( < 1,0 mcg/dL) hoặc FT4 ( < 0,5 ng/dL) →
phẫu thuật nên được trì hoãn cho đến khi suy giáp đã được xử lý.
Nếu phẫu thuật khẩn cấp là cần thiết, bệnh nhân suy giáp nặng cần được điều
trị ngay khi được chẩn đoán. Nếu bệnh nhân có hôn mê myxedema, điều trị cả hai
T3 và T4. T4 được cho một liều tải 200 - 300mcg IV tiếp theo là 50mcg mỗi ngày.
T3 được cho cùng lúc với một liều 5 - 20mcg IV tiếp theo 2,5 - 10 mcg mỗi 8 giờ
tùy thuộc vào tuổi của bệnh nhân và các yếu tố nguy cơ tim đi kèm.
Bệnh nhân suy giáp thứ phát có thể có đi kèm với suy tuyến yên và suy tuyến
thượng thận thứ phát. Ngoài ra, bệnh nhân suy giáp nguyên phát do tự miễn có thể
có đồng thời suy thượng thận nguyên phát. Nếu tình trạng của trục thượng thận
tuyến yên là không chắc chắn và thiếu thì có thể xem như bệnh nhân có suy giáp
nặng cần phải phẫu thuật cấp cứu, bệnh nhân nên được cho các liều steroid chống
stress cho đến khi tính toàn vẹn của các trục được xác định chắc chắn. Nếu tình
trạng lâm sàng cho phép, xét nghiệm kích thích cosyntropin nên được thực hiện
trước khi cho steroid. Nên đặt catheter Swan-Ganz nếu có bệnh tim phổi.
Trong giai đoạn hậu phẫu, cần theo dõi sát nước và điện giải, đặc biệt là natri
máu. Ngoài ra, bệnh nhân rất dễ bị tắc ruột, bị các triệu chứng tâm thần kinh, nhiễm
trùng mà không sốt. Phòng ngừa hạ thân nhiệt.
Nếu chẩn đoán suy giáp là mơ hồ ở một bệnh nhân mắc bệnh nặng (vì khó để
đánh giá chức năng tuyến giáp trong dân số này) và phẫu thuật không thể trì hoãn,
chúng ta điều trị với thay thế hormone tuyến giáp trong giai đoạn trước và chu phẫu
nếu có bằng chứng lâm sàng gợi ý chẩn đoán suy giáp (ví dụ: chậm nhịp tim và
giảm thân nhiệt cùng với tâm thần chậm chạp, phù mặt, một bệnh sử cá nhân hoặc
gia đình có bệnh tuyến giáp, hoặc bệnh sử cá nhân có bệnh vùng dưới đồi hoặc bệnh
tuyến yên hoặc xạ trị vùng sọ não). Nếu không có nghi ngờ hôn mê myxedema, bắt
đầu với 1/2 liều dự kiến đầy đủ của T4 (0,8 mcg/kg cho bệnh nhân trẻ tuổi và 25 -
50mcg mỗi ngày cho bệnh nhân lớn tuổi hoặc những bệnh nhân có bệnh tim phổi).
19
• Ngay cả cường giáp dưới lâm sàng cũng gây tăng tỷ lệ ngoại tâm thu nhĩ và
tăng nguy cơ gấp ba lần của rung nhĩ.
• Khó thở có thể xảy ra vì nhiều lý do, bao gồm: tăng tiêu thụ oxy và tăng sản
xuất CO2, yếu cơ hô hấp, và giảm thể tích phổi.
• Giảm cân chủ yếu do tăng sinh năng lượng, thứ đến là do tăng nhu động ruột
tăng đi tiêu và kém hấp thu; những thay đổi này có thể làm cho bệnh nhân bị
suy dinh dưỡng.
Quản lý:
Ở những bệnh nhân cường giáp không được điều trị hoặc kiểm soát kém, phẫu
thuật có thể thúc đẩy cơn bão giáp. Do đó, chúng ta nên hoãn phẫu thuật ở bệnh
nhân mới được phát hiện cường giáp cho đến khi bệnh nhân đã đạt được kiểm soát
đầy đủ. (thường là 3-8 tuần).
Đối với bệnh nhân cường giáp mà phẫu thuật cấp cứu không thể trì hoãn, điều
trị cường giáp trước phẫu thuật nên bắt đầu càng sớm càng tốt.
• Trong trường hợp không có chống chỉ định, sử dụng chẹn β thường là atenolol
25-50 mg mỗi ngày với liều tăng lên khi cần thiết để duy trì mạch dưới 80
nhịp/phút. Chẹn β nên được tiếp tục cho đến khi bệnh tuyến giáp của bệnh
nhân được kiểm soát. Tiêm tĩnh mạch propranolol (0,5-1 mg, tiếp theo là 1-2
mg mỗi vài giờ) có thể được sử dụng để kiểm soát sốt, tăng huyết áp, nhịp tim
nhanh trong phẫu thuật.
• Thêm vào đó, khi chẩn đoán cường giáp do bệnh Graves hoặc cường giáp
nhân, nên bắt đầu với thuốc kháng giáp thionamide, mục đích là kiểm soát
cường giáp trong giai đoạn hậu phẫu. Methimazole (10 mg, 2-3 lần mỗi ngày
hoặc 20-30 mg, 1 lần mỗi ngày) thường được ưa thích hơn PTU, ngoại trừ
trong tam cá nguyệt đầu tiên của thai kỳ, do thời gian hoạt động kéo dài hơn
(cho phép dùng liều duy nhất mỗi ngày) và độc tính ít hơn. PTU (100-150 mg
mỗi sáu đến tám giờ) cũng được ưa thích bởi một số bác sĩ lâm sàng để điều trị
bước đầu của cơn bão giáp vì nó làm giảm chuyển T4 thành T3 ở ngoại vi.
21
Nếu cường giáp nặng và phẫu thuật khẩn cấp, nên thêm dung dịch kali iốt
(SSKI, 1 – 5 giọt, 3 lần mỗi ngày) một giờ sau khi cho thionamides. Đối với những
bệnh nhân không thể uống thionamides thì có thể cho qua đường trực tràng.
