Tiểu Luận Chủ Nghĩa Xã Hội

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN HỌC

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Quang Trường

Họ và tên sinh viên: Tống Thị Thư MSSV: 20190577 Mã lớp bài tập: 125724
Họ và tên sinh viên: Phạm Công Trọng MSSV: 20191148 Mã lớp bài tập: 125724

Hà Nội, tháng 8 năm 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN HỌC

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Điểm Nhận xét của giảng viên

TÊN ĐỀ TÀI: ẢNH HƯỞNG CỦA TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO ĐẾN ĐỜI
SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Quang Trường

Họ và tên sinh viên: Tống Thị Thư MSSV:20190577 Mã lớp bài tập: 125724
Họ và tên sinh viên: Phạm Công MSSV: 20191148 Mã lớp bài tập: 125724
Trọng
Hà Nội, tháng 8 năm 2021

Phần mở đầu

1 - Lý do chọn đề tài 
Hiện nay, trên tinh thần đổi mới nhận thức về tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta đã
nhận định tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, trong tôn giáo cũng có
những giá trị tốt đẹp về đạo đức, văn hóa. Vấn đề đạo đức tôn giáo đã được nhiều
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Các giáo lý tôn giáo đều chứa đựng một số giá
trị đạo đứa rất hữu ích cho việc xây dụng nền đạo đức mới và nhân cách con người
Việt Nam hiện nay. Giá trị lớn nhất của đạo đức tôn giáo là góp phần duy trì đạo
đức xã hội, hoàn thiện nhân cách cá nhân, hướng con người đến Chân- Thiện- Mỹ.
Tuy nhiên, xoay quanh về vấn đề đạo đức tôn giáo cũng còn nhiều yếu tố tiêu cực,
nó hướng con người đến hạnh phúc hư ảo và làm mất tính chủ động, sáng tạo của
con người. Vấn đề đặt ra là, cần nhận diện đúng vai trò của đạo đức tôn giáo nhằm
phát huy những giá trị tốt đẹp của tôn giáo và hạn chế những tác động tiêu cực của
nó đối với việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam hiện nay.
Khi đi sâu tìm hiểu về đạo đức tôn giáo, chúng em thấy có nhiều quan điểm khác
nhau. Có quan điểm cho rằng, đạo đức tôn giáo không chứa đựng những yếu tố
tích cực, tiến bộ mà hoàn toàn đối lập với đạo đức trần thế, không thể áp dụng vào
đời sống hiện thực. Quan điểm khác lại cho rằng, tôn giáo không có đạo đức riêng,
đạo đức tôn giáo có thể nhấn mạnh điểm này hay điểm khác. Trước khi phân tích
vai trò của đạo đức tôn giáo đối với đời sống xã hội, chúng em muốn đề cập đến
một cách khái quát cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đạo đức tôn giáo. Từ những
yếu tố trên chúng ta thấy được tầm quan trọng của tôn giáo trong đời sống xã hội
Việt Nam hiện nay.
2 - Đối tượng nghiên cứu của đề tài 
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: “Ảnh hưởng của tín ngưỡng tôn giáo” 
3 - Phạm vi nghiên cứu của đề tài 
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là “đời sống tinh thần của người Việt Nam
trong xã hội hiện nay” 
4 – Phương pháp nghiên cứu của đề tài 
Bài tiểu luận sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp lý thuyết dựa trên thông
tin và cơ sở dữ liệu có sẵn tại các sách báo, giáo trình về ảnh hưởng của tín ngưỡng
tôn giáo đến đời sống tinh thần người Việt Nam trong xã hội hiện nay để rút ra kết
luận khoa học và đưa ra khuyến nghị
5- Đóng góp của đề tài 
Bài tiều luận đưa ra
ra những hiểu biết chung về tín ngưỡng tôn giáo. Từ đó có cái nhìn khách quan về 
ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống tinh thần ngươi dân Việt Nam. Qua đó, thấy 
rõ được những mặt tích cực và tiêu cực của tôn giáo để dễ dàng tìm ra những giải 
pháp phát huy những điểm tích cực và hạn chế những điểm tiêu cực của tín ngưỡng 
tôn giáo đến đời sống tinh thần con người hiện nay.
 
