Professional Documents
Culture Documents
Tư Tư NG H Chí Minh
Tư Tư NG H Chí Minh
Tư Tư NG H Chí Minh
ĐỀ TÀI:
ĐỀ TÀI:
NHẬN XÉT
GIẢNG VIÊN
ThS Nguyễn Thị Thúy Vân
A. MỞ ĐẦU
Nhà nước pháp quyền là một trong những khái niệm cơ bản trong lý luận
chính trị. Theo định nghĩa của Karl Marx, nhà nước pháp quyền là "công cụ ngăn
chặn, kiểm soát và đàn áp giai cấp bị áp bức bởi giai cấp bóc lột". Tuy nhiên, trong tư
tưởng của Hồ Chí Minh, nhà nước pháp quyền không chỉ đơn thuần là một công cụ
đàn áp giai cấp mà còn là một công cụ sắc bén dùng để giải phóng nhân dân, xây
dựng một đất nước độc lập, dân chủ và phát triển.
Việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền không chỉ là
việc tìm hiểu về quan niệm và tư tưởng của một nhà lãnh đạo vĩ đại mà còn là việc
hiểu rõ hơn về một trong những nền tảng quan trọng của chính trị Việt Nam hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền đã và đang được áp dụng trong thực
tiễn chính trị của đất nước Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và
phát triển đất nước.
Vì vậy, trong tiểu luận này, chúng tôi sẽ tập trung phân tích và đánh giá Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền. Đồng thời, chúng tôi sẽ phân tích các
khái niệm cơ bản liên quan đến nhà nước pháp quyền, như quyền lực, dân chủ, phát
triển và sự công bằng. Từ đó, tôi sẽ đặt ra các vấn đề thực tế đang tồn tại liên quan
đến nhà nước pháp quyền ở Việt Nam và liên hệ với tư tưởng của Hồ Chí Minh. Cuối
cùng, chúng tôi sẽ đưa ra kết luận và nhận định về tầm quan trọng của Tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước pháp quyền trong chính trị Việt Nam hiện nay.
Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc phát triển chính trị Việt
Nam, chúng tôi hy vọng sẽ đóng góp những kiến thức, giá trị quý báu cho thế hệ sinh
viên cũng như là sự phát triển của đất nước Việt Nam, đồng thời góp phần vào sự
phát triển chung của nhân loại.
B. NỘI DUNG
I. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
Chủ tịch Hồ Chí Minh không nêu lên một quan niệm cụ thể nào về nhà nước
pháp quyền. Tuy nhiên những giá trị tư tưởng nhà nước pháp quyền của Người đã
được phản ánh ở những mức độ khác nhau trong các văn bản chính trị pháp lí khác
nhau. Trong đó, các bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959 đề lại dấu ấn đậm nét
những quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất, tiết chế và hoạt động của Nhà nước
mới.
Bởi vậy, có thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là một bộ
phận cấu thành trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh được định nghĩa:
“ Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hoá nhân loại... ”
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội, 2001,
tr.83
“ Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và tư tưởng của Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp cách mạng của ông được Đảng Cộng sản Việt Nam tổng kết, hệ
thống hóa. Hệ thống tư tưởng này bao gồm những quan điểm về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa; vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
cụ thể của Việt Nam. ”
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, 2009, tr.14
Trên cơ sở những quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người, về nhà
nước, về Hiến pháp và pháp luật, có thể cho rằng: Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về nhà nước pháp quyền chính là “hệ thống những quan điểm của Người về
một nhà nước được xây dựng và phát triển vì mục tiêu bảo vệ con người; về vai trò và
chức năng của Hiến pháp và pháp luật trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước và
bảo vệ giá trị dân chủ trên nền tảng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của
Nhân dân”.
Mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng, hoàn thiện
qua nhiều thời kỳ với đặc điểm, tính chất đặc thù Việt Nam, từng bước tiếp cận chuẩn
mực, tinh hoa nhân loại. Thực tiễn cho thấy, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thời gian qua đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Trong Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đã khẳng định: “Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp
tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Hệ thống pháp luật được hoàn thiện cơ bản, bảo đảm yêu cầu quản lý, ổn
định, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong hơn 35 năm đổi
mới, số lượng luật và pháp lệnh được ban hành tăng nhanh, giai đoạn 1986 - 2005,
Quốc hội thông qua 7 bộ luật, 133 luật và 15 pháp lệnh; giai đoạn 2006 - 2021, Quốc
hội thông qua được 329 luật, pháp lệnh. Tư duy về tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước không ngừng được đổi mới. Tính chuyên nghiệp, minh bạch, trách nhiệm
giải trình, phân cấp, phân quyền khoa học, hiệu lực, hiệu quả hơn. Đội ngũ cán bộ,
công chức được xây dựng theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo
đức tốt và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chất lượng đội ngũ cán bộ không ngừng được
nâng lên. Công cuộc đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy
nhà nước được triển khai tích cực bằng nhiều biện pháp. Cải cách hành chính, tư
pháp có bước đột phá; chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức và cá nhân; tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, Đảng ta cũng thẳng thắn nhìn
nhận việc “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới”. Trong đó,
hệ thống pháp luật vẫn còn một số quy định chưa thống nhất, chưa theo kịp đời sống
thực tiễn. Ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, đảng viên, người dân
chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước có lúc, có nơi, còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp
luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính, cải cách tư
pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước. Cơ chế kiểm soát quyền lực
chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của nhân dân còn có những mặt hạn chế. Tổ chức
và hoạt động của chính quyền địa phương một số nơi chưa đổi mới mạnh mẽ; chức
năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa rõ ràng; hiệu lực, hiệu quả chưa cao…
Tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ định hướng
giai đoạn 2021 - 2030 là: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân
phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt
động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”.
