Nguyễn Hoàng Hiệp.CPQT.CT46A

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

BỘ NGOẠI GIAO

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

…………..o0o…………..

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ


MÔN: CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

Chủ đề 1: Tổ chức quốc tế liên chính phủ là một loại chủ thể
của luật quốc tế. Phân tích chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
một tổ chức quốc tế liên chính phủ đề làm rõ khẳng định trên.

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Phạm Thanh Tùng

GV. Hoàng Thị Ngọc Anh

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Hoàng Hiệp

Lớp : CT46A

Mã số sinh viên : CT46A-005-1923

0
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................................2

NỘI DUNG ..................................................................................................................................3

I. Lý luận về Luật quốc tế ............................................................................................3


1. Sự hình thành của Luật quốc
tế .........................................................................3
2. Khái niệm Luật quốc tế ......................................................................................3
3. Chủ thể của Luật quốc tế....................................................................................4

Tiểu kết 1 .....................................................................................................................................4

II. Lý luận về Tổ chức quốc tế liên chính phủ .............................................................5


1. Về Tổ chức quốc tế liên chính phủ ....................................................................5
2. Phân loại Tổ chức quốc tế liên chính phủ .........................................................6
3. Quyền năng của các Tổ chức quốc tế liên chính phủ........................................6

Tiểu kết 2 ......................................................................................................................................7

III. ASEAN với tư cách là một chủ thể của Luật quốc tế .............................................7
1. ASEAN là gì? ........................................................................................................7
2. Vì sao ASEAN là một tổ chức quốc tế liên chính phủ? .......................... ..........8
3. Tư cách pháp lý của ASEAN................................................................................8
4. Năng lực Pháp lý của ASEAN..............................................................................9

Tiểu kết
3 .......................................................................................................................................11

KẾT LUẬN
……………………...................................................................................................12

TÀI LIỆU THAM KHẢO


………................................................................................................13

1
MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hệ thống quan hệ quốc tế chằng chịt, chồng chéo và
xung đột lẫn nhau về lợi ích giữa các chủ thể, Luật quốc tế hiện đại đóng một vai
trò cực kỳ quan trọng. Phạm vi điều chỉnh của Luật quốc tế hiện đại không còn gói
gọn trong phạm vi truyền thống như vấn đề quyền con người, vấn đề hòa bình và
an ninh,… mà còn vươn ra các vấn đề mới, nổi cộm khác như vấn đề môi trường,
nhân đạo quốc tế, kinh tế quốc tế,… Cùng với sự phát triển không ngừng của hệ
thống quốc tế, ngoài các quốc gia là chủ thể truyền thống, chúng ta cũng chứng
kiến sự xuất hiện ngày càng nhiều các tổ chức liên chính phủ được công nhận với
tư cách là một loại chủ thể của Luật quốc tế. Các tổ chức này cũng có những chức
năng, nghĩa vụ và quyền hạn riêng của mình trong hệ thống quốc tế. Các thực thể
này cũng là một phần rất quan trọng của Luật quốc tế cần phải được chú trọng
nghiên cứu. Vì thế, người viết chọn đề tài “Tổ chức quốc tế liên chính phủ là một
loại chủ thể của luật quốc tế. Phân tích chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một tổ
chức quốc tế liên chính phủ đề làm rõ khẳng định trên.”
Để nghiên cứu về đề tài này, người viết đã tìm hiểu về các lý luận liên quan tới đề
tài, bao gồm khái niệm và đặc điểm của luật quốc tế và chủ thể của luật quốc tế.
Đồng thời, người viết chọn ASEAN để làm ví dụ chứng minh cho luận điểm chính
của bài, bởi mức độ liên quan của tổ chức này với luận điểm. ASEAN là một tổ
chức quốc tế liên chính phủ với đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và phạm vi quyền hạn
của một chủ thể Luật quốc tế. Đồng thời, ASEAN cũng là một trong những tổ chức
quốc tế sớm nhất mà Việt Nam tham gia, điều này giúp cho việc tìm tài liệu dễ
dàng và tăng mức độ xác đáng của luận điểm chính.
Bài tiểu luận dưới đây sẽ phân tích và lý luận về Luật quốc tế và chủ thể phái sinh
của Luật quốc tế, đặc biệt chú trọng tới Tổ chức quốc tế liên chính phủ. Sau đó, nội
dung của bài sẽ tiếp tục phân tích về tư cách pháp lý và năng lực pháp lý của
ASEAN để chứng minh rằng Tổ chức quốc tế liên chính phủ là một loại chủ thể
của Luật quốc tế. Qua đó, người viết kết luận rằng Tổ chức quốc tế liên chính phủ
là một loại chủ thể của Luật quốc tế.