Phần nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận chung
1.Tôn giáo 
1.1.Tôn giáo là gì? 
Tôn giáo có thể được định nghĩa là một hệ thống các văn hóa, tín ngưỡng, đức tin
bao gồm các hành vi và hành động được chỉ định cụ thể, các quan niệm về thế giới,
thể hiện thông qua các kinh sách, khải thị, các địa điểm linh thiêng, lời tiên tri,
quan niệm đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân loại với các yếu tố siêu
nhiên, siêu việt hoặc tâm linh. Tuy nhiên, hiên tại chưa có sự đồng thuận học thuật
về những gì chính xác cấu thành một tôn giáo, một thế lực hoặc nhiều thế lực siêu
nhiên hoặc “ một số thế lực siêu việt tạo ra các chuẩn mực và sức mạnh cho phần
còn lại của cuộc đời”. Các hoạt động tôn giáo có thể bao gồm các nghi lễ, bài
giảng, lễ kỷ niệm hay biểu hiện sự tôn kính ( các vị thần, thánh, tiên, phật) lễ tế, lễ
hội, nhập hồn, lễ nhập đạo, dịch vụ tang lễ, dịch vụ hôn nhân, thiền, cầu nguyện,
âm nhạc, nghệ thuật,múa, dịch vụ công cộng hoặc các khía cạnh khác của văn hóa
con người. Các tôn giáo có lịch sử và các kinh sách thiêng liêng, có thể được bảo
tồn trong các thánh thư, các biểu tượng và thánh địa, nhằm mục đích chủ yếu là tạo
ra ý nghĩa cho cuộc sống. Tôn giáo có thể chứa những câu chuyện tượng trưng, đôi
khi được những người tin theo cho là đúng, có mục đích phụ là giải thích nguồn
gốc của sự sống, vũ trụ và những thứ khác. Theo truyền thống, đức tin, cùng với lý
trí đã được coi là một nguồn gốc của các niềm tin tôn giáo.
1.2. Quan niệm 
Theo định nghĩa của giáo hội ( thần học) thì tôn giáo là một mối liên hệ giữa con
người với Thượng đế, với thần linh, với cái tuyệt đối, với một lực lượng nào đó,
với sự siêu việt hóa. Nhà thần học và triết học Tin Lành giáo, R.Otto(1869-1937)
cho rằng tôn giáo là “ sự thể nghiệm cái thần thánh “. Theo định nghĩa sinh học và
tâm lý học về tôn giáo tìm kiếm cơ sở của tôn giáo trong các quá trình sinh học hay
tâm lý học con người hoặc tách tôn giáo ra từ tâm lý cá nhân hay tâm lý nhóm.
Nhà triết học theo chủ nghĩa thực dụng người Mỹ, W.James (1842-1910) giải thích
tôn giáo xuất phát từ tâm lý cá thể “ Chúng ta thỏa thuận gọi tôn giáo là tổng thể
những tình cảm, hành vi và kinh nghiệm của cá thể riêng biệt vì nội dung của
chúng quy định quan hệ với cái mà tôn giáo tôn sùng – Thượng đế”. Quan niệm
của C.Mác ( 1818-1883) và Ph.Angghen (1820-1895) cho rằng tôn giáo là rất đa
dạng, được phân biệt tùy thuộc vào các nguyên tắc và các phương pháp xuất phát
điểm. Hai ông nêu đặc trưng tôn giáo dựa trên quan niệm duy vật biện chứng về tự
nhiên và xã hội và con người. Sự phát triển của tôn giáo phụ thuộc vào sự phát
triển của sản xuất xã hội và con người. Sự phát triển của tôn giáo phụ thuộc vào sự
phát triển của sản xuất xã hội, của hệ thống quan hệ xã hội, tôn giáo con người
biến thế giới kinh nghiệm của mình thành một bản chất tưởng tượng, đứng đối lập
với nó như một vật xa lạ. C.Mác viết “ Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác
của con người chưa tìm được bản than mình hoặc đã để mất bản than mình một lần
nữa. Nhưng con người không phải một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở ngoài
thế giới. Con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội. Nhà nước
ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, tức thế giới quan lộn ngược.” Ph.Angghen viết “
Tất cả tôn giáo chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người- của những lực
lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ chỉ là sự phản ánh trong
đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.”
Như vậy, có nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau về tôn giáo. Tuy nhiên mỗi
khái niệm về tôn giáo đều chưa làm cho các nhà nghiên cứu hay những chức sắc,
tín đồ tôn giáo vừa long. Bổ tôn giáo là lĩnh vực tinh thần có nhiều cách hiểu, cách
lý giải khác nhau. Trên quan niệm của C.Mac và Ph.Angghen về tôn giáo, có thể
nói, tôn giáo là sản phẩm của con người, con người sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu
cầu về tinh thần của con người trong xã hội, tôn giáo tạo cho con người có niềm tin
vào thế giới vô hình nơi hư vô, nhưng con người vốn sống trong cuộc sống hữu
tình nơi trần thế, đồng hồ tôn giáo quy định những luật lệ, nghi thức mang tính
thiêng liêng để con người thực hiện, tuân theo.