Đối với bệnh nhân cường giáp bệnh Graves bị dị ứng hoặc không dung nạp
thionamides, có thể phối hợp thuốc chẹn β và iốt để chuẩn bị trước mổ.
Bệnh nhân với bướu giáp nhân độc bị dị ứng hoặc không dung nạp thionamide
nên được điều trị chỉ với thuốc chẹn β, vì iốt có thể làm trầm trọng thêm cường
giáp.
Bệnh nhân cường giáp dưới lâm sàng (TSH thấp, FT4 FT3 bình thường)
thường có thể tiến hành phẫu thuật chương trình. Nếu không có chống chỉ định,
chúng ta cho thuốc chẹn β trước phẫu thuật ở bệnh nhân lớn tuổi (> 50 tuổi) hoặc
bệnh nhân trẻ mắc bệnh tim mạch, và giảm liều từ từ sau khi hồi phục.
Giai đoạn trong và sau phẫu thuật: đặc biệt quan tâm đến tình trạng tim mạch,
bệnh nhân cần được theo dõi biến chứng loạn nhịp tim, thiếu máu cơ tim và suy tim
sung huyết. Bệnh nhân cường giáp cũng có nguy cơ thở qua ống nội khí quản kéo
dài do tăng tiêu thụ oxy cơ bản và yếu cơ hô hấp.
công Dantrolene để điều trị cơn bão giáp ở một đứa bé mà không đáp ứng với các
phương pháp điều trị truyền thống.
Do hormone tuyến giáp làm tăng nhạy cảm của các thụ thể adrenergic với
catecholamin nội sinh, vì vậy magnesium sulphate, về mặt lý thuyết, dường như là
một thuốc hữu ích. Magnesium làm giảm tỷ lệ và mức độ nặng của loạn nhịp tim do
catecholamine gây ra.
Điều trị hỗ trợ của cơn bão giáp bao gồm bù dịch, làm mát, thuốc inotropes và
steroid.
Theo uptodate:
Các triệu chứng cổ điển của cơn bão giáp bao gồm nhịp tim nhanh, tăng thân nhiệt,
rối loạn chức năng hệ thần kinh trung ương (kích động, mê sảng, rối loạn tâm thần,
sững sờ, hoặc hôn mê) và các triệu chứng tiêu hóa (buồn nôn, nôn ói, đau bụng).
Khám lâm sàng có thể phát hiện bướu cổ, bệnh lý mắt (lồi mắt trong bệnh Graves),
tụt mí, run tay, da ấm và ẩm. Xét nghiệm chức năng tuyến giáp cho thấy cường giáp
(giảm TSH, tăng cao FT4 và FT3).
Việc chẩn đoán cơn bão giáp được dựa trên sự hiện diện của các triệu chứng
nghiêm trọng và đe dọa tính mạng (tăng thân nhiệt, rối loạn chức năng tim mạch,
thay đổi tâm thần) ở bệnh nhân có bằng chứng sinh hóa của cường giáp (FT4
và/hoặc FT3 tăng cao, TSH giảm).
Trong một hệ thống tính điểm (bảng bên dưới), ≥ 45 điểm gợi ý nhiều cho cơn
bão giáp, < 25 điểm không nghĩ đến bão giáp.
Diagnostic criteria for thyroid storm*
Mild 10 Mild 5
Moderate 20 Moderate 10
Psychosis Severe 15
Seizure Negative 0
Coma Positive 10
Gastrointestinal-hepatic dysfunction
Moderate 10
Diarrhea
Nausea/vomiting
Abdominal pain
Severe 20
Unexplained jaundice
để quan sát các dây thanh, nếu soi thanh quản gián tiếp không thành công sẽ cảnh
báo các bác sĩ gây mê có khả năng đặt nội khí quản khó.
Chụp X-quang được yêu cầu để tìm kiếm bằng chứng về chèn ép khí quản và
độ lệch của khí quản, chụp nghiêng được thực hiện để cho thấy chèn ép theo mặt
phẳng trước – sau.
Các khảo sát khác (không thường quy) sẽ có giá trị trong những trường hợp
nhất định. CT scan có thể cung cấp hình ảnh tuyệt vời của bướu giáp sau xương ức.
Chụp cộng hưởng từ (MRI) có lợi thế là cung cấp những hình ảnh trong các
mặt phẳng dọc cũng như ngang.
28
Sự hữu ích của xét nghiệm chức năng hô hấp còn tranh cãi. Gittoes và cộng sự
đã báo cáo là đường cong lưu lượng - thể tích cho thấy tắc nghẽn đường hô hấp trên
ở 33% trong số 153 bệnh nhân có bướu giáp lớn. Sự tắc nghẽn này không liên quan
đến loại hoặc kích thước của bướu giáp.
Sau khi khác bệnh sử và thăm khám cẩn thận cùng với sự hỗ trợ của một số
xét nghiệm, các bác sĩ gây mê có thể thảo luận với bệnh nhân các tùy chọn khác
nhau để quản lý đường thở. Các tùy chọn này bao gồm: gây mê tĩnh mạch với đặt
nội khí quản, gây mê hô hấp hoặc đặt nội khí quản với ống nội soi mềm... Bệnh
nhân cần được cảnh báo những gì có thể xảy ra sau mổ và nên tiền mê để giải lo âu.
dự kiến đặt nội khí quản khó; béo phì; ngưng thở khi ngủ; không có khả năng nằm
ngang; hội chứng sợ không gian hẹp (claustrophobia).
Ở một số nơi trên thế giới, tuyến giáp được thực hiện dưới châm cứu, có hoặc
không có thêm giảm đau. Ngủ với thôi miên: sự kết hợp của thôi miên và ngủ nông
đã được đề xuất cho phẫu thuật tuyến nội tiết bao gồm phẫu thuật tuyến giáp.
nhân mẫn cảm với tăng thân nhiệt ác tính. Một phối hợp thuốc khác hay được sử
dụng là propofol kết hợp với remifentanil, trái với alfentanil, remifentanil có thời
gian tác dụng cực ngắn và cho phép đáp ứng nhanh và tiên đoán được với sự thay
đổi liều.
