Buổi 11. Bài Thơ Tây Tiến (Đoạn 2.3.4) - Quang Dũng

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 40

 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 

____________________________________________________________________________________________

Cô Trần Thùy Dương – Cầm bút hướng về phía mặt trời!

Khóa học 2K5 – TRỌN VẸN KIẾN THỨC (mục tiêu 8.5+)

Livestream lúc 22:00 giờ, thứ 2 và 5. hằng tuần

BUỔI 11. Bài thơ TÂY TIẾN (Đoạn thơ 2.3.4) – Quang Dũng

KHÁI QUÁT NỘI DUNG KIẾN THỨC CẦN ĐẢM BẢO


4 câu thơ đầu: Không khí đêm liên hoan văn nghệ thắm tình quân dân.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
- Tình quân dân của người lính Tây Tiến:
+ Tình quân dân là một nét đặc trưng, một chủ đề được viết rất nhiều khi nói về lính và kháng
chiến: như máu mủ ruột thịt
+ Tình quân dân trong thơ Quang Dũng: là sự say mê, nồng nàn, đầy thú vị.
- Câu thơ 1: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”
+ “Doanh trại”: cách nói sang trọng hóa, thể hiện cái nhìn đầy lãng mạn, bay bổng của người
lính Tây Tiến về hiện thực.
+ “Bừng”: là cảm giác ánh sáng bật lên một cách mãnh liệt, đột ngột và đầy bất ngờ.
+ “Hội đuốc hoa”: thực chất là đêm liên hoan lửa trại, thế nhưng đã được nói một cách mềm
hẳn đi, sang hẳn lên “đêm hội nến hoa chúc”, vui mừng, lấp lánh ánh nến.
- Câu thơ 2. “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”
+ “Kìa em” thế hiện sự ngỡ ngàng, quyến rũ, đê mê của người lính trước hình ảnh những cô
thôn nữ với những bộ xiêm áo.
+ “tự bao giờ” thể hiện sự chờ đợi, mong ngóng, cho thấy sự nồng nàn, đắm say.
- Câu thơ 3. “Khèn lên man điệu nàng e ấp”
+ Tiếng “khèn” bao giờ cũng gợi lên không khí, âm thanh của núi rừng, của tiếng gọi tình yêu
tha thiết, “khèn lên”.
+ “Man điệu” có thể hiểu: 1. Âm thanh của những làn điệu, 2. Âm thanh của sự quyến rũ, đắm
đuối, lòng người.

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 1 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

+ “nàng e ấp” sự tình tứ, quyến rũ mà mê đắm của những cô thôn nữ vùng sơn cước.
- Câu thơ 4. “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
+ “Về Viên Chăn”: đích đến cuối cùng của chặng đường hành quân của lính Tây Tiến.
+ “Xây hồn thơ”: một miền cổ tích lắng đọng trong tâm hồn người lính.
4 câu thơ sau: Bước chân ra đi đầy lưu luyến của người lính Tây Tiến trên bến sông nước.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
- Câu thơ 5. “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy”:
+ Đây là một lời trần thuật hết sức giản dị và chân thực: có người đi, có địa điểm, có thời gian.
+ “Chiều sương ấy”, chữ “ấy” đẩy câu thơ về một miền kí ức.
- Câu thơ 6.7: “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc”
+ Điều đặc biệt đến từ hai từ: “thấy” và “nhớ”.
+ Hai hình ảnh thơ:
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ” (hồn lau là phần thẳm sâu trong tâm hồn, chạm tới nguồn mạch
của đất, của người)
“Có nhớ dáng người trên độc mộc” (dáng người mảnh mai duyên dáng, những cũng rất kiêu
hãnh mãnh mẽ).
- Câu thơ 8. “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
+ “Nước lũ” tạo nên một cái gì đó rất dữ dội.
+ Nhành “hoa đong đưa” lại gợi lên sự trìu mến, một cái nhìn tình tứ, nồng nàn, say đắm.
+ Nghệ thuật: tương phản, dù thời gian có tha thiết chảy, cuộc sống sẽ có nhiều trôi nổi, đổi thay
nhưng tình yêu của những người lính Tây Tiến về mảnh đất này vẫn luôn nguyên vẹn.
PHÂN TÍCH HÌNH & THÀNH VĂN PHONG
Nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét trong cuốn Nói chuyện thơ kháng chiến (1951): “Con
người kháng chiến lo lắng hồi hộp, chờ đợi hi vọng, phấn khởi, sống dồn trong một hai năm nhiều
hơn những cuộc sống nhạt kéo dài trong hàng thế kỷ. Do đó cần phải có thơ”. Và với ý nghĩa đó,

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 2 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

thơ ca cách mạng ra đời như chiếc “bình chứa” thu lại trọn vẹn tình cảm của con người thời đại.
Tác phẩm Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng dường như cũng đã trọn vẹn vẽ nên những nốt
thăng, nốt trầm của những ngày chiến chinh gian khổ, hành khúc ấy đã vang vọng khắp núi rừng
Tây Bắc, như kêu gọi, như gửi gắm, như một lá thư gửi đến non sông, như một tình yêu ấm nồng,
như một lời hiệu triệu bi tráng nhưng không kém phần lãng mạn. Đó là “Tây Tiến”, là vẻ đẹp của
phong cảnh Tây Bắc, là vẻ đẹp của man điệu dân tộc, hơn hết, đó là vẻ đẹp của những người chiến
sĩ được khắc họa ở 8 câu thơ của khổ thứ hai.
Ngoài giá trị về nội dung tư tưởng, Tây Tiến còn đạt được những phẩm chất đặc sắc về mặt
nghệ thuật, trở thành đỉnh cao trong hành trình của thơ hiện đại Việt Nam. Lời của nhà phê bình
Vũ Thu Hương năm nào quả thực rất xác tín: “Cũng khơi nguồn cảm hứng từ một thời gian khổ
và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng Tây Tiến đã được thể hiện một cách đặc sắc qua ngòi bút
Quang Dũng, với một tâm trạng cụ thể - nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm
thương nhớ da diết và lòng tự hào chân thành của tác giả về những người đồng đội của mình đã
khiến người đọc của nhiều thế hệ rung cảm sâu xa và đó cũng chính là âm hưởng chủ đạo của bài
thơ này…”. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy
để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến.
4 câu thơ đầu: Không khí đêm Chiến tranh dường như đã lùi lại ở góc khuất nào đó để
liên hoan văn nghệ thắm tình nhường chỗ cho cảnh sinh hoạt vui tươi, kỉ niệm ấm áp giữa
quân dân. quân và dân. Nổi bật lên trong đoạn thơ 2 là cảm hứng lãng
mạn và tình quân dân thắm thiết, cùng với đó là sự ra đi để
lại nỗi nhớ của người lính. Chính nét cảm hứng vừa rất chung
trong cảm hứng lãng mạn của văn học Việt Nam 1945 - 1975,
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, nhưng cũng vừa mang nét đặc sắc rất riêng của người lính
Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Tây Tiến đã khắc sâu trong tâm khảm người đọc. Có thể nói
Khèn lên man điệu nàng e ấp, rằng, thiên nhiên và con người Tây Bắc được mở ra với vẻ đẹp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ. rất mới, rất khác lạ. Hình ảnh người anh hùng trong chiến
đấu dường như đã được thay thế bằng hình ảnh say mê, lãng
mạn trong đêm hội:

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 3 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa


Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng em ấp
- Tình quân dân của người lính Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Tây Tiến: Với nét vẽ khoẻ khoắn, mê say, Quang Dũng dẫn người
đọc vào một đêm liên hoan văn nghệ đầy hấp dẫn nơi xứ lạ,
+ Tình quân dân là một nét đặc với ngọn lửa bừng lên đầy niềm vui và sức sống. “Doanh trại”
trưng, một chủ đề được viết rất chỉ có thể là những cái lán được dựng tạm giữa rừng, nơi diễn
nhiều khi nói về lính và kháng ra lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân. Thế nhưng trong cái
chiến: như máu mủ ruột thịt. nhìn đầy say mê, yêu đời của người lính trẻ; trong cái cảm
giác được hòa quyện vào đêm liên hoan thì góc nhìn được thay
+ Tình quân dân trong thơ đổi hẳn: một cách nói sang trọng hóa, nhìn hiện thực một cách
Quang Dũng: là sự say mê, nồng lãng mạn, bay bổng. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để
nàn, đầy thú vị. chung niềm vui tinh thần với những người lính Tây Tiến.
Động từ “bừng” thực sự đem đến cho người đọc nhiều mĩ cảm!
- Câu thơ 1: “Doanh trại bừng
Từ “bừng” là ánh sáng của hội đuốc hoa được bật lên một cách
lên hội đuốc hoa”.
mãnh liệt, đột ngột và đầy bất ngờ. “Bừng” lên không chỉ là
thứ ánh sáng thực cảnh mà còn gợi cảm giác bừng lên niềm
+ “Doanh trại”: cách nói sang
vui, niềm hạnh phúc của người lính trẻ trong tâm hồn. Niềm
trọng hóa, thể hiện cái nhìn đầy
say mê của những con người trẻ tuổi sau khi đã rũ bụi trường
lãng mạn, bay bổng của người
chinh để đắm mình vào không khí của đêm liên hoan văn
lính Tây Tiến về hiện thực.
nghệ, đắm đuối và hạnh phúc đến như thế! Đêm rừng núi lửa
trại thành đêm hội, được định danh là “hội đuốc hoa” (theo
+ “Bừng”: là cảm giác ánh sáng
tiếng Hán, tức là “Hội chúc hoa” – nến đốt lên trong đêm tân
bật lên một cách mãnh liệt, đột
hôn). Chính vì thế, mà đêm liên hoan văn nghệ dường như
ngột và đầy bất ngờ.
mang cái màu sắc ngọt mềm, tinh tế, lãng mạn hẳn đi, sang
hẳn lên. Chỉ một vài câu thơ mà cách thể hiện của Quang
+ “Hội đuốc hoa”: thực chất là
Dũng đã gợi ra trong ta biết bao nhiêu so sánh, liên tưởng ấn
đêm liên hoan lửa trại, nhưng
được nói một cách mềm, sang hẳn

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 4 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

lên “đêm hội nến hoa chúc”, vui tượng. Tô Hữu khi nhớ về Việt Bắc cũng đã từng viết về đêm
mừng, lấp lánh ánh nến. liên hoan:
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
(Việt Bắc – Tố Hữu)
Bởi vì đây là những người lính trẻ, những con người đầy
mộng mơ, khát vọng về tình yêu và gia đình đang rất mãnh
liệt thường trực trong họ. Bởi thế, trong đêm liên hoan lửa trại
thắm tình quân dân thì với những con gái miền sơn cước làm
cho họ say mê, nồng nàn, đầy thi vị ấy. Chỉ với câu thơ 7 chữ
thôi mà ngay lập tức nhà thơ Quang Dũng đã làm bừng lên
trong lòng người đọc cảm giác như được nhập thân vào đêm
lửa trại lung linh, kì diệu, đắm đuối tình cảm, không chỉ là
tình quân dân mà còn biết bao nhiêu tình cảm của những
người lính trẻ đầy lãng mạn và mộng mơ. Với mảng đề tài này,
thơ ca kháng chiến thường khai thác và xem như là tình cảm
quân dân gắn bó, khăng khít như cá với nước. Đó là tình cảm
ruột thịt như trong bài thơ “Bao giờ trở lại” của Hoàng Trung
Thông. Với những câu thơ hết sức thân thương, thân mật và
tình cảm ruột thịt với cách xưng hô “các anh”, là “đàn em”, là
“mẹ già”:
Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Đó là chính một chủ đề nổi bật của mảng đề tài viết về dấu
ấn đậm nét của một thời và tình cảm quân dân chính là một

