1. Trình bày phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại sao trong nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam phải chú trọng nhận thức theo quan điểm khách quan, toàn diện và lịch sử cụ thể? 1. Phương pháp luận nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Dựa trên phương pháp luận khoa học marxist, đặc biệt là nắm vững chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét và nhận thức lịch sử một cách khách quan, trung thực và đúng quy luật. Cùng với chủ nghĩa Marx – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Tư tưởng HCM dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Tư tưởng HCM và tư duy, phong cách khoa học của Người là cơ sở và định hướng về phương pháp nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Trong nghiên cứu, học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam phải chú trọng nhận thức theo quan điểm khách quan, toàn diện và lịch sử cụ thể, vì: Quan điểm khách quan trong nghiên cứu, học tập môn Lịch sử ĐCSVN thể hiện: + Lịch sử là một hiện thực đã diễn ra trong quá khứ, tồn tại độc lập khách quan, là đối tượng nghiên cứu của sử học + Khoa học Lịch sử có khả năng nhận thức được lịch sử nhưng không phải là nhận thức trực quan, tuyệt đối mà là quá trình tiệm cận với lịch sử, chân lí trong sử học mang tính chất tương đối. + Nhà sử học, chủ thể của nhận thức lịch sử, luôn để lại dấu ấn chủ quan trong tất cả các khâu của hoạt động nhận thức. Nhà sử học luôn thuộc về một giai cấp nhất định và do đó luôn mang quan điểm giai cấp để khôi phục sự kiện và giải thích lịch sử. Trong thời hiện đại, nhà sử học dựa trên lập trường của giai cấp vô sản để lí giải lịch sử thì có khả năng thiết lập được sự phù hợp giữa cái chủ quan của người nghiên cứu với cái khách quan của hiện thực lịch sử. Lập trường giai cấp chính là tính đảng trong sử học marxist và ở đây tính đảng và tính khoa học có sự thống nhất. + Trong quá trình nghiên cứu, học tập Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, để đảm bảo tính khách quan, chúng ta cần dựa vào vào nguồn sử liệu về Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguồn sử liệu ấy cần được xử lí, xác minh một cách khoa học. Như vậy, quan điểm khách quan sẽ giúp nhà nghiên cứu, người học tập nhìn nhận các vấn đề thuộc về môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam một cách chân thực, chính xác. - Quan điểm toàn diện: Khoa học Lịch sử Đảng là “một hệ thống tri thức về quá trình hoạt động đa dạng và phong phú của Đảng trong mối quan hệ mật thiết với tiến trình lịch sử của dân tộc và thời đại”, nghiên cứu “tổ chức và hoạt động của Đảng và các phong trào cách mạng của quần chúng diễn ra dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Các tri thức của khoa học Lịch sử Đảng có mối quan hệ mật thiết, biện chứng với nhau, vì vậy, nhận thức toàn diện giúp nghiên cứu, người học nhìn nhận đối tượng một cách đầy đủ, khoa học và hiểu được bản chất của vấn đề. Quan điểm lịch sử cụ thể xem xét các sự kiện, hiện tượng lịch sử ở những thời điểm nhất định, cụ thể trong quá khứ. Các sự kiện, hiện tượng lịch sử đều xảy ra ở một thời gian và không gian cụ thể nào đó. Chúng ta có thể không hiểu được bản chất, thậm chí hiểu sai các sự kiện lịch sử nếu chúng ta không biết được thời điểm xuất hiện của chúng. Quan điểm này giúp nhà nghiên cứu, người học không hiện đại hoá lịch sử và hiểu chính xác hơn về lịch sử. 2. Trình bày chính sách cai trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam cuối TK XIX đầu TK XX và những tác động của nó đến xã hội Việt Nam lúc đó? 1. Chính sách cai trị của Pháp đối với Việt Nam cuối TK XIX − đầu TK XX Sau quá trình điều tra thám sát lâu dài, thâm nhập kiên trì của các giáo sĩ và thương nhân Pháp, ngày 01/9/1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại Đà Nẵng và từng bước thôn tính Việt Nam. Trước hành động xâm lược của Pháp, triều đình nhà Nguyễn từng bước thoả hiệp (Hiệp ước 1862, 1874, 1883) và đến ngày 06/6/1884 với Hiệp ước Patenotre đã đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp, Việt Nam trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thủ hung ác”. Đồng thời với việc dùng vũ lực đàn áp đẫm máu đối với các phong trào yêu nước của nhân dân VN, thực dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa, bên cạnh đó vẫn duy trì chính quyền phong kiến bản xứ làm tay sai. Chính sách cai trị của chính quyền thuộc địa thể hiện ở các phương diện sau: Về chính trị + Thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị” nhằm phá vỡ khối đoàn kết cộng đồng quốc gia dân tộc: chia lãnh thổ VN thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) với các chế độ chính trị khác nhau nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp (thành lập 17/10/1887 theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp) + Thực dân Pháp triệt để thực hiện chính sách “dùng người Việt trị người Việt”, ra đạo luật về tổ chức quân đội thuộc địa bao gồm vừa binh lính Pháp, vừa binh lính người bản xứ. Trực tiếp điều khiển quân đội ở Đông Dương là viên tổng chỉ huy người Pháp. Ngoài quân đội chính quy còn có đội lính khố xanh chuyên để đàn áp các cuộc khởi nghĩa, hoặc canh giữ các nhà tù, phục vụ ở các đạo quan binh. Ngoài ra, cả ba xứ còn có tổ chức đội thân binh dưới quyền của bọn Việt gian phản động làm nhiệm vụ đàn áp các cuộc nổi dậy của nhân dân. − Về kinh tế + Từ năm 1897, thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị và tiến hành khai thác thuộc địa. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất bắt đầu từ 1897 - 1914, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai bắt đầu từ 1919 - 1929. Chính quyền thuộc địa âm mưu biến Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung thành thị trường tiêu thụ hàng hoá ế thừa của “chính quốc”, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt của người bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khoá nặng nề. − Về văn hoá – xã hội Thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà tù nhiều hơn trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn hoá, duy trì tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong kiến và tạo nên nhiều tệ nạn xã hội mới, dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc thanh niên Việt Nam, ra sức tuyên truyền tư tưởng “khai hoá văn minh”… 2. Tác động của các chính sách cai trị của thực dân Pháp đến xã hội VN – Làm thay đổi tính chất xã hội Việt Nam: từ xã hội phong kiến sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến, đặc trưng là: đế quốc – phong kiến kết hợp với nhau để thống trị, bóc lột nhân dân. Đế quốc dựa vào phong kiến phản động để duy trì ách thống trị, phong kiến phản động dựa vào thế lực đế quốc để bóc lột nhân dân. – Làm phân hoá các giai cấp và xuất hiện các giai cấp, tầng lớp xã hội mới trong xã hội VN. Các giai cấp, tầng lớp này có địa vị kinh tế khác nhau và do đó cũng có thái độ chính trị khác nhau đối với vận mệnh của dân tộc. Giai cấp địa chủ bị phân hoá, khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Một bộ phận câu kết với thực dân Pháp và làm tay sai đắc lực cho Pháp trong việc ra sức đàn áp phong trào yêu nước và bóc lột nông dân (thường là đại địa chủ); một bộ phận khác (thường là trung và tiểu địa chủ) nêu cao tinh thần dân tộc khởi xướng và lãnh đạo các phong trào chống Pháp và bảo vệ chế độ phong kiến; một số trở thành lãnh đạo phong trào nông dân chống thực dân Pháp và phong kiến phản động; một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản. Giai cấp nông dân là thành phần đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam (khoảng hơn 90% dân số). Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, nông dân bị đế quốc, phong kiến và tư bản bóc lột nặng nề. Nông dân bị bần cùng hoá bởi chính sách chiếm đoạt ruộng đất để lập đồn điền của thực dân Pháp, bởi nạn sưu cao, thuế nặng của nhà nước phong kiến – thực dân, bởi địa tô và cho vay nặng lãi của địa chủ phong kiến. Xã họi tồn tại nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn nông dân – địa chủ phong kiến, mâu thuẫn nông dân – thực dân Pháp. Chịu áp bức bóc lột nặng nề, nông dân ở mọi nơi không ngừng vùng dậy chống lại ách thống trị của thực dân phong kiến. Đây là lực lượng hùng hậu, có tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất và khao khát giành lại ruộng đất cho dân cày, khi có lực lượng tiên phong lãnh đạo, giai cấp nông dân sẵn sàng vùng dậy làm cách mạng lật đổ thực dân phong kiến. Giai cấp công nhân ra đời từ trong quá trình thực dân Pháp thực hiện cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Ngoài những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân VN có những đặc điểm riêng: ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, kế thừa truyền thống yêu nước của dân tộc; bị ba tầng áp bức: đế quốc, phong kiến, tư bản; phần lớn xuất thân từ nông dân, là cơ sở khách quan, thuận lợi cho công nhân và nông dân liên minh chặt chẽ trong quá trình đấu tranh cách mạng. Do vậy, tuy lực lượng công nhân Việt Nam còn nhỏ bé, nhưng đã sớm vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời đại, nhanh chóng phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có năng lực lãnh đạo cách mạng. Giai cấp tư sản VN xuất hiện muộn hơn giai cấp công nhân. Một bộ phận gắn liền lợi ích với tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của chính quyền thực dân Pháp, trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Một bộ phận là giai cấp tư sản dân tộc, họ bị thực dân Pháp chèn ép, kìm hãm, bị lệ thuộc, yếu ớt về kinh tế. Vì vậy, phần lớn tư sản VN có tinh thần dân tộc nhưng không có khả năng tập hợp các giai tầng để tiến hành CM. Tầng lớp tiểu tư sản (tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên,...) bị đế quốc, tư bản chèn ép, khinh miệt, do đó có tinh thần dân tộc, yêu nước và rất nhạy cảm về chính trị và thời cuộc. Tuy nhiên, do địa vị kinh tế bấp bênh, thái độ hay dao động, thiếu kiên định, do đó họ không thể lãnh đạo cách mạng. Tầng lớp sĩ phu phong kiến bị phân hoá càng ngày càng sâu sắc. Một bộ phận vẫn giữ cốt cách phong kiến, một bộ phận chuyển sang tư tưởng tư sản hoặc tư tưởng vô sản. Một số người trong tầng lớp này khởi xướng các phong trào yêu nước có ảnh hưởng lớn. + Làm thay đổi mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: Ngoài mẫu thuẫn vốn có của xã hội Việt Nam trước đây là mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến, đến lúc này đã xuất hiện mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và chính quyền tay sai. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng trở nên gay gắt là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai. 3.Phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam? Vai trò của NAQ đối với sự thành lập ĐCSVN thể hiện ở các hoạt động quan trọng sau: * Hoàn cảnh: Cuối TK XIX – đầu TK XX, tiếp tục truyền thống yêu nước, bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân Pháp theo ngọn cờ phong kiến, ngọn cờ dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp. Tuy nhiên, các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản đều lần lượt thất bại. Yêu cầu đặt ra lúc này là phải có một tổ chức lãnh đạo với đường lối CM đúng đắn. * Sự lựa chọn con đường cứu nước, cứu dân của Nguyễn Ái Quốc. Sinh ra và lớn lên tại Nam Đàn – Nghệ An, vùng đất có truyền thống bất khuất, kiên cường chống áp bức bất công, trước cảnh nước mất, đồng bào bị đoạ đày đau khổ bởi chính sách thuộc địa của thực dân Pháp và chế độ phong kiến tay sai, Nguyễn Ái Quốc mang trong mình tinh thần yêu nước, thương dân sâu sắc. Ngày 05/6/1911, Nguyễn Ái Quốc đã vượt qua hạn chế của những sĩ phu yêu nước đương thời, quyết chí đi sang phương Tây tìm con đường cứu nước, cứu dân theo tư duy mới. Khi CMT10 Nga (1917) thành công, Người từ Anh trở lại Pháp và tham gia các hoạt động chính trị. Đầu năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Ngày 18/6/1919, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị Vecxai bản Yêu sách của nhân dân An Nam nhưng không được đáp ứng. Tuy nhiên sự kiện đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và NAQ càng hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân. Tháng 7/1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lenin đăng trên báo Nhân đạo. Sơ thảo chỉ rõ, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông có kẻ thù là chủ nghĩa tư bản phương Tây, do đó, về khách quan, nó là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, vì vậy độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Những luận điểm của V.I. Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lí luận của Lenin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12/1920). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III, tuyên bố thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”. * Quá trình tích cực chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức - Về tư tưởng, chính trị Sau khi xác định được con đường cách mạng đúng đắn, trở thành người cộng sản, NAQ tiếp tục khảo sát, tìm hiểu để hoàn thiện nhận thức về đường lối cách mạng vô sản, đồng thời tích cực truyền bá CN Marx – Lenin về VN nhằm chuẩn bị tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của chính đảng cộng sản ở VN. Vừa nghiên cứu lí luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, qua nhiều bài báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân,..., NAQ đã tích cực tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Marx – Lenin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Khi sang hoạt động ở Liên Xô tham dự và trình bày các tham luận tại đại hội của các tổ chức mang tính quốc tế: Đại hội Quốc tế nông dân, Quốc tế thanh niên, Quốc tế phụ nữ,... Người đã chỉ rõ sự cần thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, đồng thời tuyên truyền tư tưởng của Lenin soi sáng con đường cách mạng, con đường phát triển của cách mạng thuộc địa. Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản, Người đã trình bày bản báo cáo quan trọng về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Bản báo cáo đã làm sáng rõ và phát triển một số luận điểm của Lenin về bản chất của chủ nghĩa thực dân, về nhiệm vụ của các đảng cộng sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột và giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Năm 1925, cuốn sách Bản án chế độ thực dân Pháp được xuất bản lần đầu tiên ở Paris, đã tố cáo, kết tội chế độ bóc lột, cai trị của thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân các dân tộc bị áp bức nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng. Đây là sự chuẩn bị quan trọng về tư tưởng, lí luận cho quá trình thành lập Đảng. Đường lối cách mạng được phác thảo rõ nét nhất ở nội dung các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho Hội VN CM Thanh niên, được tập hợp, in trong cuốn Đường cách mệnh. Tác phẩm xác định rõ con đường, mục tiểu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của cách mạng Việt Nam, thể hiện tư tưởng nổi bật của vị lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin vào điều kiện Việt Nam. Trong đó, trước hết, Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Người xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính quốc” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa không phụ thuộc, thậm chí là có thể thành công trước, góp phần tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”. Đối với các dân tộc thuộc địa, Người chỉ rõ: ở nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây dựng khối liên minh công nông làm động lực cách mạng. Do vậy, Người xác định rằng, cách mạng là việc của toàn dân. Về đảng cộng sản, Người khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Phong trào “Vô sản hoá” do Kỳ bộ Bắc Kỳ góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, nhiệm vụ chính trị, rèn luyện cán bộ và phát triển tổ chức của công nhân. Về tổ chức: Tháng 11/1924, Người rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc) – nơi có rất đông người Việt Nam yêu nước hoạt động – để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập chính đảng marxist. Tháng 02/1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn. Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công bố chương trình, điều lệ của Hội, mục đích: để làm cách mạng dân tộc rồi sau đó làm cách mạng thế giới. Tổng bộ là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kì đại hội. Trụ sở đặt tại Quảng Châu. Hội xuất bản tờ báo Thanh niên tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội - truyên truyền chủ nghĩa Marx – Lenin và phương hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam. Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách, phái người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Sau khi được đào tạo, các hội viên được cử về nước xây dựng và phát triển phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản, nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan điểm lập trường của giai cấp công nhân là tổ chức tiền thân dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Marx – Lenin vào trong nước và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. Đó là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. * Chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Ái Quốc nhận được tin tình hình Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên “bị tan rã, những người cộng sản chia thành nhiều phái,...” khi đang hoạt động ở Xiêm (Thái Lan). Trước tình hình đó, Người đã rời Xiêm về Hồng Kông (Trung Quốc), chủ động “triệu tập các đại biểu của hai nhóm (Đông Dương và An Nam)” để tiến hành hợp nhất các tổ chức cộng sản. Hội nghị thành lập Đảng được tiến hành từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930 ở nhiều địa điểm khác nhau tại Hồng Kông (Trung Quốc). Thành phần dự Hội nghị gồm đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng, dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của NAQ, tổ chức hợp nhất 3 tổ chức CS, lấy tên là Đảng CS VN, thông qua Cương lĩnh chính trị và các văn kiện quan trọng do lãnh tụ NAQ soạn thảo: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng CSVN. Hội nghị xác định rõ tôn chỉ mục đích của Đảng: “Đảng CSVN tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc có giá trị như một Đại hội Đảng. Sau khi vạch rõ bản chất, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam, Người chỉ rõ sứ mệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam là “để lãnh đạo toàn thể anh chị em bị áp bức chúng ta làm cách mạng”. Như vậy, trước yêu cầu của lịch sử cách mạng VN cần phải thống nhất các tổ chức cộng sản trong nước, chấm dứt sự chia rẽ bất lợi cho cách mạng, với uy tín chính trị và phương thức hợp nhất phù hợp, NAQ đã kịp thời triệu tập và chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng sản. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất dù “vắn tắt” nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một trang sử mới. 4.Chứng minh: sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu khách quan? * Về mặt thực tiễn – Hoàn cảnh quốc tế + Cuối TK XIX, CN tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. + Thắng lợi của CMT10 Nga 1917 cùng với chủ nghĩa Mac – Lenin có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với các nước tư bản. Nó còn có tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh tự giải phóng khỏi ách thực dân. Đồng thời là minh chứng rõ ràng cho việc muốn giành thắng lợi, CM phải có một tổ chức đứng đầu để tập hợp lực lượng, phải có đường lối cách mạng đúng đắn. + Quốc tế Cộng sản, do Lenin đứng đầu, được thành lập tháng 3/1919, trở thành bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới. Quốc tế Cộng sản đã tiến hành nhiều hoạt động truyền bá tư tưởng cách mạng vô sản và thúc đẩy phong trào đấu tranh ở khu vực này đi theo khuynh hướng vô sản. Nó thúc đẩy phong trào công nhân và nhân dân thế giới, là động lực thúc đẩy sự ra đời nhiều đảng cộng sản ở các nước: Đảng Cộng sản Đức, (1918); Đảng Cộng sản Mỹ (1919); Đảng Cộng sản Pháp (1920),... – Tình hình cách mạng Việt Nam cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX + 1858, Pháp xâm lược Việt Nam, đến năm 1884, Pháp thống trị được hoàn toàn VN, VN trở thành thuộc địa của Pháp. + Cuối TK XIX – đầu TK XX, nhiều phong trào chống thực dân Pháp theo khuynh hướng khác nhau (phong kiến, dân chủ tư dản, tiểu tư sản) diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp nhưng đều thất bại. Phong trào yêu nước Việt Nam lâm vào khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước, thiếu một tổ chức đủ mạnh để tập hợp lực lượng, giáo dục quần chúng. – Thực tiễn cách mạng Việt Nam năm 1929 Cuối năm 1928, những hoạt động của Hội VN Cách mạng Thanh niên ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928, 1929 theo khuynh hướng cách mạng vô sản. Năm 1929, với sự ra đời của 3 tổ chức CS: Đông Dương Cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, An Nam Cộng sản đảng, đã khẳng định bước tiến về chất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở ba miền với đường lối giống nhau, đều ủng hộ và kêu gọi sự thừa nhận của Quốc tế CS, đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính, vì vậy đã dẫn đến việc phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức trên cả nước. Trước tình hình đó, NAQ đã trở về TQ tổ chức hội nghị hợp nhất 3 tổ chức CS ( Hội nghị thành lập Đảng) , từ ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930. Hội nghị thống nhất thành lập một tổ chức CS chung, lấy tên là Đảng CSVN, thông qua Cương lĩnh chính trị và các văn kiện quan trọng do lãnh tụ NAQ soạn thảo. ĐCSVN trở thành chính đảng duy nhất tổ chức lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống đế quốc theo khuynh hướng vô sản. * Về mặt lí luận Đảng Cộng sản VN ra đời theo đúng quy luật khách quan, là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Marx – Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở VN. 5.Tại sao sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 lại đánh dấu bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh? Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa quyết định trong sự phát triển của dân tộc VN, sự lãnh đạo của Đảng trở thành nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng VN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đảng ra đời đã đánh dấu bước phát triển về chất trong tư tưởng HCM. Vào những năm cuối TK XIX đầu TK XX, tiếp tục truyền thống yêu nước, bất khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân Pháp theo ngọn cờ phong kiến, dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam đã diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp. Dù với nhiều cách thức tiến hành khác nhau, song đều thất bại. Phong trào yêu nước Việt Nam lâm vào khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Nhiệm vụ cấp thiết đặt ra là cần phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc. Trước yêu cầu lịch sử đó, NAQ tiến hành hợp nhất 3 tổ chức CS thành một chính đảng duy nhất – Đảng CSVN. Đảng ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên do NAQ soạn thảo đã phản ánh tư tưởng HCM về đường lối CM VN hình thành về cơ bản. – Cương lĩnh xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. – Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam: + Về phương diện chính trị, Cương lĩnh xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. + Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng được tự do tổ chức; b) Nam nữ bình quyền,...; c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”. + Về phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lí; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo;... Về lực lượng cách mạng: Cương lĩnh xác định lực lượng cơ bản của cách mạng là công nhân, nông dân, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời Cương lĩnh chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, nhưng đồng thời “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”. Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc: Cương lĩnh khẳng định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng để giải phóng dân tộc, chứ không thể là con đường cải lương thoả hiệp. Về xác định lực lượng đồng minh quốc tế: Cương lĩnh phát triển quan điểm về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. - Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xác định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. + Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng với các ND chiến lược và sách lược vừa CM vừa khoa học đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội VN, phù hợp với xu hướng thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của CMVN. + Từ đây, thông qua đường lối của Đảng, tư tưởng HCM chính thức đã đi vào thực tiễn CMVN. Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực sự trở thành người lãnh đạo, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, từng bước đi lên, làm nên những kỳ tích, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đáp ứng khát vọng của nhân dân Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. 6. Tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) là bước ngoặt vĩ đại của lịch sử cách mạng Việt Nam? Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp công nhân, khẳng định sự lãnh đạo của giai cấp công nhân với đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản thế giới. Sự ra đời và lãnh đạo của Đảng đã trở thành nhân tố hàng đầu quyết định đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. 7.Phân tích nội dung, ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam? 1. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam Hai văn kiện Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã phản ánh những nội dung cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược cách mạng Việt Nam đó là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh chính trị là văn kiện cơ bản, xác định rõ mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ chiến lược, phương pháp hoạt động,.. của một chính đảng, hoặc một tổ chức chính trị trong một giai đoạn lịch sử nhất định. – Cương lĩnh xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. – Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam: + Về phương diện chính trị, Cương lĩnh xác định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. + Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ: “a) Dân chúng được tự do tổ chức; b) Nam nữ bình quyền,...; c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá”. + Về phương diện kinh tế, Cương lĩnh xác định: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lí; thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo;... Về lực lượng cách mạng: Cương lĩnh xác định lực lượng cơ bản của cách mạng là công nhân, nông dân, trong đó giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời Cương lĩnh chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng tiến bộ, yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai. Đảng “phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình”, nhưng đồng thời “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập”. Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc: Cương lĩnh khẳng định phải bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng để giải phóng dân tộc, chứ không thể là con đường cải lương thoả hiệp. Về xác định lực lượng đồng minh quốc tế: Cương lĩnh phát triển quan điểm về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. - Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Cương lĩnh xác định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng”. 2. Ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của ĐCSVN được hoạch định trên cơ sở lí luận khoa học vững chắc và trên cơ sở tổng kết, khảo nghiệm thực tiễn phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam đầu TK XX. – Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng mặc dù còn “vắn tắt” nhưng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ bản của cách mạng Việt Nam: chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt Nam lúc đó, đặc biệt là đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng xã hội đối với nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, các văn kiện đã xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra. – Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam. – Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là sản phẩm của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc trên lập trường khoa học của chủ nghĩa Marx – Lenin. 8.Anh (chị) hãy trình bày chủ trương chiến lược mới của Đảng giai đoạn 1939-1945? Vì sao trong giai đoạn ấy, Đảng ta phải thay đổi chiến lược? 1. Chủ trương chiến lược mới của Đảng giai đoạn 1939 – 1945 – Hoàn cảnh lịch sử + Tình hình thế giới: Ngày 01/9/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, trong đó Pháp là nước tham chiến. Chính phủ Pháp thi hành một loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa. Tháng 6/1940, Đức tấn công Pháp và Chính phủ Pháp đã đầu hàng. Ngày 22/6/1941, quân phát xít Đức tấn công Liên Xô. Từ khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu. + Tình hình trong nước: Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến rất phản động: thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào ĐCS Đông Dương. Thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh, bắt lính sang Pháp làm bia đỡ đạn. Lợi dụng sự thất thế của Pháp ở Đông Dương, tháng 9/1940, Nhật Bản cho quân xâm lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đông Dương cho Nhật. Chịu cảnh “một cổ hai tròng”, đời sống của nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp, Nhật và tay sai phản động ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng kịp thời rút vào hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, đồng thời vẫn chú trọng các đô thị. – Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được thể hiện qua các Hội nghị Trung ương + Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (11/1939) + Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (11/1940) + Hội nghị Trung ương lần thứ tám (5/1941) là Hội nghị quan trọng mang tính chất quyết định cho sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Trên cơ sở nhận định khả năng diễn biến của Chiến tranh thế giới thứ hai và căn cứ vào tình hình cụ thể ở trong nước, Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược như sau: Một là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo”, chia lại ruộng đất cho công bằng, giảm tô, giảm tức. Hai là, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương. Trung ương Đảng quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) thu hút mọi người dân yêu nước không phân biệt thành phần, lứa tuổi, đoàn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi. Ba là, quyết định phải xúc tiến ngay công tác khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng trong giai đoạn hiện tại. Để khởi nghĩa vũ trang đi đến thắng lợi cần phải phát triển lực lượng cách mạng, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng. Hội nghị cũng chú trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng. 2. Trong giai đoạn 1939 – 1945, Đảng ta “phải thay đổi chiến lược”, vì: Đảng chủ trương “phải thay đổi chiến lược” để hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tiễn của cách mạng trong và ngoài nước lúc bấy giờ. Thực tế đã chứng minh, với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu ấy. Đường lối đúng đắn giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc đã dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân. Chủ trương đúng đắn của Hội nghị thực sự là kim chỉ nam đối với hoạt động của Đảng cho tới thắng lợi cuối cùng năm 1945. 9. Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5/1941) đã hoàn chỉnh chủ trương chiến lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11/1939 như thế nào? Ý nghĩa của sự chuyển hướng đối với cách mạng Việt Nam? 1. Hoàn cảnh lịch sử – Thế giới: Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn ác liệt, Pháp là nước tham chiến. Chính phủ Pháp thi hành biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa. Tháng 6/1940, Đức tấn công Pháp và Pháp đã đầu hàng. Ngày 22/6/1941, Đức tấn công Liên Xô. Từ đây, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành cuộc chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu. - Trong nước: Ở Đông Dương, thực dân Pháp thi hành chính sách thời chiến phản động: thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” tăng cường vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh. Lợi dụng sự thất thế của Pháp ở Đông Dương, tháng 9/1940, Nhật Bản cho quân xâm lược Đông Dương, Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đông Dương cho Nhật. Chịu cảnh “một cổ hai tròng”, đời sống của nhân dân lâm vào cảnh ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với Pháp, Nhật và tay sai phản động ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Phong trào kháng Pháp đuổi Nhật trên đà phát triển mạnh mẽ. Ngày 28/01/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, Người đã tổ chức và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ tám họp từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941 tại Pác Bó, Cao Bằng. Hội nghị đã bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư. 2. Nội dung của Hội nghị – Hội nghị đã phân tích tình hình thế giới, Đông Dương và trong nước, nêu rõ những nội dung quan trọng: Thứ nhất, Đảng đặt cuộc vận động giải phóng dân tộc vào giai đoạn “trực tiếp”, nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu cần được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp và phát xít Nhật. Thứ hai, khẳng định dứt khoát chủ trương “phải thay đổi chiến lược” để hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tiễn của CM trong và ngoài nước lúc bấy giờ. Đảng khẳng định: “Chưa chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc” – đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Hội nghị quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức. Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thi hành chính sách “dân tộc tự quyết”. Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước Đông Dương một mặt trận riêng, thực hiện đoàn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù chung. Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc thông qua việc xây dựng Mặt trận Việt Minh. Các tổ chức quần chúng trong Mặt trận Việt Minh đều mang tên “cứu quốc”. Trong việc xây dựng các đoàn thể cứu quốc, “điều cốt yếu không phải những hội viên phải hiểu chủ nghĩa cộng sản, mà điều cốt yếu hơn hết là họ có tinh thần cứu quốc và muốn tranh đấu cứu quốc”. Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà theo tinh thần tân dân chủ - một hình thức nhà nước “của chung cả toàn thể dân tộc”. Thứ sáu, Hội nghị xác định chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân. Đường lối đấu tranh mà Đảng đưa ra đó là phải đi từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở từng địa phương, sau đó mới tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hội nghị còn xác định những điều kiện chủ quan, khách quan và dự đoán thời cơ tổng khởi nghĩa. 3. Ý nghĩa của sự chuyển hướng: Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương đã hoàn chỉnh chủ trương chiến lược của Đảng được đề ra từ Hội nghị tháng 11/1939, khắc phục triệt để những hạn chế của Luận cương chính trị tháng 10/1930, khẳng định sự đúng đắn của tư tưởng HCM về con đường giải phóng dân tộc. Hội nghị đã nêu ra những chính sách rất phù hợp nhằm giải quyết mục tiêu trước mắt là giành độc lập cho dân tộc. Từ đó, thấy được sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, nhạy bén của Đảng với những chủ trương sáng tạo như thành lập Mặt trận Việt Minh, thực hiện phương pháp cách mạng phù hợp từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa,... đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của xã hội Việt Nam cũng như đáp ứng được nguyện vọng của toàn thể nhân dân và các dân tộc Đông Dương Sự chuyển hướng này cũng đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về hoạch định đường lối chính trị, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ. Chính những đường lối, chủ trương đề ra trong hội nghị đã có vai trò quyết định quan trọng tới xu hướng vận động của phong trào CM, trực tiếp quyết định cho thắng lợi của CMT8. 10.Anh (chị) hiểu như thế nào về nhận định sau của Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”? Nhận định này được trích trong tác phẩm Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào đêm ngày 19/12/1946. Lời kêu gọi diễn ra trong bối cảnh sau khi ta kí kết với Pháp Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, Tạm ước 1946 để tranh thủ thời gian hòa bình để chuẩn bị những điều kiện cần thiết chống Pháp. Thế nhưng, thực dân Pháp liên tục tiến hành các hành động khiêu khích, trắng trợn vi phạm các Hiệp định đã ký với ta tháng 11/1946, chúng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn, chính thức gây ra cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn phá vào nhiều khu phố tàn sát dân thường... đưa quân chiếm một số trụ sở cách mạng. Đặc biệt, ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp đã liên tiếp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải phá bỏ công sự trong thành phố, giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng. Trước âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ độc lập, tự do, bảo vệ thành quả cách mạng. Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” chứa đựng những giá trị hết sức to lớn, thể hiện những tư tưởng lớn của dân tộc và thời đại, là tiếng gọi của non sông, là sự hiệu triệu của lãnh tụ đối với toàn thể nhân dân Việt Nam, đồng thời là ý chí, quyết tâm của cả dân tộc, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết đứng lên kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ thành quả cách mạng vừa giành được. Đó là tiếng nói của ý chí kiên cường, bất khuất, sẵn sàng “hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước” ; thể hiện quyết tâm cao độ của nhân dân ta - “nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” . Đồng thời, lời kêu gọi còn khẳng định niềm tin tất thắng của toàn thể nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh chính nghĩa chống lại kẻ địch hung bạo, dù phải trải qua nhiều gian lao, vất vả, khó khăn. Đáp Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh cả dân tộc Việt Nam đồng sức, đồng lòng vùng dậy đấu tranh bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, cuộc chiến đấu giữa vòng vây, nhưng vẫn giữ vững niềm tin chính nghĩa chiến thắng. 11. Phân tích ý nghĩa và kinh nghiệm lịch sử của Cách mạng Tháng Tám (1945)? 1. Ý nghĩa của Cách mạng tháng Tám 1945 Đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc trong hơn 80 năm, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế hàng nghìn năm và ách thống trị của phát xít Nhật. Khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước của dân, do dân và vì dân; nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á; nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ vận mệnh của mình và làm chủ chính quyền Nhà nước. Đảng Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật không hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền và hoạt động công khai. Nâng cao lòng tự hào dân tộc, để lại những bài học kinh nghiệm quý giá cho phong trào đấu tranh giành độc lập và chủ quyền. Đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kì sụp đổ và tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ. Chứng minh cho tính đúng đắn của chủ nghĩa Marx – Lenin và những sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. 2. Cách mạng tháng Tám được gọi là “một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”, vì: – Tính chất dân chủ mới của Cách mạng tháng Tám năm 1945 thể hiện ở những nội dung sau: Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của phe dân chủ chống phát xít. “Nó chống lại phát xít Nhật và bọn phong kiến phản động, tay sai của phát xít Nhật, và nó là một bộ phận của cuộc chiến đấu vĩ đại của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới chống phát xít xâm lược”. Thứ hai, cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực lượng đông đảo nhất trong dân tộc. Thứ ba, cuộc cách mạng thành công, chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam đã được thành lập, xoá bỏ chế độ quân chủ phong kiến, các tầng lớp nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ. Thứ tư, cuộc cách mạng đã hoàn thành một bước cơ bản sự nghiệp giải phóng con người Việt Nam khỏi mọi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và sự nỗ dịch về mặt tinh thần. – Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình thể hiện ở những nội dung sau: Thứ nhất, cách mạng đã tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân tộc. Thứ hai, lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc. Thứ ba, thành lập chính quyền nhà nước “của chung toàn dân tộc”. 