1.3. Vai trò của tôn giáo 
Tôn giáo là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho con người, có có hệ thống đạo đức
chuẩn mực để con người noi theo. Không những thế tôn giáo còn là nơi khơi nguồn
của hứng sáng tạo văn hóa nghệ thuật, kiến trúc.
1.4. Nguồn gốc của tôn giáo 
1.4.1 Nguồn gốc kinh tế – xã hội của tôn giáo: 
Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất thấp kém con người
cảm thấy yếu đuối và bất lực trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì vậy họ đã gắn
cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hóa những sức mạnh
đó. Từ đó, họ xây dựng nên những biểu hiện tôn giáo để thờ cúng. Khi xã hội phân
chia thành giai cấp đối kháng, con người cảm thấy bất lực trước sức mạnh của thế
lực giai cấp thống trị. Họ không giải thích được nguồn gốc của sự phân hóa giai
cấp và áp bức, bóc lột, tội ác … tất cả họ quy về số phận và định mệnh. Từ đó, họ
đã thần thành hóa một số người thành những thần tượng có khả năng chi phối suy
nghĩ và hành động người khác mà sinh ra tôn giáo. 
Như vậy, sự yếu kém về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự bần cùng
về kinh tế, áp bức, bóc lột về chính trị, bất lực trước những bất công của xã hội là
nguồn gốc sâu xa của 
1.4.2. Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo: 
Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội
và bản thân mình còn có giới hạn. Mặt khác, trong tự nhiên và xã hội có nhiều điều
khoa học chưa khám phá và giải thích được nên con người lại tìm đến tôn giáo. 
Sự nhận thức của con người khi xa rời hiện thực, thiếu khách quan dễ rơi vào ảo
tưởng, thần thành hóa đối tượng. 
1.4.3. Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo: 
Do sự sợ hãi, lo âu của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội mà dẫn
đến việc ính ra tôn giáo. Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận điểm “sự sợ hãi
sinh ra tôn giáo”. Lênin cũng cho rằng, sợ hãi trước thế lực mù quáng của tư bản
…. sự phá sản “đột ngột” “bất ngờ”, “ngẫu nhiên”, làm họ bị diệt vong …, dồn họ
vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại. Ngay cả
những tâm lý tích cực như lòng biết ơn, sự kính trọng cũng có khi được thể hiện
qua tôn giáo. 
2. Tính chất của tôn giáo: 
2.1 Tính lịch sử của tôn giáo: 
Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù nó còn tồn tại lâu dài, nhưng nó chỉ là
một phạm trù lịch sử. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu tượng của
con người đạt tới mức độ nhất định. 
Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử. Trong từng giai đoạn lịch sử, tôn giáo có sự biến
đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Thời đại thay đổi,
tôn giáo cũng có sự thay đổi, điều chỉnh theo. 
Đến một giai đoạn lịch sử nhất định, khi con người nhận thức được bản chất các
hiện tượng tự nhiên, xã hội, khi con người làm chủ được tự nhiên, xã hội, làm chủ
được bản thân mình và xây dựng được niềm tin cho mỗi con người thì tôn giáo sẽ
không còn. 
2.2 Tính quần chúng của tôn giáo: 
Tôn giáo là nơi sinh hoặt văn hóa, tinh thần của một số bộ phận quần chúng nhân
dân lao động. Hiện nay, số lượng tín đồ của các tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong
dân số thế giới. 
Tuy tôn giáo phản ánh hạnh phúc hư ảo, song nó phản ánh khát vọng của những
con người bị áp bức về một xã hội tự do, bình đẳng, bát ái … Bởi vì, tôn giáo
thường có tính nhân văn, nhân đạo hướng thiện. Vì vậy, còn nhiều người ở trong
các tầng lớp khác nhau của xã hội. 
2.3 Tính  chính trị của tôn giáo 
Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chi giai cấp, các giai
cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình. 
Trong nội bộ tôn giáo, cuộc đấu tranh giữa các dòng, hệ, phái nhiều khi cũng mang
tính chính trị. Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ, thì tôn giáo thường là một bộ
phận của đấu tranh giai cấp. Ngày nay, tôn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa
dạng, phức tạp không chỉ ở quốc gia mà còn cả phạm vi quốc tế. Đó là sự xuất hiện
các tổ chức quốc tế của tôn giáo với thế lực lớn đã tác động đến nhiều mặt, trong
đó có chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì vậy, cần nhận thức rõ: đa số quần
chúng đến với tôn giáo nhằm thõa mãn nhu cầu tinh thần; song trên thực tế đã và
đang bị các thế lực chính trị – xã hội lợi dụng để thực hiện mục đích ngoài tôn giáo
của họ. 
 