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 5 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

tình cảm như thế. Thế nhưng, cũng ở mảng đề tài này, lại có
một cảm hứng khác, chủ đề khác. Với người lính lần đầu tiên
lên với núi rừng, họ ngỡ ngàng không chỉ với vẻ đẹp núi rừng
mà họ còn ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của những người con sinh
ra từ núi rừng. Đó là một niềm cảm hứng đầy say mê, đầy ngỡ
ngàng, đầy quyến rũ, trước cái vẻ đẹp của không chỉ từ thiên
nhiên mà còn là con người. Thế nên, dẫu cho khổ 2 có viết về
đề tài rất đỗi quen thuộc, nhưng bằng ngòi bút sáng tạo,
phong cách sáng tác rất riêng của nhà thơ Quang Dũng cũng
tạo nên cảm hứng rất thi vi – một cảm hứng riêng đầy thú vị.
Nét độc đáo chính được thể hiện trong bài thơ Tây Tiến chính
là tình quân dân thắm thiết, là cảm hứng thân thuộc sang cảm
- Câu thơ 2. “Kìa em xiêm áo tự hứng đầy mê say của người lính trẻ khi khám phá ra điều thú
bao giờ”. vị từ mảnh đất “phương xa xứ lạ”.
Trong cái đêm hội đuốc hoa ấy, những người lính Tây
+ “Kìa em” thế hiện sự ngỡ Tiến đã ngỡ ngàng nhận ra, điều đó được thể hiện qua từ “kìa
ngàng, quyến rũ, đê mê của người em”, tạo nên cảm giác đầy ngạc nhiên, bất ngờ. Tại sao lại ngỡ
lính trước hình ảnh những cô ngàng như thế? Bởi vẫn là “em” của cơm lên khói, thơm nếp
thôn nữ với những bộ xiêm áo. xôi nhưng nay đã khác! Với vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong
trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” của thiếu
+ “tự bao giờ” thể hiện sự chờ đợi, nữ. “Kìa em” thốt lên thế hiện sự ngỡ ngàng, quyến rũ, đê mê
mong ngóng, cho thấy sự nồng của người lính trước hình ảnh những cô thôn nữ với những bộ
nàn, đắm say. xiêm áo đã làm nên một mùa em trong anh. Chính trang phục
truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây
Bắc càng tôn lên vẻ đẹp yêu kiều và tình tứ làm anh dường
như là say đắm đến mức còn phải thốt lên! Và không chỉ là
xiêm áo, mà còn là “xiêm áo tự bao giờ”. “Tự bao giờ” cho
chúng ta cảm nhận rằng người con gái ấy đã chờ đợi chàng
trai đệ nhất của đời mình từ rất lâu rồi. Hình ảnh thể hiện

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 6 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

trong sâu thẳm trái tim những người lính Tây Tiến là người
con gái nơi mảnh đất sơn cước ấy, thật là nồng ấm, yêu thương
và đong đầy biết bao nhiêu. “Kìa em xiêm áo tự bao giờ”, một
câu thơ rất giản dị nhưng cũng đầy ngọt ngào và đắm say.
Trong trái tim của thế hệ trẻ một thời, “...những người đẹp
nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những
người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ.” (lời nhân vật
Phương Định trong tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của nhà
văn Lê Minh Khuê) Có lẽ hình ảnh đẹp đẽ nhất chính thì hình
ảnh người lính bộ đội cụ Hồ. Và em cũng thế, em đã chờ đợi
- Câu thơ 3. “Khèn lên man điệu “xây hồn thơ” trong lòng, còn người lính trẻ chỉ cần thế thôi
nàng e ấp”. cũng đủ để tan đi những mệt nhọc, tan đi bụi trường sơn!
Và làm nền cho cái cảm giác say mê ấy là âm thanh “khèn
+ Tiếng “khèn” bao giờ cũng gợi lên man điệu”. Chính cái lạ làm đắm say tâm hồn những
lên không khí, âm thanh của núi chàng trai Tây Tiến gốc Hà thành hào hoa. Chính trong không
rừng, của tiếng gọi tình yêu tha khí của âm nhạc, vũ điệu múa quyến rũ của các cô gái đã “xây
thiết, “khèn lên”. hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Khèn là một loại nhạc
cụ dân tộc của những người dân miền núi Tây Bắc, gợi âm
+ “Man điệu” có thể hiểu: 1. Âm thanh của những đêm tình mùa xuân, không gian của núi
thanh của những làn điệu, 2. Âm rừng và bao giờ cũng là tiếng gọi của tình yêu tha thiết. Bởi
thanh của sự quyến rũ, đắm đuối, thế nên, đó là một âm thanh “man điệu” – đặc trưng văn hóa
lòng người. của người dân nơi đây. Có nhiều cách hiểu về “man điệu”: là
những âm thanh đến mê man cả lòng người. Hoặc là một âm
+ “nàng e ấp” sự tình tứ, quyến rũ thanh đến man dại, mà với người lính vốn chỉ quen với sách
mà mê đắm của những cô thôn nữ vở, tưởng tượng mộng mơ, thì cái âm thanh mạn dại ấy có sức
vùng sơn cước. quyến rũ, đắm đuối lòng người lắm thay! Và trong không khí
ngập tràn âm thanh man điệu ấy là hình ảnh “nàng e ấp”. Sao
mà tình tứ đến thế, sao mà quyến rũ mà mê đắm lòng người
của cô thôn nữ vùng sơn cước đến như thế chứ? Chính nhà

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 7 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

thơ Anh Ngọc cũng phải thốt lên: “Hay đến nỗi ta không khỏi
ngạc nhiên mà nghĩ rằng tại sao trong những ngày đầu non
- Câu thơ 4. “Nhạc về Viên Chăn nớt của nền thơ ca kháng chiến và cách mạng mà chúng ta lại
xây hồn thơ” có được một tác phẩm thơ tuyệt diệu đến thế, kinh điển đến
+ “Về Viên Chăn”: đích đến cuối thế mà cũng hiện đại đến thế”. Bởi Viên Chăn là một trong
cùng của chặng đường hành quân những cái đích đến trên con đường hành quân mà! Để ý kĩ
của lính Tây Tiến. trong bài thơ Tây Tiến, nhà thơ Quang Dũng sử dụng rất
nhiều động từ “về”. Phải chăng trên con đường hành quân Tây
+ “Xây hồn thơ”: một miền cổ Bắc người lính đã tìm ra được chính mình? Mảnh đất Tây Bắc
tích lắng đong trong tâm hồn ấy dường như là nhà, là quê hương của mình. Đây chính là
người lính. mảnh đất khiến cho người lính cảm nhận được: Tình yêu
khiến đất lạ hóa quê hương, khiến cho đất hóa tâm hồn. Như
trong thơ Chế Lan Viên đã viết:
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên).
Bởi vậy, con đường hành quân ấy cũng là con đường trở
về, trở về để tìm đến với em, để trở về với chính mình. Trở về
còn để về với một thuở hoa niên sôi nổi mà nếu không đến
mảnh đất này, sẽ chẳng bao giờ khám phá được ra. Không gian
của nhạc và thơ ấy, được tạo nên từ mảnh đất Tây Bắc và còn
hơn thế nữa, với tình quân dân thắm thiết, gắn bó như máu
thịt. Trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh
cho những tâm hồn của người lính thăng hoa, mọi mỏi mệt
như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ.
Chính vì thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến.
Người lính Tây Tiến có thể mạnh mẽ đến thế bởi luôn được
đắm mình vào trong thế giới của mộng mơ và được sống trọn
vẹn với bản thân mình của một thời hoa niên sôi nổi!

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 8 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

4 câu thơ sau: Bước chân ra đi đầy Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi
lưu luyến của người lính Tây Tiến mộng cứ thế hiện ra. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi đi và
trên bến sông nước. thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. Bởi
lẽ, những gì đã trải qua ở mảnh đất Tây Bắc không chỉ là
những gian nan, vất vả mà còn là đêm liên hoan văn nghệ
thắm tình quân dân, và đầy mộng mơ, đầy dịu ngọt. Từ nét vẽ
và âm thanh khỏe khoắn trong hội đuốc hoa, Quang Dũng đã
chuyển sang nét vẽ tinh tế, mềm mại khi miêu tả chiều sương
Châu Mộc trong cuộc ra đi đầy nỗi nhớ qua bốn câu thơ sau
của khổ 2 bài thơ Tây Tiến:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?

- Câu thơ 5. “Người đi Châu Mộc Đây là câu thơ hay thực chất chỉ là một lời trần thuật

chiều sương ấy”: hết sức giản dị. Thế nhưng cũng chính ở câu thơ đầu tiên ấy,
cũng đã gợi ra biết bao nhiêu thiết tha. Hình ảnh “người đi”,

+ Đây là một lời trần thuật hết cái cách gọi người ấy, tạo cảm xúc rất rõ, nó hết sức lạnh lùng,
sức giản dị và chân thực: có người hết sức khách quan. Nó chối bỏ những cái bịn rịn, lưu luyến.
đi, có địa điểm, có thời gian. Một trong những bài thơ rất nổi tiếng về cuộc chia ly, đó là
bài thơ Tống biệt hành nhà thơ Thâm Tâm cũng dùng cách
+ “Chiều sương ấy”, chữ “ấy” đẩy nói “Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!”, gợi lên sự dứt khoát, chối
câu thơ về một miền kí ức. bỏ cái bịn rịn, chối bỏ sự lưu luyến ấy để người mạnh mẽ và
kiêu hãnh. Nhưng với quy luật tâm lí càng cố gắng tỏ ra lạnh
lùng bao nhiêu, khách quan bao nhiêu thì hình như ta càng
che giấu một sự thật khác trong lòng, nói như Thâm Tâm:
“Sao có tiếng sóng ở trong lòng?”. Như vậy, bản thân chữ “ra
đi” đầy hàm súc này cũng tạo nên tình cảm được nén chặt,
đầy cảm xúc. Nhà thơ văn người ý Chaudio Magrid nhấn

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 9 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

mạnh: “Thơ là sự nén chặt của ngôn từ, mỗi chữ mỗi câu đều
phải mang sức công phá, sức rung chuyển nội tại. Và thơ
không chỉ có ngọt ngào, trữ tình, sự thực nó phải có tư tưởng,
bất ngờ và sâu, vang xa.” Viết về cuộc chia li hay những cuộc
ra đi là đề tài quá quen thuộc của thơ ca. Hình như khi con
người biết đến ra đi thì đồng thời cũng sẽ cảm nhận được
những lúc nỗi nhớ đã được thể hiện một cách mãnh liệt nhất.
Nói như Khrapchenko: “Một khi đủ sức vang động lại trong
một khoảnh khắc nào đó của tâm thức con người, khiến người
ta rơi lệ, khiến người ta vơi đi phần nào đau thương, thì đó là
nỗi nhớ đẹp, là sự trỗi dậy của tiềm thức con người.”
Đọc thơ Quang Dũng, người đọc có cảm giác, “lạc vào
mê cung của những nỗi nhớ không thành hình”:
“Một đêm dài để nhớ
Những người xa vô cùng”
(Đêm Bạch Hạc)
Cách sử dụng địa danh Châu Mộc tạo cảm giác “xa lạ hóa”,
cùng với hình ảnh “chiều sương ấy”, gợi đến sự chia lìa, thời
gian mang tính ước lệ của văn học cổ. Từ “ấy” vốn là đại từ
phiếm chỉ, thế nhưng lại gắn với những kỉ niệm, gắn với
những gì vốn là thân thuộc. Đó chính là miền kí ức giữa ta và
người, mà người lính Tây Tiến và những người ở lại hiểu rất
rõ. Nhà thơ dùng thủ thuật để bớt đi rất nhiều sự rõ ràng để
tạo nên sự mênh mang, xao xuyến; để nói được những cái mơ
hồ, trong tâm hồn mỗi con người. Sự đa dạng về giọng thơ đã
tạo nên tính hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Vì vậy, phát hiện
được chất giọng chính là góp phần giải mã nội dung tư tưởng
thơ, cảm được điệu hồn và cảm hứng mà nhà thơ hướng đến.
Cùng trong khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, giàu cảm xúc như