Mặt nạ thanh quản đã được sử dụng với kiểu tự thở hoặc thông khí áp lực
dương ngắt quãng để phẫu thuật tuyến giáp. Kỹ thuật này đòi hỏi phải hợp tác chặt
chẽ giữa các bác sĩ phẫu thuật và bác sĩ gây mê. Chống chỉ định tương đối bao gồm
hẹp khí quản và/hoặc lệch khí quản. Sử dụng mặt nạ thanh quản cho thấy sự chuyển
động dây thanh được nhìn thấy qua nội soi thanh quản ống mềm khi các dây thần
kinh quặt ngược thanh quản bị kích thích. Tuy nhiên, có một nguy cơ là mặt nạ
thanh quản sẽ bị di lệch trong khi phẫu thuật và co thắt thanh quản xảy ra liên quan
đến thao tác phẫu thuật. Sử dụng mặt nạ thanh quản ở bệnh nhân có bướu giáp lớn
tỏ ra khó khăn vì độ lệch của đường vào thanh quản.
Gây mê cho phẫu thuật tuyến giáp (khi không có đánh giá đặt nội khí quản
khó) thì đặt nội khí quản thường sử dụng với đèn soi thanh quản. Các ống khí quản
không nên bị xoắn, gập lại trong quá trình phẫu thuật kéo dài, do đó, một ống nội
khí quản được gia cố như ống có lò xo cần được xem xét. Ống nội khí quản qua
đường mũi cũng có thể được sử dụng với co mạch tại chỗ để ngăn chặn chảy máu
cam. Cần chọn một ống nội khí quản nhỏ được gia cố nếu có bất kỳ mức độ chèn ép
khí quản.
bên của bệnh nhân. Đường truyền tĩnh mạch phải được kết nối dài để dễ dàng tiếp
cận cho thuốc. Giường đặt ở tư thế đầu cao 25° giúp hồi lưu tĩnh mạch dễ dàng hơn,
mặc dù điều này nên được thực hiện với sự chú ý cẩn thận huyết áp động mạch, đặc
biệt ở những bệnh nhân đã được uống thuốc chẹn β.
Cuối cùng, đầu ngữa nhẹ sẽ cho phép các bác sĩ phẫu thuật tiếp cận dễ dàng
tuyến giáp hơn. Không nên ngữa quá mức vì có thể gây đau cho bệnh nhân cũng
như có thể gây thuyên tắc khí.
Sau phẫu thuật, chức năng dây thanh được kiểm tra bằng cách soi thanh quản
gián tiếp trước khi xuất viện. Kỹ thuật mới như soi thanh quản có video là một
phương tiện chính xác để chẩn đoán bất thường dây thanh sau khi phẫu thuật tuyến
giáp.
5.3. Phẫu thuật cắt tuyến giáp trong các tình huống đặc biệt:
5.3.1. Hội chứng cƣờng giáp:
Phẫu thuật cắt tuyến giáp được thực hiện ở bệnh nhân cường giáp tự miễn
(bệnh Graves) khi điều trị nội khoa là không đủ.
Bệnh nhân nên được bình giáp trước khi phẫu thuật. Khoảng 3/1000 bệnh
nhân không thể dùng thuốc kháng giáp vì phản ứng có hại nghiêm trọng như: mất
bạch cầu hạt, viêm gan, thiếu máu bất sản và hội chứng giống lupus.
Các triệu chứng lâm sàng của nhiễm độc giáp thường được kiểm soát bởi
thuốc chẹn β và người ta cho rằng một mình chẹn β có thể được chuẩn bị đầy đủ
cho cắt giáp.
Dung dịch Lugol được cho 10 ngày trước mổ với liều 0,5 ml 3 lần một ngày
để giảm chảy máu vì thuốc kháng giáp làm cho tuyến giáp tăng mạch máu. Mặc dù
tranh cãi này đã được ủng hộ bằng cách đo lượng máu tuyến giáp bằng hấp thu
Thallium đồng vị phóng xạ, nhiều bác sĩ phẫu thuật đã từ bỏ việc này, đó là do
tuyến giáp bây giờ thường được phẫu thuật không có cắt ngang bướu.
5.3.2. Bƣớu giáp khổng lồ:
Phình giáp địa phương vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi trên thế giới. Bướu giáp
nhân khổng lồ có thể xảy ra. Phình giáp có thể có một sự xuất hiện ấn tượng nhưng
chúng thường ít vấn đề hơn là phình giáp sau xương ức. Các vấn đề liên quan đến
phình giáp khổng lồ bao gồm: đặt nội khí quản khó (mặc dù nâng bướu về phía
trước thường làm giảm tắc nghẽn đường thở), mất máu nhiều, thời gian phẫu thuật
kéo dài và nhuyễn khí quản sau mổ.
Mất máu thường ít là vấn đề vì các bác sĩ phẫu thuật bóc tách tuyến giáp mà
không cắt ngang nó.
34
Sử dụng một ống nội khí quản có lò xo được khuyến cáo. Ống nội khí quản có
lò xo ít có khả năng xoắn, xẹp trong thao tác phẫu thuật, trong khi ống nội khí quản
thường bị xẹp trong phẫu thuật có thể kéo dài này.
Độ lệch và chèn ép khí quản được giải quyết ngay sau khi cắt bỏ bướu giáp,
nhưng nhuyễn khí quản nên được dự đoán khi bệnh nhân đã có bệnh bướu cổ lâu
đời.
Cần lưu ý rằng một số giãn khí quản vẫn còn ở trên vị trí chèn ép ban đầu.
lọc di truyền có đột biến của một proto-oncogene. Trẻ em với MEN 2B nên cắt
tuyến giáp trong năm đầu tiên của cuộc sống.