 
 
 
CHƯƠNG 2: Ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống xã hội Việt Nam
1. Đặc điểm, tình hình tôn giáo ở Việt Nam
1.1.Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí địa lý nằm
ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi trong mối giao
lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc thâm nhập các luồng
văn hóa, các tôn giáo trên thế giới. Các tín ngưỡng, tôn giáo dù có nguồn gốc khác
nhau, phương châm hành đạo không giống nhau nhưng không vì thế mà có sự
xung đột, phá hoại lẫn nhau để phát triển riêng mình, ngược lại trong quan hệ, họ
luôn có sự gắn kết, giao lưu và tìm hiểu về nhau để cùng truyền đạt những tinh hoa
của từng tín ngưỡng, tôn giáo và chúng đều có 4 đặc điểm cơ bản sau:
Các tín ngưỡng, tôn giáo có sự dung hợp, đan xen và hòa đồng, không kỳ thị, tranh
chấp và xung đột. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh đời sống tâm linh phong
phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lượng, nhân ái của người Việt Nam và tinh thần
đoàn kết toàn dân tộc. Đây là những yếu tố để người Việt Nam dễ hòa đồng với
nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Trong nhiều cộng đồng dân cư có sự xen kẽ
giữa người có tôn giáo và người không có tôn giáo. Ở nhiều nơi, trong cùng một
làng, xã, có nhóm tín đồ của tôn giáo này sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn
giáo khác hoặc với những người không theo tôn giáo, và họ sống hòa hợp với nhau
trên nền tảng làng, xóm, dòng họ. 
Các tôn giáo ở Việt Nam chủ yếu thờ Thượng đế và linh nhân là người nước ngoài.
Các nghiên cứu về lịch sử tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cho thấy, tư tưởng tôn
giáo có từ người Việt cổ, thể hiện trực quan qua các hình tượng chim Lạc và con
Rồng. Hệ thống giáo lý của các tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài,
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam,...) hầu hết đều sao chép hoặc chịu ảnh hưởng từ
các tôn giáo có trước. 
Mỗi tín ngưỡng, tôn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng đều hướng đến
Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân tộc, góp phần tạo nên
những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của dân tộc. Thực
tế, mỗi tôn giáo đều mang trong nó một hay nhiều tín ngưỡng; các tín ngưỡng này
đã có sự giao thoa với văn hóa Việt Nam. Qua hàng trăm năm tồn tại, phát triển,
văn hóa tín ngưỡng ngoại nhập dần được Việt hóa và trở thành một bộ phận của
văn hóa Việt Nam (dù không thuần nhất).
Trong lịch sử cận, hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân, đế quốc, phản động
luôn tìm mọi cách lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo và các vấn đề liên quan đến tín
ngưỡng, tôn giáo để xâm lược, đô hộ nước ta, hoặc gây mất ổn định an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ cho ý đồ đen tối của chúng. Hiện nay, các thế
lực thù địch vẫn sử dụng, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo như một thứ vũ khí nhằm
thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình", phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2. Tình hình tôn giáo ở nước ta hiện nay
Việt Nam hiện nay có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo đã được Nhà nước công nhận
(15/08/2019 ) . Mỗi tôn giáo có giáo lý, giáo luật riêng nhưng đều chung đường
hướng hành đạo gắn bó với dân tộc, xây dựng cuộc sống tốt đời, đẹp đạo. Đảng và
Nhà nước ta từ khi thành lập luôn nhất quán chính sách bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của người dân, tạo điều kiện để các tôn giáo hoạt động và tham
