Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 44

Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

MÙA XUÂN NHO NHỎ


Thanh Hải

I. TÌM HIỂU CHUNG


1. Tác giả: 2.Tác phẩm
-Thanh Hải (1930-1980) tên khai sinh là a. Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết vào tháng 11/1980, không bao lâu trước khi
Phạm bá Ngoãn, quê ở huyện Phong nhà thơ qua đời, thể hiện niềm yêu mến cuộc sống, đất nước thiết tha và ước nguyện của
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. tác giả.
- Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những b. Mạch cảm xúc : được khơi nguồn, nảy nở từ sức sống, vẻ đẹp của mùa xuân thiên
năm kháng chiến chống Pháp. Trong thời nhiên, mở rộng ra với mùa xuân đất nước, cách mạng. Cảm xúc lắng đọng dần vào suy
kỳ chống Mỹ cứu nước, Thanh Hải ở lại tư và ước nguyện: nhà thơ muốn nhập vào bản hoà ca vĩ đại của cuộc đời bằng một nốt
quê hương hoạt động và là một trong trầm xao xuyến của riêng mình, góp vào mùa xuân chung lớn lao “một mùa xuân nho
những cây bút có công xây dựng nền văn nhỏ”. Bài thơ khép lại với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua
học Cách mạng ở miền Nam từ những điệu dân ca xứ Huế.
ngày đầu. c. Nhan đề
“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ. Đó là
sự kết hợp giữa một danh từ chỉ thời gian trừu tượng và một tính từ chỉ hình khối => mùa
xuân trở nên hữu hình, cụ thể, thể hiện ước nguyện cao quý và khiêm nhường của nhà
thơ: muốn được cống hiến những gì đẹp đẽ nhất, tinh túy nhất của cuộc đời mình cho
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

cuộc đời chung, cho đất nước. Nhan đề bài thơ đã gợi mở cảm hứng toàn bài, thể hiện
quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng =>
một quan niệm nhân sinh tiến bộ, tích cực, một lí tưởng sống vô cùng cao đẹp của nhà
thơ.
d. Bố cục
- Khổ 1: Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời
- Khổ 2+3: Cảm xúc về mùa xuân của đất nước
- Khổ 4+5: Suy nghĩ và ước nguyện của tác giả trước mùa xuân đất nước.
- Khổ cuối: Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.

II.PHÂN TÍCH
1.Cảm xúc Mọc giữa dòng sông xanh a.Bức tranh mùa xuân thiên nhiên được vẽ bằng vài nét phác hoạ nhưng rất đặc sắc:
của tác giả Một bông hoa tím biếc - Không gian cao rộng của bầu trời, rộng dài của dòng sông, màu sắc hài hoà dòng sông
trước bức Ơi con chim chiền chiện xanh được điểm tô thêm sắc hoa tím biếc - đặc trưng của xứ Huế mộng và thơ.
tranh Hót chi mà vang trời - Đảo ngữ “mọc” được đặt lên đầu câu gợi hình dung đóa hoa như đang từ từ trỗi dậy,
thiên Từng giọt long lanh rơi xòe nở và vươn cánh giữa dòng sông xanh thẳm. Sự vận động của cảnh vật làm cho bức
nhiên mùa Tôi đưa tay tôi hứng. tranh thiên nhiên nhiên có hồn và vô cùng sống động.
xuân xứ Tín hiệu nghệ thuật:
Huế. - Đảo ngữ “mọc”
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

- Sự kết hợp hài hòa màu - Bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế không chỉ có màu sắc, đường nét mà còn rộn
sắc: xanh – tím rã âm thanh với tiếng chim chiền chiện hót vang trời, tiếng chim trong ánh xuân lan toả
- Từ cảm thán “ơi” , “ chi”- khắp bầu trời làm vang động cả không gian.
nghệ thuật nhân hóa. b. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của đất trời được thể hiện qua cái nhìn trìu mến
- Phép nói quá “Hót chi mà với cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên “ơi, hót
vang trời”. chi… mà… . Đặc biệt cảm xúc của nhà thơ được thể hiện trong một động tác trữ tình vừa
- Nghệ thuật ẩn dụ chuyển trân trọng vừa tha thiết, trìu mến với mùa xuân: đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của
đổi cảm giác “Từng giọt tiếng chim chiền chiện:
long lanh rơi”. Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, “giọt long lanh” là những giọt
mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như
những hạt ngọc.
- Xét trong mối quan hệ với hai câu thơ trước đó thì “giọt long lanh” có thể hiểu là giọt
âm thanh tiếng chim chiền chiện qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Tiếng chim
từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành từng giọt, có hình khối (cảm
nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể cảm nhận bằng
xúc giác “Tôi đưa tay tôi hứng”.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

=> Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ vẫn thể hiện cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác
giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân.
=> Bài thơ được viết vào tháng 11/1980, giữa lúc cái lạnh của mùa đông đang bao trùm
lên mọi nẻo nhưng bằng tình yêu thiên nhiên, trái tim tha thiết với cuộc đời, Thanh Hải
đã viết nên những vần thơ trong trẻo và đầy sức sống về mùa xuân, một mùa xuân trong
tâm tưởng nhà thơ.
2. Cảm xúc Mùa xuân người cầm súng a. Mùa xuân đất nước, con người Việt Nam
về mùa Lộc giắt đầy quanh lưng -Mùa xuân đất nước hiện lên với hình ảnh người cầm súng và người ra đồng – hai lực
xuân đất Mùa xuân người ra đồng lượng đại diện cho hai nhiệm vụ quan trọng: lao động và chiến đấu, bảo vệ và xây dựng
nước. Lộc trải dài nương mạ đất nước.
Tất cả như hối hả - Hình ảnh Mùa xuân người cầm súng/ Lộc giắt đầy trên lưng gợi liên tưởng đến những
Tất cả như xôn xao người chiến sỹ ra trận mà trên vai, trên lưng họ là những vành lá ngụy trang, những cành
lá ấy mang lộc biếc, chồi non, mang theo mùa xuân của thiên nhiên, cây cỏ. Từ “lộc”
Ðất nước bốn nghìn năm còn làm cho người ta liên tưởng đến hình ảnh người lính khi ra trận, họ mang theo sức
Vất vả và gian lao sống, tuổi trẻ của mình ra chiến trường để mang về mùa xuân cho dân tộc.
Ðất nước như vì sao - Mùa xuân người ra đồng/ Lộc trải dài nương mạ”: gợi hình ảnh những người lao động
Cứ đi lên phía trước. trên cánh đồng quê hương. Từ “lộc” vừa để chỉ những mầm mạ tươi xanh mà người
nông dân mang ra đồng cày cấy, vừa để chỉ sức sống, tuổi trẻ của con người. Người nông
dân đã mang hết tình yêu, sức sống của mình làm đẹp cho mùa xuân đất nước.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

Tín hiệu nghệ thuật: => Với nét nghĩa vừa thực vừa ẩn dụ, các điệp từ “mùa xuân”, “lộc” đã khẳng định vai
-Điệp từ : mùa xuân, lộc. trò, sứ mệnh của những con người đã làm nên đất nước. Họ không phải là ai cụ thể, họ
-Hình ảnh ẩn dụ: lộc, mùa là toàn thể nhân dân, những người chiến sĩ, những người lao động bình thường và giản
xuân. dị.
-Điệp từ “tất cả” - Từ những suy nghĩ rất thực về đất nước, nhà thơ đã khái quát khí thế thời đại của cả
- Từ láy: hối hả, xôn xao một dân tộc : “Tất cả như hối hả/ Tất cả như xôn xao” . Điệp ngữ “Tất cả” và các từ láy
- Nghệ thuật nhân hóa: đất giàu sức biểu cảm “hối hả”, “xôn xao” tạo nhịp thơ nhanh, mạnh, gấp gáp diễn tả nhịp
nước vất vả, gian lao. điệu khẩn trương , tất bật của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, trong công
- So sánh: đất nước như vì cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đồng thời cũng nói lên tâm trạng náo nức, rộn ràng trong
sao. lòng nhà thơ. Tất cả như đang reo vui trước khí thế rộn ràng, náo nức ấy.
- Phụ từ “cứ” mang tính b. Niềm tin của tác giả vào tương lai đất nước.
khẳng định. - Xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước khi bước vào xuân, nhà thơ Thanh Hải
- Động từ “đi lên” đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử bốn nghìn năm của dân tộc:
Ðất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Ðất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
- Điệp từ “Đất nước” được lặp lại hai lần gắn liền với hình ảnh đất nước trong suốt chiều
dài lịch sử của quá khứ, hiện tại và tương lai. Đất nước của quá khứ và hiện tại là một
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

đất nước với những vất vả, đau thương. Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc hiện lên như
một người mẹ tảo tần, gian lao, làm nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự
trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm biết bao, xương máu, biết bao nước mắt
của bao nhiêu thế hệ, của bao nhiêu tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm.
Nhưng dù trở lực có mạnh đến đâu cũng không khuất phục được dân tộc Việt Nam kiên
cường, anh dũng.
- Đặc biệt phép so sánh được nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc, làm ý thơ hàm súc : “Đất
nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước ”. Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ
đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. Phép so sánh
ấy nhằm khẳng định đất nước mãi trường tồn, vĩnh cửu cùng vũ trụ, không bao giờ mất
đi và không một thế lực nào ngăn cản được, nhất định đất nước cũng sẽ toả sáng như
những vì sao trong hành trình đi đến tương lai rực rỡ, đi đến bến bờ hạnh phúc. Đó là chí
quyết tâm, niềm tin sắt đá, niềm tự hào lạc quan của cả dân tộc. Ở câu thơ thứ hai, phụ
từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía
trước, vượt qua mọi khó khăn, thử thách để hướng tới tương lai.
➔ Ta cảm nhận được niềm tin tưởng của tác giả vào tương lai rạng ngời của dân tộc Việt
Nam. Âm thanh mùa xuân đất nước vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi
thắm đến vô ngần.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