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 10 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

thế, nhà thơ Tố Hữu cũng đã bằng ngòi bút của chính mình
phác họa nên cảnh đẹp Châu Mộc:
"Nông trường Châu Mộc như hoa nở
Giữa núi rừng Tây Bắc hát ca"
- Câu thơ 6.7: Còn trong thơ Quang Dũng, chỉ bằng một vài nét chấm
phá đơn sơ nhưng tác giả đã gợi nên cái thần, cái hồn của
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ cảnh vật. Đó là cái thần, cái hồn của những bông hoa lau “nẻo
Có nhớ dáng người trên độc mộc” bến bờ”. Đưa vào dòng thơ của mình các câu hỏi tu từ, Quang

Dũng như gợi được nỗi trăn trở riêng trong lòng người đọc
+ Điều đặc biệt đến từ hai từ:
như một dụng ý nghệ thuật đặc sắc. Với hình ảnh thơ, “có thấy
“thấy” và “nhớ”.
hồn lau nẻo bến bờ” – từ “nẻo” thường gợi đến cảm giác xa
khuất. Câu thơ có tính chất hư ảo, hình ảnh hoa lau gợi nhớ
+ Hai hình ảnh thơ:
đến bài “Lau mùa thu” của Chế Lan Viên:
“Ngàn lau cười trong nắng
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
Hồn của mùa thu về
(hồn lau là phần thẳm sâu trong
Hồn mùa thu sắp đi
tâm hồn, chạm tới nguồn mạch
Ngàn lau xao xác trắng.”
của đất, của người)
Đặc sắc của ngôn ngữ chính là cách sử dụng ngôn từ này
làm tăng tính biểu đạt, bởi dường như người ta không chỉ nhìn
“Có nhớ dáng người trên độc
thấy được cái hữu hình, mà còn chạm đến một phần linh hồn
mộc” (dáng người mảnh mai
sâu thẳm, đển cả nhịp thở của mảnh đất Tây Bắc này. Có lẽ
duyên dáng, những cũng rất kiêu
nhà thơ đã rất hữu ý để nói với chúng ta về phần thẳm sâu
hãnh mạnh mẽ).
trong tâm hồn, chạm tới nguồn mạch của đất, của người.
Không chỉ thế, ta còn bắt gặp hình ảnh “dáng người trên độc
mộc” mà không phải “bóng người”, “hình người” hay “con
người” cụ thể. Với “độc mộc”, hai thanh nặng đi liền nhau như
găm vào trong trái tim, như khắc khía vào hình ảnh của một
dáng nét rất mạnh. Nhiều nhà phê bình nhận xét: “vừa mảnh
mai duyên dáng, nhưng cũng vừa kiêu hãnh mạnh mẽ”. Và từ

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 11 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

những hình ảnh tiếp nối ấy, ta nhận ra được nỗi nhớ của
Quang Dũng có một quy luật rất riêng: dẫu cho “nỗi nhớ” ấy
hay “hồn lau” đều vẽ bằng những nét vẽ rất mảnh và rất nhạt.
Thế nhưng, chính những cái nét mảnh và nét ấy, đã cho chúng
ta thấy được, một nỗi nhớ rất sâu, một sự đắm sâu của nỗi
nhớ rất riêng, rất khẽ. Điều tưởng chừng rất khẽ, những điều
tưởng như mơ hồ vậy mà tất cả những điều mong manh ấy sẽ
lại chứa đựng trọn vẹn cảm xúc với mảnh đất ta gắn bó. Nhà
thơ Quang Dũng thực sự rất tinh tế để gửi gắm hết thảy tình
cảm của mình qua ngôn từ: Khi đã yêu một mảnh đất nào đó,
với cả phần tâm hồn của mình thì mới có thể viết được những
câu thơ thấm thía đến như thế!

- Câu thơ 8. “Trôi dòng nước lũ Và cũng bởi cái nhìn về nỗi nhớ rất riêng như thế, nên

hoa đong đưa”. nhà thơ đã liên tưởng rất tinh tế ở câu thơ cuối đoạn: “Trôi
dòng nước lũ hoa đong đưa”. Hình ảnh nước lũ bao giờ cũng
+ “Nước lũ” tạo nên một cái gì đó tạo nên cảm giác rất dữ dội, cuốn phăng đi tất cả. Thế nhưng,
rất dữ dội. trên cái dòng nước lũ ấy, xuất hiện hình ảnh nhành “hoa đong
đưa”. Nếu như với “đung đưa” chỉ đơn giản là chuyển động
+ Nhành “hoa đong đưa” lại gợi khách quan thì với “đong đưa” trong đó còn chứa đựng một
lên sự trìu mến, một cái nhìn tình ánh mắt gợi lên sự trìu mến, một cái nhìn tình tứ, nồng nàn,
tứ, nồng nàn, say đắm. say đắm. Vần thơ tràn đầy cảm xúc, đưa đến cho người đọc
tình cảm dẫu cho thời gian có trôi chảy, dòng đời luôn biến
+ Nghệ thuật: tương phản, dù đổi thì tình yêu đối với mảnh đất này, sự gắn bó với Tây Bắc
thời gian có tha thiết chảy, cuộc của những người lính Tây Tiến cũng sẽ như hình ảnh nhành
sống sẽ có nhiều trôi nổi, đổi thay hoa kia, vẫn cứ mãi quyến luyến như thế. Nói như Lê Đạt: “Đọc
nhưng tình yêu của những người một câu thơ hay, ta thường có cảm giác đứng trước một bến
lính Tây Tiến về mảnh đất này đò gió nổi, một khao khát sang sông, một thúc đẩy lên đường
vẫn luôn nguyên vẹn. hướng thiện với những vùng trời tốt đẹp hơn, nhân tính hơn”.
Bằng cách sử dụng nghệ thuật tương phản, thể hiện được

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 12 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

thông điệp thẫm mĩ: dù khoảng cách thời gian, cuộc sống sẽ
có nhiều trôi nổi, đổi thay nhưng tình yêu của những người
lính Tây Tiến về mảnh đất này vẫn luôn nguyên vẹn. Và tất
cả như chạm khắc vào thiên nhiên Tây Bắc vẻ đẹp nên họa,
nên thơ, khắc chạm vào lòng người những kỉ niệm khó quên.
Cái chất nhạc và chất họa trong ngôn ngữ thơ đã hòa quyện
vào nhau. Bốn câu thơ đầu dường như ru ta vào nhạc điệu cất
lên từ sự mê say trong tâm hồn những người lính Tây Tiến.
Bốn câu thơ sau là những nét vẽ tài hoa gợi lên cái thần, cái
hồn của tạo vật cùng với đó là cuộc chia tay và nỗi nhớ lưu lại
ở mảnh đất này, ở trong tâm hồn người lính Tây Tiến. Giáo
sư Trần Đình Sử cho rằng: “Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào
thế giới của cái đẹp, của cõi mơ, của âm nhạc.” Và nhà thơ
Xuân Diệu cũng có lí khi nói: “Đọc Tây Tiến, ta có cảm giác
như ngậm nhạc trong miệng.”
Mọi thi sĩ tài năng, khi hiện hữu giữa cuộc đời đều có một cõi thơ riêng, một thi giới riêng.
Ở đó chất chứa những suy tư, trăn trở của thi nhân về con người, cuộc sống và rõ nhất là nỗi trăn
trở về thân phận con người, mà nhà thơ Quang Dũng cũng không phải là ngoại lệ. Không phải
ngẫu nhiên, sinh thời Bùi Giáng – một “quái kiệt” trong thi đàn dân tộc, khi đọc thơ Quang Dũng
đã có cảm nhận khá tinh tế: “Thơ Quang Dũng hiện ra tại chỗ chênh vênh bát ngát và thê thảm
nhất trong lịch sử con người. Nó chỉ đạm nhiên và thống thiết khơi rộng khoảng trống vắng ra để
cho mọi vấn đề được nhận định và tìm lời giải đáp”. Bùi Giáng đã không sai khi xác quyết đặc
điểm thơ Quang Dũng mà qua sự sàng lọc bởi thời gian nó đã chứng tỏ giá trị vĩnh hằng: thơ
Quang Dũng mang màu hiện sinh rõ nét, cho nên nó luôn khơi gợi cho bạn đọc suy tư về thân
phận con người trong cõi nhân sinh đầy trắc ẩn, vô thường – và có lẽ đây cũng chìa khóa để lý
giải vì sao thơ Quang Dũng ra đời trong khí quyển của những năm kháng chiến nhưng vẫn mang
một phẩm chất mỹ cảm riêng, độc đáo, kỳ lạ, không bị lẫn vào dàn đồng ca của thơ ca cùng thời,
và tạo được sức truyền cảm lạ lùng, quyến rũ, cuốn hút tâm hồn bao thế hệ bạn đọc suốt hơn nửa
thế kỷ qua. Thể thơ bảy chữ phảng phất hơi hướng thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tản Đà, Xuân Diệu... đã

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 13 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

hòa phối cùng cảm hứng hiện thực và lãng mạn về cuộc kháng chiến đã tạo ra một Quang Dũng
vừa kế thừa nhạc tính của âm điệu thơ xưa, vừa cách tân làm mới thơ hiện đại.
Nhắc đến thơ ca giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chúng ta không thể nào quên nhà thơ
Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến xuất sắc. Thi phẩm đã đạt được những phẩm chất nghệ thuật
vô cũng hấp dẫn, góp phần khẳng định tài năng của Quang Dũng, một trong những đỉnh cao của
tháp ngà thi ca hiện đại Việt Nam. Sở dĩ tác phẩm có được sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc
suốt hơn nửa thế kỷ qua và có lẽ sẽ dài lâu hơn nữa là bởi Tây Tiến không chỉ thành công ở nội
dung tư tưởng mà cả ở nghệ thuật đa dạng, đặc sắc của một nghệ sĩ đa tài - một chiến sĩ Tây Tiến
suốt đời trọn đạo với Tổ quốc, nhân dân và tình yêu thi ca bất diệt.