2
NỘI DUNG
I. Lý luận về Luật quốc tế
1. Sự hình thành của luật quốc tế:
Luật được nhà nước dung như một công cụ để duy trì quyền lực nhà nước và được
gắn liền với quá trình hình thành nhà nước. Tương tự đối với luật quốc tế, quá trình
hình thành và phát triển của luật quốc tế gắn liền với sự phát triển chung của nhà
nước và pháp luật, tuy nhiên muộn hơn so với luật quốc gia.
Luật quốc tế xuất hiện khi giữa các nhà nước có sự giao bang với nhau. Từ thời sơ
khai là các nước láng giềng, dần mở rộng ra khỏi phạm vi khu vực và phát triển
thành các quan hệ có tính chất liên khu vực hay cộng đồng quốc tế như ngày nay.
Luật quốc tế đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển. Trong đó, luật quốc tế hiện đại
được đặt trong hệ thống quốc tế và là một bộ phận cơ bản của hệ thống đó.
Trên bình diện chung, hệ thống quốc tế được tạo thành bởi nhiều yếu tố, như các
quốc gia; các tổ chức quốc tế liên chính phủ; các thực thể quốc tế khác (và các thiết
chế quốc tế của tổ chức này); luật quốc tế và các quy phạm khác của hệ thống quốc
tế. Các yếu tố này có sự gắn kết với nhau trong những mối quan hệ tương tác, tạo
thành hệ thống quốc tế.
Hình thành và tồn tại trong hệ thống quốc tế như vậy, kết hợp với xu thế phát triển
của thời đại (xu thế quốc tế hóa mọi mặt của đời sống quốc tế ở cả hai cấp độ, khu
vực và toàn cầu, dựa trên cơ sở nên kinh tế tri thức), luật quốc tế hiện đại trong
những thập nguyên đầu của thế kỷ XXI là kết quả và là sự phản ánh các quan hệ
quốc tế trong điều kiện hợp tác, phát triển của cộng đồng thế giới đang có những
thay đổi to lớn về mọi phương diện, cấp độ, tuân theo quy luật vận động khác quan
ở từng quốc gia cũng như trên phạm vi toàn cầu.
2. Khái niệm Luật quốc tế:
Từ những nét khái quát trên, có thể định nghĩa, “Luật quốc tế là hệ thống các
nguyên tắc và quy phạm pháp luật, được các quốc gia và chủ thể khác của luật
quốc tế thỏa thuận tạo dựng nên, dựa trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, nhằm
điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể đó trong mọi lĩnh
vực của đời sống quốc tế. Đó là các nguyên tắc và quy phạm áp dụng chung mà
không có sự phân biệt về tính chất, hình thức hay vị thế của từng quốc gia khi thiết
lập quan hệ quốc tế giữa những chủ thể này với nhau.”1
1
Giáo trình Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2018
3
3. Chủ thể của Luật Quốc tế:
Về phương diện khoa học và pháp lý, việc xác định một thực thể là chủ thể của luật
Luật quốc tế thường phải dựa trên các dấu hiệu cơ bản:
Thứ nhất, có sự tham gia vào những quan hệ quốc tế do luật quốc tế điều chỉnh (tức
là tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế);
Thứ hai, có ý chí độc lập (không lệ thuộc vào các chủ thể khác) trong sinh hoạt
quốc tế;
Thứ ba, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác thuộc
phạm vi điều chỉnh của luật quốc tế;
Thứ tư, có khả năng độc lập gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những
hành vi mà chủ thể đã thực hiện gây ra.
Căn cứ vào các dấu hiệu nêu trên, chủ thể luật quốc tế là thực thể độc lập tham gia
vào những quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh, có đầy đủ quyền, nghĩa vụ và khả
năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính chủ thể thực
hiện.
Khoa học luật quốc tế xác định quốc gia là chủ thể truyền thống và phổ biến của
luật quốc tế. Tuy nhiên, trong quan hệ pháp luật quốc tế hiện đại, ngoài quốc gia là
chủ thể chủ yếu, các tổ chức quốc tế liên quốc gia cũng được thừa nhận là chủ thể
phái sinh của luật quốc tế.
Đây là những thực thể được hình thành bởi sự liên kết của các quốc gia độc lập, có
chủ quyền, vì mục địch hợp tác quốc tế đa dạng, đa lĩnh vực và hướng đến lợi ích
phát triển của từng quốc gia cũng như của cộng đồng quốc tế.
Tiểu kết 1:
Cùng với sự ra đời của các quốc gia độc lập đầu tiên, mối liên hệ giữa các quốc gia
cũng dần được hình thành trong quá trình thiết lập biên giới, những thỏa thuận liên
kết để chống ngoại xâm cũng như giải quyết hậu quả chiến tranh… Các quan hệ
khi hình thành đòi hỏi phải được điều chỉnh về mặt pháp lý quốc tế. Từ đó, những
nguyên tắc, quy phạm điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia xuất hiện, đặt nền
móng cho hệ thống Luật quốc tế ngày nay. Trải qua nhiều giai đoạn và không
ngừng phát triển, Luật quốc tế hiện đại cho thấy rõ được những thay đổi to lớn
trong mọi phương diện và cấp độ. Hệ thống các nguyên tắc và quy phạm trong Luật
quốc tế mang tính chất là hệ thống pháp luật độc lập, tồn tại song song với hệ thống
pháp luật của từng quốc gia. Trong hệ thống Luật quốc tế, ngoài các quốc gia là
4
loại chủ thể truyền thống, còn có các tổ chức quốc tế liên quốc gia cũng được thừa
nhận là chủ thể phái sinh của luật quốc tế.
II. Lý luận về tổ chức quốc tế liên chính phủ
1. Về tổ chức quốc tế liên chính phủ:
Các tổ chức quốc tế liên chính phủ xuất diện từ khoảng giữa thế kỷ XIX nhưng vấn
đề quyền năng của chủ thể luật quốc tế chỉ được đặt ra trong lý luận và thực tiễn
sinh hoạt quốc tế từ nửa sau thế kỷ XX.
Trong giới học giả, vấn đề định nghĩa tổ chức quốc tế cũng là một trong những vấn
đề khó khăn nhất. Thông thường chúng ta biết một thực thể là một tổ chức quốc tế
mà không thể giải thích rõ ràng dựa trên tiêu chí chung nào.
Theo nghiên cứu của Ủy ban Pháp luật Quốc tế năm 1956, tổ chức quốc tế liên
chính phủ được định nghĩa là “Hiệp hội các quốc gia được thành lập trên cơ sở
điều ước quốc tế, có văn kiện thành lập và các cơ quan chung, có tự cách pháp
nhân độc lập tách biệt với tư cách pháp nhân của các quốc gia thành viên”.
Nhìn chung, các học giả trong các giáo trình phổ biến về luật tổ chức quốc tế cho
rằng có ba tiêu chí cơ bản cần được thỏa mãn để được xem là một tổ chức quốc tế:
Thực thể đó phải được thành lập bởi các Quốc gia, trên cơ sở một điều ước quốc tế
và có ý chí riêng biệt với các Quốc gia Thành viên (a distinct will).
Ngoài ra, Philippe Sands và Pierre Klein còn đưa thêm hai yếu tố khác là thành
viên của thực thể đó phải là các quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế khác, và phải có
quyền năng thông qua các quy tắc (norms) theo nghĩa rộng áp đặt lên các quốc gia
thành viên.2
Năm 2011, khi thông qu dự thảo Các điều khoản về trách nhiệm pháp lý của các tổ
chức quốc tế (Draft Articles on the Responsibility of International Organizations),
Ủy ban Luật pháp Quốc tế (ILC) đã định nghĩa rằng tổ chức quốc tế phải có tư cách
pháp lý quốc tế riêng biệt.3
2. Phân loại tổ chức quốc tế liên chính phủ:

2
Jan Klappers, An Introduction to International Institutional Law (CUP 2002) 9 – 13; Philippe Sands & Pierre
Klein, Bowett’s Law of International Institutions (6th ed., Sweet & Maxwell 2009) 15 – 16; Henry G Schermers &
Niels M Blokker, International Institutional Law: Unity within Diversity (5th ed., Martinus Nijhoff Publishers 2011)
37, § 33
3
ILC, ‘Draft articles on the responsibility of international organizations with commentaries’, Article 2 in
ILC, Yearbook of the International Law Commission 2011, vol. II (United Nations 2018) 46, 49.
5
Định nghĩa trên bao hàm rất nhiều thực tế khác nhau, không tồn tại một loại hình tổ
chức quốc tế duy nhất mà có rất nhiều thiết chế đa dạng với cơ cấu tổ chức, thẩm
quyền và mục đích khác nhau. Do đó, các tổ chức liên chính phủ có thể phân loại
theo các tiêu chí khác nhau.
Theo thành phần tham gia, tổ chức quốc tế đưuọc phân thành tổ chức quốc tế toàn
cầu như Liên Hợp Quốc (UN), hay tổ chức quốc tế khu vực, như Hiệp hội các
Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Theo lĩnh vực chuyên môn, tổ chức quốc tế được phân loại dựa trên lĩnh vực hoạt
động, như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF),…
Theo chức năng, tổ chức quốc tế được phân thành tổ chức hợp tác và tổ chức hội
nhập. Tổ chức hợp tác thường có cơ cấu gọn nhẹ, nhiệm vụ rõ ràng, tạo thuận lợi
cho việc phát triển hợp tá giữa các quốc gia. Trong khi đó, tổ chức hội nhập thường
có cơ cấu chặt chẽ và có nhiệm vụ phát huy quyền quyết định của tổ chức quốc tế
và tạo điều kiện hội nhập cho các quốc gia.
3. Quyền năng của các tổ chức quốc tế liên chính phủ:
Với tư cách là một trong các chủ thể của luật quốc tế, tổ chức quốc tế liên chính
phủ có quyền năng của một chủ thể luật quốc tế, có hệ thống các cơ quan để duy trì
hoạt động thường xuyên theo đúng mục đích, tôn chỉ hoạt động.
Các tổ chức quốc tế liên chính phủ có được quyền năng (năng lực pháp lý) của chủ
thể luật quốc tế không phải căn cứ vào “những thuộc tính tự nhiên” vốn có như
quốc gia mà do thỏa thuận của các quốc gia thành viên tự trao cho.
Quyền năng của chủ thể luật quốc tế của các tổ chức quốc tế liên quốc gia dựa trên
điều lệ (hiến chương, quy chế…) của mỗi tổ chức, trong đó quy định rõ phạm vi
quyền và nghĩa vụ cơ bản của tổ chức này. Như vậy, các tổ chức quốc tế liên chính
phủ khác nhau sẽ có những phạm vi quyền năng chủ thể luật quốc tế không giống
nhau.
Về lý luận và thực tiễn hoạt động, nhìn chung, các tổ chức quốc tế liên quốc gia
thường có các quyền cơ bản như:
Thứ nhất, quyền được ký kết các điều ước quốc tế;
Thứ hai, quyền tiếp nhận cơ quan đại diện và quan sát viên thường trực của các
quốc gia chưa là thành viên tại tổ chức trên;
Thứ ba, quyền được hưởng những miễn trừ và ưu đãi ngoại giao;