3.Ước Ta làm con chim hót a. Ước nguyện hóa thân


nguyện Ta làm một cành hoa Từ những xúc cảm về mùa xuân, tác giả đã chuyển mạch thơ một cách tự nhiên sang bày
của nhà Ta nhập vào hoà ca tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của mình về lẽ sống , về ý nghĩa và giá trị của cuộc đời
thơ. Một nốt trầm xao xuyến. mỗi con người.
-Những thanh bằng liên tiếp “ta” – “hoa” – “ca” đã mang đến cho lời thơ giai điệu ngọt
Một mùa xuân nho nhỏ ngào, êm ái, hào hứng, say mê . Đại từ “ta” được lặp lại ba lần đã góp phần thể hiện rõ
Lặng lẽ dâng cho đời những tình cảm chân thành của nhà thơ. Nếu như khổ đầu, đại từ “tôi” gắn liền với việc
Dù là tuổi hai mươi thể hiện những cảm xúc riêng của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên , đất trời thì trong
Dù là khi tóc bạc. khổ thơ này, đại từ “ta” đã ngân lên vang vọng, tha thiết. “Ta” trong đó có nhà thơ và
Tín hiệu nghệ thuật: mọi người, đều mang khát vọng được hòa nhập vào cuộc sống của đất nước, được cống
- Sử dụng thanh bằng liên hiến phần tốt đẹp dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước, ước nguyện đơn
tiếp: ta – hoa – ca sơ, bình dị mà cao đẹp biết bao!
- Đại từ: ta -Điệp ngữ “Ta làm” kết hợp với các hình ảnh liệt kê tạo nhịp thơ dồn dập diễn tả khát
- Điệp ngữ : Ta làm vọng mãnh liệt của nhà thơ. Nhà thơ muốn làm "con chim hót" giữa muôn ngàn tiếng
- Phép liệt kê: con chim, chim vô tư cống hiến tiếng hót vui, làm "một cành hoa" giữa vườn hoa xuân rực rỡ vô tư
cành hoa, nốt trầm cống hiến hương sắc cho đời, làm "một nốt trầm xao xuyến" giữa bản hoà tấu muôn điệu.
- Hình ảnh ẩn dụ: mùa xuân Ở phần đầu bài thơ, tác giả đã phác hoạ hình ảnh mùa xuân bằng các chi tiết bông hoa và
nho nhỏ tiếng chim hót, cấu tứ lặp đi lặp lại như vậy tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Hình ảnh chọn
- Đảo ngữ: lặng lẽ
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

- Điệp ngữ: dù là lọc ấy trở lại đã mang một ý nghĩa mới: niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến
- Hình ảnh hoán dụ: tuổi hai cho đời là một lẽ tự nhiên và luôn luôn thường trực.
mươi, khi tóc bạc b. Khát khao dâng hiến.
-“Một mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ một cuộc đời đáng yêu, một
khát vọng sống cao đẹp. Mỗi người hãy làm một mùa xuân, hãy mang tất cả những gì
tươi đẹp, tinh túy của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất nước.
- Phép đảo ngữ cùng cặp từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” cho thấy một thái độ chân thành,
khiêm nhường của nhà thơ, cống hiến cho đời một cách tự nguyện, không khoa trương,
không ồn ào mà âm thầm, lặng lẽ.
- Điệp ngữ “dù là” và các hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi” – khi còn trẻ , “khi tóc bạc”
– lúc về già khiến âm điệu câu thơ tha thiết, sâu lắng, ý thơ được nhấn mạnh . Người đọc
không chỉ xúc động trước một giọng thơ ấm áp, mà còn xúc động trước lời tâm sự thiết
tha của một con người đã từng trải qua 2 cuộc kháng chiến, đã cống hiến trọn cuộc đời
và sự nghiệp cho cách mạng vẫn tha thiết được sống đẹp, sống có ích với tất cả sức sống
tươi trẻ của mình cho cuộc đời chung.
➔ Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở về với cát bụi nhưng không gợi chút
băn khoăn về bệnh tật, những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ “lặng lẽ cháy bỏng
một khát khao được dâng hiến”.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

4. Lời ngợi “Mùa xuân - ta xin hát -Bài thơ kết thúc bằng sự trở về với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương đất
ca quê Câu Nam ai, Nam bình nước qua làn điệu dân ca xứ Huế. Nhà thơ xin hát về quê hương như một lời tạ từ, tạ từ
hương đất Nước non ngàn dặm mình mùa xuân, tạ từ quê hương nơi có điệu Nam ai, Nam bình sâu lắng, tạ từ nước non ngàn
nước qua Nước non ngàn dặm tình dặm trong nhịp phách tiền đất Huế. Trong lời thơ ấy, tác giả như muốn khẳng định đâu
làn điệu Nhịp phách tiền đất Huế". đâu cũng đẹp, đâu đâu cũng thấm đượm nghĩa tình.
dân ca xứ -Âm điệu dân ca xứ Huế mênh mang, tha thiết đã góp phần biểu lộ niềm tin yêu tha thiết
Huế. của tác giả vào cuộc đời, vào sức sống của quê hương, đất nước qua những giá trị truyền
thống bền vững . Đó cũng là khúc ca yêu đời, yêu cuộc sống luôn vang vọng.
➔ Phải yêu đời lắm, phải lạc quan lắm mới có thể hát lên trong hoàn cảnh nhà thơ lúc
đó (đang ốm nặng và sắp qua đời). Điều đó làm ta càng yêu quý tiếng hát và tấm lòng
nhà thơ.

III.TỔNG KẾT
1. Nội dung: Bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, thể hiện ước nguyện chân thành của
nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.
2. Đặc sắc nghệ thuật:
- Thể thơ 5 chữ gần với điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết, điệu thơ như điệu của tâm hồn, cách gieo vần
liền tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

- Hình ảnh tự nhiên, giản dị, những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, đặc biệt một số hình ảnh cành hoa, con chim, mùa xuân
được lặp đi lặp lại và nâng cao, gây ấn tượng đậm đà.
- Cấu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: từ mùa xuân đất trời -> đất nước -> con người.
- Giọng điệu bài thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: Ở đoạn đầu vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, rồi phấn
chấn, hối hả trước khí thế lao động của đất nước. Và cuối cùng là trầm lắng, hơi trang nghiêm mà thiết tha bộc bạch, tâm niệm.

VIẾNG LĂNG BÁC


Viễn Phương

I. Tìm hiểu chung


1. Tác giả
- Viễn Phương (1928 - 2005) quê ở An Giang
- Tham gia cách mạng trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ông là một trong những cây bút
có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam từ những ngày đầu.
- Thơ Viễn Phương dung dị, cảm xúc sâu lắng, thiết tha ngay trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến trường.
- Một số sáng tác tiêu biểu: “Mắt sáng học trò”, “Như mây mùa xuân”, “Phù sa quê mẹ”,….
2. Bài thơ “Viếng lăng Bác”
a. Hoàn cảnh sáng tác:
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

- Bài thơ được viết vào tháng 4/ 1976, một năm sau ngày đất nước giải phóng và thống nhất, cũng là lúc lăng
chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành. Viễn Phương cùng đồng bào miền Nam ra thăm lăng Bác. Trong niềm xúc
động thiêng liêng, lòng kính yêu và niềm tự hào tha thiết, Viễn Phương đã viết nên bài thơ này.
- Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” (1978)
b. Bố cục: 4 phần
- Khổ 1: Cảm xúc của tác giả khi ngắm nhìn quang cảnh bên ngoài lăng Bác.
- Khổ 2: Cảm xúc của tác giả khi hòa cùng dòng người vào lăng viếng Bác.
- Khổ 3: Cảm xúc của tác giả khi đứng trước di hài Bác
- Khổ 4: Niềm lưu luyến, bịn rịn khi phải dời xa lăng Bác.
c. Mạch cảm xúc:
Mạch vận động của cảm xúc men theo hành trình một chuyến vào lăng viếng Bác. Đó là niềm ngạc nhiên và xúc
động khi ngắm nhìn quang cảnh bên ngoài lăng Bác; nỗi xúc động, tự hào khi được hòa cùng dòng người vào lăng
viếng Bác; nỗi đau đớn, xót thương khi đứng trước di hài của Người và niềm lưu luyến, bịn rịn trước khi phải dời xa
lăng Bác để trở về miền Nam.
d. Cảm xúc bao trùm: Niềm xúc động thiêng liêng, thành kính , niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam
xa xôi ra thăm lăng Bác.
II. Phân tích chi tiết
(Hướng dẫn viết đoạn)
Khổ 1.
Khổ thơ đầu tiên đã thể hiện thật hay dòng cảm xúc của tác giả khi ngắm nhìn quang cảnh bên ngoài lăng Bác. Cách
vào đề thật gần gũi giản dị, nhà thơ đã khéo léo giới thiệu được vị trí không gian quãng đường từ miền Nam xa xôi
ra viếng Bác: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Tiếng “ con” mở đầu bài thơ cất lên thật gần gũi, thân thương.
Đó là cách xưng hô rất mật thiết của người dân Nam Bộ, đã bộc lộ sâu sắc lòng ngậm ngùi thương nhớ của nhà thơ,
của đồng bào miền Nam đối với Bác, cách xưng hô ấy đã xóa nhòa đi khoảng cách giữa lãnh tụ và quần chúng nhân
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