gia đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng, Nhà nước nỗ lực
tạo điều kiện để các tổ chức tôn giáo hoạt động và tham gia đóng góp cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với vai trò là một thành tố cấu thành của văn
hóa, tôn giáo đã góp phần lưu giữ, bồi đắp và làm phong phú những giá trị truyền
thống văn hóa, mang giá trị nhân văn, hướng thiện có ảnh hưởng tích cực trong đời
sống xã hội, thông qua giáo lý khuyên răn con người sống hướng thiện, vị tha, bác
ái... Những giới điều trong giáo lý các tôn giáo mang giá trị đạo đức và nhân văn
sâu sắc, góp phần điều chỉnh hành vi ứng xử của con người. Nhiều khu dân cư có
đông đồng bào theo tôn giáo trở thành điểm sáng về phòng chống tội phạm, phòng
chống ma túy và các tệ nạn xã hội khác, giữ gìn tốt an ninh trật tự, an toàn xã hội. 
2. Ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống xã hội Việt Nam
Biến đổi tôn giáo ở Việt Nam có tác động lớn đến phong tục, tập quán truyền
thống trên cả hai chiều hướng: tích cực và tiêu cực. Một mặt nó góp phần phục
hồi nhiều phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần thay
đổi lối sống, hành vi của một bộ phận người dân; mặt khác cũng làm hồi sinh
nhiều hủ tục, tập quán lạc hậu, làm biến dạng, phai mờ một số phong tục, tập
quán truyền thống. Những tác động này đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải
quyết cho Đảng, Nhà nước trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước
trong thời kỳ mới.
2.1.Tác động tích cực:
Trong bối cảnh các sinh hoạt tôn giáo được khởi sắc, nhiều phong tục, tập quán
chứa đựng giá trị nhân văn của dân tộc cũng được phục hồi trở lại và được thực
hành sống động trong đời sống xã hội. Các phong tục như đi lễ chùa đầu năm, ăn
chay, phóng sinh gắn với những biến đổi của Phật giáo là những ví dụ điển hình.
Ngoài ra, một số phong tục, tập quán khác cũng chịu tác động rất lớn từ sự biến đổi
của Phật giáo. Xu hướng các bạn trẻ tìm đến nhà chùa làm lễ hằng thuận (kết hôn)
để tăng tính thiêng cho nghi lễ hôn nhân đang gia tăng ở nhiều tỉnh, thành trong cả
nước. Cùng với đó, tang ma của một bộ phận người dân Việt Nam hiện nay (người
Kinh) cũng có sự hiện diện của nhà sư làm lễ cầu siêu cho linh hồn người chết.
Bên cạnh đó là các nghi lễ như lập đàn cúng 35 ngày, 49 ngày,... cũng gia tăng ở
nhiều địa phương trên cả nước. Những hoạt động trên nếu được tổ chức ở những
chừng mực nhất định sẽ có tác dụng thỏa mãn nhu cầu tâm linh, cân bằng đời sống
tinh thần cho một bộ phận người dân; đây cũng là một nét đẹp mà Phật giáo đem
lại cho văn hóa truyền thống của dân tộc. Với đạo Tin lành, sự hiện diện của tôn
giáo này cùng với những giáo lý, luật lệ, lễ nghi của nó đã làm thay đổi hẳn lề lối
sinh hoạt, cách sống và hành vi ứng xử trong cuộc sống hàng ngày của đồng bào
dân tộc thiểu số (DTTS) theo đạo. Từ niềm tin vào thế giới đa thần, một bộ phận
đồng bào DTTS chuyển sang niềm tin vào thế giới độc thần với sự sáng tạo của
Chúa. Sự thay đổi thế giới quan này đã kéo theo nhiều thay đổi về lối sống, nếp
sống của đồng bào. 
2.2.Tác động tiêu cực:
Bên cạnh tác động tích cực, biến đổi tôn giáo ở Việt Nam cũng có tác động tiêu
cực không nhỏ tới phong tục, tập quán của người Việt Nam, để lại những hệ lụy
cho văn hóa dân tộc. Cùng với sự sôi động của đời sống tôn giáo, nhiều hủ tục, tập
quán lạc hậu cũng có cơ hội hồi sinh mạnh mẽ. Với Phật giáo, sự tác động của nền
kinh tế thị trường cùng xu thế thế tục hóa đã làm cho nhiều phong tục, tập quán
truyền thống được dung chứa trong sinh hoạt Phật giáo dần trở nên biến dạng, sai
