De Tai I Chuong Iv

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

IV.

XÂY DỰNG VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH
1) Đánh giá của Đảng ta sau hơn 30 năm đổi mới phát triển văn hóa như
thế nào (từ 1986 đến nay)
THÀNH TỰU
Sau khi Nghị quyết TW 5 khóa VIII với sự nhấn mạnh đến yêu cầu xây dựng
nền văn hóa, xây dựng con người Việt Nam ra đời và yêu cầu này tiếp tục được
khẳng định ở những kỳ Đại hội tiếp theo, các chương trình hành động tương
ứng cũng đã được triển khai nhằm đạt được mục tiêu đặt ra như phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nếp sống văn
minh và gia đình văn hóa”, “Người tốt, việc tốt”... Trong đó, phong trào “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” là quan trọng nhất. Phong trào này
được Trung ương khởi xướng và phát động từ năm 2000 với mục đích tạo dựng
môi trường văn hóa lành mạnh, giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống.
Nó bao gồm 05 nội dung (đoàn kết giúp nhau xóa đói, giảm nghèo; thực hiện
nếp sống văn minh, kỷ cương pháp luật; xây dựng môi trường văn hóa; xây
dựng và tổ chức hoạt động các thiết chế văn hóa thể thao; xây dựng tư tưởng
chính trị lành mạnh) và 07 phong trào cụ thể (Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư; Xây dựng gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa, cơ
quan, đơn vị đạt chuẩn văn hóa; Rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại;
Lao động, học tập sáng tạo và xây dựng người tốt việc tốt). Cùng với việc phát
động phong trào là việc thành lập Ban chỉ đạo xuyên suốt từ Trung ương đến
địa phương để triển khai thực hiện.
Từ sau năm 1986 đến Đại hội XIII của Đảng (năm 2021), Đảng không ngừng
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, làm rõ nhiều vấn đề trong đường lối
đổi mới. Xác định rõ mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và nhận thức đúng đắn những đặc trưng, quy luật của kinh tế thị
trường, xử lý đúng mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội
chủ nghĩa. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với chiến
lược phát triển khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế
số. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị, xây dựng và nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể
chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Xây dựng
và hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội, chiến lược xóa đói, giảm nghèo, bảo
đảm an sinh xã hội. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội trong từng bước phát triển. Xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng những chuẩn mực con người Việt Nam
trong thời đại mới. Xây dựng và triển khai chiến lược quốc phòng toàn dân và
chiến lược an ninh nhân dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa,
Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của
cộng đồng quốc tế, tích cực, chủ động đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng.
Tóm lại, thời gian đầu sau Đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt trọng tâm
chú ý vào việc phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
việc cải tạo, xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc cũng chủ yếu là để phục
vụ mục tiêu đó; tuy nhiên, quan điểm của Đảng về văn hóa sau này đã có
những vận động rất quan trọng. Dấu mốc trong sự phát triển nhận thức của
Đảng, như đã nói, được thể hiện cụ thể qua việc ra đời Nghị quyết Trung ương
5 khóa VIII và Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI. Văn hóa dần được coi là lĩnh
vực then chốt bên cạnh kinh tế, trong đó con người được nhìn nhận là trung
tâm trong chiến lược phát triển bền vững. Việc nhấn mạnh đến con người trong
nhận thức này của Đảng phù hợp với quan điểm tiến bộ về văn hóa trên thế giới
hiện nay.
HẠN CHẾ
Mặc dù phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã góp
phần ổn định an ninh chính trị, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh,
tiến bộ và giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống, thực tế cho thấy kết
quả thực hiện phong trào vẫn còn những hạn chế. Không ngẫu nhiên mà tại Đại
hội X, Ban chấp hành Trung ương khóa IX thừa nhận: “Việc xây dựng nếp
sống văn hóa chưa được coi trọng đúng mức. Tình trạng suy thoái, xuống cấp
về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là
trong lớp trẻ. Quản lý nhà nước về văn hóa còn nhiều sơ hở, yếu kém. Đấu
tranh ngăn ngừa văn hóa phẩm độc hại chưa được chú ý đầy đủ, còn nhiều
khuyết điểm, bất cập”. Trong thực tiễn hoạt động, phong trào này bị đánh giá là
chưa đồng đều, thiên về bề nổi, hiệu quả thấp và bên cạnh đó, hoạt động của
Ban chỉ đạo ở một số địa phương còn nặng tính hành chính... . Cùng với bệnh
thành tích, một hạn chế đáng chú ý của phong trào là đã triển khai chương trình
một cách duy ý chí, không căn cứ vào thực tiễn nên hiệu quả không đáng kể
hoặc thậm chí nhiều khi còn không đi được vào đời sống.