5.3.6. Bƣớu giáp lƣỡi:
Là tuyến giáp lạc chỗ ở đáy lưỡi, được chẩn đoán bằng thallium hoặc
technetium scan và cần được điều trị cẩn trọng vì nó có thể là mô tuyến giáp duy
nhất của bệnh nhân. Không có kinh nghiệm tưởng bướu đáy lưỡi sinh thiết có thể
chảy máu rất nhiều. Sự hiện diện của một bướu giáp lưỡi báo động khả năng đặt nội
khí quản khó.
nhiễm trùng đường hô hấp gần đây. Phản xạ nhạy cảm của đường thở trên giảm dần
theo tuổi. Phòng ngừa có thể bao gồm rút ống nội khí quản khi gây mê còn tương
đối sâu, cho thuốc á phiện đường tĩnh mạch, ví dụ alfentanil và lidocaine. Lidocaine
có thể được tiêm tĩnh mạch hoặc tại chỗ, hoặc thậm chí chứa trong túi hơi của ống
nội khí quản.
5.4.2. Tụ máu:
Chảy máu sau phẫu thuật là 1 thảm họa tiềm tàng khi phẫu thuật ở vùng cổ,
nhưng có thể tránh được bằng cách cầm máu tỉ mỉ. Các bác sĩ gây mê có thể được
yêu cầu để duy trì áp lực dương trong lồng ngực của bệnh nhân trong 10 - 20 giây
(nghiệm pháp valsalva) để đánh giá việc cầm máu trước khi đóng da. Nhân viên
khoa hồi tỉnh nên có kinh nghiệm theo dõi các dấu hiệu sớm của khối máu tụ để cả
hai bác sĩ phẫu thuật và bác sĩ gây mê có thể được cảnh báo sớm. Mở lại vết mổ để
giảm chèn ép đường thở nếu cần thiết, rồi thì sau đó nếu cần thiết mở tất cả các lớp.
Phẫu thuật lại để cầm máu thì hiếm. Đặt lại nội khí quản sớm được khuyến
khích. Đội ngũ gây mê nên nhận thức được những vấn đề liên quan đến việc gây mê
ở bệnh nhân được mổ lại. Rõ ràng, đặt nội khí quản khó khăn hơn do máu tụ lan
rộng và chèn ép khí quản.
Tắc nghẽn đường hô hấp có thể xảy ra do phù nề thanh quản và hầu họng như
là kết quả của sự tắc nghẽn tĩnh mạch và mạch bạch huyết do tụ máu hơn là do chèn
ép khí quản trực tiếp. Đặt lại nội khí quản sớm tốt hơn là mở lại vết mổ để giải áp
đường thở.
5.4.3. Tổn thƣơng thần kinh quặt ngƣợc thanh quản:
Kỹ thuật mổ tốt cùng với nhận dạng thường xuyên các dây thần kinh quặt
ngược thanh quản giúp giảm thiểu rất nhiều tổn tương thần kinh. Tổn thương các
dây thần kinh quặt ngược thanh quản có thể xảy ra do một số cơ chế bao gồm: thiếu
máu, đụng dập, kéo, kẹp và cắt ngang thực sự. Tỷ lệ bị liệt dây thanh một bên tạm
thời do tổn thương thần kinh quặt ngược thanh quản là 3 - 4%, liệt vĩnh viễn < 1%
và liệt dây thanh 2 bên cực kỳ hiếm. Có một nguy cơ tổn thương thần kinh trong
phẫu thuật bệnh ác tính và các phẫu thuật lần hai. Biến đổi giải phẫu và biến dạng sẽ
38
làm tăng nguy cơ tổn thương thần kinh, đặc biệt là khi các bác sĩ phẫu thuật thiếu
kinh nghiệm.
Các bác sĩ phẫu thuật có thể tìm sự an tâm bằng cách yêu cầu bác sĩ gây mê
quan sát sự chuyển động của các dây thanh âm ở cuối cuộc mổ, điều này có thể khó
khăn vì bệnh nhân đang thoát mê. Dây thanh có thể được quan sát bằng ống soi
mềm, mặt nạ thanh quản có thể được sử dụng để duy trì đường thở trong suốt quá
trình này.
Những nỗ lực để bảo vệ các dây thần kinh quặt ngược thanh quản trong phẫu
thuật tuyến giáp liên quan đến việc phát hiện chuyển động dây thanh sau khi kích
thích các dây thần kinh, sự khép dây thanh làm thay đổi áp lực trong bóng hơi của
ống nội khí quản đặt giữa 2 dây thanh, một ống soi phế quản mềm có thể được sử
dụng để quan sát các dây thanh thông qua mặt nạ thanh quản trong suốt phẫu thuật,
theo dõi điện sinh lý trong mổ được thực hiện bằng cách sử dụng một ống nội khí
quản với điện cực EMG tích hợp định vị ở mức của các dây thanh âm.
Succinylcholine (0,6-1,5 mg/kg) được sử dụng để đặt nội khí quản và không
dùng thêm giãn cơ. Khi succinylcholine không thể sử dụng (bệnh nhân bị bỏng, các
tổn thương thần kinh, bệnh thần kinh cơ), áp dụng kỹ thuật đặt nội khí quản không
dãn cơ (ví dụ: remifentanil liều cao 2,5-4 mcg/kg IV cùng với propofol 2 mg/kg và
ephedrine 10-15 mg IV – ngừa tụt huyết áp). Khi các dây thần kinh quặt ngược
thanh quản được xác định, các dây thần kinh được kích thích với một dòng điện là
0,1 mA, tăng theo mỗi 0,05 mA, cho đến khi một gợi EMG thu được.
Trong khi không chắc chắn rằng sự kích thích thần kinh sẽ trở thành thường
quy cho tất cả các phẫu thuật tuyến giáp thì nó có thể là một kỹ thuật hữu ích khi
xác định các dây thần kinh quặt ngược thanh quản được dự kiến sẽ khó xác định.