Việc học hỏi kinh nghiệm, tìm tòi, nghiên cứu, chọn lọc, tiếp thu và phát triển
một cách sáng tạo những tinh hoa, giá trị tiến bộ về nhà nước pháp quyền của nhân
loại là một nhu cầu tất yếu và cấp thiết. Tuy nhiên, không được dập khuôn, máy móc,
cần phù hợp với điều kiện của Việt Nam, góp phần khẳng định, phát triển và làm sâu
sắc hơn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Việc nâng cao ý thức pháp luật cho mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng lối sống
tuân thủ pháp luật là một công việc quan trọng, vừa có tính cấp thiết, vừa là công việc
có tầm chiến lược lâu dài. Điều đó xuất phát từ tình hình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước trong thời kỳ hội nhập, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, của yêu cầu phát
huy hơn nữa vai trò của ý thức pháp luật trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay. Để nâng
cao ý thức pháp luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta
hiện nay cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau:
Trước hết, phải chú trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, làm
cơ sở cho mọi hoạt động xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, để có được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ,
đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nhà nước pháp quyền cần chú ý
một số công việc cụ thể như:
(1)Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý để cung cấp luận cứ khoa học cho
việc xây dựng chiến lược pháp luật, các chương trình, kế hoạch xây dựng và hoàn
thiện pháp luật; (2) Xây dựng chiến lược phát triển pháp luật gắn với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội; (3) Có những biện pháp để nâng cao năng lực lập pháp của Quốc
hội với tư cách là cơ quan có chức năng chuyên làm luật; (4) Tăng cường sự chỉ đạo,
điều hành của Chính phủ đối với công tác xây dựng các dự án luật, pháp lệnh trình
Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các văn bản quy phạm pháp luật thuộc
thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ; (5) Nâng cao chất lượng, năng
lực của các cơ quan pháp chế bộ, ngành trong việc ban hành văn bản pháp quy; (7)
Nhà nước cần thường xuyên tổ chức công tác rà soát, hệ thống hoá pháp luật và tổng
kết kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Tiếp theo là Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng, tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong
mọi tầng lớp nhân dân như sau:
(1) Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giải thích pháp luật để nhân dân hiểu
đầy đủ nội dung của các văn bản pháp luật được ban hành trong từng giai đoạn. Các
hình thức thông tin cần được cải tiến cho phù hợp với mỗi nhóm đối tượng trong xã
hội để đạt hiệu quả cao nhất. Để thực hiện tốt công tác này, cần có sự phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng để có những hình
thức và phương pháp thích hợp, mở rộng tính dân chủ công khai bảo đảm quyền
được thông tin của nhân dân.
(2) Đưa việc giảng dạy pháp luật vào hệ thống các trường của Đảng và Nhà nước.
Công tác giảng dạy pháp luật cần được tổ chức sâu rộng, cho mọi đối tượng, từ các
trường phổ thông, trưng học đến đại học và bồi dưỡng ở mọi ngành nghề, lĩnh vực.
Để công tác giảng dạy pháp luật đạt hiệu quả, cần xây dựng chương trình, nội dung,
giáo trình phù hợp cho từng loại đối tượng theo từng cấp học khác nhau.
(3) Đẩy mạnh công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp lý có năng lực và trình độ, có
phẩm chất chính trị và phong cách làm việc tốt để bố trí vào các cơ quan làm công tác
pháp luật, pháp chế. Hoạt động của đội ngũ cán bộ pháp lý này sẽ góp phần nâng cao
vai trò của pháp luật, củng cố pháp chế XHCN, góp phần giáo dục nâng cao ý thức
pháp luật của nhân dân.
