Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 6

Họ và tên: Nguyễn Minh Anh

MSV: 2112760603
STT: 7
Học phần: Kinh tế Chính trị
Mã học phần: TRIE115(GD1+2-HK2-2122).8

BÀI THU HOẠCH


I. Lịch sử ra đời của tiền tệ
Lịch sử hình thành và phát triển của của tiền tệ trải qua nhiều giai đoạn mà mỗi giai
đoạn lại mang các đặc điểm khác nhau. Trong lịch sử phát triển của loài người, lúc đầu
con người sống thành bầy đàn, kiếm ăn một cách tự nhiên, chưa có chiếm hữu tư nhân,
chưa có sản xuất và trao đổi hàng hóa nên chưa có tiền tệ. Tuy nhiên, ngay từ trong xã
hội nguyên thủy đã xuất hiện mầm móng của sự trao đổi. Lúc đầu trao đổi mang tính
chất ngẫu nhiên và được tiến hành trực tiếp vật này lấy vật khác. Giá trị (tương đối)
của
một vật được biểu hiện bởi giá trị sử dụng của một vật khác duy nhất đóng vai trò vật
ngang giá. Khi sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất xuất hiện, hoạt động trao đổi
diễn ra thường xuyên hơn. Tương ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình
thái giá trị mở rộng. Tham gia trao đổi bây giờ không phải là hai loại hàng hóa mà là
một loạt các loại hàng hóa khác nhau. Đây là một bước phát triển mới, tiến bộ so với
hình thái giá trị giản đơn, song bản thân nó còn bộc lộ một số thiếu sót:
- Biểu hiện tương đối của giá trị mọi hàng hóa chưa được hoàn tất, vẫn còn nhiều
hàng hóa làm vật ngang giá.
- Các hàng hóa biểu hiện cho giá trị của một hàng hóa không thuần nhất.
Phân công lao động xã hội và sản xuất phát triển thì hình thức trao đổi hàng hóa trực
tiếp ngày càng bộc lộ các nhược điểm của nó. Các hàng hóa chỉ được trao đổi với nhau
khi những người chủ của nó có cùng ý muốn trao đổi, ý muốn trùng khớp. Như vậy,
cùng với sự phát triển của sản xuất thì trao đổi trực tiếp ngày càng khó khăn và làm
cho
mâu thuẫn trong lao động và phân hóa lao động xã hội ngày càng tăng. Do đó, tất yếu
đòi hỏi phải có một thứ hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung tất ra từ tất
cả các thứ hàng hóa khác và các hàng hóa khác có thể trao đổi được với nó. Thích ứng
với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị chung. Nhưng trong giai
đoạn này, tác dụng của vật ngang giá chung vẫn chưa cụ thể tại một thứ hàng hóa nào,
trong những vùng khác nhau tì có những thứ hàng hóa khác nhau có tác dụng làm vật
ngang giá chung. Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện, thủ công
nghiệp tách khỏi nông nghiệp làm cho sản xuất hàng hóa phát triển và thị trường mở
rộng. Tình trạng nhiều hàng hóa có tác dụng vật ngang giá chung phát sinh mâu thuẫn
với nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, thị trường đòi hỏi phải thống nhất một vật
ngang giá đơn nhất. Khi vật ngang giá chung cố định ở một loại hàng hóa thì sinh ra
hình thái tiền tệ. Khi đó, tất cả hàng hóa được biểu hiện giá trị của nó trong một thứ
hàng hóa, thứ hàng hóa đó trở thành vật ngang giá chung.
Như vậy, tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và của các
hình thái giá trị. Tóm lại, tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của
nền
kinh tế hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời cũng là
sản
phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong
sản
xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển
của
sản xuất và trao đổi hàng hóa.