6
Thứ tư, quyền được yêu cầu kết luận tư vấn của Tòa án quốc tế của Liên Hợp
Quốc;
Thứ năm, quyền được giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các thành viên và các tổ
chức quốc tế đó.
Cuối cùng, ngoài các quyền cơ bản nói trên, các tổ chức này còn có các nghĩa vụ
quốc tế nhất định. Các tổ chức này cũng có những quyền và nghĩa vụ theo các điều
ước ký kết với các quốc gia, các tổ chức quốc tế khác.
Tiểu kết 2: Để một thực thể được xem là một Tổ chức quốc tế liên chính
phủ, nhìn chung, thực thể đó phải được thành lập bởi các Quốc gia, dựa trên cơ sở
một điều ước quốc tế và có tư cách pháp lý riêng biệt với các Quốc gia Thành viên.
Các tổ chức quốc tế này được phân loại dự trên theo nhiều tiêu chí: cấp độ
(ASEAN, UN,…), chuyên môn (WTO, IMF,…), và chức năng (hội nhập và hợp
tác). Giống với các quốc gia, các tổ chức quốc tế liên chính phủ cũng có những đặc
quyền năng cơ bản và nghĩa vụ quốc tế khi là chủ thể của Luật quốc tế. Tuy nhiên,
quyền năng của các tổ chức quốc tế liên chính phủ là khác nhau, khi mà quyền
năng của các tổ chức này dựa trên điều lệ (hiến chương, quy chế,…) của mỗi tổ
chức, bao gồm cả phạm vi quyền năng và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức đấy,
III. ASEAN với tư cách là một chủ thể của Luật quốc tế
1. ASEAN là gì?
ASEAN (Association of South East Asia Nations) là một tổ chức chính trị, kinh tế,
văn hóa và xã hội của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.
Đây là tổ chức quốc tế lâu đời và lớn nhất tại khu vực này với tất cả 10 nước thành
viên, bao gồm Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar,
Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Đến năm 2020, theo Diễn đàn Kinh
tế Thế giới (WEF), ASEAN trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 toàn cầu 4. Bên cạnh các
mục tiêu phát triển về kinh tế, ASEAN còn là một tổ chức chính trị quan trọng tại
khu vực với tham vọng giữ gìn nền hoà bình và an ninh Đông Nam Á.