(4) Mở rộng dân chủ, công khai tạo điều kiện cho nhân dân tham gia một cách tích
cực vào việc soạn thảo, thảo luận đóng góp ý kiến về các dự án pháp luật thông qua
đó nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
(5) Thực hiện kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục đạo đức, văn hoá, nâng cao
trình độ chung của nhân dân. Đạo đức và văn hoá là những yếu tố quan trọng để tạo
ra ý thức pháp luật đúng đắn, đồng thời giữa đạo đức, văn hoá và pháp luật XHCN có
quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, để giáo dục pháp luật đạt kết quả, cần kết hợp với
giáo dục đạo đức và giáo dục nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân.
Tiếp tục tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật hiệu quả trong nhân dân
Công tác xây dựng, tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật là ba hoạt động cơ
bản của nhà nước nhằm đảm bảo sự tác động, điều chỉnh có hiệu quả của pháp luật
và sự phát triển năng động, có định hướng của các quan hệ xã hội. Các hoạt động này
đòi hỏi các chủ thể thực hiện chúng đều phải có trình độ nhận thức và ý thức pháp
luật nhất định. Công tác xây dựng pháp luật chủ yếu tập trung vào một số cơ quan và
một số bộ phận cán bộ nhất định có chức năng chuyên làm công tác xây dựng pháp
luật. Tuy nhiên, nhân dân cũng tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật bằng nhiều
hoạt động nhất định như thảo luận đóng góp ý kiến vào dự thảo các văn bản pháp
luật, qua đó nâng cao trình độ nhận thức và ý thức pháp luật của mình.
Bên cạnh việc ban hành văn bản pháp luật, việc tổ chức thực hiện các văn bản
pháp luật đó, đưa các văn bản đó vào cuộc sống, làm cho chúng phát huy được vai
trò điều chỉnh, tác động vào các quan hệ xã hội cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Do vậy, để nâng cao ý thức pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, cần tổ chức
cho nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh các văn bản pháp luật của nhà nước, thông qua
quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, nhân dân sẽ được trang bị thêm kiến thức
pháp luật và ý thức tôn trọng thực hiện pháp luật. Đối với hoạt động áp dụng pháp
luật, đây là hình thức nhà nước thông qua các cơ quan và người có thẩm quyền tổ
chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp luật. Áp dụng pháp luật được tiến hành khi
có những chủ thể không muốn hoặc không đủ khả năng thực hiện pháp luật nếu thiếu
sự tham gia của cơ quan nhà nước hoặc cán bộ có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật là
một trong những hình thức thực hiện chức năng của nhà nước, do vậy phải đảm bảo
tính sáng tạo, tính tổ chức cao và chặt chẽ. Về nguyên tắc, hoạt động áp dụng pháp
luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện, tuy nhiên hoạt động này sẽ
đạt hiệu quả cao hơn nếu có sự tham gia rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân. Hoạt
động của các cơ quan tư pháp trong quá trình tiến hành tố tụng để xét xử các hành vi
vi phạm pháp luật sẽ tác động đến nhận thức của các đối tượng trong nhân dân, từ
đó có tác dụng giáo dục đối với nhân dân, khiến nhân dân có ý thức tuân thủ pháp
luật cao hơn.
C. KẾT LUẬN
Ở Việt Nam, khái niệm “Nhà nước pháp quyền XHCN” lần đầu tiên được nêu ra tại
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (ngày 29/11/1991) và
tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng
năm 1994 cũng như trong các văn kiện khác của Đảng. Tiếp theo là tại các Đại hội lần
thứ X và XI của Đảng đã có bước phát triển về chất trong nhận thức về xây dựng Nhàn
ước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Thể chế hoá quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Đảng, Điều 2
Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “1. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà
nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa
XHCNViệt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức; 3.Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan, nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đang phải đối mặt với
không ít khó khăn, thách thức. Yêu cầu đặt ra là Đảng phải luôn đảm bảo được tính
chính đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín, sự tin tưởng, sự cuốn hút của
Đảng đối với Nhân dân; tính hiệu quả trong lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của Nhân dân. Do đó, việc thực hiện công khai, minh
bạch và trách nhiệm giải trình của các CQHCNN là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa to
lớn đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Với cương vị
là một sinh viên – công dân Việt Nam em xin hứa sẽ luôn tôn trọng, có trách nhiệm,
thái độ đúng đắn các đạo đức, tư tưởng và mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lennin, các quan điểm của Đảng Cộng
Sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng Hoà XHCN Việt Nam. Nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật, tiếp thu các kiến thức đã được học trên trường đồng
thời tự rèn luyện, học hỏi thêm để hình thành cho mình lối sống theo quy tắc, thói
quen chấp hành đúng quy định pháp luật và biết phát hiện, phòng, chống những hành
vi vi phạm pháp luật.Tự học để trang bị kiến thức, tự rèn luyện sức khỏe, tự kỷ luật
bản thân là điều sinh viên cũng như bản thân em phải thực hiện để hoàn thiện không
chỉ về nhân cách.