II. Nguồn gốc, bản chất của tiền tệ

1. Nguồn gốc
Lịch sử hình thành và phát triển của của tiền tệ trải qua nhiều giai đoạn mà mỗi giai
đoạn lại mang các đặc điểm khác nhau. Trong lịch sử phát triển của loài người, lúc đầu
con người sống thành bầy đàn, kiếm ăn một cách tự nhiên, chưa có chiếm hữu tư nhân,
chưa có sản xuất và trao đổi hàng hóa nên chưa có tiền tệ. Tuy nhiên, ngay từ trong xã
hội nguyên thủy đã xuất hiện mầm móng của sự trao đổi. Lúc đầu trao đổi mang tính
chất ngẫu nhiên và được tiến hành trực tiếp vật này lấy vật khác. Giá trị (tương đối)
của
một vật được biểu hiện bởi giá trị sử dụng của một vật khác duy nhất đóng vai trò vật
ngang giá. Khi sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất xuất hiện, hoạt động trao đổi
diễn ra thường xuyên hơn. Tương ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình
thái giá trị mở rộng. Tham gia trao đổi bây giờ không phải là hai loại hàng hóa mà là
một loạt các loại hàng hóa khác nhau. Đây là một bước phát triển mới, tiến bộ so với
hình thái giá trị giản đơn, song bản thân nó còn bộc lộ một số thiếu sót:
-Biểu hiện tương đối của giá trị mọi hàng hóa chưa được hoàn tất, vẫn còn nhiều
hàng hóa làm vật ngang giá.
-Các hàng hóa biểu hiện cho giá trị của một hàng hóa không thuần nhất.
Phân công lao động xã hội và sản xuất phát triển thì hình thức trao đổi hàng hóa trực
tiếp ngày càng bộc lộ các nhược điểm của nó. Các hàng hóa chỉ được trao đổi với nhau
khi những người chủ của nó có cùng ý muốn trao đổi, ý muốn trùng khớp. Như vậy,
cùng với sự phát triển của sản xuất thì trao đổi trực tiếp ngày càng khó khăn và làm
cho
mâu thuẫn trong lao động và phân hóa lao động xã hội ngày càng tăng. Do đó, tất yếu
đòi hỏi phải có một thứ hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung tất ra từ tất
cả các thứ hàng hóa khác và các hàng hóa khác có thể trao đổi được với nó. Thích ứng
với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị chung. Nhưng trong giai
đoạn này, tác dụng của vật ngang giá chung vẫn chưa cụ thể tại một thứ hàng hóa nào,
trong những vùng khác nhau tì có những thứ hàng hóa khác nhau có tác dụng làm vật
ngang giá chung. Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện, thủ công
nghiệp tách khỏi nông nghiệp làm cho sản xuất hàng hóa phát triển và thị trường mở
rộng. Tình trạng nhiều hàng hóa có tác dụng vật ngang giá chung phát sinh mâu thuẫn
với nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, thị trường đòi hỏi phải thống nhất một vật
ngang giá đơn nhất. Khi vật ngang giá chung cố định ở một loại hàng hóa thì sinh ra
hình thái tiền tệ. Khi đó, tất cả hàng hóa được biểu hiện giá trị của nó trong một thứ
hàng hóa, thứ hàng hóa đó trở thành vật ngang giá chung.
2. Bản chất
Như vậy, tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và của các
hình thái giá trị. Tóm lại, tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của
nền
kinh tế hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời cũng là
sản
phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong
sản
xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển
của
sản xuất và trao đổi hàng hóa.

III. Các chức năng của tiền tệ

Tiền là thước đo giá trị, là phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, phương tiện
thanh toán và tiền tệ thế giới:
(i) Tiền là thước đo giá trị, tức là nó dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng
hóa khác. Khi đó, giá trị của hàng hóa được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định
gọi là giá cả hàng hóa. Giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị
hàng hóa. Giá cả hàng hóa có thể lên xuống xung quanh giá trị nhưng tổng số giá cả
luôn bằng giá trị.
(ii) Tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hóa, tức là tiền đóng vai trò là một phương
tiện lưu thông. Khi ấy, trao đổi hàng hóa vận động theo công thức H – T – H’. Đây là
công thức lưu thông hàng hóa giản đơn. Với chức năng này, tiền xuất hiện dưới các
hình thức vàng thỏi, bạc nén, tiền đúc và cuối cùng là tiền giấy. Tiền giấy là ký hiệu
giá trị do nhà nước phát hành buộc XH công nhận. Tiền giấy không có giá trị thực
(không kể đến giá trị của vật liệu giấy dùng làm tiền). Khi thực hiện chức năng này,
tiền giúp quá trình mua bán diễn ra dễ dàng hơn nhưng nó cũng làm việc mua bán tách
rời nhau cả về không gian lẫn thời gian nên nó bao hàm khả năng khủng hoảng.
(iii) Tiền đôi khi được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại. Chỉ có tiền vàng, tiền bạc, các
của cải bằng vàng có giá trị thực mới thực hiện được chức năng lưu trữ. Ngoài ra, tiền
làm phương tiện cất trữ còn có tác dụng đặc biệt là dự trữ tiền cho lưu thông.
(iv) Tiền làm phương tiện thanh toán có tác dụng đáp ứng kịp thời nhu cầu của người
sản xuất hoặc tiêu dùng ngay cả khi họ chưa có tiền hoặc không đủ tiền. Nhưng nó
cũng làm cho khả năng khủng hoảng tăng lên. Trong quá trình thực hiện chức năng
thanh toán, loại tiền mới – tiền tín dụng – xuất hiện, có nghĩa là hình thức tiền đã phát
triển hơn.
(v) Chức năng cuối cùng của tiền là tiền tệ thế giới. Chức năng này xuất hiện khi buôn
bán vượt ra ngoài biên giới quốc gia, hình thành quan hệ buôn bán giữa các nước.
Khi thực hiện chức năng này, tiền thực hiện các chức năng: thước đo giá trị, phương
tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, tín dụng, di chuyển của cải từ nước này sang
nước khác. Thực hiện chức năng này phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công
nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Việc trao đổi tiền của nước này sang tiền của
nước khác tuân theo tỷ giá hối đoái, tức là giá cả của một đồng tiền nước này được
tính bằng đồng tiền của nước khác.
Tóm lại, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, tiền có 5 chức năng.
Những chức năng này có quan hệ mật thiết và thông thường tiền làm nhiều chức năng
một lúc.