2. Vì sao ASEAN là một tổ chức quốc tế liên chính phủ?

Dựa vào các tiêu chí đã nêu trên, ASEAN là một tổ chức quốc tế liên chính phủ do
ASEAN là một tổ chức hội tụ đủ các yếu tố:

4
Theo Báo cáo hội nhập ASEAN 2020
7
Thứ nhất, ASEAN được thành lập bởi các bởi các Bộ trưởng Bộ ngoại giao của 5
nước sáng lập là: Thái Lan, Singapore, Indonesia, Malaysia, và Philippines. Đến
nay, ASEAN có 10 thành viên tham gia, bao gồm thêm các quốc gia Brunei, Việt
Nam, Lào, Myanmar, và Campuchia với quan sát viên New Genia và ứng cử viên
Đông Timo.
Thứ hai, ASEAN được thành lập dựa trên điều ước quốc tế là Hiến chương
ASEAN. Hiến chương hệ thống hoá rất nhiều các hiệp định, tuyên bố trước đây,
khẳng định thêm nguyên tắc lâu dài về cộng đồng, hợp tác, tham vấn và đồng thuận
các mục đích cụ thể của ba Cộng đồng ASEAN đã được xác định.
Thứ ba, Hiến chương ASEAN được các thành viên tham gia phê chuẩn và có tính
bắt buộc về pháp lý. Cùng với đó, ASEAN cũng có tư cách pháp nhân, là một tổ
chức liên chính phủ.
3. Tư cách pháp lý của ASEAN
Một tổ chức quốc tế chịu sự điều chỉnh của luật pháp quốc tế, ngoài việc phải thoả
mãn các điều kiện như được thành lập bởi các quốc gia bằng một hiệp ước quốc tế,
còn cần phải có một yếu tố quan trọng, đó là tư cách pháp lý quốc tế (international
legal personality)5. Tư cách pháp lý này là điều kiện tiên quyết làm phát sinh quyền
và nghĩa vụ của tổ chức quốc tế (tách biệt so với quyền và nghĩa vụ của các thành
viên) cùng với khả năng khởi kiện các chủ thể khác hoặc bị khởi kiện ra các toà án
quốc tế6.
Để xác định tư cách pháp lý của một tổ chức quốc tế, hiện nay tạm thời có 2 lý
thuyết nổi bật nhất mà trên những phương diện nhất định nội hàm của 2 học thuyết
này là đối nghịch lẫn nhau. Học thuyết đầu tiên nhấn mạnh về ý chí của các quốc
gia khi thành lập tổ chức quốc tế này (‘will theory’). Học thuyết này cho rằng việc
xác định tư cách pháp lý của một tổ chức quốc tế phải dựa trên việc các nhà sáng
lập ra một tổ chức quốc tế có mục đích muốn cấp tư cách pháp lý cho tổ chức quốc
tế này hay không. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của chủ quyền và vai trò
chủ động của các quốc gia7.

5
Điều 2, Dự thảo về Trách nhiệm pháp lý của Tổ chức quốc tế, 2011, Uỷ ban pháp luật quốc tế, Liên hiệp quốc.