dân. Nhà thơ dùng từ thăm thay cho từ viếng như cố ý muốn quên đi cảm giác tiếc thương, đau buồn và hình dung
Bác như còn sống mãi với dân tộc Việt Nam. Ấn tượng đậm nét đầu tiên của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác là hình
ảnh hàng tre: “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát/ Ôi ! hàng tre xanh xanh Việt Nam/ Bão táp mưa sa đứng
thẳng hàng”. Hiện lên trong sương khói quảng trường Ba Đình lịch sử là hình ảnh hàng tre xanh bát ngát – hình ảnh
thực chỉ hàng tre thân thuộc chốn làng quê Việt Nam khiến lăng Bác vừa trang nghiêm lại vừa gần gũi. Câu cảm
thán Ôi! đã biểu hiện xúc động pha lẫn niềm tự hào khôn xiết của tác giả. Hình ảnh hàng tre còn mang nét nghĩa ẩn
dụ chỉ phẩm chất cốt cách con người Việt Nam, đó là sức sống kiên cường bền bỉ, rời rợi sắc xanh như cây tre luôn
tươi tốt giữa đất đai khô cằn sỏi đá. Thành ngữ “bão táp mưa sa” kết hợp hình ảnh nhân hóa “đứng thẳng hàng” đã
khắc họa vẻ đẹp kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam trong muôn vàn khó khăn, thử thách. Tre mang bao
phẩm chất của con người Việt Nam: mộc mạc, thanh cao, ngay thẳng, bất khuất. Dấu hiệu hàng tre đầu tiên ở nơi
Bác cũng là dấu hiệu của dân tộc Việt Nam, bởi Bác cũng chính là biểu hiện Việt Nam, tiêu biểu cho con người Việt
Nam hơn bao giờ hết. Hàng tre xanh ấy được trồng xung quanh lăng Bác như muốn thay cả dân tộc Việt Nam canh
giấc ngủ ngàn thu cho Người. Tình cảm của nhà thơ và của đồng bào miền Nam khi về với Bác thật chân thành, xúc
động biết bao!
Khổ 2.
Đoạn thơ đã thể hiện nỗi xúc động thiêng liêng xen lẫn niềm tự hào và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ khi hòa cùng
dòng người vào lăng viếng Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

Hai câu thơ đầu tiên với hình ảnh mặt trời thực và ẩn dụ sóng đôi với nhau đã thể hiện thật hay những suy ngẫm,
cảm xúc của Viễn Phương với Bác. Một mặt trời thiên nhiên, rực rỡ, vĩnh hằng ngày ngày đi qua trên lăng và "Một
mặt trời trong lăng rất đỏ"- hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ vĩ đại. Nếu như vầng mặt trời kì vĩ ở trên cao là cội nguồn
của ánh sáng, sự sống trên trái đất thì Bác chính là mặt trời của dân tộc, là người đem đến ánh sáng, niềm vui, mang
lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Hình ảnh mặt trời thiên nhiên được nhân hóa qua từ đi và thấy đang ngày ngày
chiêm ngưỡng vầng mặt trời trong lăng với niềm ngưỡng mộ và thán phục đã khẳng định hơn nữa vị trí, vai trò của
Bác trong lòng dân tộc. Màu sắc "rất đỏ" làm cho câu thơ có hình ảnh đẹp gây ấn tượng sâu xa hơn, nói lên tư tưởng
cách mạng và lòng yêu nước nồng nàn của Bác. Điệp ngữ “ngày ngày” không chỉ gợi ấn tượng về cõi trường sinh
vĩnh viễn mà còn gợi tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác, người cha già kính yêu của dân tộc. Hòa nhập vào
"dòng người" đến lăng viếng Bác, nhà thơ xúc động bồi hồi, thành kính và nghiêm trang. Dòng người đông đúc,
chẳng khác nào một "tràng hoa" muôn sắc ngàn hương từ mọi miền đất về đây thăm Bác. Hình ảnh ẩn dụ "tràng
hoa" rất đẹp, nó như muốn nói mỗi người dân Việt Nam như một đóa hoa đang nở rực rỡ dưới ánh mặt trời của Bác
đã về đây kính dâng lên Người những gì tinh túy nhất của cuộc đời, lời thơ diễn tả tấm lòng biết ơn, sự thành kính
của nhân dân đối với Bác Hồ vĩ đại. Chữ "dâng" chứa đựng biết bao tình cảm, biết bao tình nghĩa. Nhà thơ không
nói "bảy chín tuổi" mà nói: bảy mươi chín mùa xuân, cách nói ẩn dụ gợi ý nghĩa cuộc đời Bác đẹp như những mùa
xuân, Bác đã đem về mùa xuân cho đất nước, cho cuộc đời. Lời thơ chân thành, giản dị đã bộc bạch bao tình cảm
yêu mến, nhớ thương của viễn Phương và cũng là của nhân dân miền Nam với Bác.
Khổ 3.
Khổ thơ thứ ba đã diễn tả cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng, đứng trước di hài của Bác. Bao tình cảm dồn nén
bấy lâu nay gặp bóng hình thân thương bỗng trào lên thổn thức: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên / Giữa một vầng
trăng sáng dịu hiền” . Ánh sáng dịu nhẹ trong lăng khiến tác giả hình dung đó là ánh trăng của đất trời vốn là tri kỉ
tri âm của Bác. Bác như đang nằm ngủ một giấc ngủ "bình yên", trong một khung cảnh thơ mộng, Bác chỉ tạm nghỉ
ngơi sau một hành trình dài vất vả, gian nan. Lời thơ lại một lần nữa như nén nỗi đau lại để khẳng định rằng Bác vẫn
còn sống mãi. Bác vốn yêu trăng, trăng làm bạn với Bác vào trong nhà lao, trăng theo Bác lên đường ra chiến dịch
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

và trăng lại về đây để canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh vầng trăng sáng dịu hiền bao bọc giấc ngủ
của Bác đã gợi cho ta cảm nhận về vẻ đẹp thanh cao, giản dị của Bác, một tâm hồn luôn yêu và gắn bó với thiên
nhiên. Nhìn "Bác ngủ ", nhà thơ đau đớn, xúc động “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi / Mà sao nghe nhói ở trong tim ”
. Trong trái tim đầy yêu thương, kính trọng và biết ơn của mọi người, Bác như còn sống mãi nhưng lí trí thì lại phải
tỉnh táo để nhận thức rằng Bác đã đi xa. Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” như muốn nói Bác đã vĩnh viễn hóa thân vào
bầu trời của dân tộc, sự nghiệp của Người mãi mãi vang vọng với non sông thế nhưng nỗi đau vẫn không dừng lại.
Cụm từ “nghe nhói” đã diễn tả sự đau đớn, tiếc thương đến cực độ, nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác gợi hình
dung nỗi đau không chỉ cảm được mà còn nghe thấy được, nỗi đau như giằng xé, day dứt khôn nguôi. Lời thơ tựa
như tiếng khóc nghẹn ngào của đứa con xa về muộn bên di hài người cha kính mến.
Khổ 4.
Khổ thơ cuối nói lên niềm lưu luyến, bịn rịn của nhà thơ khi phải trở về miền Nam. Đến giờ phút chia tay, sắp phải
chia xa người cha già kính mến, trong lòng nhà thơ trào dâng bao nỗi niềm xúc động. Lòng thương nhớ bấy lâu đã
vỡ òa trong tiếng khóc nghẹn ngào: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. “Mai về miền Nam” – đang ở giây
phút hiện tại, nghĩ về lúc phải chia xa, bao nỗi nhớ niềm thương lại dâng lên tràn đầy, không thể nào kìm nén. Câu
thơ giống như một lời giã biệt, cụm từ “thương trào nước mắt” cho ta thấy nỗi xúc động mãnh liệt của nhà thơ, nước
mắt ấy là giọt nước mắt của nhớ thương, của khao khát được ở lại mãi bên Người, giọt nước mắt nhớ thương của
người con về thăm cha muộn màng nhưng sâu nặng biết bao. Dù có lưu luyến, có bịn rịn, không muốn rời xa Bác thì
cũng đến lúc phải trở về miền Nam, nhà thơ chỉ có thể gửi lòng mình ở lại bằng cách hóa thân vào cảnh vật bên lăng
Bác. Nhà thơ muốn hóa thân làm "con chim hót" để cất tiếng hót đem lại chút tươi vui rộn rã cho Người, muốn làm
"đóa hoa” tỏa hương sắc nơi Người yên nghỉ và đặc biệt, muốn làm "cây tre trung hiếu" để nhập vào hàng tre bên
lăng, canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Điệp ngữ muốn làm và các hình ảnh liệt kê đã tạo nên nhịp điệu thơ
dồn dập, diễn tả tình cảm tha thiết, khát vọng trào dâng mãnh liệt và ước nguyện chân thành của nhà thơ cũng như
của toàn thể dân tộc Việt Nam với Bác. Một lần nữa hình ảnh cây tre lại xuất hiện tạo kết cấu đầu cuối tương ứng
mang đến một ý thơ mới mẻ: cây tre trung hiếu là hình ảnh ẩn dụ cho lòng kính yêu và ước nguyện thủy chung của
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

dân tộc Việt Nam suốt đời đi theo lí tưởng của Người. Kết thúc bài thơ là sự xa cách về không gian địa lí nhưng lại
gần gũi trong ý chí và tình cảm, bài thơ từ đây kết thúc nhưng tâm sự nhà thơ lại vút cao, một nỗi nhớ tiếc khôn
nguôi, những nỗi niềm tự nguyện về cuộc đời mình để xứng đáng với Con Người khiêm nhường và vĩ đại. Đó cũng
chính là nỗi niềm của muôn triệu con tim Việt Nam với Bác.