lệch. Phong tục đi lễ chùa đầu năm, tục phóng sinh có ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, những phong tục này đang bị thực hành một
cách sai lệch, biến tướng. Rất nhiều người không còn quan tâm đến ý nghĩa thực sự
của việc đi lễ chùa đầu năm, của việc phóng sinh, ăn chay,.. mà thực hành các
phong tục đó theo phong trào và mang tính hình thức. Mùa lễ hội đầu năm, người
người, nhà nhà đi lễ chùa để cầu đủ thứ theo nhu cầu trần tục, chen chúc, xô bồ.
Nghi lễ phóng sinh hiện nay cũng được thực hiện theo phong trào, cho có lệ mà
quên mất ý nghĩa thực sự của nó. Vào mỗi mùa Vu lan, nhiều người đến chùa
phóng sinh chim, cá; khi phóng sinh xong, chim, cá lại bị bắt trở lại và đem bán
tiếp. Chính vì vậy, sau một số nghi lễ phóng sinh của nhà chùa, chim, cá không
những không được cứu mạng mà còn chết hàng loạt. Bên cạnh đó, sự biến động
tôn giáo đã hình thành thị trường tôn giáo với các loại hình dịch vụ tâm linh. Điều
đó có thể nhận thấy rất rõ trong hoạt động sôi động của Phật giáo. Sự huyên náo
của các loại dịch vụ như vàng mã, cầu an, cầu siêu, trừ ma, trừ tà, bốc bát hương,
xem hướng nhà, hướng bếp,... nở rộ ở nhiều địa phương, gây tốn kém tiền của của
xã hội. Sinh hoạt Phật giáo ở một số nơi đang bị biến tướng với những hoạt động
tiêu cực, có tác động rất xấu tới đời sống xã hội. Hiện tượng dâng sao, giải hạn ở
một số chùa khu vực miền Bắc hay hiện tượng cúng oan gia trái chủ ở chùa Ba
Vàng gần đây gây ra nhiều hệ lụy xấu cho Phật giáo và cho xã hội. ặc biệt, trong
trào lưu của các hiện tượng tôn giáo mới, xuất hiện những hiện tượng tôn giáo
mang tính phản văn hóa, phi nhân tính có tác động cực kỳ tiêu cực đối với văn hóa,
đạo đức, với thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Hiện tượng giáo phái Tốc Phạ ở
Thuận Châu, Sơn La hay hiện tượng Chân Không của Lưu Văn Ty một thời là
những ví dụ điển hình. Hiện nay, các hiện tượng tôn giáo mới như Hà mòn, Amí sa
rí ở Tây Nguyên với nhiều biểu hiện mê tín dị đoan cũng đã và đang có những tác
động tiêu cực tới đời sống văn hóa xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số. Hay
gần đây nhất là sự phát triển của Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ tại nhiều tỉnh thành
trong cả nước dấy lên hồi chuông báo động về những tác động tiêu cực của các
hiện tượng tôn giáo mới đối với văn hóa, phong tục, đạo đức truyền thống của dân
tộc trong thời kỳ mới
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC
VÀ HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TÔN GIÁO Ở VN
Tôn giáo ở Việt Nam không chỉ là một thành tố của văn hóa mà còn thực sự là một
nguồn lực quan trọng, góp phần phát triển đất nước vì vậy chúng ta cần tích cực
phát huy các ảnh hưởng tích cực của tôn giao ở Việt Nam. Các chức sắc, chức
việc, lãnh đạo các tổ chức tôn giáo cần tiếp tục đồng hành cùng với Chính phủ và
chính quyền các cấp, gương mẫu, trách nhiệm, tận tụy, hướng dẫn, động viên chức
sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo thực hiện đúng phương châm, đường hướng hành
đạo gắn bó đồng hành với dân tộc. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp
và nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước; quan tâm chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức
năng cùng giải quyết những khó khăn, vướng mắc với tinh thần xây dựng, thiện chí
và khách quan. Nguyên tắc chung là phải nhìn nhận và giải quyết các vấn đề liên
quan đến tôn giáo trên tinh thần thượng tôn pháp luật và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và tự do không tôn giáo của mọi người dân. Nhà nước cần đề