KHÁI QUÁT NỘI DUNG KIẾN THỨC CẦN ĐẢM BẢO


Bức chân dung và lý tưởng cao đẹp của người lính Tây Tiến.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
 Đoạn thơ được thể hiện với một tinh thần rất hào hũng, được viết với một tâm hồn lãng
mạn. Quang Dũng đã không né tránh sự thật, không né tránh sự đau đớn ấy, không né tránh sự
mất mất đày bi thương ấy. Thế nhưng, vượt lên cái bi thương ấy là một tinh thần bi tráng, hay nói
cách khác bi mà không lụy. Đó là một khúc tráng ca về sức mạnh và ý chí của đoàn quân Tây
Tiến, của hồn thơ Quang Dũng.
Bức chân dung về binh đoàn Tây Tiến (4 câu thơ đầu)
- 2 câu thơ đầu: Dáng vẻ bên ngoài của người lính Tây Tiến.
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 14 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

- Ngoại hình được miêu tả một cách hết sức ấn tượng: “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”.
+ Cho thấy sự chủ động, chối bỏ hiện thực nghiệt ngã, không màng đến sự tác động của môi
trường bên ngoài.
+ Cách nói đảo: “Tây Tiến đoàn binh” cho thấy sự mạnh mẽ, nghe có cảm giác “đặc chủng đặc
tuyển” hơn; tạo nên dấu ấn đặc riêng của người lính Tây Tiến.
⇨ Như vậy, hai câu thơ không chỉ cho thấy hiện thực chung của thời đại, mà còn gợi được cái
nhìn hết sức tài tử, lãng mạn của người lính; Nó tạo nên cái chất riêng: rất ngang tàn, rất kiêu
hãnh, rất dũng cảm của người lính, họ ốm những không yếu, ngược lại rất kiêu hùng.
- 2 câu thơ sau: Vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
- Đó là một giấc “mộng” công danh đầy mạnh mẽ, đầy kiêu hùng.
+ “Mắt trừng” là một ánh mắt đầy quyết tâm, là đôi mắt của ý chí, của nghị lực, là đôi mắt sẵn
sàng xả thân vì Tổ quốc.
- Đó là một giấc “mơ” mang vẻ đẹp đầy lãng mạn của người lính Tây Tiến khi xếp bút nghiên
lên đường ra mặt trận.
+ “Dáng kiều thơm” là là một hình ảnh thơ rất thực, đong đầy tình người đã nuôi dưỡng sự
dũng cảm và cái hào hùng của người lính.
+ Chính giấc mơ về “dáng kiều thơm” đã cho thấy tâm hồn của những người lính dù bom đạn
chiến trường khốc liệt cũng không hề bị chai sạn, mà vẫn rung động, vẫn rất tình tứ, rất xao
xuyến, rất đời nhưng cũng rất tình.
Sự hi sinh của người lính Tây Tiến một cách đầy bi tráng (4 câu thơ sau)
- Câu thơ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, Câu thơ có 7 chữ, mà cả 7 chữ đều hiển hiện sự mất
mát, chữ nào cũng nói đến sự hư vô, chia cắt.
+ Chữ “mồ” nghe rất thê lương, rất đau xót, nghe vô cùng lạnh lẽo; nó côi cút, nó nhỏ bé, nghe
nó thật tội nghiệp. Có cái gì đó rất hư vô.
+ “Viễn xứ” gợi sự xa xôi, hẻo lánh
+ “Rải rác” gợi cảm giác rất xót xa, nhưng người lính nằm xuống cứ như những cột cây số nằm
dài suốt con đường hành quân.

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 15 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

- Câu thơ: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, cũng nói về cái chết, nhưng được nói với giọng
điệu mạnh mẽ và đầy kiêu hãnh.
+ “Chẳng tiếc”: là cách nói phủ định, không tiếc nhưng thực ra rất tiếc. Đời xanh mỗi người chỉ
một làm sao không tiếc? Nhưng “chẳng tiếc” bởi đó là lựa chọn, bởi chết vì lý tưởng con đẹp thì
cần chi phải tiếc.
⇨ Ở câu 1 và câu 2, có sự tương phản giữa hiện thực nghiệt ngã và với lựa chọn hào hùng.
- Câu thơ “Áo bào thay chiếu anh về đất” nói về sự thiếu thốn của người lính.
+ Hình ảnh “áo bào” là một hình ảnh ước lệ quen thuộc. Một hình ảnh thơ nói lên một hiện
thực nghiệt ngã nói về sự hi sinh của những người lính Tây Tiến.
+ Họ nằm xuống trong thiếu thốn không có nổi một manh chiếu, không có nổi một quách quan
tài. Sống như thế nào thì ngã xuống cũng như thế, cũng vẫn là bộ quân trang bạc sờn vai áo.
+ Cách nói trang trọng hóa, khi gọi tấm áo nằm xuống ấy là áo bào. Không phải ai khi nằm
xuống cũng được mặc áo bào trở về với đất mẹ.
+ “Về đất”, chứ không phải chết hay hi sinh. Gợi sự ra đi rất thanh thản, nhẹ nhõm, lặng lẽ và
bình yên.
- Câu thơ: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”, gợi sự đau đớn tiễn đưa của thiên nhiên.
+ Hình ảnh “Sông Mã” xuất hiện hai lần, mở đầu cho nỗi nhớ chơi vơi và kết lại cho một cảm
giác hụt hẫng, và tự đây tất cả cũng sẽ chơi vơi.
+ Từ “gầm” vừa thể hiện sự dữ dội của thiên nhiên, vừa thể hiện được một nỗi đau “lẻ bạn”
thiên nhiên, của dòng sông MÃ, cũng vừa thể hiện được cái chất hùng cả của rừng già.
+ “Khúc độc hành” là khúc “tiến quân ca” của thiên nhiên dành riêng cho những người lính;
của người ở lại gửi người ra đi, và cũng là của người ra đi tiếp bước người ở lại.
⇨ Câu 3 và câu 4, cho thấy sự tương phản giữa hiện thực và vẻ đẹp bi tráng của những người
lính Tây Tiến. Con người ra đi rất thanh thản, còn thiên nhiên thì đau đớn; hiện thực thì nghiệt
ngã, mà con người thì rạng ngời.
PHÂN TÍCH HÌNH & THÀNH VĂN PHONG
4 câu thơ đầu: Bức chân dung về Ta thường nói về Quang Dũng với những lời ngợi ca
binh đoàn Tây Tiến. hết sức “bay bổng”, bay bổng như chính tâm hồn ông vậy.
Bởi ngoài làm thơ, Quang Dũng là con người hết sức đa

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 16 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

tài, ông vẽ tranh, soạn nhạc và viết cả văn. Thế nên, không
thể không thừa nhận rằng: Thơ Quang Dũng cũng đậm
sắc màu hội họa, cũng giàu âm điệu như nhạc được. Đến
với bài thơ Tây Tiến, sau khi đã khơi dậy lòng người bằng
nỗi nhớ chơi vơi, Quang Dũng không khắc họa luôn vẻ đẹp
người lính Tây Tiến, mặc dù chỉ cần nghe tên bài thơ cũng
biết hình ảnh thơ Quang Dũng muốn thể hiện ở đây là
hình ảnh người lính. Hình tượng trung tâm của bài đến
tận khổ 3 mới được xuất hiện. Có lẽ, phải xây một phông
nền thật dữ dội, phải đẩy cái hùng vĩ của mảnh đất Tây
Bắc lên cao thì mới thấy được hết những gì thuộc về vẻ đẹp
của người lính, có lẽ phải khắc họa như thế ta mới thấy
được những con người gắn mình ở mảnh đất “lam sơn
chướng khí” này mới kiên cường làm sao, kiêu hùng đến
mức nào.
- Hai câu thơ đầu, nói về dáng vẻ bên Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang
ngoài của người lính Tây Tiến. Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây
Tiến trên cái nền cảnh thiên nhiên núi rừng miền Tây
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình ảnh người lính mang vẻ đẹp
Quân xanh màu lá dữ oai hùm” lãng mạn, đậm chất bi tráng được thể hiện trước hết, qua
bức chân dung ở bốn câu thơ:
+ Dáng vẻ bên ngoài được miêu ta “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
một cách hết sức ấn tượng với “không Quân xanh màu lá dữ oai hùm
mọc tóc”, “dữ oai hùm”. Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
+ Đây là cách nói cho thấy sự chủ Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng nói về Quang Dũng
động, chối bỏ hiện thực nghiệt ngã, rằng: “Một người chiến sĩ trẻ, tài hoa trong đoàn quân Tây
không màng đến sự tác động của yếu Tiến ngày đó, sau này là nhà thơ Quang Dũng”. Lời khẳng
tố bên ngoài. định đầy yêu thương ấy, đã một lần nữa cho thấy, để có

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 17 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

được những tiếng thơ đầy hiện thực như thế, Quang Dũng
+ Cách nói đảo ngữ: “Tây Tiến đoàn đã phải thấm lắm cái hiện thực gian khổ này của mảnh
binh”, cho thấy dấu ấn riêng, đặc đất Tây Bắc cũng như chính đồng đội của ông. Không phải
trưng riêng của người lính thuộc về ngẫu nhiên, Quang Dũng lại có thể viết viết được hai câu
binh đoàn Tây Tiến. thơ miêu tả dáng vẻ bên ngoài của người lính Tây Tiến
một cách chân thực được như thế.
⇨ Như vậy, hai câu thơ không chỉ Trước khi đi sâu vào vẻ về ngoài đầy ấn tượng kia,
cho thấy hiện thực chung của thời chúng ta thấy rõ một tín hiệu nghệ thuật vô cùng đặc biệt
đại, mà còn gợi được cái nhìn hết sức nằm ở “Tây Tiến đoàn binh”. Ta thắc mắc rằng, tại sao
tài tử, lãng mạn của người lính; Nó không phải là “đoàn binh Tây Tiến” hay “Tây Tiến đoàn
tạo nên cái chất riêng: rất ngang tàn, quân” hoặc “đoàn quân Tây Tiến”? Có lẽ, khi dùng “binh
rất kiêu hãnh, rất dũng cảm của đoàn” thì nghe mạnh mẽ hơn, nghe có cảm giác “đặc
người lính, họ ốm những không yếu, chủng đặc tuyển” hơn. Bởi văn học giai đoạn này là tập
ngược lại rất kiêu hùng. trung khắc họa những con người của thời đại, anh dũng
nhất, quả cảm nhất. “Đoàn quân” sẽ mang nghĩa số đông,
còn đây “đoàn binh” là những con người đặc tuyển nhất
của đoàn quân ấy. Hơn thế, khi danh từ “Tây Tiến” được
đẩy lên đầu, tạo nên một giọng điệu hết sức riêng biệt, một
phong cách riêng chỉ có ở lính đoàn binh Tây Tiến, chỉ
những con người gắn mình với mảnh đất này mới có
những nét đặc trưng ấy. Nếu ai đã từng yêu sao hình ảnh
người lính sốt đến mức vàng da trong bài thơ “Cá nước”
của Tố Hữu:
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!
Thì có lẽ cũng rất ám ảnh về hiện thực nghiệt ngã đó,
căn bệnh sốt rét rừng. Đât là căn bệnh rất đáng sợ trong

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 18 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nó phổ biến
đến mức, người ta còn ví von thế này, “phi bất rét bất
thành bộ đội”. Nghĩa là không sốt rét không phải là bộ đội,
chưa sốt rét chưa phải là bộ đội. Và khi đã bị sốt rét rừng,
thì chắc chắn sẽ mất máu đến mức rụng tóc và xanh vàng
da. Và đã có rất nhiều bài thơ, viết về căn bệnh quái ác
này. Trong thơ Chính Hữu với “Đồng chí” cũng đã từng
nhắc với những câu thơ xé lòng thế này:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Hay trong bài thơ “Những tháng năm ở rừng”, Nguyễn
Anh Nông cũng có nói:
“Những tháng năm ở rừng
Sốt rét tái màu da
Đồng đội mấy người gục ngã
Hồn thiêng gửi lại lá cây rừng”
Và Quang Dũng cũng nói về cái hiện thực tàn nhẫn ấy
với hai câu thơ rất hay theo cách riêng của mình:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Cách nói của Quang Dũng thú vị ở chỗ, ông viết một
cách hết sức phiêu bạt “không mọc tóc”. Nếu nói “Tây Tiến
đoàn binh bị rụng tóc”, thì câu thơ sẽ mang một màu sắc
khác. Nói “bị rụng tóc” sẽ mang chiều hướng bị sự bị sự tác
động của yếu tố bên ngoài, nhưng nói rằng “không mọc
tóc” thì nó cho ta thấy, đó là một sự chủ động. Chủ động
không mọc tóc, chứ không phải vì hiện thực mà rụng mất
tóc. Chủ động để tóc không mọc, tức là chối bỏ hiện thực
tàn nhẫn của thiên nhiên. Chủ động tạo nên một nét