6
Klabbers, Jan, Giới thiệu về luật các tổ chức quốc tế, NXB Cambridge, 2002, chương 3.
7
Cedric Ryngaert,Ige F Dekker,Ramses A Wessel,Jan Wouters, Các phán quyết về luật các tổ chức quốc tế, NXB
Cambridge, p.67.
8
Học thuyết thứ hai coi trọng chức năng của các tổ chức quốc tế. Một trong các học
giả ủng hộ cho học thuyết này, Finn Seyerster, cho rằng việc thực hiện các hoạt
động, hay nhiệm vụ như là đưa ra các nghị quyết mang tính chất bắt buộc đối với
các thành viên là biểu hiện cho việc sở hữu ý chí riêng biệt của các tổ chức quốc
tế8. Do đó, nó sẽ có tư cách pháp lý trong hệ thống pháp lý quốc tế.
Hai lý thuyết cơ bản về tư cách pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế, tuy khác nhau
về nội dung, nhưng thống nhất với nhau ở cùng một điểm, đó là các chỉ dấu, chứng
cứ chứng minh cho sự tồn tại của tư cách pháp lý của tổ chức quốc tế nào phải
được tìm thấy đầu tiên là trong hiệp định hình thành nên nó.
Điều này làm cho việc khẳng định tư cách pháp lý quốc tế của ASEAN trở nên khá
dễ dàng. Ngay tại Điều 3 của Hiến chương của tổ chức này đã khẳng định rằng
ASEAN là một tổ chức quốc tế có tư cách pháp lý rõ ràng. Điều khoản này cũng
chứng minh sự quyết tâm của các quốc gia thành viên công nhận tư cách pháp lý
của ASEAN. Ngoài ra, hiến chương còn cho phép ASEAN đưa ra các quyết định
lên các thành viên (thông qua Hội nghị cấp cao ASEAN (ASEAN Summit)) và các
cơ quan (trong đó có, Hội đồng điều phối ASEAN (ACC), Uỷ ban các đại diện
thường trực (CPR) hay Tổng thư ký ASEAN và Ban thư ký ASEAN) để đảm bảo
việc thi hành các quyết định trên. Quan trọng hơn nữa, theo Điều 41 của Hiến
chương, ASEAN có khả năng tham gia ký kết các hiệp ước quốc tế với các chủ thế
khác của luật quốc tế.
Như vậy, có thể khẳng định, ASEAN là chủ thể của luật quốc tế có tư cách pháp lý
rõ ràng trong hệ thống pháp luật quốc tế. Do đó, ASEAN sẽ có các quyền và nghĩa
vụ riêng biệt so với các quốc gia thành viên, có khả năng khởi kiện các chủ thể
khác và cũng có thể bị khởi kiện bởi chính các thành viên nếu thất bại trong việc
thực hiện các cam kết của mình.
4. Năng lực pháp lý của ASEAN
Có thể hiểu một cách đơn giản rằng năng lực pháp lý (legal powers) của một tổ
chức quốc tế là quyền lực hay quyền hạn (capacities/competences/ rights) để thực
hiện được các mục tiêu được đề ra. Các hành vi pháp lý này có thể là việc đưa ra
các nghị quyết kêu gọi các bên trong một tranh chấp quốc tế kiềm chế, tránh việc
sử dụng vũ lực hay đơn giản là quyết định ngân sách cho một cơ quan trong tổ chức
thực hiện hoạt động được giao. Một điều cần lưu ý ở đây là năng lực pháp lý này
chỉ phát sinh khi đã khẳng định được tư cách pháp lý của tổ chức quốc tế.

8
Reparation for Injuries suffered in the service of the United Nations, Advisory Opinion, [1949], ICJ Rep 1949.
9
Tương tự với việc xác định tư cách pháp lý của tổ chức quốc tế, việc chỉ ra các
năng lực pháp lý của các tổ chức quốc tế cũng gây ra nhiều tranh cãi không những
giữa các học giả mà còn trong các buổi tranh tụng trước toà án quốc tế. Tuy
nhiên, Ý kiến tư vấn của Toà án Công lý Quốc tế (ICJ) trong vụ việc nổi tiếng “Bồi
thường thiệt hại gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ của Liên hiệp quốc”9 liên quan
đến việc xác định năng lực pháp của tổ chức này đã tạo ra một nền tảng pháp lý khá
vững chắc cho việc xác định quyền hạn của tổ chức quốc tế.
Theo đó, ICJ cho rằng luật quốc tế quy định một tổ chức [quốc tế] phải được hiểu
là có các quyền năng pháp lý, tuy không được đề cập trực tiếp trong hiến chương,
nhưng được ban cho nó bởi vì điều này là rất cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm
vụ của nó”10. Đây cũng chính là nội dung của học thuyết về “năng lực ngầm hiểu”
(implied powers) của tổ chức quốc tế. Sau đó, trong vụ “Một số chi tiêu nhất định
của Liên hợp quốc”, ICJ giới hạn việc xác định các “năng lực ngầm hiểu” này phải
được gói gọn trong việc thực hiện các mục tiêu mà nó được giao phó11.
Như vậy, có thể hiểu rằng luật pháp quốc tế cho phép các tổ chức quốc tế có các
năng lực pháp lý cần thiết, dù được nêu trực tiếp hay ngầm hiểu trong hiến chương
của nó, để có thể thực hiện các sứ mệnh mà các chủ thể thành lập đã giao phó cho
nó. Đây có thể hiểu vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ tận tâm thực hiện các cam kết
quốc tế của các tổ chức quốc tế với tư cách là chủ thể của hệ thống pháp luật này.
Trở lại với vấn đề ASEAN, không khó để khẳng định rằng việc giữ gìn hoà bình và
an ninh khu vực là một trong những trọng tâm hàng đầu của tổ chức này. Điều này
được khẳng định đầu tiên trong lời nói đầu và Điều 1 khoản 1 của Hiến chương
ASEAN khi nói về mục tiêu của tổ chức. Theo đó, Hiến chương cũng giao cho
ASEAN các công cụ cần thiết để thực hiện mục tiêu này. Trong đó có chức năng
đưa ra các nghị quyết liên quan dưới nguyên tắc tư vấn và đồng thuận (Điều 20),
thành lập các cơ chế giải quyết tranh chấp (Điều 25), ký kết các hiệp ước với chủ
thể khác của luật quốc tế (Điều 41) hay mở rộng ra là việc áp dụng các biện pháp
hoà bình của Liên hợp quốc (Điều 28).
Như vậy, nếu có bất cứ các vấn đề gì gây ảnh hưởng sâu sắc đến hoà bình và an
ninh của khu vực và là mối bận tâm chung của các thành viên, (ví dụ như tranh