12.Theo anh (chị), thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam có phải là sự may mắn? Vì sao? (NN Chủ quan và NN khách quan) Thực tế lịch sử đã chứng minh: Cách mạng tháng Tám 1945 không phải “sự ăn may” mà là sự kết quả đạt được sau những cố gắng nỗ lực cùng với sự nắm bắt thời cơ của Đảng. 1. Nguyên nhân khách quan - Kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít Nhật đã bị Liên Xô và quân Đồng minh đánh bại, quân đội Nhật ở Đông Dương hoang mang cực độ, mất hết tinh thần chiến đấu, Chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã. Trong khi đó, quân đồng minh chưa kịp kéo vào Đông Dương, các thế lực thù địch đang cấu xé nhau tranh giành quyền lực. Đảng Cộng sản Đông Dương đã chớp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa giành thắng lợi mau chóng, ít đổ máu. - Chiến thắng của Hồng quân Liên xô và quân Đồng minh đã cổ vũ tinh thần và niềm tin cho nhân dân ta. 2. Nguyên nhân chủ quan - Có sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối cách mạng, khoa học. Đảng ta có bề dày kinh nghiệm, đoàn kết, thống nhất trong Đảng và toàn dân tộc, nắm bắt đúng thời cơ, kiên quyết, khôn khéo. Đó là đường lối về giương cao ngọn cờ độc lập, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến; phát huy sức mạnh toàn dân tộc trên nền tảng công – nông trí; triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù; kiên quyết dùng bạo lực cách mạng để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân,... Đây cũng là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến thắng lợi của CMT8. - Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh hùng bất khuất, đoàn kết và thống nhất trong Mặt trận Việt Minh. Trong những ngày Tổng khởi nghĩa toàn Đảng, toàn dân nhất trí, đồng lòng, không sợ hy sinh, gian khổ, quyết tâm giành độc lâp, tự do. - Quần chúng có quá trình chuẩn bị đấu tranh lâu dài (15 năm) về đường lối, chủ trương, sách lược, chiến lược, được tập dượt qua ba cao trào cách mạng rộng lớn (Phong trào 1930-1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ - Tĩnh; Phong trào dân chủ 1936-1939; Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945), tạo thành lực lượng chính trị hùng hậu có lực lượng vũ trang làm nòng cốt thông qua các hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất qua từng thời kì ( Mặt trận dân tộc thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương - 1936, Mặt trận dân chủ Đông Dương – 1938, Mặt trận Việt Minh - 1941,…), chuẩn bị, xây dựng căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn-Võ Nhai, Cao Bằng, chuẩn bị bộ máy lãnh đoạ Tổng khởi nghĩa,…Với những điều kiện và sự chuẩn bị chu đáo, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, nhân dân ta đã giành được chính quyền trong cả nước mau lẹ, ít đổ máu 13.Phân tích nội dung đường lối kháng chiến toàn quốc của Đảng? * Hoàn cảnh lịch sử - Sự bội ước và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp: Đảng và Chính phủ nước VN Dân chủ Cộng hoà đã tỏ rõ thiện chí hoà bình thông qua việc kí kết hàng loạt các bản hiệp ước Sơ bộ, Tạm ước,..nhưng với dã tâm cướp nước ta một lần nữa nên thực dân Pháp đã đem quân ra Bắc, liên tục khiêu khích và lấn chiếm qua hành động đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, triển khai đánh chiếm Hà Nội, gây ra vụ thảm sát tại phố Yên Ninh, Hàng Bún. Hành động ngang nhiên của Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước một tình thế không thể nhân nhượng thêm được nữa, vì nếu tiếp tục nhân nhượng thì nhân dân ta sẽ mất độc lập hoàn toàn. Lịch sử dân tộc lúc này đặt ra yêu cầu mới: đứng lên kháng chiến trên toàn quốc để bảo vệ nền độc lập và thành quả của cuộc Cách mạng tháng Tám. – Những thành tựu bước đầu trong hơn một năm xây dựng dưới chế độ dân chủ cộng hoà: Mặc dù mới chỉ trong một thời gian ngắn (9/1945 – 12/1946) song dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, nhân dân ta đã tranh thủ thời gian hoà bình xây dựng chế độ mới trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Đó là cơ sở bước đầu để chúng ta có điều kiện chuẩn bị sẵn sàng cho toàn quốc kháng chiến. – Ngày 19/12/1946, vào lúc 20 giờ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã quyết định phát động cuộc kháng chiến trên quy mô cả nước. Ngay trong đêm ấy, Hồ Chủ tịch đã ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, trở thành tiếng gọi của non sông, đất nước, khơi dậy lòng tự hào dân tộc và truyền thống đấu tranh bất khuất “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh” của toàn dân tộc, là một bản cương lĩnh khái quát ở trình độ cao, chứa đựng tư tưởng, đường lối đấu tranh của toàn dân tộc Việt Nam. * Nội dung phương châm kháng chiến toàn quốc -“Toàn dân kháng chiến”: Chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc là ND cơ bản chỉ đạo toàn bộ đường lối quân sự của Đảng, nhằm đoàn kết toàn dân, động viên nhân lực, vật lực, tài lực của cả nước cho cuộc chiến tranh giành thắng lợi. – “Toàn diện kháng chiến”: Chiến tranh là cuộc đụng độ toàn diện giữa hai bên tham chiến. Địch đánh ta trên tất cả các mặt, do đó ta cũng phải đánh địch trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, trong đó quân sự là mặt trận hàng đầu. Bên cạnh đó, tiến hành kháng chiến toàn diện sẽ giúp cho việc huy động sức mạnh tổng hợp của các giai cấp, tầng lớp phù hợp với khả năng của mỗi người trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. – “Trường kì kháng chiến”: Do tương quan, so sánh lực lượng ban đầu giữa ta và Pháp chênh lệch nên ta phải chủ trương đánh lâu dài, vừa đánh vừa xây dựng và phát triển lực lượng, từng bước làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng. Tổng Bí thư Trường Chinh dự đoán cách mạng nước ta chia làm ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và tổng phản công. Ba giai đoạn có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trung tâm. − “Tự lực cánh sinh”: Trong bối cảnh các nước chưa công nhận nền độc lập của nước ta và để đánh lâu dài, ta phải tự lực cánh sinh, không ngừng phát huy sức mạnh của cả dân tộc đấu tranh vì nền độc lập, tự do, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế. 14.Phân tích nội dung Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam được Đại hội II của Đảng (1951) thông qua? Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II diễn ra tại Tuyên Quang, Chính cương của Đảng Lao động VN được Đại hội thông qua, gồm các nội dung quan trọng sau đây: – Xác định tính chất của xã hội Việt Nam lúc này có ba tính chất: “dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến”. Cuộc kháng chiến để giải quyết mâu thuẫn giữa chế độ dân chủ nhân dân với các thế lực phản động chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Đối tượng đấu tranh chính của Việt Nam hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp, can thiệp Mỹ và phong kiến phản động. – Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam được xác định là: “đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xoá bỏ những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”. Những nhiệm vụ đó có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng nhiệm vụ chính lúc này là tập trung đấu tranh chống xâm lược, hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc. - Động lực của CMVN được xác định gồm 4 giai cấp : giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, ngoài ra còn có những thân sĩ yêu nước và tiến bộ. Trong đó, lấy nền tảng là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và lao động trí óc; giai cấp công nhân đóng vai trò là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. - Chính cương cũng nêu ra triển vọng phát triển của CMVN nhất định sẽ tiến lên CNXH. CMVN là cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nên nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình lâu dài, có các giai đoạn phát triển tương ứng với những nhiệm vụ trung tâm, đó là: hoàn thành giải phóng dân tộc; xoá bỏ tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; tiến tới xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Nội dung của Chính cương còn nêu ra 15 chính sách lớn của Đảng trong giai đoạn hiện tại nhằm tiếp tục đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở kiến thiết quốc gia, thực hiện chế độ dân chủ nhân dân ở VN, làm tiền đề tiến lên CNXH. Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam là sự bổ sung, hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng, soi sáng nhiệm vụ trước mắt và về sau của cách mạng nước ta. Đó là đường lối hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng. Nhờ có sự bổ sung đúng đắn, kịp thời, cách mạng Việt Nam đã từng bước phát triển, giành thắng lợi to lớn trong những năm 1951 – 1954, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ và Hiệp định Gienève lịch sử. 15. Phân tích nguyên nhân thắng lợi và kinh nghiệm lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ 1954 đến 1975? 1. Nguyên nhân thắng lợi Khách quan: Thắng lợi của CMVN giai đoạn 1954 – 1975 là kết quả của tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân VN, Lào, Campuchia, của sự ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước XHCN. Sự ủng hộ nhiệt tình của phong trào công nhân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới cũng như nhân dân tiến bộ Mỹ. Chủ quan: Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan, trong đó phải kể đến một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, do có sự lãnh đạo đúng đắn của ĐCSC]VN, người đại biểu trung thành cho những lợi ích sống còn của cả dân tộc VN, một Đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo. Thứ hai, do sự chiến đấu đầy gian khổ hi sinh của nhân dân và quân đội cả nước, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu nước ở miền Nam ngày đêm đối mặt với quân thù. Thứ ba, do có vai trò của hậu phương lớn miền Bắc. Đó là kết quả của sự nghiệp CM XHCN ở miền Bắc, của đồng bào và chiến sĩ miền Bắc vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn, hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. 