NÓI VỚI CON


Y Phương

I.TÌM HIỂU CHUNG


1. Tác giả 2. Tác phẩm
-Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân a. Hoàn cảnh sáng tác:
tộc Tày, sinh năm 1948, quê ở huyện Trùng - Bài thơ ra đời vào năm 1980 – khi đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân cả
Khánh, tỉnh Cao Bằng. nước nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng vô cùng khó
- Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong khăn, thiếu thốn. Đây là thời điểm đất nước ta đã giành được độc lập, đang trong
quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế để hàn gắn vết thương chiến tranh xà xây
Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Cao Bằng. dựng đất nước.
- Từ năm 1993, ông là chủ tịch Hội văn học nghệ - Nhà thơ tâm sự: “Đó là thời điểm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn… Bài thơ là
thuật Cao Bằng. lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con, còn là tâm sự với
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

- Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lí do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là
và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối
người miền núi. hả, gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ
phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực, vĩnh cửu của văn hóa.
Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt
nghèo, đói khổ bằng văn hóa”.
➔ Từ hiện thức khó khăn ấy, nhà thơ viết bài thơ này để tâm sự với chính mình,
động viên mình, đồng thời để nhắc nhở con cái sau này.
- Bài thơ được in trong tập “Thơ Việt Nam ” (1945 - 1985)
b. Mạch cảm xúc:
Bài thơ đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra tình cảm quê hương, đất nước ; từ
những kỉ niệm gần gũi mà nâng lên thành lẽ sống.
c. Bố cục:
- 11 câu đầu: Cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người.
- 15 câu tiếp: Cha nói với con những đức tính cao đẹp của người đồng mình và
niềm hi vọng của cha.
- 4 câu cuối: Lời dặn dò của cha.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

II. PHÂN TÍCH


1.Cha nói với Chân phải bước tới cha a.Con lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ.
con về cội Chân trái bước tới mẹ Chân phải bước tới cha
nguồn sinh Một bước chạm tiếng nói Chân trái bước tới mẹ
dưỡng của Hai bước tới tiếng cười Một bước chạm tiếng nói
mỗi con người Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con
ơi! -Nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng, nhiều từ được láy lại: “chân phải” – “chân trái”,
Đan lờ cài nan hoa rồi “một bước” – “hai bước”, “tiếng nói” – “tiếng cười”➔ tạo ra một âm điệu
Vách nhà ken câu hát tươi vui, quấn quýt gợi hình dung về khung cảnh một gia đình ấm cúng, đầy ắp
Rừng cho hoa niềm vui, tiếng nói, tiếng cười.
Con đường cho những tấm - Lời thơ gợi vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh em bé đang chập chững tập đi,
lòng đang bi bô tập nói, lúc thì sà vào lòng mẹ, lúc thì níu lấy tay cha. Và ta cũng hình
dung thấy niềm vui sướng, hân hoan của cha mẹ. Mỗi bước con đi, từng tiếng nói,
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới tiếng cười của con đều được cha mẹ chăm chút, nâng niu, đón nhận.
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên - Điệp ngữ “bước tới” và động từ “chạm" dùng rất khéo, làm nổi bật cái hồn bức
đời. tranh về gia đình hạnh phúc: đôi vợ chồng trẻ với đứa con thơ đầu lòng. Ở đó, mỗi
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

ngày con lớn lên, mỗi đổi thay của con đều là niềm khát khao, mong mỏi và hạnh
phúc vô bờ của cha mẹ.
- Con là niềm hạnh phúc của cha mẹ và con cũng là kết quả của tình yêu đẹp giữa
cha mẹ khiến “Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới/ Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”.
Ngày đầu tiên ấy là ngày khởi đầu của hạnh phúc gia đình, của tổ ấm bình dị - nơi
con được sinh ra và lớn lên trong tình yêu trong sáng của mẹ cha.
➔ Y Phương đã gửi vào đó lời nhắn nhủ kín đáo của người cha: gia đình là cái
nôi đầu tiên nuôi con cho đến suốt cuộc đời và con không bao giờ được quên cội
nguồn sâu thẳm ấy.
b. Con lớn lên trong cuộc sống lao động giàu niềm vui, trong vẻ đẹp của người
đồng mình.
Người đồng mình yêu lắm con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
-Quê hương hiện ra qua hình ảnh của người đồng mình. Nói với con về những
“người đồng mình”, nhà thơ như đang giới thiệu ân cần đây là những người bản
mình, người vùng mình, người dân quê mình gần gũi, thân thương.
-Cách gọi người đồng mình giản dị, thân thương, cùng với hô ngữ “con ơi” khiến
lời thơ trở nên tha thiết, trìu mến.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

- Người đồng mình là những con người đáng yêu, đáng quý:“Đan lờ cài nan hoa
– Vách nhà ken câu hát”. Cuộc sống lao động cần cù và tươi vui của họ được gợi
ra qua những hình ảnh thật đẹp! Những nan nứa, nan tre dưới bàn tay tài hoa của
người quê mình đã trở thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng tre, gỗ mà
còn được ken bằng những câu hát si, hát lượn.
+ Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả chính xác động tác khéo léo trong lao
động vừa gợi sự gắn bó, quấn quýt của những con người quê hương trong cuộc
sống lao động.
=>Cuộc sống lao động tuy vất vả nhưng ngập tràn niềm vui ấy đã tạo nên cái “yêu
lắm” của người đồng mình. Phải chăng, ẩn sâu bên trong dáng vẻ thô mộc, chất
phác của người đồng mình chính là một tâm hồn lãng mạn, yêu sống?
➔ Vẻ đẹp của người đồng mình chính là gói hành trang tinh thần để con lớn lên.
c. Con lớn lên trong vẻ đẹp thơ mộng, nghĩa tình của thiên nhiên:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
-Cuộc sống quê hương vùng sơn cước giản dị, mộc mạc mà không kém phần đáng
yêu, thi vị “rừng cho hoa”. Rừng không chỉ cho gỗ, cho măng, cho lâm sản quý
giá mà còn cho hoa – cho phần đẹp nhất, tinh túy nhất của núi rừng. “Hoa” – một
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

hình ảnh vừa thực vừa ẩn dụ để nói rằng: rừng núi thiên nhiên không chỉ mang lại
cho người vẻ đẹp mà còn mang đến cả niềm vui và hạnh phúc.
- “Con đường cho những tấm lòng” cũng là một hình ảnh mộc mạc mà giàu chất
thơ, giàu tính khái quát. Con đường ấy là đường lên rừng, ra suối, lên nương,
đường ra thung, ra bản và xa hơn nữa, là con đường dẫn tới mọi nẻo đường Tổ
quốc. Nhưng đâu chỉ có thế, con đường mà Y Phương nói tới đâu phải chỉ có con
đường đi ngược về xuôi mà là con đường kết nối những tấm lòng, vẻ đẹp tình
người luôn sẵn có. Đó là tấm lòng nhân hậu, bao dung, tình nghĩa ; là hình bóng
quê hương thơ mộng, là vẻ đẹp cao quý của người đồng mình.
-Điệp từ “cho” và nghệ thuật nhân hóa đã khẳng định rừng núi quê hương thật thơ
mộng, nghĩa tình. Thiên nhiên ấy ban tặng cho cái đẹp cho con người và che chở,
nuôi dưỡng con người cả về vật chất, tâm hồn và lối sống.
➔ Cha muốn con hiểu quê hương và gia đình đã che chở và dưỡng nuôi con. Con
phải biết yêu và trân trọng nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng mình, tình yêu gia đình,
quê hương sẽ khơi nguồn cho những tình cảm lớn lao, bền vững.

2. Cha nói với Người đồng mình thương lắm a.Người đồng mình là những người giàu ý chí và nghị lực:
con những con ơi Người đồng mình thương lắm con ơi!
đức tính tốt Cao đo nỗi buồn Cao đo nỗi buồn
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

đẹp của người Xa nuôi chí lớn Xa nuôi chí lớn


đồng mình Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn -“Người đồng mình” – cách nói mộc mạc, giản dị, gợi bao tình yêu thương, gần
Sống trên đá không chê đá gập gũi - ấy là những người vùng mình, miền mình, những người cùng sống với mình
ghềnh trên mảnh đất quê hương.
Sống trong thung không chê - Sự lặp lại nhiều lần cụm từ “người đồng mình” như một lời khẳng định: phẩm
thung nghèo đói chất của người đồng mình chính là phẩm chất của quê hương bởi lẽ sức sống của
Sống như sông như suối quê hương được tạo nên từ mỗi một con người nhỏ bé.
Lên thác xuống ghềnh - Nếu trên kia “ yêu lắm con ơi”– yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng
Không lo cực nhọc thơ mộng, yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây người cha nói
Người đồng mình thô sơ da “thương lắm con ơi”– ấy là thương cho những nỗi vất vả, gian khó của con người
thịt quê hương, cho cái cực khổ của người đồng mình.
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con -Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y Phương đã lấy cái cao của trời
Người đồng mình tự đục đá kê để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo ý chí con người. Cách sắp xếp tính từ
cao quê hương “cao”, “xa” trong sự tăng tiến gắn liền với các hình ảnh trìu tượng “nỗi buồn”,
Còn quê hương thì làm phong “chí lớn”, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử thách càng lớn thì ý chí con người lại
tục càng mạnh mẽ.
➔ Có thể nói, cuộc sống của người đồng mình còn nhiều nỗi buồn, còn nhiều
bộn bề thiếu thốn song họ sẽ vượt qua tất cả, bởi họ có ý chí và nghị lực, luôn có
niềm tin vào tương lai phía trước.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

b. Người đồng mình là những người sống thủy chung, tình nghĩa:
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
-Nhà thơ đã khẳng định và nhấn mạnh vẻ đẹp cao quý của người đồng mình, đó
là tấm lòng thủy chung, tình nghĩa. Người đồng mình có hoàn cảnh sống vất vả,
lam lũ, đói nghèo “sống trên đá”, “sống trong thung” nhưng luôn thủy chung,
một lòng một dạ “không chê đá gập ghềnh”, “không chê thung nghèo đói”.
- Điệp từ “sống”, “không chê” đã nhấn mạnh rằng người đồng mình luôn ân
tình, ân nghĩa với quê hương, biết chấp nhận gian khó và vượt lên thử thách.
-Lời thơ thấm đẫm cảm xúc “Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn” đã thể hiện mong
muốn thiết tha của người cha: mong con biết kế thừa phẩm chất tốt đẹp của
người đồng mình: mạnh mẽ, giàu nghị lực, thủy chung và tình nghĩa.