xuất những hoạt động phát huy nguồn lực của tổ chức tôn giáo tham gia tích cực,
hiệu quả các hoạt động xã hội, nhất là các lĩnh vực thế mạnh của tôn giáo như y tế,
văn hóa, giáo dục, dạy nghề, từ thiện xã hội, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường....
Bên cạnh đó, không để các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo mê tín dị đoan,
trục lợi, gây bức xúc trong xã hội, chia rẽ nhân dân, phá hoại khối đoàn kết dân
tộc, đoàn kết tôn giáo; nêu cao tinh thần cảnh giác, không để các thế lực lợi dụng
chống phá ta về “dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo”, cản trở Việt Nam trong
hội nhập và hợp tác quốc tế. Các bộ, ngành chức năng, đặc biệt các địa phương cần
tập trung cho công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật về
công tác tôn giáo, phát huy vai trò tích cực của các tôn giáo trong sự nghiệp xây
dụng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức nhân văn, bác ái của các
tôn giáo để lan tỏa trong đời sống xã hội, bồi đắp cho nền văn hóa dân tộc Việt
Nam; phát huy nguồn lực trí tuệ và sức sáng tạo của con người Việt Nam nói
chung và đồng bào tôn giáo nói riêng trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học công
nghệ vào lao động sản xuất. Chúng ta cần phát huy tối đa nguồn lực, trí tuệ của con
người Việt Nam để phát triển đất nước, nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức tự lực
tự cường của dân tộc. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để chúng ta cùng phấn
đấu thực hiện.
Phần kết luận
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy một thực tế là các hoạt động tín ngưỡng tôn
giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống của con người. Một mặt, những hoạt
động này thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng tôn giáo của người thực hành. Mặt khác, nó
giúp giải quyết những vấn đề khó khăn của thực tại và nâng cao đời sống tinh thần
của họ như một phần không thể thiếu trong cuộc sống. C.Mác khẳng định “ nhiệm
vụ của lịch sử, sau khi thế giới bên kia của chân lý đã mất đi, là xác lập chân lý của
thế giới bên này… Như vậy phê phán thượng giới biến thành phê phán cõi trần,
phê phán tôn giáo biến thành phê phán pháp quyền, phê phán thần học biến thành
phê phán chính trị”. Cũng có thể nói, tín ngưỡng tôn giáo sẽ tiếp tục phát triển
cùng với xã hội loài người. Tuy nhiên chúng ta cần phát huy những tích cực và hạn
chế những tiêu cực của tôn giáo tới đời sống .
Bài tiểu luận của chúng em chủ yếu mang tính chất thu thập những nhận định của
một số nhà nghiên cứu trước, góp nhặt và sắp xếp lại để chúng ta có một cái nhìn
khái quát giữa tín ngưỡng tôn giáo và đời sống tinh thần của con người Việt Nam
hiện nay. Thông qua việc nghiên cứu về mối quan hệ của những chủ thể trên, có
thể đưa ra cái nhìn tổng quát hơn. Từ việc nghiên cứu vấn đề này có thể tìm ra
được những ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực của tín ngưỡng tôn giáo đến đời
sống của con người.
Đó là nghiên cứu của nhóm chúng em về đề tài:
“Ảnh hưởng của tín người tôn giáo đến đời sống tinh thần của con người Việt 
Nam trong xã hội hiện nay.” Bài tiểu luận của chúng em dù đã rất cố gắng nhưng
còn nhiều thiếu xót, mong thầy sẽ chỉ bảo thêm để chúng em rút kinh nghiệm cho
những bài viết sau. Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo tinh
thần của Đại hội XI – PGS,TS Nguyễn Trọng Tuấn
Chuyên đề “ Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo”.
Tôn giáo và ảnh hưởng của tôn giáo đến đời sống Việt Nam- Đại cương văn
hóa Viê

You might also like