Giai đoạn sau đó, tuy Báo cáo chính trị của BCHTW Đảng khóa X tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI nhận định: “Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông
tin, thể dục, thể thao ngày càng mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ
văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa” từng bước đi vào chiều sâu”, nó cũng nhấn mạnh: “Văn hóa
phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn hóa, văn nghệ,
báo chí, xuất bản còn thiếu chặt chẽ. Môi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng,
thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự
xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là
trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại”.
Đến Đại hội XII, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW khóa XI tại Đại hội
nhận định: “so với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng;
chưa đủ tầm mức để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường
văn hóa lành mạnh. Đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Đời sống
văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ
văn hóa giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân
dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu
lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại
tội phạm có chiều hướng gia tăng…”.
Liên tiếp các kỳ Đại hội gần đây là Đại hội XI và XII, văn kiện của Đảng đều
đánh giá rằng văn hóa phát triển chưa tương xứng với các lĩnh vực khác. Một
trong những nguyên nhân quan trọng nhất, theo chúng tôi, là quan điểm tiếp
cận trong xây dựng chính sách và triển khai hành động còn nhiều bất cập. Như
ta biết, văn hóa luôn đa dạng và vận động không ngừng. Mỗi một vùng miền lại
có một văn hóa riêng và nó luôn biến đổi theo nhu cầu của con người - chủ
nhân của văn hóa. Thế nhưng, các chính sách và việc triển khai chính sách liên
quan đến văn hóa của Nhà nước còn cứng nhắc, chưa phù hợp. Cụ thể, việc xây
dựng một nền văn hóa theo mô hình chung, không căn cứ vào tính đa dạng và
tính thường biến của đối tượng sẽ dẫn đến sự nhất thể hóa, bất biến hóa văn
hóa một cách khiên cưỡng.
Hội nghị TW 9 khóa 11 là bước phát triển hơn trong quan điểm khi khẳng định
việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục
tiêu của chiến lược phát triển và đồng thời cũng là nhiệm vụ hàng đầu trong các
mục tiêu, nhiệm vụ về văn hóa. Thế nhưng, kết quả thực hiện lại không như kỳ
vọng. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII nêu rõ: “Tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn
xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp nghiêm trọng”.
MỞ RỘNG: NGUYÊN NHÂN
Những hạn chế trong thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hóa, xây dựng con
người Việt Nam là vấn đề thời sự trước thềm Đại hội XIII. Một trong những
nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế trong xây dựng nền văn hóa là chính
sách và việc triển khai thực hiện của hệ thống các cơ quan quản lý trong hệ
thống quản lý nhà nước chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống và tính chất của
văn hóa, chưa tương ứng với quyết tâm chính trị của Đảng. Báo cáo chính trị
tại Đại hội XII xác định nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém “chủ yếu là
do nhiều cấp uỷ, chính quyền nhận thức chưa đúng tầm quan trọng và chưa
quan tâm đầy đủ lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ
thể hóa, thể chế hóa nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ. Công tác
quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ,
thậm chí buông lỏng. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn
trải”. Đối với việc xây dựng con người Việt Nam, nhiều ý kiến thống nhất rằng
nguyên nhân quan trọng là do hệ thống giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu.
“Xét cho đến cùng, những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế của con người Việt
Nam nói chung đều là do những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế của công tác
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực này mà ra”. Con người là kết quả quá trình
xã hội hóa thông qua giáo dục từ gia đình, nhà trường và xã hội, mà như ta biết,
những gì được học trong quá trình đó sẽ là nền tảng để tạo nên con người văn
hóa. Và, với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, mỗi cá nhân trong cộng đồng
sẽ góp phần tạo nên văn hóa của cộng đồng. Có thể nói, nền văn hóa dân tộc
được hình thành và phát triển như thế nào là do mỗi con người với tư cách là
con người văn hóa được hình thành thông qua giáo dục quyết định. Vấn đề là ở
chỗ, sự giáo dục nhân cách con người hiện đang bị coi nhẹ trong xã hội và ngay
cả hệ thống giáo dục cũng có hạn chế như Báo cáo chính trị của Ban chấp hành
TW tại Đại hội XII đã chỉ ra: “... giáo dục và đào tạo chưa thực sự trở thành
quốc sách hàng đầu, thành động lực phát triển. Chất lượng, hiệu quả giáo dục
và đào tạo còn thấp so với yêu cầu”.