2. Kinh nghiệm lịch sử a) Đối với thực tiễn lãnh đạo CM XH của Đảng ở miền Bắc giai đoạn 1954 – 1975 Thứ nhất, nắm vững đặc điểm miền Bắc khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phát huy tư duy độc lập trong xác định đường lối chung của cách mạng cả nước và đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Thứ hai, xác định đúng nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng XHCN của miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chỉ đạo chuyển hướng xây dựng miền Bắc chính xác, kịp thời, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Thứ ba, có hình thức, bước đi, cách làm phù hợp với thực tế miền Bắc, kết hợp sự nỗ lực của miền Bắc với sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa. Thứ tư, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng, bảo vệ miền Bắc với chi viện tiền tuyến miền Nam, giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. b) Đối với kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ. Hai là, tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn, sáng tạo, thực hiện khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân, sử dụng phương pháp cách mạng tổng hợp,... Ba là, trên cơ sở sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của TW Đảng phải có công tác tổ chức chiến đấu giỏi của các cấp bộ Đảng và các cấp chi uỷ quân đội, thực hiện giành thắng lợi từng bước đến thắng lợi hoàn toàn. Bốn là, hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách ở miền Nam và tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế. 16.Dựa vào cơ sở nào mà Đảng ta đã đưa ra nhận định vào năm 1965: “So sánh lực lượng giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn”? Thứ nhất: Căn cứ vào thế và lực của ta Về phía địch: Cùng với thất bại của chiến lược chiến tranh đặc biệt và sự lung lay của chính quyền Sài Gòn, Mỹ rơi vào trạng thái hoang mang, lo sợ, bị động. Vì vậy, khi tiếp tục triển khai chiến lược quân sự mới ở VN, Mỹ cũng thực thi trong thế thua, thế thất bại, thế thua nên chứa đựng nhiều mâu thuẫn về chiến lược. Về phía ta: Đang dành thế chủ động tấn công trên mọi mặt trận, có hậu phương vững chắc chi viện đã đánh thắng chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ. Vì vậy tạo được niềm tin và sức mạnh tinh thần rất lớn quân và dân đồng lòng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Thứ hai: Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ vấp phải sự phản đối gay gắt của lực lượng tiến bộ trên thế giới Trước thất bại ở chiến trường miền Nam cùng với sự lung lay của chính quyền Sài Gòn, Mỹ trực tiếp đưa quân vào viện trợ miền Nam làm lộ rõ mưu đồ cướp nước. Lòng đoàn kết và tinh thần yêu nước đồng lòng kháng chiến của nhân dân VN buộc nhân loại tiến bộ lên tiếng ủng hộ và giúp đỡ cuộc đấu tranh của nhân dân VN làm cho nước Mỹ bị chia rẽ và phong trào phản đối chiến tranh ngày càng lan rộng. MỸ tăng cường quân viễn chinh cũng là hành động uy hiếp tinh thần muốn chứng tỏ sức mạnh quân sự nhưng thực chất lại bộc lộ sự nhu nhược, bất lực. Chúng tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa – nhân dân tiến bộ trên thế giới phản đối kịch liệt còn nhân dân ta tiến hành cược chiến tranh chính nghĩa chống lại đế quốc để giành độc lập nên được đồng tình và ủng hộ. Thứ ba: Trong quá trình chống chiến tranh đặc biệt, thế trận chiến tranh nhân dân đã được hình thành, cách mạng VN đã có sự phát triển về thế và lực. Cùng với lực lượng và điều kiện để đánh bại âm mưu lâu dài và trước mắt của địch. Tư tưởng HCM về chiến tranh nhân dân là sự vận dụng tổng hợp lịch sử đánh giặc của ta và sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac- Lenin vào tình hình thực tiễn. Chiến tranh nhân dân được thực hiện theo chủ trương: “Toàn dân, toàn diện, trường kì và tự lực cánh sinh”. HCM luôn nắm chắc tình hình trong nước và thế giới để có đánh giá đúng về lực lượng giữ ta và địch từ đó đưa ra chiến lược sách lược đúng đắn. Thứ tư: Mỹ đưa quân vào miền Nam nhằm cứu vãn sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn, cuộc chiến tranh này đựợc đề ra trong thế thua thế thất bại và bị động nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. Trong khi đó, cách mạng miền Nam giữ vững thế tiến công, sẽ đánh bại chiến tranh trong thời gian ngắn nhất. Mỹ vì thế không thể nào cứu vãn được tình thế nguy khốn, bế tắc ở miền Nam. Thứ năm: Đế quốc Mỹ bị ràng buộc trong khuân khổ chiến tranh thực dân kiểu mới, phải dựa vào bọn tay sai bản địa để thựuc hiện mục tiêu xâm lược nhưng bọn tay sai lại rất yếu. Phương thức xâm lược và chính sách thực dân kiểu mới của Mỹ quyện chặt với nhau và chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Thứ sáu: Đảng ta thực hiện phương châm đánh lâu dài tạo điều kiện xây dựng lực lượng và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, đế quốc Mỹ càng đánh càng suy giảm, chịu nhiều tổn thất. 17.Trình bày hoàn cảnh và nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước? a) Hoàn cảnh lịch sử - Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. Đây là một hình thức chiến tranh trong chiến lược “Phản ứng linh hoạt” của Mỹ, biểu hiện là đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước Đồng minh của Mỹ vào trực tiếp tham chiến, đóng vai trò chủ yếu trên chiến trường miền Nam; quân đội Sài Gòn đóng vai trò hỗ trợ quân Mỹ và thực hiện bình định. – Đồng thời, đế quốc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc Việt Nam nhằm làm suy yếu miền Bắc và ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mang miền Nam. Chiến tranh lan rộng ra cả nước đã đặt vận mệnh của dân tộc ta trước những thách thức nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 11 (3/1965) và Hội nghị lần thứ 12 (12/1965) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên phạm vi cả nước. b) Nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. - Nhận định tình hình và hạ quyết tâm chiến lược: Đảng ta nhận định cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mỹ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, được đề ra trong thế thua thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược; Mỹ không thể nào cứu vãn được tình thế nguy khốn, bế tắc của chúng ở miền Nam. Từ sự phân tích và nhận định trên, Đảng khẳng định chúng ta có đủ điều kiện và sức mạnh để đánh Mỹ và thắng Mỹ. - Về mục tiêu chiến lược: Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kì tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hoà bình, thống nhất nước nhà. - Về phương châm chiến lược: Để thực hiện mục tiêu chiến lược, cách mạng phải dựa trên phương châm đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh; cần phải cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam. – Về tư tưởng chỉ đạo đối với cách mạng từng miền: + Đối với miền Nam: Giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. Tiếp tục kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp công, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. + Đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh chống chiến tranh phá hoại của Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN, động viên sức người, sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng mở rộng “Chiến tranh cục bộ” ra cả nước. – Về mối quan hệ và nhiệm vụ cách mạng của hai miền: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Phải nắm vững mối quan hệ giữa nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và giải phóng miền Nam. 18.Anh (chị) hãy giải thích làm sáng tỏ nhận định sau của Đảng :“Thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước… đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc? Kết quả của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thể hiện một cách sinh động và khách quan ý nghĩa to lớn, vĩ đại của chiến thắng đối với Việt Nam và thế giới. * Đối với Việt Nam Thứ nhất, thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã kết thúc thắng lợi 21 năm chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược (tính từ năm 1954), 30 năm chiến tranh cách mạng (tính từ năm 1945), 117 năm chống đế quốc (tính từ năm 1858), quét sạch quân xâm lược, giành lại độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước. Thứ hai, thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã kết thúc thắng lợi cuộc CM dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc ta, kỉ nguyên cả nước hoà bình, thống nhất, cùng chung một nhiệm vụ chiến lược, đi lên chủ nghĩa xã hội. Thứ ba, thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã tăng thêm sức mạnh vật chất, tinh thần, thế và lực cho cách mạng và dân tộc Việt Nam, nâng cao uy tín của Đảng và dân tộc ta trên trường quốc tế. Thứ tư, thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã để lại niềm tự hào sâu sắc và những kinh nghiệm quý báu cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước lâu dài về sau. * Đối với quốc tế Thứ nhất, thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất của chủ nghĩa đế quốc vào chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới, bảo vệ được tiền đồn phía Đông Nam Á của chủ nghĩa xã hội, mở rộng địa bàn cho chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn nhất, dài ngày nhất của chủ nghĩa đế quốc kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, làm phá sản các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, gây tổn thất to lớn và tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ trước mắt và lâu dài. Thứ ba, thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam đã làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của chúng ở khu vực Đông Nam Á, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân mới, cổ vũ phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình thế giới, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá cho các nước thuộc địa. 19.Phân tích nguyên nhân thắng lợi và kinh nghiệm lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)? 1. Nguyên nhân thắng lợi Khách quan: Thắng lợi của CMVN giai đoạn 1954 – 1975 là kết quả của tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân VN, Lào, Campuchia, của sự ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước XHCN. Sự ủng hộ nhiệt tình của phong trào công nhân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới cũng như nhân dân tiến bộ Mỹ. Chủ quan: Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan, trong đó phải kể đến một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, do có sự lãnh đạo đúng đắn của ĐCSC]VN, người đại biểu trung thành cho những lợi ích sống còn của cả dân tộc VN, một Đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo. Thứ hai, do sự chiến đấu đầy gian khổ hi sinh của nhân dân và quân đội cả nước, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu nước ở miền Nam ngày đêm đối mặt với quân thù. Thứ ba, do có vai trò của hậu phương lớn miền Bắc. Đó là kết quả của sự nghiệp CM XHCN ở miền Bắc, của đồng bào và chiến sĩ miền Bắc vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn, hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. 