Tuy nhiên, nó đắt tiền, tốn thời gian, đòi hỏi bệnh nhân phải tự thở và đáp ứng âm
tính giả có thể xảy ra. Một số bác sĩ phẫu thuật đang lo ngại về những ảnh hưởng
của kích thích dây thần kinh lặp đi lặp lại.
Liệt dây thanh 2 bên sẽ dẫn đến thở rít lúc rút nội khí quản. Đặt lại nội khí
quản sẽ được yêu cầu và mở khí quản nên được xem xét. Liệt dây thanh 1 bên đưa
đến bất lực nắp thanh môn, khàn tiếng, khó thở, ho không hiệu quả và hít sặc.
39
Phương pháp điều trị kinh điển liệt dây thanh bao gồm: tiêm vào dây thanh, phẫu
thuật tạo hình thanh quản, tái tạo thanh quản qua cửa sổ sụn giáp, treo dây thanh
sang bên qua ngã nội soi, tiêm silicon vào dây thanh qua da.
5.4.4. Nhuyễn khí quản:
Sụp khí quản sau phẫu thuật cắt tuyến giáp do chèn ép khí quản kéo dài bởi
một bướu lớn, đặc biệt là bướu nằm ở lối vào lồng ngực, tỷ lệ nhuyễn khí quản phụ
thuộc vào tần số của loại bướu này.
Trong một nghiên cứu tiền cứu trên 103 bệnh nhân ở Khartoum (thủ đô của
Sudan), năm bệnh nhân cần phải mở khí quản do nhuyễn khí quản. Đây là một biến
chứng đe dọa tính mạng, cần được xem xét trước khi rút ống nội khí quản, và các
chiến lược quản lý nên có sẵn. Sự vắng mặt của một rò rỉ khí xung quanh cuff xì hơi
của ống nội khí quản nên báo cho bác sĩ gây mê khả năng nhuyễn khí quản. Sau khi
đặt nội khí quản, Sinha và các cộng sự đo lường thể tích không khí cần thiết để thổi
phồng cuff của ống nội khí quản để tạo ra sự kín, thực hiện tương tự vào cuối phẫu
thuật và nhuyễn khí quản có thể được phát hiện nếu có bất kỳ giảm khối lượng cần
thiết để bơm kín cuff.
Điều trị nhuyễn khí quản đòi hỏi đặt lại nội khí quản khẩn, có thể mở khí quản
và một số hình thức hỗ trợ khí quản, ví dụ: giá đỡ, các vòng gốm…
thuật gây mê, theo dõi cẩn thận trước khi xuất viện, và hỗ trợ của cộng đồng là yếu
tố quan trọng.
Các kỹ thuật xâm lấn tối thiểu đã được phát triển trong nhiều chuyên khoa
phẫu thuật, kể cả phẫu thuật nội tiết. Cắt đốt bướu giáp lành tính bằng Laser hay
sóng cao tần RFA là các kỹ thuật xâm lấn tối thiểu với vô cảm là tê tại chỗ đang
ngày càng phát triển.
Tóm lại
• Bệnh tuyến giáp là phổ biến. Các bác sĩ gây mê cần phải biết quản lý điều trị
bệnh nhân suy giáp và cường giáp để phẫu thuật cắt tuyến giáp.
• Cần hội chẩn bác sĩ nội tiết, tim mạch trước mổ.
• Bình giáp trước phẫu thuật là quan trọng.
• Bởi vì gây mê cắt tuyến giáp gây ra nhiều thách thức về quản lý đường thở, do
đó, các bác sĩ gây mê nên đặc biệt chú ý đến đánh giá đường thở trước phẫu
thuật và có thể đối phó với các biến chứng đường hô hấp cấp tính ở giai đoạn
chu phẫu.
42
thích các tế bào xương và tạo xương sửa chữa tổn thương. Do vậy ở thời gian lâu thì
ở xương sẽ có sự gia tăng của cả 3 loại tế bào nhưng dưới tác dụng của PTH thì bao
giờ quá trình hủy xương cũng diễn ra mạnh hơn tạo xương.
6.1.2. Tác dụng trên thận:
- Làm giảm bài xuất ion canxi ở thận
- Làm tăng tái hấp thu ion Canxi và Magie ở ống thận đặc biệt ở ống lượn xa và ống
góp.
- Làm giảm tái hấp thu ion phosphate ở ống lượn gần do đó làm tăng đào thải ion
phosphate ra nước tiểu.
→ Các tác dụng trên sẽ làm tăng nồng độ ion canxi và làm giảm nồng độ ion
phosphate trong máu.
6.1.3. Tác dụng trên ruột:
PTH hoạt hóa quá trình tạo 1,2 dihydroxycholecalciferol từ vitamin D3
(cholecalciferol) nên PTH có những tác dụng trên ruột như sau:
- Tăng tạo enzyme ATPase ở riềm bàn chải của tế bào biểu mô niêm mạc ruột.
- Tăng tạo chất vận tải ion canxi ở tế bào niêm mạc ruột.
- Tăng hoạt tính enzyme phosphatase kiềm ở tế bào niêm mạc ruột.
→ Cả 3 tác dụng trên đểu làm tăng hấp thu ion canxi và phosphate ở ruột.
6.1.4. Điều hòa bài tiết:
Nồng độ PTH bình thường trong máu là vào khoảng dưới 50 pg/ml. Hormon
được bài tiết nhiều hay ít tùy thuộc vào nồng độ ion canxi và phosphate trong máu
đặc biệt là ion canxi. Chỉ cần giảm nhẹ nồng độ ion canxi thi tuyến sẽ tăng tiết
hormone ngay, và tình trạng giảm canxi kéo dài có thể làm tuyến sẽ nở to ra còn
nồng độ ion canxi trong máu tăng thì hoạt động và kích thước của tuyến sẽ giảm.
6.2. Những rối loạn hoạt động của tuyến cận giáp:
6.2.1. Suy tuyến cận giáp:
Là tình trạng tuyến cận giáp không bài tiết đủ lượng PTH do giảm hoạt động
chức năng của tuyến sẽ dẫn đến những rối loạn trong cơ thể do tình trạng giảm nồng
độ ion canxi gây ra.