BÀI HỌC
Nhìn lại 30 năm đổi mới, có thể rút ra một số bài học:
Thứ nhất, bài học về sự kiên định.
Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy
truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh
nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Đổi mới là sự thay đổi về phương thức, cách thức, phương tiện… phát triển đất
nước nhưng không phải từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ
nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn.
Tức là, làm cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn.
Trước mắt, mục tiêu của Đảng và nhân dân ta hướng tới là “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sự nghiệp cách mạng đó đòi hỏi Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta phải kiên định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến ứng vạn
biến” thì mục tiêu này chính là cái “bất biến” mà không ai có thể từ bỏ.
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, phải xây dựng Đảng vững mạnh cả
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, về trí tuệ và đạo đức; phải tiếp tục coi trọng
công tác xây dựng Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng trong tình hình mới. “Toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên định
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, không dao động trong bất
cứ tình huống nào”.
Hai là, bài học về “dân làm gốc”.
Đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “dân làm gốc”, vì lợi ích của nhân dân,
dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo
và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.
“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” luôn là quan điểm xuyên suốt của
Đảng ta trong các thời kỳ cách mạng. Nhân dân vừa là mục tiêu vừa là động
lực của cách mạng nên mọi mục tiêu của Đảng đều vì nhân dân và luôn đặt
nhân dân vào vị trí người thực hiện là người thụ hưởng từ các chủ trương của
Đảng. Trong 30 năm qua, với chủ trương đổi mới, với sự nỗ lực của các tầng
lớp nhân dân, sự chung sức đồng lòng của toàn dân tộc, đời sống của nhân dân
đã thay đổi về mọi mặt. Dân ngày càng giàu thì nước ngày càng mạnh; nước
càng mạnh thì càng tác động để dân càng giàu hơn. Do đó, phải luôn chú trọng
lắng nghe dân, gần dân, trọng dân, thực hành dân chủ rộng rãi, bảo đảm các
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. “Đảng phải trực tiếp trả lời câu hỏi
“Nhân dân đang muốn gì?”, để từ đó đề ra các chủ trương, đường lối cho đúng,
cho sát và phù hợp với nhân dân. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” mà Đảng ta từng bước phấn đấu chỉ có thể thành công
khi Đảng, Nhà nước mãi mãi lấy “Dân làm gốc”, phát huy tốt sức mạnh to lớn
của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an
ninh, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, thường xuyên gắn kết chặt chẽ “Lòng Dân, ý Đảng” trong lãnh đạo,
chỉ đạo sự nghiệp đổi mới đất nước”.
Ba là, bài học về “đổi mới”.
Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách
quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do
thực tiễn đặt ra.
Phải không ngừng đổi mới, trên tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, văn
hóa - xã hội… trên cơ sở những nguyên tắc nhất định, như đổi mới nhưng phải
bảo đảm độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, phải giữ cho được vai trò
lãnh đạo của Đảng, phải đổi mới từ tư duy… Đồng thời, phải đổi mới thường
xuyên, liên tục, không có điểm dừng, không có giới hạn, sao cho không ngừng
nâng cao chất lượng sống của người dân, không ngừng phát triển đất nước về
mọi mặt. Không được đổi mới “nửa vời”, tức là chỉ đổi mới trên một số lĩnh
vực, chỉ đổi mới về hình thức hay chỉ đổi mới trên các khẩu hiệu mà không đổi
mới ở các hoạt động thực tiễn…
Để đổi mới thành công, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải
có bước đi, hình thức và cách làm thích hợp. “Đây là bài học về nghệ thuật tiến
hành đổi mới. Thực chất của nó là bài học về phối hợp chính sách và kết hợp
tối ưu giữa các lợi ích ngắn hạn, cục bộ với các lợi ích dài hạn và toàn thể, tìm
tòi các bước đi, hình thức và cách làm thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam. Thực tiễn cho thấy đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, nó phải được tiến hành đồng bộ trên tất
cả mọi lĩnh vực. Logic khách quan đó đòi hỏi phải phối hợp đồng bộ các chính
sách và giải pháp đổi mới trên cơ sở sự nhất quán của đường lối đổi mới và của
quyết tâm phát triển”.