9
Reparation for Injuries suffered in the service of the United Nations, Advisory Opinion, [1949], ICJ Rep 1949.
10
Certain expenses of United Nations (Article 17, paragraph 2, of the Charter), advisory opinion, [1962], ICJ reports
151, trang 168.
11
Cedric Ryngaert,Ige F Dekker,Ramses A Wessel,Jan Wouters, Các phán quyết về luật các tổ chức quốc tế, NXB
Cambridge, p.67.
10
chấp Biển Đông hay khủng hoảng người tị nạn Rohingya) thì ASEAN, theo Hiến
chương của mình đã được trang bị các quyền năng pháp lý cần thiết, phải có nghĩa
vụ thực hiện các biện pháp cần thiết để giải quyết vấn đề trên. Đây là nghĩa vụ pháp
lý của ASEAN. Và cũng vì ASEAN một tổ chức quốc tế có tư cách pháp lý quốc
tế, nên việc thất bại trong việc thực hiện nghĩa vụ này sẽ dẫn đến các hệ quả pháp
lý cho tổ chức này, trong đó có các biện pháp tranh tụng tại Toà án quốc tế.

Tiểu kết 3:
Để được xem là một chủ thể của Luật quốc tế, thực thể phải có tư cách pháp lý và
quyền năng chủ thể. Trong đó, tư cách pháp lý được thể hiện qua việc có quyền và
nghĩa vụ theo luật quốc tế. Quyền năng chủ thể là khả năng xác lập, duy trì, bảo vệ
quyền và nghĩa vụ theo luật quốc tế. ASEAN là một tổ chức quốc tế liên chính phủ
của khu vực Đông Nam Á và là một chủ thể của luật quốc tế. Thông qua Hiến
chương được phê duyệt giữa các quốc gia thành viên, trong đó công nhận tư cách
pháp lý quốc tế của tổ chức này, tính chủ thể của ASEAN được khẳng định trong
hệ thống pháp luật quốc tế, phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của ASEAN, tách
biệt các quyền và nghĩa vụ đó với các quốc gia thành viên. Điều này là khẳng định
cho việc một tổ chức quốc tế liên chính phủ là một chủ thể của Luật quốc tế.