44
- Biểu hiện: Ngưỡng kích thích của sợi thần kinh giảm xuống (xảy ra cả với sợi thần
kinh cảm giác và vận động) do đó làm tăng đáp ứng thần kinh cơ.
- Thể nhẹ: Phát hiện nhờ làm nghiệm pháp Chvostek và Trousseau phát hiện dấu
hiệu co cơ.
- Thể nặng: Xuất hiện các cơn tetany, gây co các cơ trong cơ thể nhưng quan trọng
nhất là khi co thắt các cơ ở thanh quản gây ngừng thở nếu không cấp cứu kịp sẽ làm
bệnh nhân chết.
- Xét nghiệm: làm xét nghiệm máu và nước tiểu sẽ phát hiện tình trạng giảm nồng
độ PTH, ion canxi; nồng độ phosphate huyết tương tăng lên, giảm ở trong nước
tiểu.
Ác tính - khối u ung thư là một nguyên nhân hiếm gặp của cường cận giáp tiên
phát.
Cường cận giáp tiên phát thường xảy ra ngẫu nhiên, nhưng một số người thừa
hưởng gen gây ra rối loạn.
6.2.2.4. Cƣờng cận giáp thứ phát:
Cường cận giáp thứ phát là kết quả của vấn đề làm giảm nồng độ canxi. Do đó,
tuyến cận giáp làm việc quá sức để bù đắp cho việc mất canxi. Yếu tố có thể góp
phần vào cường cận giáp thứ phát bao gồm:
Thiếu hụt canxi nghiêm trọng. Cơ thể không nhận đủ canxi từ chế độ ăn uống,
thường bởi vì hệ thống tiêu hóa không hấp thụ canxi.
Thiếu vitamin D trầm trọng. Vitamin D giúp duy trì mức độ thích hợp của
canxi trong máu, và nó giúp hệ thống tiêu hóa hấp thụ canxi từ thức ăn. Cơ thể
sản xuất ra vitamin D khi da tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, và tiêu thụ một số
vitamin D trong thực phẩm. Nếu không có đủ vitamin D, sau đó mức độ canxi
có thể giảm.
Suy thận mãn tính. Thận chuyển đổi vitamin D thành một dạng mà cơ thể có
thể sử dụng. Nếu chức năng thận kém, có thể từ chối sử dụng vitamin D và
canxi. Suy thận mãn tính là nguyên nhân phổ biến nhất của cường cận giáp thứ
phát.
6.2.2.5. Yếu tố nguy cơ:
Có thể có nguy cơ gia tăng của cường cận giáp tiên phát nếu:
o Là phụ nữ đã trải qua thời kỳ mãn kinh.
o Đã có thời gian dài thiếu canxi hoặc thiếu vitamin D nghiêm trọng.
o Bị rối loạn hiếm gặp - thừa kế nội tiết nhiều, thường ảnh hưởng đến nhiều
tuyến.
o Được điều trị phóng xạ cho bệnh ung thư vùng cổ với bức xạ.
o Đã dùng lithium, một loại thuốc thường được dùng để điều trị rối loạn lưỡng
cực.
6.2.2.6. Các biến chứng:
47
Các biến chứng của cường cận giáp chủ yếu liên quan đến tác động lâu dài của
quá ít canxi trong xương và canxi quá nhiều lưu hành trong máu. Biến chứng
thường gặp bao gồm:
o Loãng xương. Việc mất canxi thường dẫn đến chứng loãng xương, hoặc
xương yếu, giòn xương dễ bị gãy.
o Sỏi thận. Việc dư thừa canxi trong máu có thể làm lắng đọng canxi và các chất
khác hình thành trong thận. Sỏi thận thường gây đau đáng kể khi nó đi qua
đường tiết niệu.
o Bệnh tim mạch. Mặc dù nguyên nhân và kết quả chính xác là không rõ, mức
canxi cao có liên quan với bệnh tim mạch, chẳng hạn như tăng huyết áp và
một số loại bệnh tim.
Cường cận giáp sơ sinh. Nghiêm trọng, không được điều trị cường cận giáp ở
phụ nữ mang thai có thể gây ra mức canxi thấp nguy hiểm ở trẻ sơ sinh.
6.2.2.7. Kiểm tra và chẩn đoán
Xét nghiệm máu
Nếu kết quả của xét nghiệm máu cho thấy có canxi cao trong máu, bác sĩ có
thể sẽ lặp lại các thử nghiệm để xác nhận kết quả sau khi chưa ăn một khoảng thời
gian (nhịn ăn). Một số vấn đề có thể nâng cao mức canxi, nhưng bác sĩ có thể thực
hiện chẩn đoán cường cận giáp, nếu xét nghiệm máu cho thấy cũng đã tăng
hormone tuyến cận giáp.
Các xét nghiệm chẩn đoán thêm
Sau khi thực hiện chẩn đoán của cường cận giáp, bác sĩ sẽ có khả năng xét
nghiệm thêm để loại trừ nguyên nhân thứ phát có thể, để xác định các biến chứng có
thể, và để đánh giá mức độ nghiêm trọng của tình trạng này. Các xét nghiệm này
bao gồm:
Kiểm tra mật độ xương (densitometry). Các thử nghiệm phổ biến nhất để đo
mật độ xương là năng lượng hấp thu tia X, hoặc DXA scan. Thử nghiệm này
sử dụng các thiết bị X quang đặc biệt để đo canxi và các khoáng chất xương
khác ở một phân đoạn của xương.
48
Xét nghiệm nước tiểu. Nước tiểu 24 giờ có thể cung cấp thông tin về chức
năng thận và canxi được bài tiết trong nước tiểu thế nào. Xét nghiệm này có
thể giúp đánh giá mức độ nghiêm trọng của cường cận giáp hoặc chẩn đoán
rối loạn thận gây cường cận giáp.
Hình ảnh của thận. Bác sĩ có thể X quang hoặc kiểm tra hình ảnh khác của
bụng để xác định xem có sỏi thận hoặc bất thường ở thận khác.
