Professional Documents
Culture Documents
Ôn HK1 12 ĐN
Ôn HK1 12 ĐN
Ôn HK1 12 ĐN
DÀN Ý
I. MB
* Giới thiệu tác giả , tác phẩm
- Tác giả
+ NKĐ là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cùng thế hệ các nhà
thơ: Xuân Quỳnh, , Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân…
+ Phong cách nghệ thuật: Trữ tình - chính luận → Thơ NKĐ hấp dẫn người đọc bởi
sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con
người VN → Góp cho phong trào thơ kháng chiến chống Mĩ một giọng thơ riêng
- Đoạn trích “Đất Nước” là phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”,
viết 1971 tại chiến khu Trị - Thiên.
+ Mục đích sáng tác: Lay tỉnh ý thức trách nhiệm của tuổi trẻ với đất nước.
→ Đây là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ ca VN hiện đại
* Giới thiệu và trích dẫn đoạn thơ cần nghị luận ( vấn đề nghị luận)
II.TB
1. Khái quát:
- Triển khai tiếp các ý chưa viết ờ MB
- Nội dung đoạn thơ: Ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với ĐN
2. Cảm nhận:
* Mối quan hệ gắn bó của từng cá nhân với ĐN:
- Sau những cảm nhận mới mẻ và sâu sắc của nhà thơ về ĐN qua các phương diên
không gian địa lí, thời gian lịch sử, phong tục văn hóa, NKĐ đã đi đến khẳng định một
chân lý giản dị, nhưng không phải ai cũng ý thức được:
**********
Đề 3. Cảm nhận đoạn thơ sau:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại.
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.
DÀN Ý
I.MỞ BÀI
Giống đề 1
II.THÂN BÀI
1.Khái quát
Nội dung đoạn thơ: Tư tưởng ĐN của nhân dân- vai trò của nhân dân trong việc làm nên
lịch sử và truyền thống dựng nước, giữ nước
2. Cảm nhận:
a.Ba câu đầu: thể hiện cái nhìn khái quát về chiều dài thời gian lịch sử của Đất Nước,
thôi thúc mọi người nhìn về nguồn cội:
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
+ Câu thơ mở đầu “Em ơi em” là lời gọi tha thiết khiến những câu thơ chính luận
mang đậm cảm xúc trữ tình
+ Hai câu sau: hình ảnh ẩn dụ “nhìn rất xa” cộng với cụm số từ “bốn nghìn năm Đất
Nước” vừa là lời mời gọi, vừa là lời khẳng định đầy tự hào về truyền thống lịch sử hàng
ngàn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc.
b.15 câu tiếp: Nhân dân làm nên dòng chảy lịch sử cho “Đất Nước”.
- NKĐ không ca ngợi các anh hùng lưu danh sử sách mà nhấn mạnh công sức của những
con người bình dị vô danh. Qua đó nhà thơ cảm nhận lịch sử bằng sự nối tiếp các thế hệ
nhân dân. Chính nhân dân đã tạo ra truyền thống lịch sử quý báu của dân tộc:
+ Cách dùng cụm từ chỉ thời gian không xác định “năm tháng nào” kết hợp với điệp
từ “người người lớp lớp” đã thể hiện lòng tự hào của tác giả về một lực lượng nhân dân
hùng hậu xuyên suốt mọi thời kì lịch sử. Mỗi khi Tổ quốc có giặc ngoại xâm, luôn có
hàng ngàn, hàng triệu con người sẵn sàng lên đường để đáp lại tiếng gọi của Tổ quốc. Ở
một đoạn khác trong trường ca này, Nguyễn Khoa Điềm cũng một lần nữa khẳng định
điều đó:
“Không bao giờ xương máu phải bơ vơ
Ôi sông núi uy nghi ngàn dặm đất
Có nghe tiếng chúng con: Xin có mặt
Nguyện làm người xung kích của quê hương”
+ Phép liệt kê “người con gái, con trai” cùng với phép so sánh “bằng tuổi chúng ta”
được dùng để chỉ lực lượng thanh niên của mọi thời kì lịch sử. Họ luôn là thế hệ xung
kích, luôn là những người đóng vai trò quan trọng đối với đất nước khi chiến tranh cũng
như lúc hòa bình.