11
KẾT LUẬN

Nền móng của Luật quốc tế xuất hiện khi các quốc gia cổ đại đầu tiên muốn mở
rộng quan hệ ra khỏi biên giới của mình. Đến ngày nay, với xu thế toàn cầu hóa,
Luật quốc tế hiện đại là sự phản ánh các quan hệ quốc tế trong điều kiện hợp tác,
phát triển của cộng đồng thế giới đang có những thay đổi lớn về mọi phương diện,
cấp độ.
Luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của các
chủ thể quốc tế. Bên cạnh các quốc gia là những chủ thể truyền thống và phổ biến
của Luật quốc tế, các tổ chức quốc tế liên chính phủ cũng được thừa nhận là chủ
thể phái sinh của Luật quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh ngày nay, các tổ chức quốc
tế liên chính phủ xuất hiện ngày càng nhiều do sự chồng chéo và phụ thuộc lẫn
nhau về lợi ích giữa các quốc gia. Tuy nhiên, không phải tổ chức quốc tế nào cũng
được công nhận là chủ thể của luật quốc tế. Các thực thể không được xem là chủ
thể quốc tế nếu thực thể đó không được thành lập bởi các quốc gia, dựa trên cơ sở
một điều ước quốc tế và có tư cách pháp lý riêng biệt với các quốc gia thành viên.
Nói cách khác, để được xem là một chủ thể của Luật quốc tế, thực thể phải có tư
cách pháp lý và quyền năng chủ thể. Trong đó, tư cách pháp lý được thể hiện qua
việc có quyền và nghĩa vụ theo luật quốc tế. Quyền năng chủ thể là khả năng xác
lập, duy trì, bảo vệ quyền và nghĩa vụ theo luật quốc tế. Các tổ chức quốc tế liên
chính phủ được chia ra làm nhiều loại khác nhau theo các tiêu chí. Các thực thể này
khác nhau về loại hình tổ chức, vì thế nên quyền hạn và nghĩa vụ của các thực thể
cũng khác nhau (vì các tổ chức quốc tế có các hiến chương, quy chế,… không
giống nhau). Mặc dù vậy, nhìn chung, các tổ chức quốc tế liên chính phủ này có
bao gồm các quyền năng cơ bản và nghĩa vụ cơ bản khi là chủ thể của Luật quốc tế.
ASEAN là một trong nhiều tổ chức quốc tế liên chính phủ và là một chủ thể của
luật quốc tế. ASEAN được xem là một tổ chức quốc tế liên chính phủ do hội tụ đủ
các tiêu chí đã nêu trên. Và với Hiến chương đã được các quốc gia thành viên xét
duyệt, ASEAN có tư cách pháp lý rõ ràng trong hệ thống pháp luật quốc tế. Do đó,
ASEAN sẽ có các quyền và nghĩa vụ riêng biệt so với các quốc gia thành viên, có
khả năng khởi kiện và bị kiện bởi các chủ thể Luật quốc tế khác hoặc các quốc gia
thành viên. Hiến chương ASEAN cũng trang bị cho tổ chức này quyền năng pháp
lý cần thiết và nghĩa vụ để giải quyết các vấn đề gây ảnh hưởng sâu sắc đến hòa
bình và an ninh của khu vực. Vì thế, ASEAN là một minh chứng sống động chứng
minh rằng một tổ chức quốc tế liên chính phủ là một chủ thể của Luật quốc tế.
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Lê Mai Anh, Giáo trình Luật quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội,
NXB Công an Nhân dân, (2018).
2. Hiến chương của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.
3. Trần H.D. Minh, Định nghĩa và tư cách pháp lý của tổ chức quốc tế, Luật
pháp Quốc tế (2017).
4. Trần H.D. Minh, Trách nhiệm của ASEAN với các vấn đề an ninh trong khu
vực, Luật pháp Quốc tế (2019).
5. Seyester, Finn, Tư cách pháp lý khách quan của các quốc tế đa guốc gia:
năng lực của chúng có thật sự phụ thuộc vào các hiệp ước thành lập nên
chúng hay không? , NXB. Copenhagen, (1963).
6. Điều 2, Dự thảo về Trách nhiệm pháp lý của Tổ chức quốc tế, Uỷ ban pháp
luật quốc tế, Liên hiệp quốc, (2011)
7. Jan Klappers, An Introduction to International Institutional Law (CUP 2002)
8. Philippe Sands & Pierre Klein, Bowett’s Law of International
Institutions (6th ed., Sweet & Maxwell 2009).
9. Henry G Schermers & Niels M Blokker, International Institutional Law:
Unity within Diversity (5th ed., Martinus Nijhoff Publishers 2011). 
10.ILC, ‘Draft articles on the responsibility of international organizations with
commentaries’, Article 2 in ILC, Yearbook of the International Law
Commission 2011, vol. II (United Nations 2018).
11.Reparation for injuries suffered in the service of the United Nations, Ý kiến
tư vấn của Tòa ICJ (1949)
12. Certain expenses of United Nations (Article 17, paragraph 2, of the Charter),
advisory opinion, [1962], ỊC Reports.
13.Cedric Ryngaert,Ige F Dekker,Ramses A Wessel,Jan Wouters, Các phán
quyết về luật các tổ chức quốc tế, NXB Cambridge.

13

You might also like