Bốn là, bài học về yêu cầu phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết.
Phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng
thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi;
kết hợp, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong xu hướng hội nhập ngày càng sâu rộng và trong bối cảnh các mối quan
hệ quốc tế phức tạp, nhiều chiều hiện nay, các lợi ích thường đan xen nhau,
đồng thời các quan hệ cũng dễ bị tác động, có thể làm ảnh hưởng đến cán cân
một số quan hệ. Vì vậy, nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” cần được áp
dụng triệt để, trong đó “bất biến” là lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Việc chủ
động hội nhập quốc tế cũng là cách để không những Việt Nam tránh bị hòa tan,
bị tác động tiêu cực của quá trình hội nhập.
Bên cạnh đó, “đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết không phải là bỏ qua chủ
nghĩa quốc tế vô sản, bỏ qua trách nhiệm quốc tế vì sự tiến bộ và phát triển của
tất cả các dân tộc. Cần xác định rõ rằng, ngày nay, mọi việc làm vì tiến bộ và
phát triển chung của nhân loại đều làm cho nhân loại tiến gần hơn đến chủ
nghĩa xã hội. Đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết đồng thời với tích cực,
chủ động hội nhập quốc tế, mong muốn là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có
trách nhiệm trong quan hệ quốc tế vì độc lập, hòa bình và tiến bộ là làm tốt
nghĩa vụ quốc tế của dân tộc Việt Nam”. Đồng thời, “đặt lợi ích quốc gia – dân
tộc lên trên hết cần có những biện pháp rõ ràng và kiên quyết để đấu tranh với
“lợi ích nhóm”, một tệ nạn đang vận động rất phức tạp, là yếu tố hàng đầu đe
dọa đến sự đoàn kết thống nhất của dân tộc, mục tiêu cao nhất của đặt lợi ích
quốc gia – dân tộc lên trên hết hiện nay”.
Năm là, bài học về xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị.
Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.
Yêu cầu về “phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt” vẫn
luôn là một đòi hỏi phù hợp thực tiễn. Xây dựng Đảng là để Đảng luôn trong
sạch, vững mạnh, đủ năng lực và sức chiến đấu để lãnh đạo thắng lợi nhiệm vụ
phát triển kinh tế. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh là để cụ thể hóa
đường lối lãnh đạo của Đảng, triển khai thực hiện trong thực tế, đồng thời từ đó
tổng kết thực tiễn để ngày càng hoàn thiện hơn đường lối lãnh đạo. Do đó, nếu
lơ là công tác xây dựng Đảng, ít chú trọng công tác xây dựng hệ thống chính trị
thì năng lực lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước, sức mạnh tổng
hợp của hệ thống chính trị sẽ không được phát huy. “Ở Việt Nam, đòi hỏi phải
đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị, hoàn thiện kiến trúc thượng tầng để thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Với tư cách là bộ phận quan trọng nhất của kiến
trúc thượng tầng, hệ thống chính trị phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện”.
GIẢI PHÁP
Thực tiễn cho thấy để tiếp tục giữ vững chế độ, ổn định đời sống của người
dân, Đảng và Nhà nước Việt Nam phải tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện.
Trong đó, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời
đại. Quá trình này đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân không
ngừng tìm tòi, sáng tạo có tính cách mạng.