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 19 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

riêng biệt, một dáng vẻ thú vị như thế. Cũng như vậy, với
cách nói “quân xanh màu lá” cũng không còn ở góc độ
hiện thực nữa, mà được nhìn với một cách nhìn hết sức
tài tử, hết sức lãng mạn. Với hình ảnh thơ này, ta có thể
hiểu rằng, những người lính Tây Tiến vì thiếu thốn, đói
khát, vì sốt rét rừng mà da mặt xanh ngắt giống như
trong “Lên Cấm Sơn”, Thôi Hữu viết:
Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!
Thế nhưng, chúng ta sẽ thấy rằng, ở những vần thơ của
Quang Dũng nó không chỉ là cái màu của bệnh tật, màu
của sốt rét rừng, mà nó còn tạo nên được cái tướng mạo
riêng, cái tinh thần tiêng của những người lính Tây Tiến,
đó là vẻ “oai hùm”. Đó là sự lựa chọn của những người
lính Tây Tiến để tạc nên cái chất ngang tàn, kiêu dũng,
kiên cường. Chính cách nói ấy đã cho thấy lính Tây Tiến
ốm mà không hề yếu, bệnh tật nhưng vẫn rất đỗi kiêu
hùng, đầy khí phách.
Như vậy, với hai câu thơ tả dáng vẻ bên ngoài của người
lính Tây Tiến, ta như thấy được cái hiện thực chung của
thời đại, của cuộc sống kháng chiến chống Pháp đầy gian
khổ, nhưng đồng thời, nhà thơ Quang Dũng cũng rất khéo
léo thể hiện được cái nhìn riêng của mình về cái hiện thực
ấy. Một hiện thực, mà như chính nhà thơ Quang Dũng đã
chia sẻ: “Hồi ấy, trong đoàn chúng tôi có rất nhiều người
sốt rét trọc cả đầu. Trong điều kiện gian khổ, thiếu thốn
nên bộ đội không những đau ốm mà còn chết vì sốt rét

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 20 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

cũng nhiều”. Thế nên, tâm lý đối diện với hiện thực của
những người lính đã cho chúng ta hiểu hơn rằng: Đôi khi,
hiện thực không phải là thứ hiện thực mà chúng ta nhìn
thấy một cách đơn thuần, mà hiện thực phải cảm nhận
được, phải nhận thức được về nó mới là hiện thực của văn
học của thơ ca. Bởi thế, thơ mới là thơ, “thơ mới chính là
cánh cửa mở ra một cái gì đó mà thường được phong kín
dưới bức tường của cuộc sống”. Và bức tường về cuộc sống
được phong kín qua cảm nhận của những người lính Tây
tiến, qua sự nhận thức của các anh về hiện thực gian khổ
kia đã cho người đọc thấy một vẻ đẹp rất đỗi hào hùng.
2 câu thơ sau: Vẻ đẹp tâm hồn của Nhà thơ Vũ Nho từng nhận xét sự thành công của bài
những người lính Tây Tiến. thơ Tây tiến rằng: “Bài thơ thành công nhwof kết hợp hài
hòa giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực. Nếu chỉ có hiện
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới thực trần trịu, chắc Tây tiến không thể có sức cuốn hút
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” mạnh mẽ. Tuy nhiên, nếu chỉ có chất lãng mạn thì Tây
Tiến cũng khó mà được đón nhận rỗng tài đến thế”. Quả
- Đó là một giấc “mộng” công danh đúng như vậy, nếu cứ viết về hiện thực trần trụi như thế,
đầy mạnh mẽ, đầy kiêu hùng. liệu ta có đủ thức vượt qua những đau thương mất mát
trong chiến tranh hay không? Thế nên, có lẽ những gam
+ “Mắt trừng” là một ánh mắt đầy màu lãng mạn đã tủng hòa bức tranh về hình ảnh người
quyết tâm, là đôi mắt của ý chí, của lính. Thế nên, ngay sau hai câu thơ viết hiện thực gian
nghị lực, là đôi mắt sẵn sàng xả thân khổ thiếu thốn kia, là hai câu viết về vẻ đẹp tâm hồn của
vì Tổ quốc. những chàng trai Tây Tiến nồng nàn, tình tứ mà vô cùng
ấm áp, đầy mộng đầy thơ, đầy nhạc, đầy mơ:
- Đó là một giấc “mơ” mang vẻ đẹp “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
đầy lãng mạn của người lính Tây Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Tiến khi xếp bút nghiên lên đường ra Câu thơ nhắc đến một giấc “mộng”, mộng lập công danh
mặt trận. của những người lính trẻ xuất thân từ mảnh đất Hà

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 21 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

thành. Những chàng trai đã từng làm nên một “60 ngày
+ “Dáng kiều thơm” là là một hình đêm” thần thánh. Những chàng trai đã xếp bút nghiên lên
ảnh thơ rất thực, đong đầy tình người đường đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Và họ
đã nuôi dưỡng sự dũng cảm và cái đã ra đi trong một miền kí ức:
hào hùng của người lính. Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
+ Chính giấc mơ về “dáng kiều thơm” Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
đã cho thấy tâm hồn của những Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
người lính dù bom đạn chiến trường Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
khốc liệt cũng không hề bị chai sạn, Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
mà vẫn rung động, vẫn rất tình tứ, Vậy thì đây vẫn có được coi mà một giấc mộng công
rất xao xuyến, rất đời nhưng cũng danh, giấc mộng của những con người quyết theo đuổi cái
rất tình. lý tưởng lập công danh, và nó cũng rất phù hợp với những
chàng trai mới mười tám, đôi mươi. Giấc mộng công danh
ấy được thể hiện qua đôi “mắt trừng” đầy ý chí quyết tâm,
đầy nghị lực. “Mắt trừng” ở đây là đôi mắt thể hiện niềm
tin, là đôi mắt với sắc thái quyết tâm xả thân vì Tổ quốc.
Như vậy, kho nói “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” là
Quang Dũng đã không chỉ nhìn thấy mà còn nhìn thấu
được vào bên tỏng tâm hồn của những người lính trẻ.
Những chàng trai “chưa trắng nợ anh hùng” với giấc
mộng lập công đầy quyết tâm.
Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết những câu thơ sâu
lắng về vẻ đẹp tâm hồn “lộng gió bốn phương” của những
người lính khi ra chiến trường thế này:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
Tính từ “nung nấu” đã thể hiện tất cả ý chí, nghị lực,
thể hiện trọn vẹn khát vọng lập công danh của những

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 22 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

người lính. Họ ra đi với một tinh thần “nung nấu” giấc


mộng lập công, giấc mộng “cho đàn em thơ vui cắp sách
tới trường”, cho dân tộc, cho đất nước một ngày sạch bóng
quân thù. Thế nhưng, ngay cả những đêm dài hành quân
nung nấu cũng được đốt cháy bởi một nguồn cảm xúc thật
nồng nàn, “bỗng chồn bồn nhớ mắt người yêu”. Cảm xúc
“bồn chồn nhớ mắt người yêu” trong thơ Chế Lan Viên lại
làm ta yêu sao cái giấc mơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều
thơm” trong thơ Quang Dũng quá! Nhưng, vì giấc mơ này,
mà đã có một thời bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng bị
coi là “mộng rớt tiểu tư sản”. Vì giấc mơ này, mà có một
thời bài thơ Tây Tiến đã bị quy là truyền bá tư tưởng yếu
đuối, làm mền đi, làm yếu đuổi khi cái tinh thần chiến đấu
của người lính nói chung và người lính Tây Tiến nói riêng.
Và cũng vì giấc mơ này, mà một thời gian dài bài thơ Tây
Tiến không được xếp bài những bài thơ tiêu biểu của
phong trào thơ ca kháng chiến. Thế nhưng, ta cũng hoàn
toàn có thể cảm thông được, bởi giữa lúc thanh niên trai
tráng lên đường ra mặt trận, giữa lúc nhiệm vụ dân tộc
cấp bách như thế, giữa lúc ngọn cờ cổ vũ tinh thần chiến
đấu được đặt lên hàng đầu thì cũng không thể tránh khỏi
những điều khắc nghiệt như vậy.
Còn đối với ý thơ của Quang Dũng, chúng ta có thể hiểu,
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” là một nếp gấp trong
tâm hồn lãng mạn của những người lính Tây Tiến. Ta
cũng có thể cho rằng, “dáng kiều thơm” là dáng hình người
yêu, cũng có thể là dáng hình người thương, người thân.
Nhưng đó là dáng hình hiện lên trong nỗi nhớ như nỗi nhớ
về “giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính” như trong thơ

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 23 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

của Chính Hữu. Hơn thế, nỗi nhớ ấy chỉ càng chứng mình
rằng, chưa bao giờ tâm hồn người lính bị chai sạn, một
giấc mơ về “dáng kiều thơm” chỉ càng chứng tỏ rằng
những trái tim kia vẫn luôn đập những nhịp đập của một
tâm hồn xao xuyến, đầy rung động, rất tình tứ và rất đời.
Phải một trái tim khỏe chắc vì lý tưởng, một tâm hồn giàu
cảm xúc như thế thì họ mới có thể chiến đấu dũng cảm
được như vậy. Hoặc có thể hiểu “dáng kiều thơm” là một
dáng hình mỏng manh, một giấc mơ sách mở mà thôi. Có
cứ phải dáng hình sẽ là dáng người yêu đâu! Đây chỉ là
một giấc mơ sách mở của những chàng trai “chưa trắng
nợ anh hùng” đã phải xếp bút nghiên lên đường xếp lại
những giấc mộng ước hoa niên để đến với chiến trường.
Thế nhưng, những giấc mơ ấy chưa bao giờ lụi tàn, nó trở
đi trở lại trong tâm hồn những người lính trong nhưng
đêm hành quân. Chính những giấc mơ ấy đã tưới mát tâm
hồn những người lính, để các anh vững tâm đứng chờ giặc
tới. Thêm một lần nữa, Quang Dũng đã cho chúng ta thấy
cái chất hào hùng đan cài với chất hào hoa. Thêm một lần
nữa chúng ta thấy chất hiện thực và lãng mạn đã làm bài
thơ có gian khổ, có mất mát, có hi sinh nhưng cũng tràn
đầy niệm lạc quan, khỏe khoắn. Giọng thơ chân vừa chân
thành vừa bi tráng, hào hùng, phản ánh hai khía và chất
lãng mạn một thời gắn với lịch sử kháng chiến anh dũng
của dân tộc” (Vũ Nho).
4 thơ sau: Nói về sự hi sinh của người Nếu bốn câu thơ đầu là bức chân dung về người lính thì
lính Tây Tiến một cách đầy bi tráng. bức tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến đã được thể
hiện với một cảm xúc đầy bi tráng ở bốn câu thơ sau khi
Quang Dũng tập trung nói về sự hi sinh của các anh.