c. Người đồng mình mạnh mẽ, phóng khoáng, giàu mơ ước:


Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

- Phép so sánh “Sống như sông như suối” gợi vẻ đẹp tâm hồn và ý chí của người
đồng mình. Gian khó là thế, họ vẫn tràn đầy sinh lực, tâm hồn lãng mạn, khoáng
đạt . Tình cảm của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sông trước niềm tin
yêu cuộc sống, tin yêu con người.
- Thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh” gợi bao nỗi vất vả, lam lũ của
người đồng mình. Thác, ghềnh là một cách nói ẩn dụ mang tính chất biểu trưng
cho những khó khăn, gian khổ và sức mạnh vượt khó của con người quê hương.
Cùng với cặp từ trái nghĩa “lên”, “xuống” càng nhấn mạnh thêm ý chí của người
đồng mình.
- Cụm từ “không lo” đã nhấn mạnh rằng người đồng mình biết chấp nhận gian
khó và vượt lên gian khó bằng sức mạnh của ý chí và nghị lực – nguồn sức mạnh
vô song không gì có thể làm gục ngã.
d. Người đồng mình có ý thức tự lập, tự cường và tinh thần tự tôn dân tộc:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
- Phẩm chất của con người quê hương còn được người cha ca ngợi qua cách nói
đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong, nhưng
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

rất đúng với người miền núi. “Thô sơ da thịt” là cách nói bằng hình ảnh cụ thể
của bà con dân tộc Tày, ngợi ca những con người mộc mạc, giản dị, chất phác,
thật thà, chịu thương, chịu khó còn cụm từ “chẳng nhỏ bé” khẳng định sự lớn lao
của ý chí, của nghị lực, cốt cách và niềm tin.
➔ Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc
nhưng giàu ý chí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về
tâm hồn, tầm vóc, về mong ước xây dựng quê hương.
-Người đồng mình luôn khao khát bồi đắp, xây dựng quê hương, giữ gìn nguồn
cội. Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả
thực (chỉ truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi),vừa mang ý
nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Người đồng mình bằng chính bàn tay và khối óc, bằng sức
lao động đã xây dựng và làm đẹp giàu cho quê hương, xây dựng để nâng tầm quê
hương. Còn quê hương là điểm tựa tinh thần với những nét phong tục tập quán
riêng nâng đỡ những con người có chí khí và niềm tin vững chắc.
➔ Câu thơ đã khái quát về tinh thần tự tôn dân tộc, về ý thức bảo vệ nguồn cội,
bảo tồn những truyền thống quê hương tốt đẹp bằng sức lao động cần cù, bền bỉ
của người đồng mình.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

3. Lời dặn dò Con ơi tuy thô sơ da thịt -Đoạn thơ khép lại với lời nhắn nhủ, dặn dò của người cha, mong muốn con mình
của người cha Lên đường tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương, hãy lấy những tình cảm đó làm hành
dành cho con. Không bao giờ nhỏ bé được trang để vững bước trên hành trình dài rộng của cuộc đời.
Nghe con. - Hình ảnh “thô sơ da thịt” một lần nữa được lặp lại như muốn con khắc cốt ghi
tâm những vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình – những con người với vẻ ngoài
chân chất, bình dị nhưng luôn lớn lao về tầm vóc và ý chí.
- Trong hành trang của người con mang theo khi “lên đường” đến mọi phương
trời xa xôi của Tổ quốc có một thứ quý giá hơn mọi thứ trên đời, đó là ý chí, nghị
lực, truyền thống quê hương. Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn
chứa niềm hi vọng lớn lao của cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên
đường đời, tiếp nối truyền thống cha ông và làm vẻ vang quê hương, xứ sở.
+ Hai tiếng “Nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa tình yêu thương vô bờ
bến của cha dành cho con. Lời cha dặn con phải chăng cũng chính là lời của thế
hệ trước nói với thế hệ sau như một lời chuyển giao thế hệ? Đó chính là một cách
giữ lửa, truyền lửa để những truyền thống tốt đẹp của quê hương, dân tộc luôn
sáng mãi.
III. TỔNG KẾT
1. Nội dung 2. Nghệ thuật
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

- Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm - Giọng điệu trìu mến tha thiết, thể hiện qua lời tâm sự của cha với con, của
cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức thế hệ đi trước với thế hệ mai sau.
sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc - Thể thơ tự do làm cho cảm xúc cụ thể, rõ ràng.
mình. - Nhịp điệu lúc nhẹ nhàng bay bổng, khi khúc chiết rành rọt, lúc mạnh mẽ âm
- Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vang -> lời khuyên của cha thấm sâu vào con.
vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, - Ngôn ngữ cụ thể mà giàu khái quát, bao hàm nhiều ý nghĩa, hình ảnh thơ
gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền độc đáo.
thống, với quê hương và ý chí vươn lên
trong cuộc sống.

VĂN BẢN: SANG THU


(Hữu thỉnh)
1. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1.Tác giả - Tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh ( 1942), quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông
là nhà thơ quân đội, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
- Thơ Hữu Thỉnh tập trung diễn tả hình tượng người lính và hiện thực lớn lao, sôi động của
những năm tháng chiến tranh ác liệt của đât nước trong kháng chiến chống Mĩ.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

- Khi đất nước thống nhất, Hữu Thỉnh viết nhiều vần thơ về những người mẹ người chị, về
nông thôn và về mùa thu với nhiều suy nghĩ và chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời.
- Thơ Hữu Thỉnh có một giọng điệu riêng chân thật trong cảm xúc, có nhiều tìm tòi trong
cách biểu hiện; thiên về cảm nhận sự yên bình, tĩnh lặng của cuộc sống với cảm xúc mượt
mà, trong sáng nhưng cũng giàu triết lí.
- Tác phẩm chính : Âm vang chiến hào ( in chung ,1975), Tường tới thành phố ( trường
ca 1979) Từ chiến hào tới thành phố (1991), …
- Hữu Thỉnh đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
Năm 2012, ông nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

2. Văn bản a) Hoàn cảnh sáng tác


Sang thu được Hữu Thỉnh sáng tác mùa thu năm 1977, in trong tập từ chiến hào đến
thành phố, xuất bản năm 1991.

b) Thể thơ: Năm chữ


c) Phương thức biểu đạt: Tự sự +miêu tả + biểu cảm
d) Mạch cảm xúc và bố cục:
* Mạch cảm xúc:
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

Sang thu là một bức thông điệp lúc giao mùa. Mùa hạ dần qua, mùa thu tới, khoảnh khắc
ấy được diến tả bằng sự rung cảm tinh tế, sự trải nghiệm sâu sắc của nhà thơ. Mạch cảm
xúc xuyên suốt với 2 nội dung nổi bật: cảm nhận về thiên nhiên lúc sang thu và suy ngẫm
về đời người khi chớm thu.
* Bố cục
Phần 1: Khổ 1: Những tín hiệu giao mùa
Phần 2: Khổ 2: Quang cảnh thiên nhiên phút giao mùa
Phần 3: Khổ 3: Những suy ngẫm về cuộc đời lúc chớm thu
e) Nghệ thuật và nội dung:
+ Nghệ thuật:
- Thể thơ năm chữ, nhịp thơ chậm, âm điệu nhẹ nhàng, phù hợp với dòng cảm xúc của nhà
thơ.
- Từ ngữ có giá trị gợi tả, gợi cảm sâu sắc
- Hình ảnh thơ chọn lọc, mang những nét đặc trưng về phút giao mùa từ hạ sang thu
để người đọc có được ấn tượng: sang thu không chỉ của thiên nhiên mà hồn người cũng có
lúc sang thu.
+ Nội dung:Viết về những chuyển biến nhẹ nhàng, tinh tế của thiên nhiên, đất trời trong
phút giao mùa từ hạ sang thu. Qua đó, nhà thơ gửi gắm quy luật của cuộc sống nhân sinh,
của đời người khi bước sang mùa thu của cuộc đời.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

3.Ý nghĩa nhan đề - “Sang thu” trước hết gợi lên khoảnh khắc giao mùa của thiên nhiên, khi đất trời chuyển từ
bài thơ hạ sang thu.
- Gợi khoảnh khắc chuyển giao giữa tuổi trẻ sang độ tuổi trưởng thành vững vàng, từng
trải.