2. Kinh nghiệm lịch sử a) Đối với thực tiễn lãnh đạo CM XH của Đảng ở miền Bắc giai đoạn 1954 – 1975 Thứ nhất, nắm vững đặc điểm miền Bắc khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phát huy tư duy độc lập trong xác định đường lối chung của cách mạng cả nước và đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Thứ hai, xác định đúng nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng XHCN của miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chỉ đạo chuyển hướng xây dựng miền Bắc chính xác, kịp thời, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Thứ ba, có hình thức, bước đi, cách làm phù hợp với thực tế miền Bắc, kết hợp sự nỗ lực của miền Bắc với sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa. Thứ tư, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng, bảo vệ miền Bắc với chi viện tiền tuyến miền Nam, giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. b) Đối với kinh nghiệm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nước đánh Mỹ. Hai là, tìm ra phương pháp đấu tranh đúng đắn, sáng tạo, thực hiện khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân, sử dụng phương pháp cách mạng tổng hợp,... Ba là, trên cơ sở sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của TW Đảng phải có công tác tổ chức chiến đấu giỏi của các cấp bộ Đảng và các cấp chi uỷ quân đội, thực hiện giành thắng lợi từng bước đến thắng lợi hoàn toàn. Bốn là, hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng cách ở miền Nam và tổ chức xây dựng lực lượng chiến đấu trong cả nước, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế. 20.Phân tích quá trình Đảng ta tìm tòi, khảo nghiệm con đường đổi mới đất nước từ sau Đại hội IV (1976) đến trước Đại hội V (1982)? * Hoàn cảnh lịch sử - Quốc tế: Vào những năm 70 của TK XX, CM khoa học kĩ thuật diễn ra với tốc độ nhanh hơn, tạo ra cả thời cơ và thách thức cho các quốc gia trên thế giới. Chủ nghĩa tư bản nhanh chóng nắm bắt được thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật, tạo ra những thay đổi lớn trong sản xuất và xã hội. Tuy nhiên, các nước thuộc CNXH lại khác, mặc dù cũng tạo ra nhiều thành tựu vĩ đại – điển hình là Liên Xô, nhưng lại chậm nắm bắt thành tựu khoa học – kĩ thuật tiên tiến, dẫn đến sự trì trệ trong sản xuất, kéo theo khủng hoảng về mặt kinh tế – xã hội. - Trong nước: Sau Đại hội IV, mô hình XHCN cũ bắt đầu bộc lộ những khuyết điểm trong tình hình mới, đặc biệt là vấn công nghiệp hoá, dẫn đến đời sống của nhân dân, nhất là những người lao động gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng ta từng bước đổi mới tư duy, khảo nghiệm, tìm tòi hướng đi phù hợp, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn. * Quá trình tìm tòi, khảo nghiệm con đường đổi mới đất nước từ năm 1976 đến năm 1982 – Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khoả IV (8/1979). Trước những đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IV (8/1979) đã bàn về những vấn đề kinh tế – xã hội cấp bách, đánh giá thực trạng kinh tế – xã hội của đất nước, tìm ra nguyên nhân của tình hình khó khăn về kinh tế là do việc xây dựng kế hoạch kinh tế thiếu căn cứ khoa học; chưa kết hợp chặt chẽ kế hoạch hoá với thị trường; chưa chú ý tăng trưởng kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể và chưa sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; …. Từ đó, Hội nghị đã quyết định những chủ trương và giải pháp mới phù hợp với yêu cầu cấp bách của đời sống kinh tế. Trước hết, Hội nghị xác định phải coi nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay là động viên cao độ và tổ chức toàn dân đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp nhằm đảm bảo lương thực, thực phẩm, cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp, tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu. Để thực hiện nhiệm vụ này, cần ban hành những chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp: ổn định mức nghĩa vụ lương thực trong 5 năm; khuyến khích việc tận dụng đất canh tác còn bỏ hoang hoá; bảo đảm phân phối theo lao động coi đó là nguyên tắc phân phối chủ yếu,…. Đối với các xí nghiệp, cần đảm bảo quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính. Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hội nghị cho rằng: phải tận dụng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập thể để phát triển sản xuất; phải tuỳ từng ngành nghề, từng mặt hàng và xuất phát từ hiệu quả kinh tế mà vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức sản xuất cho thích hợp. Đối với cá thể, công việc nào đang làm tốt, phục vụ tốt thì giúp cá thể tiếp tục làm. Đối với công nghiệp tư bản chủ nghĩa ở miền Nam, phải uốn nắn những nhận thức lệch lạc, thực hiện đúng chủ trương của Đảng về sự tồn tại các thành phần kinh tế để tận dụng mọi khả năng lao động, kĩ thuật, kinh nghiệm quản lí nhằm phát triển sản xuất,… Hội nghị Trung ương 6 là “làm cho sản xuất bung ra”, nghĩa là phải khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lí kinh tê, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ những rào cản để cho lực lượng sản xuất phát triển. Đó là bước đột phá đầu tiên trong quá trình tìm tòi, đổi mới của Đảng ta. Sau khi nghị quyết ra đời, bước đầu đã xuất hiện những điển hình về cách làm ăn mới phát huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện lại xuất hiện những khó khăn mới: sản xuất bung ra nhưng không đúng hướng; hàng lậu, hàng giả xuất hiện nhiều; giá cả ngày càng cao. Tháng 10/1979, Hội đồng Chính phủ công bố quyết định xoá bỏ những trạm kiểm soát ngăn sông cấm chợ. Người sản xuất có quyền đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường, không phải nộp thuế sau khi làm đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. Năm 1979, sản lượng lương thực tăng 1.718.500 tấn so với năm 1978. -Thông báo số 22 của Ban Bí thư (1980): Trước hiện tượng “khoán chui” ở một số các hợp tác xã nông nghiệp, ngày 22/6/1980, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông báo số 22, cho phép các địa phương mở rộng thí điểm khoán sản phẩm và khoán việc đối với cây lúa trong các hợp tác xã nông nghiệp. – Nghị quyết 26/NQ-TW (1980): Trên mặt trận phân phối lưu thông, 23/6/1980, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 26/NQ-TW về cải tiến công tác phân phối, lưu thông. Đây là lĩnh vực rất nóng bỏng trong đời sống kinh tế – xã hội ở nước ta thời đó. Nghị quyết đề ra mục tiêu, biện pháp, các bước cụ thể của việc cải tiến công tác phân phối, lưu thông. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, đi ngược lại với thực tiễn vì thế, tình hình phân phối lưu thông vẫn chưa có chuyển biến đáng kể. – Chỉ thị số 100/CT-TW (1981): 13/01/1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100/CT-TW về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp. Theo Chỉ thị, mỗi xã viên nhận mức khoán trên một diện tích nhất định và tự mình làm 3 khâu: cấy, chăm sóc và thu hoạch, còn những khâu khác do hợp tác xã đảm nhiệm. Nếu thu hoạch vượt mức khoán thì xã viên được hưởng. Chỉ thị ra đời được nhân dân cả nước hồ hởi đón nhận, bàn luận sôi nổi và được mở rộng nhanh chóng, không những đem lại hiệu quả kinh tế lớn mà còn mở ra triển vọng tốt đẹp cho việc cải tiến quản lí nông nghiệp. Với việc áp dụng các hình thức khoán mới, sản xuất nông nghiệp ở nước ta trong giai đoạn 1981 – 1985 đã có những bước tiến đáng kể. Tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp trong giai đoạn 1981 – 1985 là 4,9%; sản xuất lương thực có bước phát triển quan trọng, mức tăng bình quân hằng năm đã tăng lên 17 triệu tấn trong giai đoạn 1981 – 1985. - Quyết định số 25, 26-CP (1981): ngày 21/01/1981, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 25-CP về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Quyết định nêu rõ: Cần lấy kế hoạch làm chính, đồng thời sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá, thị trường, kinh doanh có lãi; cho phép các xí nghiệp quốc doanh có nhiều nguồn cân đối và kế hoạch ba phần. Những chủ trương chính sách nêu trên giúp cơ sở tự giải quyết một phần khó khăn, góp phần thực hiện kế hoạch Nhà nước. Cùng với những chủ trương đổi mới từng phần trên lĩnh kinh tế - xã hội, Đảng còn quan tâm kiện toàn bộ máy nhà nước và tăng cường công tác xây dựng Đảng. Những tìm tòi, đổi mới từng phần từ năm 1979 đến năm 1981 được xuất phát từ thực tế cuộc sống, dựa trên những sáng tạo của nhân dân, của địa phương. Đó là những giải pháp tình thế, hướng vào giải quyết những khó khăn trước mắt về đời sống kinh tế – xã hội. Những ý tưởng ban đầu của đổi mới tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng đó là bước mở đầu có ý nghĩa, đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới toàn diện sau này. 21.Anh (chị) hãy phân tích các bước đột phá trong tư duy đổi mới kinh tế của Đảng trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986)? - Hoàn cảnh đất nước sau năm 1975: đất nước đã hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đất nước có nhiều thuận lợi với sức mạnh tổng hợp, đồng thời cũng phải khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh. Điểm xuất phát của Việt Nam về kinh tế - xã hội còn ở trình độ thấp… - Nội dung các bước đột phá trong tư duy đổi mới kinh tế của Đảng trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986): Hội nghị Trung ương 6 (8/1979) được cho là bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế của Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản xuất bung ra… Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khoá V (6/1985) bàn về vấn đề giá, lương, tiền. Đây là bước đột phá thứ hai của Đảng trong quá trình tìm tòi, đổi mới. Hội nghị chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, xoá bỏ chế độ bao cấp bằng hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Thực chất, Hội nghị Trung ương lần thứ 8 đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế quốc dân. Đánh giá cuộc cải cách giá, lương, tiền của Nghị quyết Trung ương 8, Hội nghị lần thứ 9, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương cho rằng: Sự đúng đắn của chủ trương bù giá, thực hiện chính sách bán lẻ theo một giá là cần thiết, phù hợp với quy luật của sản xuất hàng hoá. Nhưng tổ chức thực hiện lại mắc những sai lầm như vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá, lương trong tình hình chưa chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt. Hậu quả để lại đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng sâu sắc hơn. Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khoá V (12/1985) bàn về kế hoạch Nhà nước năm 1986, nhận định: Sau các Nghị quyết 6, 7, 8 của Ban Chấp hành Trung ương, nền kinh tế đạt được một số tiến bộ. Song, vẫn đứng trước những khó khăn gay gắt. Hội nghị chỉ rõ nguyên nhân sâu xa của tình hình trên là do nhận thức của Đảng về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn chưa rõ. Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương khoá V (5/1986) đã phân tích những khuyết điểm, sai lầm trong việc chỉ đạo công tác giá, lương, tiền; khẳng định quyết tâm chiến trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh lược xoá bỏ xã hội chủ nghĩa. - Hội nghị Bộ Chính trị tháng 8/1986. Hội nghị đưa ra bản “Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế”. Đây là bước đột phá thủ ba, đồng thời cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới. Về cơ cấu sản xuất, Hội nghị chỉ ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng sản xuất trong 5 năm gần đây giậm chân tại chỗ, năng suất lao động giảm sút, chi phí sản xuất không ngừng tăng lên, tình hình kinh tế – xã hội ngày càng không ổn định - chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chủ trương quá lớn về quy mô, quá cao về nhịp độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuấ. Bởi vậy, cần tiến hành một cuộc điều chỉnh lớn về cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, việc phát triển công nghiệp nặng phải có lựa chọn cả về quy mô và nhịp độ, …Theo đó, cần tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện được ba chương trình quan trọng nhất về lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu. Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hội nghị cho rằng, do chưa nắm vững quy luật đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã phạm nhiều khuyết điểm trong cải tạo xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước cũng như từng vùng, từng lĩnh vực; phải nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần, tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động, phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; cải tạo xã hội chủ nghĩa không thể làm một lần hay trong một thời gian ngắn là xong. Về cơ chế quản lí kinh tế, Hội nghị cho rằng, bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, làm cho hai mặt ăn khớp với nhau tạo ra động lực mới thúc đẩy sản xuất phát triển. Hội nghị nêu ra những nội dung chủ yếu của cơ chế quản lí kinh doanh xã hội chủ nghĩa là: Đổi mới kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hoá – tiền tệ; làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; …. Những kết luận trên đây là kết quả tổng hợp của cả quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh giữa quan điểm mới và quan điểm cũ, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Những quan điểm mới được trình bày trong bản kết luận đã định hướng cho việc soạn thảo Báo cáo Chính trị để trình ra Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, thay cho bản Dự thảo Báo cáo chính trị được chuẩn bị trước đó, vì trong bản dự thảo ấy vẫn còn giữ lại nhiều quan điểm cũ không phù hợp với yêu cầu trước mắt là khắc phục khủng hoảng kinh tế – xã hội và đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. 22.Những bước đột phá trong tư duy đổi mới kinh tế của Đảng trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) có ý nghĩa gì đối với nước ta lúc bấy giờ? 1. Hoàn cảnh lịch sử, nội dung cơ bản, ý nghĩa Đại hội VI (1986) của Đảng – Hoàn cảnh lịch sử: + Từ giữa thập kỉ 80 thế kỉ XX, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật lần thứ hai, đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ, cải cách. + Khi đó, Việt Nam vẫn đang bị các đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận và vẫn ở tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội. Tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 1976 – 1980 chỉ đạt 6%. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép diễn ra khá phổ biến. + Đại hội VI họp tại Hà Nội (12/1986), thông qua các văn kiện chính trị quan trọng và bầu đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư Đảng. – Nội dung cơ bản: + Báo cáo chính trị của Đại hội đã chỉ ra thành công, hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân, bài học của Đảng và chủ trương đổi mới toàn diện công cuộc xây dựng đất nước. Đại hội đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, chỉ rõ sai lầm, khuyết điểm của Đảng về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Nguyên nhân sai lầm: bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan. Đó là tư tưởng tiểu tư sản, vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. + Đại hội rút ra bốn bài học quý: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Hai là, Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. + Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lí, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, … + Nhiệm vụ: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lí, trong đó đặc biệt chú trọng ba chương trình kinh tế lớn là lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hoá nội dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kì quá độ. + Các phương hướng: Bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học – kĩ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. +Đại hội đưa ra bốn nhóm chính sách xã hội là: kế hoạch hoá dân số, giải quyết việc làm cho người lao động; thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỉ cương trong lĩnh vực xã hội; chăm lo đáp ứng các nhu cầu giáo dục, văn hoá, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân; xây dựng chính sách bảo trợ xã hội. + Đề cao cảnh giác, tăng cường khả năng quốc phòng, an ninh, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc, kiên quyết đánh thắng chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch. + Nhiệm vụ đối ngoại góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thể giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. + Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; tăng cường hiệu lực quản lí của Nhà nước. + Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng: Đảng phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tư duy lí luận, nhận thức đúng về chủ nghĩa xã hội và đặc trưng, quy luật, hình thức, bước đi của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Đại hội VI của Đảng là Đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước ngoặt phát triển mới trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. 2. Ý nghĩa - ý nghĩa của những bước đột phá trong tư duy đổi mới kinh tế: + Góp phần từng bước ổn định tình hình kinh tế, xã hội + Phản ánh sự phát triển nhận thức từ quá trình khảo nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng lợi ích của nhân dân để hình thành đường lối đổi mới 23.Phân tích đặc trưng của CNXH ở nước ta thể hiện trong Cương lĩnh chính trị năm 1991? Cương lĩnh chỉ rõ đặc trưng của XHCN mà nhân dân ta xây dựng: - Do nhân dân lao động làm chủ. – Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. – Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. – Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. – Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. 24. Anh (chị) hãy trình bày nội dung cơ bản về những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam? 1. Những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng - Một là, thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Thắng lợi đó đã đánh đổ chế độ thuộc địa của thực dân Pháp và phát xít Nhật gần một thế kỉ, xoá bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm, giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc, xây dựng nền cộng hoà dân chủ, chế độ dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam, tiền đề để phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Một kỉ nguyên mới của lịch sử dân tộc được mở ra, nhân dân được tự do, được làm chủ đất nước, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc, thực hiện các quyền cơ bản của con người,... - Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của các cuộc kháng chiến trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự, độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính, vận dụng lí luận chủ nghĩa Marx - Lenin về chiến tranh cách mạng, giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, kế thừa truyền thống đánh giặc, giữ nước của dân tộc, Đảng đã phát triển phong phú các hình thức chiến tranh nhân dân, kết hợp kháng chiến với kiến quốc đã đưa kháng chiến đến thắng lợi với chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử và kí kết Hiệp định Genève. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng lãnh đạo đồng thời thực hiện hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cùng với đường lối cách mạng, Đảng phải phát triển sáng tạo về phương pháp cách mạng. Sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng: lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao. Kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy. Đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị. Đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận…. – Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quả độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp đổi mới là kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng CNXH ở miền Bắc khi còn chiến tranh và trong những năm đầu sau khi đất nước thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm sáng kiến của nhân dân, Đảng đã đề ra và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc phù hợp với thực tiễn VN và quốc tế. Đường lối đổi mới do Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) đề ra là bước đổi mới quan trọng về tư duy lí luận, nhận thức. Đường lối đổi mới cũng là kết quả của quá trình tổng kết, tìm tòi, khảo nghiệm thực tiễn, từng bước khắc phục lối tư duy chủ quan, duy ý chí, giáo điều, nóng vội và thấy rõ sự cần thiết phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đường lối đổi mới dựa trên cơ sở sáng kiến, nguyện vọng và lợi ích của các tầng lớp nhân dân và do đó trở thành yêu cầu khách quan, tất yếu của cuộc sống. Hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá, quản lí hành chính, tập trung, bao cấp, nền kinh tế hiện vật sang nền kinh tế hàng hoá, nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh – xã hội (1996), đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ra khỏi tình trạng của nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước có mức thu nhập trung bình, phấn đấu sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiệN, Chính trị, xã hội ổn định và hệ thống chính trị vững mạnh với vai trò của Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quốc phòng, an ninh được củng cố vững chắc, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Quan hệ đối ngoại mở rộng, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 188 nước trong tổng số 193 nước thành viên Liên hợp quốc, quan hệ đối tác chiến lược với 16 nước, tạo môi trường hoà bình, hợp tác, phát triển, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. 25.Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định với mục tiêu chiến lược: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội? Độc lập là tiền đề cơ sở để tiến lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, chủ nghĩa xã hội cũng là cơ sở cho một nền độc lập thật sự và lâu dài. Chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì cuộc sống của nhân dân mới được tự do, ấm no, hạnh phúc, đất nước mới giàu mạnh. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm”.