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 24 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

Rải rác biên cương mồ viễn xứ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Nói đến chiến tranh, hi sinh là điều không thể tránh
khỏi. Thế nên, hi sinh là một đề tài rất quen thuộc của thơ
văn kháng chiến. Trong một cuộc kháng chiến trường kì
như vậy, có biết bao anh hùng đã “gục trên súng mõ bỏ
quên đời”, dù không muốn nhưng chúng ta cũng không thể
né tránh được, dù rất muốn xóa nhưng ta không thể chối
bỏ được khi nói đến hi sinh. Nhưng nếu nói về hi sinh một
cách thẳng thừng như vậy, liệu có quá đau xót hay không?
Câu hỏi đó, chính những người trực tiếp cầm súng, cầm
bút giữa những tháng ngày bom đạn này cũng đã rất trăn
trở. Thế nên, họ đã viết về cái chết, viết về sự hi sinh một
cách rất đặc biệt. Họ đã nâng sự hi sinh lên thành một yếu
tố thẩm mỹ. Chúng ta không thể quên được bài thơ “Dáng
đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân khi nói về sự hi sinh đầy
quả cảm, đầy yếu tố thẩm mĩ thế này:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chúng ta sẽ thấy rằng, cái chết của người giải phóng
quân trên đường bay Tân Sơn Nhất đã được miêu tả một
cách đầy kiêu hãnh, thậm chí có yếu tố phóng đại với hình
ảnh “Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng”. Thế nhưng
sau cái chết ấy là sự tái sinh của cả một dân tộc. Không
một dáng hình, không một dòng địa chỉ:

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 25 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:
…Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân
Dáng hình của các anh đã tác vào “vẻ đẹp Việt Nam” ngàn
thế kỉ. Hay trong “Đất nước hình tia chớp” của Trần Mạnh
Hảo cũng nói về sự hi sinh đầy nuối tiếc nhưng cũng rất
hiên ngang, rất đẹp thế này:
Thế hệ chúng con đi như gió thổi
Quân phục xanh đồng sắc với chân trời
Chưa kịp yêu một người con gái
Lúc ngã vào lòng đấy vẫn con trai”
- Câu thơ: “Rải rác biên cương mồ Và Quang Dũng cũng thế! Ông cũng nâng sự hi sinh
viễn xứ”, Câu thơ có 7 chữ, mà cả 7 lên thành yếu tố thẩm mĩ, thành biểu tượng của cái đẹp.
chữ đều hiển hiện sự mất mát, chữ Rất kiêu hãng, rất hào hùng, rất sử thi nhưng cũng vẫn
nào cũng nói đến sự hư vô, chia cắt. lãng mạn, rất đẹp. Đúng như lời lời nhà thơ Vân Long
nhận định: “Bài thơ Tây Tiến hội tụ cả cái bi, cái tráng
+ Chữ “mồ” nghe rất thê lương, rất của thời đại. Cái buồn lãng mạn của người tiểu tư sản,
đâu xót, nghe vô cùng lạnh lẽo; nó côi tiểu trí thức do biết mình được đón nhận một chân lý lớn
cút, nó nhỏ bé, nghe nó thật tội nhưng cũng đồng thời đón nhận một gian nan lớn”. Ta
nghiệp. Có cái gì đó rất hư vô. đến với câu thơ: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, câu câu
thơ có 7 chữ nhưng cả 7 chữ cùng nói về sự mất mất, sự
+ “Viễn xứ” gợi sự xa xôi, hẻo lánh. mất mát lặng mình đến hư vô bởi chữ nào cũng nói đến
sự xa xôi, xa cách. Những người lính sống thì “heo hút
+ “Rải rác” gợi cảm giác rất xót xa, cồn mây”, chết thì “mồ viễn xứ”. Chữ “mồ” nghe thật thê
những người lính nằm xuống cứ như lương, nghe sao thật lạnh lẽo. Người ta thường nói, không
những cột cây số nằm dài suốt con có gì cay đắng bằng chết nơi đất khách quê người, cũng
đường hành quân. không có gì đau đớn bằng cái tha hương. Ấy vậy mà
những người lính nằm xuống “rải rác biên cương”, lại

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 26 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

còn “mồ viễn xứ”. Vậy làm sao ta có thể lên để thấp cho
các anh một ném hương, hay dâng đến các anh được một
bó hoa bây giờ? Không những thế, từ láy “rải rác” mang
đậm sắc màu Hán Việt lại càng gợi sự heo hút hơn, khi
những nấm mồ kia trải dài đường biên của con đường
hành quân như những cột cây số trên đường biên ải. Cứ
thế từng người ngã xuống lại một nấm mồ hiện lên. “Mồ”
chứ không phải “mộ”, nếu là “mộ” nghe còn trang trọng,
còn có cái gì thật gầm gũi. Còn chữ “mồ” nghe sao côi cút
quá, nghe sao nhỏ bé mà tội nghiệp quá! Trong toàn bộ
bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã rất nhiều lần dùng hình
ảnh gợi sự ám ảnh, thế nhưng từ “chơi vơi” và từ “mồ” có
có sự ám ảnh rất riêng của nó. “Chơi vơi” thì quay quăt,
“mồ viễn xứ” thì hư danh, lẻ loi, thê lương mà thương xót
lạ lùng.
- Câu thơ: “Chiến trường đi chẳng Thế nhưng, ngay sau câu thơ gợi ra biết bao xót xa ấy,
tiếc đời xanh”, cũng nói về cái chết, lại là một câu thơ đầy mãnh mẽ và kiêu hùng: “Chiến
nhưng được nói với giọng điệu mạnh trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Từ “chẳng tiếc” là một
mẽ và đầy kiêu hãnh. cách nói phủ định đầy quả quyết. “Đời xanh” là tuổi thanh
xuân, là tuổi trẻ. Nghĩa là chúng tôi đã lên đường, chúng
+ “Chẳng tiếc”: là cách nói phủ định, tôi đã ra chiến tường mà chẳng tiếc đời xanh, chẳng tiếc
thực ra rất tiếc. Đời xanh mỗi người tuổi trẻ của mình để thực hiện lý tưởng đời trai, Quyết tử
chỉ một làm sao không tiếc? Nhưng cho Tổ quốc quyết sinh. Và những người lính Tây Tiến đã
“chẳng tiếc” bởi đó là lựa chọn, bởi nói và đã sống đúng như thế. Nhưng tại sao, không nói
chết vì lý tưởng con đẹp thì cần chi “không tiếc đời xanh”? Nếu nói “Chiến trường đi không
phải tiếc. tiếc đời xanh”, thì câu thơ dường như có sự chối bỏ mạnh
mẽ hơn rất nhiều, câu thơ quả quyết không có gì để tiếc
⇨ Ở câu 1 và câu 2, có sự tương nuối quyết liệt hơn nhiều. Nhưng “chẳng tiếc” thì ta không
phản giữa hiện thực nghiệt ngã và chỉ thấy trong đó có một sự bất cần, nhưng cũng có một

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 27 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

với lựa chọn hào hùng. sự gồng mình lên đầy nuối tiếc. Có lẽ, từ hay nhất trong
câu thơ này là từ “chẳng tiếc”, bởi như nhà thơ Thanh
Thảo đã có những vần thơ rất hay nói về sự nuối tiếc ấy
rằng:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?
Nhà thơ Thanh Thảo đã thay cả thế hệ của mình để nhìn
thẳng vào góc khuất trong tâm hồn kia và nói ra một lời
tâm sự chân thành rằng: Chúng tôi có tiếc! Đời xanh mỗi
người chỉ có một, ai mà chẳng tiếc. Đời xanh với “cơm lên
khói”, với “thơm nếp xôi”, đời xanh với “hồn lau nẻo bến
bờ”, với “dáng người trên độc mộc” làm sao mà không tiếc?
Đời xanh với giấc mộng công danh còn dang dở, với
giấc mơ thuở hoa niên còn vương vấn làm sao mà không
tiếc? Vậy nên, Thanh Thảo mới nói rất quả quyết “không
tiếc đời mình”, rồi mượn thêm lời giải thích “Những tuổi
hai mươi làm sao không tiếc”. Nhưng Quang Dũng lại
không cần đến dấu ngoặc kép giải thích ấy, chỉ cần nói
“chẳng tiếc” là đã đủ. Thế nhưng, đời xanh được hi sinh
cho một lý tưởng cao đẹp hơn với một lựa chọn đầy kiêu
hùng:
Dù phải chết, chết một đời trai trẻ
Liệm thân tàn bằng một mảnh chiếu con
Rồi chôn xương rục thối dưới chân cồn
Hay phơi xác cho một đàn quạ rỉa?
Tôi chẳng tiếc, chỉ cười trong mai mỉa
Bao nhiêu hình ảnh đó vẽ quanh tôi.
Tiếc làm chi? Thế cũng đã sống rồi.

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 28 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

(Trích “Trăng trối” – Tố Hữu)


Ý thơ có sự tương phản giữa các hình ảnh thơ, tương
phản giữa hiện thực nghiệt ngã và một sự lựa chọn đầy
kiêu hùng. Nhưng chính sự lựa chọn ấy đã tạo nên một
khúc tráng ca ngân vang mãi mãi.
- Câu thơ: “Áo bào thay chiếu anh về Hình ảnh “Áo bào thay chiếu anh về đất” là một hình
đất” . ảnh ước lệ quen thuộc, vừa làm sang trọng cái chết của
người lính, vừa an ủi nhưng người ở lại. Nhưng dù an ủi
+ Hình ảnh “áo bào” là một hình ảnh đến độ nào, thì cũng không thể phủ định đây là một hiện
ước lệ quen thuộc. Một hình ảnh thơ thực nghiệt ngã đến xé lòng. Một hiện thực trần trụi về
nói lên một hiện thực nghiệt ngã nói sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Các anh đã chiến đấu
về sự hi sinh của những người lính với một tinh thần quả cảm nhất, thế nhưng khi nằm
Tây Tiến. xuống không có nổi một quách quan tài. Cũng làm sao
trách được, khi dải đất kia heo hút quá, mà đồng bào nơi
+ Họ nằm xuống trong sự thiếu thốn đây cũng nghèo quá. Nếu có ở gần thì đồng bào thương cho
không có nổi một manh chiếu, không manh chiếu bó xác. Còn ở những neo “cồn mây” thì đến
có nổi một quách quan tài. Sống như amnh chiếu cũng không có. Các anh nằm xuống thế nào,
thế nào thì ngã xuống cũng như thế, cũng đành vùi xuống đất sâu như vậy. Thế nhưng, viết về
cũng vẫn là bộ quân trang bạc sờn hiện thực đau xót ấy, Quang Dũng không hề né tránh mà
vai áo. ông đã diễn tả một cách vô cùng trang trọng. Chính từ “áo
bào” đã làm hình ảnh thơ được nâng lên. “Áo bào” là một
+ Cách nói trang trọng hóa, khi gọi từ chỉ tấm áo được vua ban để những người tướng lính
tấm áo nằm xuống ấy là áo bào. ngày xưa ra trận, nếu có nằm xuống thì cũng như một lời
Không phải ai khi nằm xuống cũng tưởng nhớ. Thế nhưng, những người lính với bộ quân
được mặc áo bào trở về với đất mẹ. trang màu xanh bạc sờn, rách vai cũng trở nên vô cũng
sang trọng. Không phải ai trong cuộc đời này, khi nằm
+ “Về đất”, chứ không phải chết hay xuống cũng được khoác “áo bào” để trở về đất mẹ như thế.
hi sinh. Gợi sự ra đi rất thanh thản, Khi nói như vây, chúng ta thấy rõ đây thực sự là vẻ đẹp
nhẹ nhõm, lặng lẽ và bình yên. lãng mạn, vẻ đẹp lí tưởng; Đây thực sự là một cách phóng

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 29 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

chiếu lại hiện thực bằng một tâm hồn đầy lãng mạn. “Về
đất” chứ không phải chết, cũng không phải hi sinh hay gục
ngã. Từ “về đất” thực chất là đang nói đến cái chết, nói
đến sự ra đi của những người lính. Thế nhưng, nó có gì đó
rất thanh thản, rất lặng lẽ, rất bình yên. Phải chăng, khi
đã được sống một cuộc đời như thế, khi đã được dâng hiến
cho Tổ quốc như thế, khi đã được trải nghiệm và vượt qua
giới hạn của chính mình như thế thì những người lính Tây
Tiến nằm xuống họ cũng cam lòng. Các anh nhẹ nhàng
ngả vào lòng mẹ như Tố Hữu từng viết:
Sống đã vì cách mạng, anh em ta
Chết cũng vì cách mạng, chẳng phiền hà!
Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khoẻ nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành
Và trong mơ thơm ngát lúa đồng xanh
Vui nhẹ đến trên môi cười hy vọng.
- Câu thơ: “Sông Mã gầm lên khúc Ý thơ đặt đến sự thanh thản và nhẹ nhàng, nhưng
độc hành”, gợi sự đau đớn tiễn đưa người lính thì thanh thản, bình lặng còn thiên nhiên thì
của thiên nhiên. đau nỗi đau lẻ bạn: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.
Dòng sông Mã được nhắn đến hai lần trong nỗi nhớ của
+ Hình ảnh “Sông Mã” xuất hiện hai Quang Dũng. Mở đầu là nỗi nhớ chơi vơi và kết thúc cho
lần, mở đầu cho nỗi nhớ chơi vơi và một cảm giác thật bâng khuâng, hụt hẫng. Bởi sau câu thơ
kết lại cho một cảm giác hụt hẫng, và này, ta cũng sẽ mãi chơi vơi. Chữ “gầm” vừa diễn tả được
tự đây tất cả cũng sẽ chơi vơi. sự hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, vừa diễn tả được thác
lũ dữ dội của thiên nhiên. Nhưng cũng mang đến cho
+ Từ “gầm” vừa thể hiện sự dữ dội chũng ta một liên tưởng thật thú vị. Con sông Mã – dòng
của thiên nhiên, vừa thể hiện được sông chảy từ đầu bài thơ đến cuối, đã thay mặt cho những
một nỗi đau “lẻ bạn” thiên nhiên, của người đồng đội, cho những người ở lại, cho quê hương đất