II, Đọc- hiểu văn bản


1) Những tín hiệu - “Sang thu” là một khảnh khắc rất đặc biệt của thiên nhiên. Đó là lúc hạ vẫn chưa kịp đi mà
giao mùa|( khổ 1) hương thu đã lặng lẽ đến rồi. Bằng tâm hồn tinh tế, nhạy cảm tác giả đã phát hiện ra những
tín hiệu của mùa thu.
- Tín hiệu đầu tiên là “ hương ổi”:
+ “Hương ổi” mùi hương bình dị, dân dã ở khắp các vườn quê đồng bằng Bắc Bộ. Hương ổi
đi liền với từ “bỗng” được đặt ở đầu câu thơ đã diễn tả cảm giác bất ngờ, đột ngột, ngỡ ngàng
của nhân vật trữ tình
+ “Phả”: động từ có nghĩa là toả vào, trộn lẫn. Người ta có thể dùng các từ: toả, bay, lan, tan…
thay cho từ “Phả” nhưng cả bấy nhiêu từ đều không có cái nghĩa đột ngột bất ngờ. Từ “phả”
cho thấy mùi hương ổi ở độ đậm nhất, thơm nồng quyến rũ, hoà vào trong gió heo may của
mình thì lan toả khắp không gian tạo ra một mùi thơm ngọt mát của những trái ổi chín vàng –
hương thơm nồng nàn hấp dẫn của những vườn cây sum suê trái ngọt ở nông thôn Việt Nam.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

- Tác giả lưa chọn làn “gió se” làm tín hiệu thứ 2 cho khoảnh khắc giao mùa:
+ “Gió se” là ngọn gió heo may đặc trưng của mùa thu đất Bắc. Đó là một thứ gió khô và
thoáng chút se lạnh
+ Làn “gió se” ấy đã làm dịu đi cái nắng oi ả, gay gắt của mùa hạ và khiến cho làn “hương
ổi” như sánh lại và trở nên ngọt ngào hơn
- Tín hiệu thứ ba là những màn sương:
+ Cảm nhận của tác giả có sự thay đổi từ khứu giác, xúc giác sang cảm nhận bằng thị giác.
+ Nghệ thuật nhân hóa qua từ láy “chùng chình” đã gợi lên dáng vẻ lãng đãng như đợi chờ,
cố ý chậm . Hạt sương sớm mai cũng như có tâm hồn, có cảm nhận riêng cũng nhẹ nhàng,
thong thả qua ngưỡng cửa của mùa thu.
- Trước khoảnh khắc giao mùa ấy, tác giả đã giật mình, bối rối: “ Hình như thu đã về”
+ “ Hình như” là một lối nói giả định, phán đoán không chắc chắn, với một chút nghi hoặc.
Nhưng lại rất phù hợp để diễn tả về cảm nhận mơ hồ lúc giao mùa.
+ Sự kết hợp một loạt các từ “bỗng, phả, hình như” đã thể hiện tâm trạng ngỡ ngàng, vui mừng,
hạnh phúc của tác giả trong phút giao mùa của vạn vật. Nhà thơ giật mình, hơi bối rối, hình
như còn có chút gì chưa thật rõ ràng trong cảm nhận. Vì đó là những cảm nhận nhẹ nhàng,
thoáng qua, hay là vì quá đột ngột mà tác giả chưa nhận ra? Tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp
nhàng với phút giao mùa của cảnh vật. Từng cảnh sang thu của cảnh vật đã thấp thoáng hồn
người cũng chùng chình bịn rịn lưu luyến, bâng khuâng…
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

=> Đó là những cảm nhận tinh tế của tác giả lúc thu sang và đối diện với những khoảnh khắc
ấy là niềm vui, niềm hạnh phúc vô bờ. Phải tinh tế, nhạy cảm, nhà thơ mới có thể nhận ra bước
“ sang thu” nhẹ nhàng, vô hình, từ hương thơm của làng quê, từ những gì không cụ thể làm
xốn xang lòng người.

2) Quang cảnh - Hai câu thơ đầu : Có cấu trúc đối tự nhiên, chặt chẽ đã diễn tả vẻ đẹp thiên nhiên và lòng
thiên nhiên lúc người phút giao mùa:
giao mùa( khổ 2)
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
- Hình ảnh “dòng sông” được nhân hóa qua từ láy “ dềnh dàng”:
+ Tả thực một dòng sông tĩnh lặng, trong trẻo với dòng chảy êm đềm
+ Con sông được nhân hóa như đang được nghỉ ngơi sau một mùa hạ vất vả với bão giông.
+ Đi liền với từ “được lúc” gợi ta liên tưởng đến hình ảnh những con người đã đi qua thời
chiến, trải qua lửa đạn giờ đang được sống chậm lại, đến lúc phải nghỉ ngơi.
- Hình ảnh những chú “chim” được nhân hóa qua từ láy “vội vã”:
+ Tả thực những cánh chim di cư bay về phương Nam để tránh rét.
+ Những cánh chim được nhân hóa như bắt đầu nhanh hơn, gấp gáp hơn khi nhận ra những đợt
gió heo may se lạnh đang ùa về.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

+ Đi liền với từ “ bắt đầu” gợi ta liên tưởng đến những người lính bước ra từ trong chiến tranh.
Họ cứ ngỡ đã đến lúc phải nghỉ ngơi để suy ngẫm, song lại chính là lúc họ bắt đầu phải “vội
vã”, tất bật trong những lo toan của cuộc sống mới.
- Nghệ thuật đối được tác giả sử dụng một cách nhịp nhàng, tài tình qua hình ảnh “ dềnh dàng”
>< “ vội vã” đã:
+ Làm nổi bật hai động thái trái ngược của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa.
+ Làm nổi rõ hai tâm trạng trái ngược nhau của con người khi bước từ chiến tranh sang hòa
bình.
- Hai câu sau, quang cảnh thiên nhiên tiếp tục được tái hiện qua những sáng tạo vô cùng độc
đáo, ấn tượng
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Nghệ thuật nhân hóa qua cụm từ có ý nghĩa tượng hình “ vắt nửa mình”:
+ Gợi lên không gian của một bầu trời cao rộng, trong trẻo lúc thu về. Khiến cho đám mây
như có hình, có hồn và trở nên gần gũi, sinh động.
+ Gợi liên tưởng đến bước đi của thời gian, đám mây như một cây cầu đặc biệt để nối liền
những ngày cuối hạ và đầu thu.
+ Hình ảnh “ đám mây” còn mang nghĩa thế sự: gợi sự giao thời của đời sống khi đất nước
đang chuyển từ chiến tranh sang hòa bình.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

 Khoảnh khắc giao mùa được tái hiện rất tinh tế, sống động bằng những câu thơ giàu
giá trị tạo hình. Và ẩn sau khoảnh khắc đó còn là hình ảnh của đời sống lúc sang thu
với biết bao biến chuyển.
3) Những suy - Những biến chuyển của thiên nhiên:
ngẫm về đời
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
người lúc chớm
thu.( khổ cuối) Đã vơi dần cơn mưa”

+ Nắng - hình ảnh cụ thể của mùa hạ. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đã nhạt
dần, yếu dần bởi gió se đã đến chứ không chói chang, dữ dội, gay gắt.

+ Mưa cũng đã ít đi. Cơn mưa mùa hạ thường bất ngờ chợt đến rồi lại chợt đi. Tác giả dùng
từ “vơi” có giá trị gợi tả như sự đong đếm những sự vật có khối lượng cụ thể để diễn tả cái số
lượng vô định - diễn tả cái thưa dần, ít dần, hết dần những cơn mưa rào ào ạt, bất ngờ của
mùa hạ. Tất cả đều chầm chậm, từ từ, không vội vã, không hối hả.

+ Những từ ngữ chỉ mức độ,ước lượng: “vẫn còn”, “ bao nhiêu”, “vơi”, “bớt” được sắp xếp
theo trình tự giảm dần, cho thấy dấu hiệu của mùa hạ đang nhạt dần và những dấu hiệu của
mùa thu ngày một đậm nét hơn.
=> Tác giả đã làm hiện hình bước chân của mùa thu giữa đất trời.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

- Đối diện với mùa thu của đất trời, trong lòng nhà thơ dào dạt bao suy ngẫm về đời người lúc
chớm thu qua những hình ảnh giàu sức gợi:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
+ Lời thơ trước hết mang ý nghĩa tả thực: hình tượng sấm thường xuất hiện bất ngờ đi liền
với những cơn mưa rào chỉ có ở mùa hạ (sấm cuối mùa, sấm cuối hạ cũng bớt đi, ít đi lúc
sang thu). Hàng cây cổ thụ, cảnh vật thiên nhiên vào thu không còn giật mình, bất ngờ bởi
tiếng sấm mùa hạ.

+ Ý nghĩa ẩn dụ (gợi nhiều liên tưởng, suy ngẫm ở người đọc) : Sấm: những vang động bất
thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Hàng cây đứng tuổi gợi tả những con người từng trải đã
từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của cuộc đời. Qua đó, con người càng trở
nên vững vàng hơn. Thời gian trôi nhanh qua cửa, cuộc đời mỗi con người là một chứng nhân
nhìn mùa thu đi qua. Bởi thế tiếc nuối vẫn mãi là cảm xúc của con người trước thời gian. Tâm
trạng ấy đã được nhà thơ gửi vào cảnh vật, gửi vào trạng thái của thiên nhiên nhằm khắc hoạ
thời khắc mà mọi vật đang chuyển mình sang thu.

➔ "Sang thu" của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận mới
về mùa thu quê hương mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim mọi người.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

- Miêu tả mùa thu bằng những bước chuyển mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đã góp thêm một
cách nhìn riêng, một lối miêu tả riêng cho mùa thu thi ca thêm phong phú.

NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI


Lê Minh Khuê
I.Tìm hiểu chung:
1.Tác giả:

- Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.

- Trong kháng chiến chống Mĩ, gia nhập thanh niên xung phong và bắt đầu viết văn vào đầu những năm 70.

- Lê Minh Khuê là cây bút nữ chuyên về truyện ngắn.

- Trong những năm chiến tranh, truyện của Lê Minh Khuê viết về cuộc sống chiến đầu của tuổi trẻ ở tuyến đường
Trường Sơn.