IV. Quy luật lưu thông lạm phát


Quy luật lưu thông tiền tệ được thể hiện như sau:
Lượng tiền cần thiết cho lưu thông hàng hoá trong một thời kỳ nhất định được xác
định bằng tổng giá cả của hàng hóa lưu thông trong thời kỳ đó chia cho tốc độ lưu
thông của đồng tiền.

Trong đó:
+ Tốc độ lưu thông của đồng tiền chính là số vòng quay trung bình của một đơn vị tiền
tệ.
+ Tổng giá cả của mỗi loại hàng hóa bằng giá cả nhân với khối lượng đưa vào lưu
thông của hàng hóa ấy. Tổng giá cả của hàng hóa lưu thông bằng tổng giá cả của tất cả
các loại hàng hóa lưu thông.
– Lượng tiền cần thiết cho lưu thông này tính cho một thời kỳ nhất định. Do đó, khi
ứng dụng công thức này cần lưu ý một số điểm sau:
+ Trong tính tổng giá cả phải loại bỏ những hàng hóa không được đưa ra lưu thông
trong thời kỳ đó như: Hàng hóa dự trữ hay tồn kho không được đem ra bán hoặc để
bán trong thời kỳ sau; hàng hóa bán (mua) chịu đến thời kỳ sau mới cần thanh toán
bằng tiền; hàng hóa dùng để trao đổi trực tiếp với hàng hóa khác; hàng hóa được mua
(bán) bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt như ký sổ, chuyển khoản,…
+ Phải cộng thêm vào lượng tiền cần thiết cho lưu thông lượng tiền dùng để ứng trước,
để đặt hàng trong thời kỳ này nhưng lại chỉ nhận hàng trong thời kỳ sau và lượng tiền
mua (bán) hàng hoá chịu đã đến kỳ thanh toán.
– Khi vàng và bạc được dùng làm tiền thì số lượng tiền vàng hay bạc làm phương tiện
lưu thông được hình thành một cách tự phát.
Bởi vì, tiền vàng hay tiền bạc (hoặc các của cải bằng vàng, bạc) thực hiện được chức
năng là phương tiện cất trữ. Nếu như số lượng tiền vàng hay tiền bạc lớn hơn số lượng
tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa thì việc tích trữ tiền tăng lên và ngược lại.
Chẳng hạn, khi sản xuất giảm sút, số lượng hàng hóa đem ra lưu thông ít đi, do đó số
lượng tiền đang trong lưu thông trở nên lớn hơn số lượng tiền cần thiết cho lưu thông,
khi đó việc tích trữ tiền sẽ tăng lên.
– Khi phát hành tiền giấy thì tình hình sẽ khác. Tiền giấy chỉ là ký hiệu của giá trị,
thay thế tiền vàng hay bạc trong chức năng làm phương tiện lưu thông, bản thân tiền
giấy không có giá trị thực.
Trong chế độ tiền giấy bản vị vàng, một đồng tiền giấy chỉ là ký hiệu của một lượng vàng
nhất định dự trữ trong quỹ dự trữ của nhà nước hoặc ngân hàng. Về nguyên tắc, bất kỳ lúc nào
đồng tiền giấy cũng được đổi sang lượng vàng mà nó ấn định. Trong trường hợp này, lượng
tiền cần thiết cho lưu thông cũng tự điều tiết giống như trong chế độ tiền vàng.
– Tuy nhiên, thực tế không diễn ra đúng như vậy.
Nhìn chung lượng vàng dự trữ không đủ bảo đảm cho lượng tiền giấy đã được phát hành, khi
đó lạm phát xảy ra.
Hơn nữa, do chế độ bảo đảm bằng vàngđã không được thực hiện nghiêm túc, cuối cùng đã bị
bãi bỏ, chuyển sang chế độ tiền giấy do nhà nước ấn định giá trị phát hành ban đầu không có
vàng đứng đằng sau bảo đảm. Khi đó, đồng tiền được tung vào lưu thông và giá trị của nó
thường xuyên bị biến đổi phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau trong nền kinh tế, đặc biệt
là yếu tố phát hành tiền: Lượng tiền phát hành không phù hợp với lượng tiền cần thiết cho lưu
thông.
Đồng thời, lượng tiền cần thiết cho lưu thông cũng thường xuyên biến đổi do giá trị của một
đơn vị tiền tệ thường xuyên thay đổi.
Khi lượng tiền giấy phát hành ra cao hơn lượng tiền cần thiết cho lưu thông gọi là lạm phát;
ngược lại, nếu lượng tiền giấy phát hành ra thấp hơn lượng tiền cần thiết cho lưu thông gọi là
giảm phát.

You might also like