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 30 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

dòng sông Mã, cũng vừa thể hiện nước cất lên khúc quân hành tiễn đưa các anh về với đất
được cái chất hùng cả của rừng già. mẹ. Đó là một khúc hùng ca và cũng là một khúc tráng ca.
Những người lính Tây Tiến dù hi sinh vẫn trọn vẹn một
+ “Khúc độc hành” là khúc “tiến vẻ đẹp tráng ca. Đúng như Lê Đại Thanh dã đồng sáng tác
quân ca” của thiên nhiên dành riêng khi viết về bài thơ “Tây Tiến” mà viết rằng:
cho những người lính; của người ở lại “Sông Mã gầm lên sông Mã ơi
gửi người ra đi, và cũng là của người Người yêu sông Đã đã qua đời
ra đi tiếp bước người ở lại. Để đời nhớ mãi quân Tây Tiến
Khúc độc hành ca của một thời”
⇨ Câu 3 và câu 4, cho thấy sự tương Qua thực, câu thơ viết về sông Mã thật ấn tượng, nó
phản giữa hiện thực và vẻ đẹp bi hay và ý nghĩa đến nỗi Phan Quế cũng phải ngậm ngùi
tráng của những người lính Tây bình rằng: “Câu thơ như một tuyệt bút thiên nhiên về
Tiến. Con người ra đi rất thanh thản, sông Mã. Âm vang của câu thơ là khí tiết của con sông
còn thiên nhiên thì đau đớn; hiện chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc binh
thực thì nghiệt ngã, mà con người thì lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ của tứ thơ”. Thế nên,
rạng ngời. cả đoạn thơ nói nhiều về sự hi sinh, thế nhưng kết thúc
không phải là một sự kết thúc hay chấm dứt. Nó vẫn là
một “khúc độc hành” ca ngân vang, vẫn là một khúc quân
hành của những người nằm xuống tiếp bước người ở lại,
của những người ở lại xướng ca tiễn những người nằm
xuống.
Với những câu thơ viết về sự hi sinh của những người
lính Tây Tiến, ta thấy cảm hứng bi và tráng hiện lên rất
rõ, Nói về sự hi sinh đương nhiên là một khíc bi ca đầy
đau đớn, và Quang Dũng không không né tránh sự đau
đớn ấy, không né tránh sự mất mát ấy. Thế nhưng, tất cả
đều vượt lên trên cái bi tráng ấy, hay nói một cách khác
là bi mà không hề lụy. Đúng như lời Đinh Minh Hằng
khẳng định: “Tây Tiến… nơi mà con người Tây Tiến, chiến

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 31 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài những


cảm quan ban đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với
đại ngàn thi hứng. Nơi ấy cuồn cuộn dòng chảy lạnh lùng
và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng. Một Tây
Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi
niềm thương nhớ… Tất cả đều gợi ấn tượng của sự “lạ hóa”,
của những vẻ đẹp kì ảo khó gọi tên. Và bức tượng đài về
người lính Tây Tiến cũng thật khó quên trong lòng bao thế
hệ bạn đọc.

KHÁI QUÁT NỘI DUNG KIẾN THỨC CẦN ĐẢM BẢO


Đoạn 4. Ý niệm lên đường và lời thề nguyện gắn bó của người lính Tây Tiến.
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Ý 1: Ý niệm lên đường của người lính
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
+ Người chiến sĩ ra đi với quyết tâm sắt đá “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, đó không chỉ là ý
niệm của những chàng trai binh đoàn Tây Tiến mà là ý niệm chung của cả một thời đại anh hùng
chống Pháp.
+ Ý thơ còn gợi cách hiểu thứ hai: Qua cách nói “một chia phôi”, “không hẹn trước” tác giả thể
hiện sự mến thương cảm phục và nỗi xót xa về những người vệ quốc quân – mùa xuân ấy, ra đi
từ đó không về.
Ý 2. Lời thề nguyện gắn bó
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
- Câu thứ 3: Gợi nhớ kỉ niệm

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 32 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

+ “Mùa xuân ấy”, là mùa xuân khi “tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông”, đoàn binh Tây
Tiến xuất quân lên đường.
+ “Mùa xuân” có thể được theo nhiều nghĩa: Thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa
xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi trẻ) của đời người.
- Câu thơ thứ 4: Tạo cảm giác da diết “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
+ “Chẳng về xuôi” nghĩa là bỏ mình trên đường hành quân, là ngã xuống trở thành “biên cương
mồ viễn xứ”. Thân xác mãi nằm lại miền Tây Bắc hoang sơ, tráng lệ với những tên đất, tên làng
điệp trùng nỗi nhớ.

+ “Hồn về Sầm Nứa” nơi chí nguyện của những người chiến sĩ là sang nước bạn tác chiến chống
Pháp, họ quyết tâm thực hiện lý tưởng ấy đến cùng “nhất khứ bất phục hoàn” (một đi không trở
lại). Cho nên, dù ngã xuống trên đường hành quân, nhưng hương hồn vẫn đi cùng đồng đội, vẫn
sống trong lòng đồng đội.
Liên hệ: Hình ảnh người lính Tây Tiến ra đi không hẹn ước, có thể liên hệ:
- Ý thơ của Nguyễn Đình Thi:
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
- Hoặc ca khúc “Đoàn vệ quốc quân” của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu:
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi
Nào có chi đâu ngày trở về
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi
Ra đi ra đi thà chết chớ lui
- “Tống biệt hành”:
Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong!

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 33 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

- Lời nhận xét về bài thơ Tây Tiến của Nguyễn Xuân Nguyên: “Một bài thơ làm sống dậy cả một
trung đoàn, khiến địa danh Tây Tiến tường tồn trong lịch sử và ký ức mỗi người. Nó như một viên
ngọc sáng trong tâm hồn Việt, tấm lòng Việt và thơ ca Việt”.
PHÂN TÍCH HÌNH & THÀNH VĂN PHONG
Đoạn 4. Ý niệm lên đường và lời thề a. Viết thành văn ở mức cơ bản.
nguyện gắn bó của người lính binh Đoạn thơ cuối thể hiện tình cảm của chính nhà thơ về
đoàn Tây Tiến. đoàn quân Tây Tiến, tình đồng đội đồng chí trong những
năm tháng kháng chiến gian khổ. Đó là khúc vĩ thanh của
Ý 1: Ý niệm lên đường. nỗi nhớ. Người chiến sĩ ra đi không ước hẹn ngày về, tinh
thần hi sinh vì nước, xả thân vì nước với quyết tâm sắt đá,
Tây Tiến người đi không hẹn ước quyết tâm lập được chiến công như người chiến sĩ trong bài
Đường lên thăm thẳm một chia phôi thơ “Tống biệt hành”: “Chí lớn chưa về bàn tay không – Thì

không bao giờ nói trở lại”. “Không hẹn ước”, rồi lại “một chia
+ Người chiến sĩ ra đi với quyết tâm phôi”. Bởi lẽ: Hoàn cảnh chiến đấu rất khắc nghiệt, có bao
sắt đá “Quyết tử cho Tổ quốc quyết gian khổ, thiếu thốn nên hành trình chiến đấu là những hi
sinh”, đó không chỉ là ý niệm của sinh tiếp nối, càng khó có hi vọng trở về. Do hoàn cảnh lịch
những chàng trai binh đoàn Tây sử quá ngặt nghèo, cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn
Tiến mà là ý niệm chung của cả một đầu chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải hi sinh
thời đại anh hùng chống Pháp. xương máu mới mong có ngày độc lập tự do. Bao thế hệ
thanh niên cầm súng ra chiến trường với tinh thần:“Quyết
+ Ý thơ còn gợi cách hiểu thứ hai: tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Ý thơ lột tả lí tưởng chiến đấu
Qua cách nói “một chia phôi”, cao cả của người lính “bộ đội cụ Hồ”, làm nổi bật phẩm chất
“không hẹn trước” tác giả thể hiện yêu nước anh hùng của họ.
sự mến thương cảm phục và nỗi xót Mùa xuân năm ấy, là mùa xuân khi “tiếng kèn kháng
xa về những người vệ quốc quân – chiến vang dậy khắp non sông”, đoàn binh Tây Tiến xuất
mùa xuân ấy, ra đi từ đó không về. quân lên đường với hành trình chiến đấu bảo vệ Tổ quốc,
họ quyết tâm “ra đi đầu không ngoảnh lại khi đất nước chưa
Ý 2. Lời thề nguyện gắn bó khuất bóng quân thù” - đó là lời thề quyết tâm của cả một
thế hệ. “Mùa xuân” ấy ta có thể hiểu theo nghĩa: Đó là thời

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 34 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến, mùa xuân năm 1947.
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi Hoặc là mùa xuân của đất nước, mùa xuân của tuổi trẻ,
tuổi xuân của đời người. Và dù hiểu theo cách nào thì “mùa
- Câu thứ 3: Gợi nhớ kỉ niệm xuân ấy” cũng đã trở thành thời điểm một đi không trở lại
của lịch sử nước nhà. Câu thơ cuối với sự kết hợp linh hoạt
+ “Mùa xuân ấy”, là mùa xuân khi từ các thanh bằng như một bài hát, bản hòa âm đầy cảm
“tiếng kèn kháng chiến vang dậy xúc, mà đoạn kết là bản hòa âm da diết với câu thơ: “Hồn
non sông”, đoàn binh Tây Tiến xuất về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. “Sầm Nứa” là một địa danh ở
quân lên đường. phía Đông thượng Lào, nơi ta hợp đồng tác chiến với quân
đội Lào chống Pháp. “Hồn về Sầm Nứa” là về nơi những
+ “Mùa xuân” có thể được theo người lính đã quyết tâm thực hiện lí tưởng cao đẹp của
nhiều nghĩa: Thời điểm thành lập mình khi xung phong ra trận. Cho nên, dù ngã xuống trên
đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân đường hành quân hay bất kì đâu thì người lính họ vẫn đi
1947), mùa xuân của đất nước, mùa cùng đồng đội để thực hiện chí nguyện này đến cùng. Câu
xuân (tuổi trẻ) của đời người. thơ mang vọng âm hưởng của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”
trong thơ Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng
- Câu thơ thứ 4: Tạo cảm giác da đánh giặc”.
diết, cồn cào, lưu luyến. b. Viết kết hợp nhận định và mở rộng liên hệ.
Đối với văn chương, các văn nghệ sĩ cho rằng: “Văn
+ “Chẳng về xuôi” nghĩa là bỏ mình học là tấm gương phản chiếu thời đại”, nhà văn phải là
trên đường hành quân, là ngã xuống người thư ký trung thành trên con đường nghệ thuật ấy,
trở thành “biên cương mồ viễn xứ”. còn thơ lại là người thư trung thành của trái tim. Với ý
Thân xác mãi nằm lại miền Tây Bắc nghĩa đó, Quang Dũng đã phản ánh chân thành ý niệm lên
hoang sơ, tráng lệ với những tên đất, đường của những người lính Tây Tiến, và thể hiện đúng
tên làng điệp trùng nỗi nhớ. tiếng lòng của trái tim mình. Nếu vẻ đẹp của người lính
thuở trước mang vẻ oai phong, lẫm liệt, đầy hào khí, thì
+ “Hồn về Sầm Nứa” nơi chí người chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp lại ra đi với
nguyện của những người chiến sĩ là quyết tâm sắt đá “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, nên đối
sang nước bạn tác chiến chống