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (tháng 9/1979) được
đánh giá là mốc khởi đầu của công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước
ta. Tại Hội nghị này, lần đầu tiên Đảng đưa ra quan điểm phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần. Từ những quan điểm, chủ trương cơ bản này, Đảng
và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, thể chế mới nhằm
khuyến khích phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá như Chỉ thị 357 của
Chính phủ cho phép nông dân được nuôi và mua bán trâu bò; Chỉ thị số 100
của Ban Bí thư về “cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm lao động
và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”…
Hội nghị Trung ương 6 khóa V (7/1984) đã nhận định nền kinh tế nước ta hiện
nay đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý năng động, có khả năng bãi bỏ cơ chế
tập trung quan liêu, bảo thủ trì trệ và bao cấp tràn lan, thực hiện đúng đắn tập
trung dân chủ. Tiếp đến tại Hội nghị Trung ương 7 khóa V (12/1984), Ban
Chấp hành Trung ương tiếp tục khẳng định, điều quan trọng nhất hiện nay là
phải kiên quyết nhanh chóng bãi bỏ chế độ tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển
toàn bộ nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6/1985) có tầm quan trọng đặc biệt trong công
cuộc cải cách kinh tế đất nước. Hội nghị tập trung bàn và quyết định việc cải
cách một bước giá
cả, tiền lương, tài chính và tiền tệ để bãi bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp,
chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Trung
ương 8 đã đáp ứng nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta trong sự nghiệp đổi
mới kinh tế đất nước. Những chuyển biến mới, tích cực của đất nước trong quá
trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 đã khẳng định sự đúng đắn của chủ
trương dứt khoát cải cách toàn diện, sâu sắc nền kinh tế đất nước của Đảng.
Đến cuối năm 1985, đầu năm 1986, do ảnh hưởng từ những biến động chính trị
của thế giới, đặc biệt sự khủng hoảng trong hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa, tình hình Việt Nam hết sức nguy cấp. Trước hoàn cảnh đó, trong Nghị
quyết số 31/NQ/TW ban hành ngày 24/2/1986, Bộ Chính trị nhấn mạnh cần có
những biện pháp xử lý kiên quyết, đúng đắn, nhanh chóng xoay chuyển tình
thế, đưa hoạt động kinh tế - xã hội đất nước theo đúng hướng mà các Nghị
quyết 6, 7, 8 Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra. Tiếp đó, Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng đánh dấu bước ngoặt có tính lịch sử
về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam. Đại hội khẳng định quan điểm
đổi mới quản lý kinh tế như sau:
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên cơ sở đổi mới cơ cấu kinh tế, chấp nhận
kinh tế nhiều thành phần và chuyển sang nền sản xuất hàng hóa.
- Kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản
lý có kế hoạch theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Cả nước là một thị trường thống nhất, có nhiều thành phần kinh tế tham gia;
Nhà nước bỏ quyền định giá, giữ giá, thay vào đó điều tiết giá bằng các biện
pháp, công cụ kinh tế.
Sau năm 1986, quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng ta tiếp tục
diễn ra từng bước theo hướng vừa làm vừa thử nghiệm, sửa đổi, bổ sung, cải
tiến trên cơ sở đúc rút những kinh nghiệm của thực tiễn. Đảng ta từng bước
xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế cũ, dần hình thành cơ chế mới - cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành
công to lớn trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước sau gần 40 năm đã chứng
minh định hướng, chủ trương và phương thức đổi mới của Đảng là đúng đắn.
Mặt khác, những thành công đó đã cho thấy khả năng lãnh đạo đất nước xoay
chuyển tình thế, kịp thời thích nghi với bối cảnh chính trị - kinh tế mới của
quốc tế nhưng vẫn giữ được những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. Nội dung xây dựng và phát triển văn hóa trong giai đoạn hiện nay qua
các nghị quyết hội nghị TW của Đảng ta
- Nghị quyết hội nghị TW VIII
Cách đây tròn 20 năm, ngày 16-7-1998, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương (khóa VIII) đã ban hành Nghị quyết về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết đã bổ sung,
phát triển, làm sâu sắc, phong phú hơn kho tàng lý luận văn hóa, đường lối văn
hóa của Đảng và mở đường cho thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa Việt
Nam thu được những thành tựu to lớn trong hai thập niên qua. 
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã có quan niệm rộng hơn, toàn diện hơn,
bao quát hơn về văn hóa, về văn hóa và phát triển, về di sản văn hóa, về bản
sắc, đặc trưng văn hóa Việt Nam, về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc...
Nghị quyết đã xác định 10 nhiệm vụ cụ thể để xây dựng và phát triển văn hóa
là: (1) Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với
những đức tính tốt đẹp; (2) Xây dựng môi trường văn hóa; (3) Phát triển sự
nghiệp văn học - nghệ thuật; (4) Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa; (5)
Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ; (6) Phát triển
đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; (7) Bảo tồn, phát huy và
phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; (8) Chính sách văn hóa đối với tôn
giáo; (9) Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa; (10) Củng cố, xây dựng và hoàn
thiện thể chế văn hóa và thiết chế văn hóa.