Hình ảnh trƣớc khi phẫu thuật
Nếu bác sĩ đề nghị phẫu thuật, người đó có thể sẽ sử dụng sự kết hợp của hai
kiểm tra hình ảnh để xác định vị trí của tuyến cận giáp hoặc tuyến có gây ra vấn đề:
Siêu âm. Siêu âm sử dụng sóng âm để tạo ra hình ảnh của tuyến cận giáp và
các mô xung quanh.
Chụp Sestamibi. Sestamibi là một hợp chất phóng xạ đặc biệt được hấp thụ
bởi các tuyến cận giáp hoạt động quá mức và có thể được phát hiện trên chụp
cắt lớp vi tính (CT). Một lượng nhỏ hợp chất được tiêm vào mạch máu trước
khi các thử nghiệm hình ảnh được thực hiện.
6.2.2.8. Phương pháp điều trị và thuốc
Theo dõi
Bác sĩ có thể khuyên không điều trị và theo dõi thường xuyên nếu:
• Canxi cấp chỉ hơi cao.
• Thận hoạt động bình thường.
• Mật độ xương bình thường hoặc chỉ hơi dưới mức bình thường.
• Không có triệu chứng khác có thể cải thiện với điều trị.
• Nếu chọn cách tiếp cận chờ đợi, cần xét nghiệm để kiểm tra canxi máu ít nhất
hai lần một năm và kiểm tra giám sát khác thực hiện ít nhất một năm một lần.
Phẫu thuật
Phẫu thuật là điều trị phổ biến nhất cho cường cận giáp tiên phát và cung cấp
chữa bệnh trong ít nhất 90 phần trăm tất cả các trường hợp. Bác sĩ phẫu thuật sẽ loại
bỏ chỉ những tuyến phì đại hoặc có khối u (u tuyến). Nếu tất cả bốn tuyến bị ảnh
hưởng, bác sĩ phẫu thuật có khả năng loại bỏ chỉ ba tuyến và có lẽ để lại một số mô
chức năng tuyến cận giáp thứ tư.
49
Phẫu thuật có thể được thực hiện như một thủ tục ngoại trú, cho phép về nhà
cùng ngày. Trong trường hợp này, phẫu thuật được thực hiện thông qua các vết mổ
rất nhỏ ở cổ, và chỉ nhận được thuốc gây tê cục bộ.
Các biến chứng sau phẫu thuật không phải là phổ biến. Rủi ro bao gồm:
Tổn thương dây thần kinh quặt ngược thanh quản điều khiển dây thanh.
Mức canxi thấp dài hạn cần sử dụng canxi và vitamin D bổ sung.
Thuốc
Các loại thuốc để điều trị cường cận giáp bao gồm:
• Calcimimetics: là một loại thuốc bắt chước canxi lưu hành trong máu. Do đó,
thuốc có thể lừa các tuyến cận giáp vào giải phóng hormon tuyến cận giáp ít.
Thuốc này được bán như cinacalcet (Sensipar). FDA chấp thuận cinacalcet để
điều trị cường cận giáp bởi bệnh thận mãn tính hoặc ung thư tuyến cận giáp.
Một số bác sĩ có thể kê nó để điều trị cường cận giáp tiên phát, đặc biệt nếu
phẫu thuật không chữa trị thành công những rối loạn hoặc một người không
phải là một ứng cử viên tốt cho phẫu thuật.
• Liệu pháp hormon thay thế. Đối với những phụ nữ đã trải qua thời kỳ mãn
kinh và có dấu hiệu của bệnh loãng xương, liệu pháp hormone thay thế có thể
giúp xương giữ được canxi. Điều trị này, thường là sự kết hợp estrogen và
progestin, không giải quyết được vấn đề cơ bản với các tuyến cận giáp. Sử
dụng lâu dài liệu pháp thay thế hormone có thể làm tăng nguy cơ bệnh tim
mạch và một số bệnh ung thư. Làm việc với bác sĩ để đánh giá các rủi ro và lợi
ích để giúp quyết định tốt nhất.
• Bisphosphonates. Bisphosphonates cũng ngăn chặn việc mất canxi từ xương
và có thể làm giảm loãng xương gây ra do cường cận giáp.
6.3. Gây mê hồi sức cho bệnh nhân có bệnh lý tuyến phó giáp
Tăng canxi trong huyết thanh và tăng không hợp lý hormone tuyến cận giáp tạo
thành các triệu chứng chính cường cận giáp. Các rối loạn nội tiết, điện giải và
chuyển hóa có thể ảnh hưởng mạnh sinh lý của người bình thường. Sự rối loạn điện
giải nổi bật nhất trong phẫu thuật tuyến cận giáp là sự mất cân bằng của nồng độ
50
canxi trong cơ thể và trọng tâm chính trong suốt thời gian chu phẫu xoay quanh việc
duy trì nồng độ canxi huyết thanh bình thường. Các tính năng cổ điển của tăng
canxi máu: bệnh nhân thường phàn nàn thấy khó chịu ở bụng, ở xương, sỏi thận,
mệt mỏi…hiếm thấy ngày nay do sự chẩn đoán sớm tăng canxi máu và bệnh nhân
thường không có triệu chứng.
6.3.3. Tiền mê
Thường quy, phối hợp benzodiazepine và kháng H2 ranitidine là những thuốc
tiền mê tốt khi cho uống đêm trước mổ và sáng ngày phẫu thuật. Tiêm
glycopyrrolate 0,2 mg đảm bảo làm khô dịch tiết hầu họng, có thể là vô cùng hữu
ích trong quản lý đường thở khó.
huống khó khăn mặt nạ thanh quản (LMA) và combitube cũng có thể được sử dụng
để thông khí.