+ Phép đối lập “Người con trai ra trận / Người con gái trở về nuôi cái cùng con” để
cập đến hai mặt trận: tiền tuyến và hậu phương đều chung tay góp sức xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Khi đất nước thanh bình, họ cần cù làm lụng. Khi đất nước có giặc, họ lại
lên đường đánh giặc, giữ yên bờ cõi. Hình ảnh “người con trai ra trận” / “người con gái
trở về” còn cho ta hình dung về biết bao nhiêu cuộc chia li giữa người đi và kẻ ở: của
cha-mẹ; vợ - chồng; của biết bao đôi lứa yêu nhau. Nó cũng làm ta nhớ đến thái độ sẵn
sàng hy sinh tình cảm cá nhân để đặt vận mệnh dân tộc lên trên hết trong bài thơ “Cuộc
chia li màu đỏ” của Nguyễn Mỹ: “Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau”,
+ “Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”: Câu thơ thể hiện thái độ tôn vinh vai
trò của người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử → Đó là nét đẹp riêng của một Tổ quốc
kiên cường mà không nơi nào có được. Đánh giặc không còn là nhiệm vụ của những
người làm trai mà nó còn là trách nhiệm của cả dân tộc, mọi lứa tuổi, mọi đối tượng.
+ Nhà thơ ca ngợi sự hoá thân của nhân dân để làm nên bốn nghìn năm ĐN bằng việc
nhắc đến những tấm gương anh hùng mà“cả anh và em đều nhớ”. Đó là những anh hùng
có tuổi có tên, được lưu danh thiên cổ như: một Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre đuổi
giặc; một Trần Bình Trọng “thà làm ma nước Nam chứ không làm vương đất Bắc”; một
Nguyễn Trãi với “Bình Ngô sách” cùng chiến lược “mưu phạt tâm công”; một Nguyễn
Huệ “áo vải cờ đào” hành binh thần tốc làm quân thù bạt vía kinh hồn. Trong thời hiện
đại, ta cũng nhớ đến một Võ Thị Sáu “Đi giữa hai hàng lính / Vẫn ung dung mỉm cười”;
một Lê Văn Tám tự biến mình thành ngọn đuốc; một Phan Đình Giót lấy thân mình lấp
lỗ châu mai …
-Nhà thơ còn khẳng định một sự thật quan trọng: người làm nên lịch sử không phải chỉ
có những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người bình dị vô danh:
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
+ Đoạn thơ lắng dừng suy tư với những nhịp trầm – chỗ lặng nhất của toàn bộ đoạn
thơ: Nhưng em biết không → “Nhưng” mở ra 2 chiều đối lập, những suy tư của NKĐ
gắn với nhân vật trữ tình “em” và lời nhắn nhẹ nhàng “biết không” có tác dụng xoay
chiều tư tưởng: chuyển vào câu chuyện của thế hệ trẻ: “ biết bao người con gái con
trai”, “giống ta lứa tuổi”→ dễ tạo sự đồng cảm → Ý thức trách nhiệm đến với thanh
niên một cách tự nhiên.
+ Những câu thơ cô đọng lại bằng phép đối “sống - chết ; giản dị - bình tâm”, nhịp
thơ chậm nhưng chắc, vững → Gợi tâm thế lịch sử và cốt cách người Việt trong chiến
tranh, từ đó nhấn mạnh sự hi sinh vô danh, bản lĩnh và cống hiến thầm lặng .