Cùng với việc thực hiện đồng bộ, toàn diện 10 nhiệm vụ nói trên, Nghị quyết
yêu cầu chú trọng thực hiện nhiệm vụ  xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và
đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội.  Coi đây là nhiệm vụ cấp bách, trọng
tâm của sự nghiệp xây dựng văn hóa, trước hết trong các tổ chức Đảng và Nhà
nước, trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình.
- Nghị quyết hội nghị TW IX
Nghị quyết TW 9 (khóa XI) đã đề ra 5 quan điểm, nhiệm vụ của việc xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam: một là, văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa
phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hộil; hai là, xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; ba là, phát triển văn hóa vì
sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn
hóa; bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa; năm là, xây dựng và phát
triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân.
Nghị quyết TW 9 (khóa XI) đã rút gọn, tập trung 6 nhiệm vụ chính về văn hóa
là:
Nhiệm vụ 1: Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Nâng cao trí
lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam; khẳng định, tôn vinh cái đúng,
cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn.
Nhiệm vụ 2: Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; mỗi địa phương, cộng
đồng, cơ quan, đơn vị tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp
phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống; gắn các hoạt động
văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh với
chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh.
Nhiệm vụ 3: Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế; chú trọng chăm lo
xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể;
thường xuyên xây dựng văn hóa trong kinh tế. Con người thực sự là trung tâm
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội; tạo lập mội trường văn hóa pháp lý;
xây dựng văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân với ý thức tôn trọng pháp
luật; phát huy ý thức và tinh thần dân tộc, động viên toàn dân, trước hết là các
doanh nghiệp, doanh nhân xây dựng và phát triển các thương hiệu Việt Nam có
uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.
Nhiệm vụ 4: Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa; huy động sức
mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống;
xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn
hóa với phát triển kinh tế - xã hội.
Nhiệm vụ 5: Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị
trường văn hóa; phát triển công nghiệp văn hóa nhằm khai thác và phát huy
những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; đổi mới, hoàn thiện
thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn
hóa và công nghiệp văn hóa.
Nhiệm vụ 6: Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; phát huy tài năng, tâm huyết của trí thức, văn nghệ sỹ người Việt
Nam ở nước ngoài; chú trọng truyền bá văn hóa Việt Nam, dạy tiếng Việt cho
người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam.
- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH
Cương lĩnh năm 2011 đã nêu: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do
nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới."
Cương lĩnh năm 2011 cơ bản giữ nguyên 5 bài học như Cương lĩnh năm 1991,
có một số bổ sung, phát triển:
Bổ sung vấn đề “tham nhũng” vào nội dung bài học thứ hai “Quan liêu, tham
nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh
của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”. (Nghị quyết Trung
ương 3 khoá XI đã xác định đây là một nội dung trong ba vấn đề cấp bách hiện
nay).
Bổ sung từ “quyết định” cho đúng với thực tế ở bài học thứ năm: “sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam” chứ không chỉ là “nhân tố hàng đầu bảo đảm” như trong Cương lĩnh
năm 1991.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


https://vass.gov.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/Xay-dung-nen-van-
hoa-Viet-Nam-tu-sau-Doi-moi-den-nay-24
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/816918/
quan-diem-cua-dang-ve-xay-dung-nen-van-hoa-tu-sau-doi-moi-den-nay---
thanh-tuu-va-nhung-van-de-dat-ra.aspx
https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/dang-cong-san-viet-nam-lanh-dao-cong-
cuoc-doi-moi-kinh-te-dat-nuoc-1491890466
https://www.thanhuytphcm.vn/tin-tap-chi/so-tay-xay-dung-dang-12-2015/
nhung-bai-hoc-quy-cua-30-nam-doi-moi-1453710860
https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/nghi-quyet-trung-uong-5-khoa-viii-
chien-luoc-van-hoa-cua-dang-trong-thoi-ky-doi-moi-115273
https://moit.gov.vn/tin-tuc/thi-truong-nuoc-ngoai/nghi-quyet-tw-9-khoa-xi-xay-
dung-van-hoa-doanh-nghiep-doanh-.html

You might also like