Kỹ thuật gây mê và thuốc: opioid tác dụng ngắn như fentanyl, remifentanyl, và
sufentanyl là thuốc giảm đau lý tưởng vì chúng gây ra suy hô hấp tối thiểu. Propofol
là lý tưởng cho các thủ thuật như vậy với liều 2 mg/kg do khởi phát và hồi phục
nhanh vì thời gian bán hủy ngắn, ít tác dụng phụ, phòng ngừa buồn nôn và nôn sau
mổ. Liều giảm khi kết hợp với opioid do sự đồng vận. Etomidate có thể được sử
dụng như là một thay thế nếu bệnh nhân đã có bệnh tim mạch trước mổ.
Succinylcholine vẫn còn là thuốc được lựa chọn, đặc biệt là trong trường hợp dự
báo đường thở khó. Rocuronium ngày càng được sử dụng vì dẫn mê và đặt nội khí
quản nhanh, nhưng sự sẵn có hạn chế của suggamedex (thuốc hóa giải rocuronium)
đã làm hạn chế sử dụng rocuronium trong quản lý đường thở khó. Gây mê toàn bộ
qua tĩnh mạch (TIVA) đã ngày càng trở nên phổ biến và propofol kết hợp fentanyl
vô cùng hữu ích cho các thủ thuật đó.
xuất huyết luôn có do là nơi hợp lưu của rất nhiều mạch máu. steroid trong mổ được
xác định là hữu ích trong việc phòng chống phù nề đường thở và cùng với
palonosetron làm giảm tỷ lệ buồn nôn và nôn sau mổ. Chiến lược bảo vệ thận nên
được sử dụng trong suốt giai đoạn chu phẫu và tiếp tục trong thời kỳ hậu phẫu. Một
mối quan tâm lớn trong quá trình phẫu thuật cận giáp là sự chờ đợi cắt lạnh và vì
vậy gây mê phải được duy trì trong một thời gian dài không thích đáng.
Nhiệt độ xung quanh phòng phải được duy trì trong suốt phẫu thuật để tạo
điều kiện phẫu thuật thoải mái. Lọc máu trước mổ có một vai trò nhất định trong
quá trình phẫu thuật cường cận giáp thứ phát. Tiểu cầu đếm và xét nghiệm đông
máu nên được thực hiện vì lọc máu và cho alfacalcidol có thể gây ra rối loạn chức
năng tiểu cầu. Xanh methylene nên được sử dụng một cách cẩn thận và liều lượng
không nên vượt quá 5 mg/kg vì nó có thể ảnh hưởng đáng kể đến SpO2. Rối loạn
cân bằng điện giải đặc biệt là canxi có thể gây rối loạn dẫn truyền và co bóp cơ tim.
Dãn cơ nên được chuẩn liều vì đi kèm với yếu cơ, sử dụng liều nhỏ dãn cơ không
khử cực. Hơn nữa, mức độ dãn cơ được đánh giá với máy kích thích chuỗi 4 trong
quá trình hồi phục mê để ngăn chặn bất kỳ biến chứng tiềm tàng về đường hô hấp.
Tuy nhiên, mức canxi cao cũng có thể đối kháng hoạt động của dãn cơ không khử
cực đến một mức độ nào đó.
thuốc rất hiệu quả trong việc ức chế đáp ứng stress trước khi đặt nội khí quản khi
cho liều tiêm truyền 1 μg/kg, 15-20 phút trước khi gây mê. Mặc dù rút ống nội khí
quản khi còn mê sâu được ưa thích hơn, nhưng nó sẽ không giúp đỡ trong sự khám
phá bất kỳ chuyển động của dây thanh âm mà nhìn thấy được với soi thanh quản
gián tiếp. Rút ống nội khí quản phải được thực hiện trong một trạng thái hoàn toàn
tỉnh táo và sau khi thiết lập kiểu thở đều với thể tích thường lưu đủ và sức cơ mạnh.
6. Tắc nghẽn đường hô hấp: Tắc đường hô hấp có thể xảy ra do việc lan rộng khối
máu tụ từ máu vết thương, do tổn thương thần kinh quặt ngược thanh quản 2 bên,
phù bóng nước thanh môn và các bất thường chuyển hóa.
7. Biến chứng thận: cơ hội của suy thận là rất cao ở những bệnh nhân đã có một số
bệnh thận đi kèm với tăng canxi máu trước khi mổ.
8. Đau sau mổ: Nhiều kỹ thuật và các loại thuốc có sẵn hiện nay để giảm đau thậm
chí là với đau dữ dội. Giảm đau chặn trước và bệnh nhân tự kiểm soát đau là những
chiều hướng mới trong chiến lược giảm đau đang rất phổ biến hiện nay.
6.3.9. Cắt tuyến cận giáp với xâm lấn tối thiểu
Chụp Sestamibi (scan phóng xạ giúp xác định vị trí adenoma cận giáp) có một
vai trò quan trọng trong việc định vị chính xác u tuyến cận giáp và phẫu thuật với
kết quả xuất sắc. Cắt tuyến cận giáp xâm lấn tối thiểu dưới hướng dẫn sóng vô
tuyến đang được thực hiện với một đầu dò gamma trong các trường hợp cường cận
giáp tái phát và dai dẳng. Mổ nội soi với bơm hơi cũng đã được thực hiện cho cắt
tuyến cận giáp nội soi ít xâm lấn. Một đường rạch nhỏ giữa tại điểm trên xương ức
có thể được sử dụng để tiếp cận các tuyến cận giáp để tiến hành cắt tuyến cận giáp
hỗ trợ video xâm lấn tối thiểu. Thám sát cổ 2 bên là một lợi thế thêm vào của kỹ
thuật này và liên quan đến định vị trước mổ với sestamibi scan. Các kỹ thuật gây
mê không khác hơn các thủ thuật bóc tách tuyến cận giáp.
Các kỹ thuật gây mê cũng tương tự như các thủ thuật phẫu thuật tuyến cận
giáp khác với một sự nhấn mạnh về phòng ngừa nhiễm kiềm hô hấp bằng cách tránh
tăng thông khí và theo dõi EtCO2, vì nó có thể thúc đẩy hạ canxi máu bằng cách
giảm mức canxi ion hóa.
57