- Sau năm 1975, tác phẩm của nhà văn bám sát những chuyển biến của đời sống xã hội và con người trên tinh thần
đổi mới.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

2.Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Truyện "Những ngôi sao xa xôi" ở trong số những tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê,viết năm 1971, lúc cuộc
kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang diễn ra ác liệt.
- Truyện ngắn được đưa vào tuyển tập “Nghệ thuật truyện ngắn thế giới” xuất bản ở Mĩ.
b. Tóm tắt văn bản:
"Những ngôi sao xa xôi" kể về cuộc sống chiến đấu của ba cô thanh niên xung phong – tổ trinh sát mặt đường –
Phương Định, Nho và chị Thao. Họ sống trong một cái hang, trên cao điểm tại một vùng trọng điểm ở tuyến đường
Trường Sơn những năm chống Mỹ. Công việc của họ là quan sát máy bay địch ném bom, đo khối lượng đất đá cần
để san lấp hố bom do địch gây ra, đánh dấu những quả bom chưa nổ và phá bom. Công việc nguy hiểm, luôn phải đối
mặt với cái chết, nhưng cuộc sống của họ vẫn không mất đi niềm vui hồn nhiên của tuổi trẻ, những giây phút thảnh
thơi, thơ mộng. Họ rất gắn bó, yêu thương nhau dù mỗi người một cá tính. Trong một lần phá bom, Nho bị thương,
hai người đồng đội hết lòng lo lắng và chăm sóc cho Nho. Một cơn mưa đá vụt đến và vụt đi đã gợi trong lòng Phương
Định bao khát khao, hoài niệm.
c. Đề tài:
Ca ngợi cuộc sống, chiến đấu của thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
d. Ngôi kể:
- Truyện kể theo ngôi thứ nhất theo điểm nhìn của nhân vật Phương Định.
- Tác dụng:
+ Tạo một điểm nhìn phù hợp dễ dàng tái hiện hiện thực khốc liệt của chiến tranh, làm cho cách kể chuyện trở nên tự
nhiên, sinh động, tạo được sự tin cậy nơi bạn đọc.
+ Khắc họa thế giới tâm hồn, cảm xúc và suy nghĩ của nhân vật một cách chân thực giàu sức thuyết phục.
+ Làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam trong chiến tranh.
e. Nhan đề:
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

- Nhan đề truyện được tạo bởi một cụm danh từ “những ngôi sao” – những vì tinh tú sáng lấp lánh trên bầu trời đêm
và tính từ “xa xôi” – một vị trí rất xa trong tầm mắt gợi cho ta hình dung tới những vì sao lấp lánh trên bầu trời đêm
với vẻ đẹp lung linh, huyền diệu.
- Nhưng không dừng lại ở đó, nhan đề bài thơ còn là một hình ảnh lãng mạn, giàu chất thơ và mang tính biểu tượng.
Đó là biểu tượng cho vẻ đẹp ngời sáng của phẩm chất cách mạng trong những cô gái thanh niên xung phong nơi
Trường Sơn khói lửa.
- Qua đó tác giả ca ngợi thế hệ trẻ Việt Nam anh hùng thời đại chống Mĩ , họ sẽ mãi là những ngôi sao xa xôi lung
linh, tỏa sáng trên bầu trời đất nước Việt Nam yêu dấu, lặng lẽ, khiêm nhường nhưng bền bỉ, bất diệt.
- Nhan đề đã thể hiện chủ đề tác phẩm.
II. Phân tích
1. Hoàn cảnh sống và chiến đấu:
- Ba cô gái ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn, nơi
tập trung nhiều nhất bom đạn, sự nguy hiểm và ác liệt, từng ngày từng giờ phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ. Ở đây
có biết bao thương tích vì bom đạn giặc: “Đường bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường không có
lá xanh. Chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to. Một vài cái
thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong đất”. Đó là hiện thực đầy mùi chiến tranh, không có màu xanh
của sự sống, chỉ thấy thần chết luôn rình rập.
- Công việc của các cô đặc biệt nguy hiểm. Họ phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình ra giữa vùng trọng
điểm đánh phá của máy bay địch để quan sát máy bay địch ném bom, đo khối lượng đất đá cần để lấp vào hố bom,
đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Công việc đầy nguy hiểm, luôn phải đối mặt với cái chết và đòi hỏi sự
dũng cảm, bình tĩnh đến cao độ.
2. Vẻ đẹp tâm hồn của ba cô gái thanh niên xung phong ( Vẻ đẹp của tuổi trẻ Việt Nam trong kháng chiến
chống Mĩ) .

a.Nét chung
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

• Lòng yêu nước


Họ là những cô gái còn rất trẻ, tuổi đời mười tám đôi mươi. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ rời
xa gia đình, xa mái trường, tình nguyện vào cái nơi mà sự sống và cái chết chỉ diễn ra trong gang tấc. Họ hi sinh tuổi
thanh xuân và không tiếc máu xương, thực hiện lí tưởng cao đẹp:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
• Dũng cảm, gan dạ
- Họ là những cô gái có tinh thần trách nhiệm cao với công việc, lòng dũng cảm, gan dạ không sợ gian khổ hi sinh.
Công việc nguy hiểm, có thể hi sinh bất cứ lúc nào, nhưng để con đường được thông suốt, các cô luôn sẵn sàng trong
việc ra trận. Có lệnh là lên đường bất kể trong tình huống nào. Các cô làm việc một cách tự nguyện, luôn nhận khó
khăn, nguy hiểm về mình:“Tôi một quả bom trên đồi. Nho hai quả dưới lòng đường. Chị Thao một quả dưới cái chân
hầm ba – ri – e cũ”. Đối mặt với hiểm nguy, các cô cũng nghĩ đến cái chết nhưng là “một cái chết mờ nhạt không cụ
thể” quan trọng là “liệu mìn có nổ, bom có nổ không ➔ họ đã đặt công việc lên trên cả tính mạng của mình ➔ tinh
thần trách nhiệm cao trong công việc.

- Họ bình tĩnh, can trường và có tinh thần dũng cảm. Những lúc căng thẳng nhất, chị Thao móc cái bánh bích quy
trong túi ra nhai. Họ nói đến công việc phá bom với giọng điệu bình thản: “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom
đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần”. Khi phá bom, bước tới những quả bom chưa nổ, họ không đi khom mà cứ đường
hoàng, thẳng lưng bước tới. Đối mặt với cái chết, các cô không hề run sợ mà bình tĩnh moi đất, đặt dây,châm lửa, tính
toán sao cho chính xác.

• Tình đồng chí, đồng đội.

Ở họ còn có tình đồng đội gắn bó, thân thiết: các cô hiểu được tính tình, sở thích của nhau, quan tâm chăm sóc nhau
rất chu đáo. Phương Định bồn chồn, lo lắng khi chờ chị Thao và Nho đi trinh sát trên cao điểm. Khi Nho bị thương,
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

Phương Định và chị Thao đã lo lắng, băng bó chăm sóc Nho cẩn thận với niềm xót xa như chị em ruột thịt và cảm
thấy “đau hơn người bị thương”.

• Lạc quan, yêu đời

- Cuộc sống chiến đấu ở chiến trường thật gian khổ, hiểm nguy nhưng họ luôn lạc quan, yêu đời. Họ có cuộc sống
nội tâm phong phú, đáng yêu, dễ xúc cảm, nhiều mơ ước. Họ thích làm đẹp cho cuộc sống của mình ngay cả trong
hoàn cảnh chiến trường ác liệt. Nho thích thêu thùa, chị Thao chăm chép bài hát, Phương Định thích ngắm mình trong
gương, ngồi bó gối mộng mơ và hát… Họ hồn nhiên như những đứa trẻ trước cơn mưa đá. Và trận mưa đã trở thành
nỗi nhớ - sự nối dài quá khứ hôm qua và khát vọng mai sau. Kỉ niệm sống dậy như những khoảng sáng trong tâm
hồn, những cảm xúc hồn nhiên như nguồn sống, điểm tựa, giúp họ thêm vững vàng, thêm sức mạnh vượt qua những
khó khăn,nguy hiểm.

 Quả thật, đó là những cô gái mang trong mình những tính cách tưởng như không thể cùng tồn tại, vô
cùng gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu mà cũng hồn nhiên, vô tư trong cuộc sống sinh hoạt.

b, Nét riêng:
- Nho là một cô gái trẻ, xinh xắn, “trông nó nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng”, cô “cái cổ tròn và những cúc áo
nhỏ nhắn” rất dễ thương khiến Phương Định “muốn bế nó trên tay”. Nho lại rất hồn nhiên – cái hồn nhiên trẻ thơ:
“vừa tắm dưới suối lên, cứ quần áo ướt, Nho ngồi, đòi ăn kẹo”; khi bị thương nằm trong hang vẫn nhổm dậy, xòe tay
xin mấy viên đá mưa. Nhưng trong chiến đấu thì rất dũng cảm, hành động thật nhanh gọn: “Nho cuộn tròn cái gối,cất
nhanh vào túi”, “quay lưng lại chúng tôi, chụp cái mũ sắt lên đầu…” Và trong một lần phá bom, cô đã bị sập hầm,
đất phủ kín lên người. Mặc dù bị thương rất đau nhưng cô không rên la, không muốn cho đồng đội phải lo lắng.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

- Chị Thao, tổ trưởng, ít nhiều có từng trải hơn, mơ ước và dự tính về tương lai có vẻ thiết thực hơn, nhưng cũng
không thiếu nhưng khát khao và rung động của tuổi trẻ. “Áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu” .Chị lại hay tỉa
đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm. Chị sợ máu, sợ vắt: “thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái
mét”.Và không ai có thể quên được chị hát : nhạc sai bét, giọng thì chua, chị chăm chép bài hát dù chẳng thuộc nhạc
và thậm chí chép cả những lời Phương Định tự bịa ra, chị không hát trôi chảy được bài nào nhưng chị lại có ba quyển
sổ dày chép bài hát và rỗi là chị ngồi chép bài hát. Nhưng trong công việc, ai cũng gờm chị về tính cương quyết, táo
bạo. Đặc biệt là sự “bình tĩnh đến phát bực” : máy bay địch đến nhưng chị vẫn “móc bánh quy trong túi, thong thả
nhai”.