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 35 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

Pháp, họ quyết tâm thực hiện lý với những người con trưởng thành từ binh đoàn Tây Tiến
tưởng ấy đến cùng “nhất khứ bất đã quá quen thuộc với ý niệm:
phục hoàn” (một đi không trở lại). Tây Tiến người đi không hẹn ước
Cho nên, dù ngã xuống trên đường Đường lên thăm thẳm một chia phôi
hành quân, nhưng hương hồn vẫn đi Người chiến sĩ ra đi không ước hẹn ngày về, tinh thần
cùng đồng đội, vẫn sống trong lòng hi sinh vì nước, xả thân vì nước, quyết tâm lập được chiến
đồng đội. công như người chiến sĩ trong bài thơ “Tống biệt hành”:
“Chí lớn chưa về bàn tay không – Thì không bao giờ nói trở
lại”. “Không hẹn ước”, rồi lại “một chia phôi”. Bởi lẽ: Hoàn
cảnh chiến đấu rất khắc nghiệt, có bao gian khổ, thiếu thốn
nên hành trình chiến đấu là những hi sinh tiếp nối, càng
khó có hi vọng trở về. Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt nghèo,
cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn đầu chẳng khác
nào lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải hi sinh xương máu mới
mong có ngày độc lập tự do. Bao thế hệ thanh niên cầm
súng ra chiến trường với tinh thần:“Quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh”. Ý thơ lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của người
lính “bộ đội cụ Hồ”, làm nổi bật phẩm chất yêu nước anh
hùng của họ.
Mùa xuân năm ấy, là mùa xuân khi “tiếng kèn kháng
chiến vang dậy khắp non sông”, đoàn binh Tây Tiến xuất
quân lên đường với hành trình chiến đấu bảo vệ Tổ quốc,
họ quyết tâm “ra đi đầu không ngoảnh lại khi đất nước chưa
khuất bóng quân thù” - đó là lời thề quyết tâm của cả một
thế hệ. “Mùa xuân” ấy ta có thể hiểu theo nghĩa: Đó là thời
điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến, mùa xuân năm 1947;
hoặc là mùa xuân của đất nước, mùa xuân của tuổi trẻ, tuổi
xuân của đời người. Và dù hiểu theo cách nào thì “mùa
xuân ấy” cũng đã trở thành thời điểm một đi không trở lại

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 36 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

của lịch sử nước nhà. Câu thơ cuối với sự kết hợp linh hoạt
từ các thanh bằng như một bài hát, bản hòa âm đầy cảm
xúc, mà đoạn kết là bản hòa âm da diết với câu thơ: “Hồn
về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. “Sầm Nứa” là một địa danh ở
phía Đông thượng Lào, nơi ta hợp đồng tác chiến với quân
đội Lào chống Pháp. Ngày nay, ta vẫn nhắc về mảnh đất
này với cái tên đầy ý nghĩa: "Căn cứ địa cách mạng Sầm
Nứa - Biểu tượng đoàn kết đặc biệt và liên minh chiến đấu
Việt Nam – Lào”. Như vậy, “Hồn về Sầm Nứa” là về nơi
những người lính đã quyết tâm thực hiện lí tưởng cao đẹp
của mình khi xung phong ra trận. Cho nên, dù ngã xuống
trên đường hành quân hay bất kì đâu thì anh lính họ vẫn
đi cùng đồng đội để thực hiện chí nguyện này đến cùng.
Nhà thơ Xuân Diều quan niệm về thơ: “Thơ phải xuất
phát từ tực tại đời sống, nhưng phải qua tâm hồn, trí tuệ và
khi đã đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ ấy phải in dấu đó
vào thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay”. Để
khẳng định bài thơ Tây Tiến “hay” thì có lẽ hơi vội vã nhưng
chắc chắn đây là bào thơ “thăng hoa của một tâm hồn lãng
mạn” mang tên Quang Dũng, là “bức tượng đài bất tử về
người lính vô danh”. Nên cái ý niệm lên đường của các anh
cũng thật đẹp.
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Người chiến sĩ ra đi không ước hẹn ngày về, tinh thần hi
sinh vì nước, xả thân vì tổ quốc, quyết tâm lập được chiến
công như người chiến sĩ trong bài thơ “Tống biệt hành”:
“Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 37 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

Thì không bao giờ nói trở lại


Ba năm mẹ già cũng đừng mong”.
“Không hẹn ước”, rồi lại “một chia phôi”. Bởi lẽ: Hoàn
cảnh chiến đấu rất khắc nghiệt, có bao gian khổ, thiếu thốn
nên hành trình chiến đấu là những hi sinh tiếp nối, càng
khó có hi vọng trở về. Do hoàn cảnh lịch sử quá ngặt nghèo,
cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn đầu chẳng khác
nào lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải hi sinh xương máu mới
mong có ngày độc lập tự do. Bao thế hệ thanh niên cầm
súng ra chiến trường với tinh thần:“Quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh”. Ý thơ lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của người
lính “bộ đội cụ Hồ”, làm nổi bật phẩm chất yêu nước anh
hùng của họ. Mùa xuân năm ấy, cúng còn là mùa xuân khi
“tiếng kèn kháng chiến vang dậy khắp non sông”, đoàn binh
Tây Tiến xuất quân lên đường với hành trình chiến đấu bảo
vệ Tổ quốc, họ quyết tâm “Người ra đi đầu không ngoảnh
lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” - đó là lời thề quyết
tâm của cả một thế hệ. “Mùa xuân” ấy ta có thể hiểu theo
nghĩa: Đó là thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến, mùa
xuân năm 1947; hoặc là mùa xuân của đất nước, mùa xuân
của tuổi trẻ, tuổi xuân của đời người. Và dù hiểu theo cách
nào thì “mùa xuân ấy” cũng đã trở thành thời điểm một đi
không trở lại của lịch sử nước nhà.
Câu thơ cuối với sự kết hợp linh hoạt từ các thanh bằng
như một bài hát, bản hòa âm đầy cảm xúc, mà đoạn kết là
bản hòa âm da diết với câu thơ: “Hồn về Sầm Nứa chẳng về
xuôi”. “Sầm Nứa” là một địa danh ở phía Đông thượng Lào,
nơi ta hợp đồng tác chiến với quân đội Lào chống Pháp.
Ngày nay, ta vẫn nhắc về mảnh đất này với cái tên đầy ý

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 38 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

nghĩa: "Căn cứ địa cách mạng Sầm Nứa - Biểu tượng đoàn
kết đặc biệt và liên minh chiến đấu Việt Nam – Lào”. Như
vậy, “Hồn về Sầm Nứa” là về nơi những người lính đã quyết
tâm thực hiện lí tưởng cao đẹp của mình khi xung phong
ra trận. Cho nên, dù ngã xuống trên đường hành quân hay
bất kì đâu thì anh lính họ vẫn đi cùng đồng đội để thực hiện
chí nguyện này đến cùng.
Đánh giá nghệ thuật:
1. Bài thơ “Tây Tiến” được tạo nên từ 2 nguồn cảm hứng lớn bắm sát đặc điểm văn học kháng
chiến: Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
2. Các biện pháp nghệ thuật được vận dụng một cách linh hoạt:
+ Ngôn ngữ, hình ảnh ấn tượng, giàu chất tượng hình, khác họa thành công bức tranh thiên
nhiên và hình ảnh người lính.
+ Biện pháp: cường điều, tương phản, vận dụng kiến thức hội họa, điêu khắc, tính nhạc đặc
sắc… mang đâm phong cách Quang Dũng.
Tham khảo:
1. Bài thơ “Tây Tiến”, tựa như những thước phim tư liệu nhưng đầy giá trị nghệ thuật về cuộc
sống và chiến đấu của người lính Tây Tiến. Với thủ pháp điện ảnh Quang Dũng đã như một nhà
quay phim tài hoa ghi lại từng chặng đường hành quân của người lính. Paustoisky từng thốt lên:
“Những chữ xa xác nhất mà chúng ta đã nói đến cạn cùng, mất sạch tính chất hình tượng đối với
chúng ta, những chữ ấy trong thơ ca lại lấp lánh, lại kêu giòn và tỏa hương. Bằng cách nào đó,
Quang Dũng đã đưa những chữ xơ xác ấy tỏa hương trên trang thơ của chính mình.
Có thể nói, trong chín năm kháng chiến trường kì, cảm hứng yêu nước thật sự là một động
lực tinh thần mạnh mẽ cho những người con đất Việt khi “Tầm vóc nhà thơ đứng trên thành chiến
lũy”. Lịch sử hào hùng của dân tộc, thiên nhiên và hình ảnh người chiến sĩ, đã được tái hiện sinh
động và hào hùng qua những câu thơ “Tây Tiến”. Khép lại những trang thơ hào hùng nhưng dư
âm của nó có lẽ vẫn còn vương mãi. Ta nhớ đến những câu thơ của Chế Lan Viên:
Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau còn, đủ sức soi đường

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 39 | Lưu hành nội bộ 
 Tài liệu khóa học 2K5 – KHÓA HỌC TRỌN VẸN KIẾN THỨC (Cô Trần Thùy Dương) 
____________________________________________________________________________________________

Ngọn lửa thắp sáng ấy có lẽ không chỉ trong thơ ông, mà còn thắp lên từ những câu thơ Tây
Tiến, hòa vào những bản trường ca của kháng chiến.

2. Hoặc viết kết hợp thêm lí luận: Đối với mỗi người nghệ sĩ khi cầm bút, điều quan trọng
nhất là đã khắc sâu đứa con tinh thần của mình trong lòng những người yêu văn chương. Bởi đơn
giản rằng “thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho thế giới và cho chính mính”.
Những niềm vui đó, họ đã chắt chiu, lắng đọng từ quá trình “cân một phần nghìn milligram quặng
chữ”. Chế Lan Viên từng nói: “Cái kết tinh của mỗi vần thơ là muối và bể. Muối lắng ở ô nề, thơ
đọng ở bề sâu”. Và bề sâu mà Tây Tiến đọng lại, chính là những thước phim tư liệu đầy giá trị
nghệ thuật về hiện thực đấu tranh, về bức tượng đài người lính Tây Tiến. Bài thơ thành công là
nhớ kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực. Nếu chỉ có hiện thực trần trụi, chắc
“Tây Tiến” không thể có sức cuốn hút mạnh mẽ đến thế. Tuy nhiên, nếu chỉ có chất lãng mạn thì
“Tây Tiến” cũng khó mà được đón nhận rộng rãi như vậy! Chất hiện thực và lãng mạn đã làm cho
bài thơ có gian khổ, mất mát, hy sinh nhưng cũng trần đầy miền lạc quan, khỏe khoắn. Giọng thơ
vừa chân thành vừa bi tráng, hào hùng, phản ánh hào khí và chất lãng mạn một thười gắn với
lihcj sử kháng chiến anh dũng của dân tộc.

____________________________________________________________________________________________

 Chinh phục mục tiêu 8.5+ cùng Cô Trần Thùy Dương | Trang 40 | Lưu hành nội bộ 

You might also like