+ Hai câu thơ cuối đoạn một lần nữa nhấn mạnh vai trò quyết định của những người
anh hùng vô danh đối với vận mệnh đất nước:
“Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
→Từ cái vô danh của cá thể, của biết bao lớp người đã tạo thành cái hữu danh của lịch
sử- Đất Nước
→ Có thể nói, đây là cảm quan lịch sử mới về vai trò của nhân dân: Nhân dân là người
sáng tạo ra lịch sử. Và từ quan niệm này, NKĐ đã hết lòng ca ngợi và tôn vinh lòng yêu
nước của nhân dân.
c. Bảy câu tiếp theo: Nhân dân làm nên giá trị văn hóa cho “Đất Nước” theo dòng chảy
thời gian
- Cặp động từ “giữ… truyền” hơn một lần lặp lại trong đoạn thơ nhấn mạnh sứ mệnh
thiêng liêng của mỗi con người, mỗi thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là
gánh vác việc thế hệ trước giao phó, duy trì phát triển rồi dặn dò, truyền lại cho con cháu
tiếp nối.
- Nhân dân là người sáng tạo nên bề dày văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần được tiếp
nối, tôn tạo, giữ gìn qua nhiều thế hệ được thể hiện:
+ Họ giữ và truyền “hạt lúa”, “ngọn lửa”, thể hiện sự gieo mầm, nuôi dưỡng sự
sống kết nối. Đó là hành động bảo tồn, phát huy những kinh nghiệm canh tác của nền
văn minh lúa nước. Hành động “truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi” thể
hiện lối sống nghĩa tình của nhân dân.
+ “Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói” thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc.
Ngôn ngữ là thước đo của nền văn minh, ngôn ngữ tồn tại là vì nhân dân nhưng cũng vì
nhân dân và cũng nhờ nhân dân lưu giữ bản sắc, tiếng nói của dân tộc để đất nước được
trường tồn bất diệt.
+ “Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân” gợi đến những cuộc
chinh phục đất đai, mở mang bờ cõi. Những người dân vô danh đã lấy tên mảnh đất quê
hương xứ sở của mình để đặt cho những miền đất mới. Vì thế, trên suốt chiều dài đất
nước hình chữ S này có biết bao tên làng, tên xã trùng nhau. Mỗi mảnh đất đều trở nên
thiêng liêng gắn bó.
+ “Họ đắp đập be bờ để người đời sau trồng cây hái trái” khắc họa hình ảnh nhân
dân vừa gieo trồng vừa gặt hái để lại những giá trị vật chất và tinh thần cho đời sau.
-Nhân dân vô danh còn tạo nên truyền thống bất khuất anh hùng cho đất nước:“Có ngoại
xâm thì chống ngoại xâm.Có nội thù thì vùng lên đánh bại”.
→ Trong đoạn thơ, đại từ “họ” được điệp lại năm lần, được đặt ở đầu đoạn thơ thể hiện
thái độ ngợi ca, tôn trọng nhân dân; mật độ động từ dày đặc “giữ, truyền, chuyền, gánh,
đắp, be” gợi lên sự tiến hoá lịch sử như một cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi của nhân
dân qua các thế hệ.
d. Hai câu cuối đoạn: Lời tổng kết cho tư tưởng “Đất Nước” của Nhân dân.
Nghệ thuật
Thành công về mặt nghệ thuật của đoạn thơ là sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận
và trữ tình, giữa tình cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng; những câu thơ với dung lượng
ngắn, cô đúc, có sức nén và giàu sức gợi; giọng điệu thơ ngọt ngào tha thiết, lôi cuốn
lòng người, chính vì vậy mà các câu thơ dù rất ít hiệp vần với nhau, nhưng chất thơ vẫn
dạt dào bay bổng.
III.KẾT BÀI: Khẳng định lại vấn đề
*Nhận xét cách xây dựng hình tượng ĐN của NKĐ:
- Chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một ĐN bình dị, tự nhiên mà không kém phần
thiêng liêng tươi đẹp.
- Hình ảnh ĐN gắn liền với nét đẹp về phong tục tập quán, văn hoá, truyền thống mang
đậm dấu ấn con người Việt.
- Đoạn thơ đã thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về ĐN qus những vẻ đẹp được phát
hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lí, văn hoá…
- Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng “ĐN của nhân dân” bằng
hình thức biểu đạt giàu suy tư, qua giọng thơ trữ tình- chính luận sâu lắng, thiết tha.