- Phương Định cũng trẻ trung như Nho, là một cô học sinh thành phố, nhạy cảm và hồn nhiên, thích mơ mộng và hay
sống với những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vô tư về gia đình và về thành phố của mình. Định thích hát, cứ thuộc một
điệu nhạc nào là bịa ra lời mà hát, thích ngắm mình trong gương, thích ngồi bó gối mơ màng. Vào nơi chiến trường
khói lửa, tuy gian khổ nhưng Định vẫn giữ được cái phong cách riêng của người Hà Nội, rất trữ tình và đáng yêu.

 Mỗi người có một cá tính riêng nhưng ở họ đều ngời sáng vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng Việt Nam, của
tuổi trẻ Việt Nam.
 Viết về ba cô thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê đã không tô vẽ, không mĩ lệ mà miêu tả hết sức cụ thể,
chân thực bằng cách cá thể hóa nhân vật với những hình ảnh rất đời thường. Họ đã từ cuộc đời bước vào
trang sách, trở thành những anh hùng – những ngôi sao trên bầu trời Trường Sơn.

3. Nhân vật Phương Định:

a. Phương Định là cô gái có tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, mơ mộng, tâm hồn bình dị, trẻ trung.
- Phương Định là một cô gái trẻ người Hà Nội vào chiến trường tham gia đội thanh niên xung phong. Cô cùng hai
đồng đội là chị Thao và Nho làm thành tổ trinh sát mặt đường. Phương Định là một cô gái đẹp như cô tự tin đánh giá:
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

“Tôi là con gái Hà Nội. Nói một cách khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày tương đối mềm, cái cổ cao
kiêu hãnh như đài hoa loa kèn, còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo : “Cô có cái nhìn sao mà xa xăm””. Đó là một vẻ
đẹp rất nữ tính, ẩn chứa chiều sâu tâm hồn với nét ngạo nghễ vượt lên bom đạn tàn khốc.

- Phương Định cũng mang những nét chung của những cô gái mới lớn, nhạy cảm và luôn quan tâm đến hình thức của
mình. Cô biết mình được nhiều người biết đến nhất là những anh lính để ý và có thiện cảm. Cô thấy vui và tự hào với
điều đó nhưng cô chưa dành tình cảm cho một ai, nhạy cảm nhưng không hay biểu lộ tình cảm của mình, thường tỏ
ra kín đáo giữa đám đông tưởng như là kiêu kì.
- Vào chiến trường đã ba năm, quen với những thử thách và nguy hiểm rình rập, hàng ngày giáp mặt với cái chết
nhưng ở cô không mất đi sự hồn nhiên, trong sáng và lạc quan, những mơ ước dự định về tương lai. Cô hay mơ mộng
và thích hát : “Tôi mê hát, thường cứ thuộc một điệu nhạc nào là tôi bịa ra lời mà hát”, thích ngồi bó gối mơ màng.
Cô hát ngay cả khi bom rơi, đạn nổ, trong tiếng hát của cô có ý thức về lí tưởng, có khát khao về quê hương, về tình
yêu tuổi trẻ và cả khát vọng trở về cuộc sống thanh bình.

- Ở người con gái này, ta còn bắt gặp một nét cá tính rất đáng yêu nữa đó là tâm hồn nhạy cảm và hết sức hồn nhiên.
Chỉ một cơn mưa thoáng qua cũng đánh thức nhiều kỉ niệm và nỗi nhớ quê hương, gia đình. Sau niềm vui thích cuống
cuồng của tâm hồn con trẻ là nỗi nhớ da diết, khôn nguôi, bao nhiêu nỗi nhớ lại ùa về trong tâm trí Phương Định.

b. Phương Định là cô gái có lòng quả cảm, không sợ hi sinh.

- Phương Định là một cô gái dũng cảm, gan dạ và có tinh thần trách nhiệm cao với công việc cho dù phải luôn đối
diện với cái chết. Cũng như những người đồng đội của mình, cô phải phá bom thường xuyên, ngày nhiều năm lần,
ngày nào ít ba lần. Tuy công việc đã quen nhưng mỗi lần phá bom vẫn là một thử thách với thần kinh cho đến từng
cảm giác. Tác giả đã miêu tả cụ thể và tinh tế diễn biến tâm lí Phương Định trong một lần phá bom:
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

+ Khi tiến đến quả bom, Phương Định cũng run sợ, nhưng khi biết có các anh lính cao xạ đang dõi theo mình, cô
không đi khom mà đàng hoàng bước tới ➔ lòng dũng cảm đã được kích thích bởi lòng tự trọng.

+ Khi gần bên quả bom, kề sát với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác của Phương Định trở nên sắc nhọn hơn:
“Thỉnh thoảng, lưỡi xẻng chạm vào quả bom, một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình”.
Đây là phản ứng bản năng của cơ thể trước sự sống và cái chết kề nhau trong gang tấc. Trong hoàn cảnh đó, Phương
Định đã vượt lên chính mình, cô thấy tại sao mình làm quá chậm “Nhanh lên một tí. Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu
chẳng lành”.

+ Tiếp đó là những giây phút căng thẳng chờ đợi tiếng nổ quả bom. Tác giả đã miêu tả rất chân thực tâm trạng Phương
Định lúc này. Cô có nghĩ đến cái chết nhưng là cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Điều quan trọng khiến chúng ta cảm
phục Phương Định là những lo nghĩ của cô “Liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào châm mòn
lần thứ hai?” Đó là ý thức trách nhiệm rất cao trong công việc. Đó là lòng dũng cảm vô song khi đối diện với cái
chết.

c) Tình đồng đội, đồng chí thắm thiết.

- Trong chiến trường đầy gian khổ, hi sinh, các chiến sĩ đã gắn bó với nhau trong tình đồng đội thắm thiết, Phương
Định rất yêu quý những người đồng đội của mình. Đặc biệt, cô dành tình yêu và niềm cảm phục cho tất cả những
chiến sĩ mà cô gặp hàng đêm trên con đường trọng điểm mặt trận. Với cô, những người đẹp nhất, thông minh, can
đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ.

- Mỗi lần đồng đội đi làm nhiệm vụ ngoài cao điểm, mình cô ngồi lại trực điện thoại là mỗi lần cô lo lắng , căng thẳng
cho đồng đội của mình. Với cô, những gì đã qua, những gì sắp tới không đáng kể nữa nếu các bạn cô không quay về.
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

Khi đại đội trưởng hỏi tình hình, cô vô cớ gắt vào máy bởi cô đang lo lắng cho đồng đội, sự lo lắng khiến cô không
làm chủ được mình. Nhưng rồi, khi nghe thấy tiếng súng cao xạ vang lên dồn dập, cô vui thích muốn la toáng lên vì
đồng đội của cô đã có sự yểm trợ.

- Khi Nho bị thương, Phương Định hết sức lo lắng, cô chăm sóc cho Nho như chị em ruột thịt. Cô bế Nho lên, rửa vết
thương cho Nho, tiêm thuốc rồi pha sữa cho Nho uống. Cô căng thẳng đến mức không hát được mặc dù được chị
Thao đề nghị. Tất cả điều đó đều là tình cảm của Phương Định dành cho đồng đội của mình.

➔ Qua dòng suy tư của Phương Định, người đọc không chỉ thấy sự toả sáng của phẩm chất anh hùng mà còn
hình dung được thế giới nội tâm phong phú ở cô. Sự khốc liệt của chiến tranh đã tôi luyện tâm hồn vốn nhạy
cảm yếu đuối thành bản lĩnh kiên cường của người anh hùng cách mạng. Phương Định (cũng như Nho và
Thao) là hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ cứu nước.

➔ Qua nhân vật Phương Định và các cô thanh niên xung phong, Lê Minh Khuê đã có cái nhìn thật đẹp, thật
lãng mạn về cuộc sống chiến tranh, về con người trong chiến tranh.Chiến tranh là đau thương mất mát song
chiến tranh không thể hủy diệt được vẻ đẹp tâm hồn rất tươi xanh của tuổi trẻ, của con người. Chính từ những
nơi gian lao, quyết liệt ta lại thấy ngời sáng vẻ đẹp của tuổi trẻ, của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng Việt Nam.

 Ba cô thanh niên xung phong trong những trang văn xuôi trữ tình êm mượt của Lê Minh Khuê
gieo vào lòng người đọc ấn tượng khó quên về vẻ đẹp lung linh tỏa sáng của những ngôi sao xa xôi trên
bầu trời bom đạn.

III. Tổng kết:


1. Nội dung:
Ôn luyện văn 9 – Lớp văn cô Thu - 0977995922

Truyện "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng, mơ mộng, tinh thần dũng
cảm, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung
phong trên tuyến đườngTrường Sơn. Đó chính là hình ảnh đẹp, tiêu biểu về thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì kháng
chiến chống Mĩ.

2.Nghệ thuật:
- Lựa chọn ngôi kể phù hợp, cách kể chuyện tự nhiên.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật, nhất là miêu tả tâm lí.
- Ngôn ngữ giản dị, vừa mang tính khẩu ngữ vừa đậm chất trữ tình.
- Câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập, gợi không khí chiến trường.

You might also like