Professional Documents
Culture Documents
Bao Cao Tai Lieu
Bao Cao Tai Lieu
Bao Cao Tai Lieu
Tóm tắt: Việt Nam và Hàn Quốc cùng nằm trong một châu lục. Những biến
động xã hội của hai đất nước có nhiều nét tương đồng. Năm 1945 cả Việt
Nam và Hàn Quốc đều giành được độc lập và bước sang kỷ nguyên mới.
Văn học vì thế cũng có những biến động tương tự. Nửa đầu thế kỷ XX, hai
nền văn học bước vào thời kỳ hiện đại hóa, chấm dứt thời kì văn học trung
đại - văn học chữ Hán. Bài viết nhìn lại quá trình hiện đại hóa văn học của hai
nền văn học và nhìn sâu hơn vào 2 tác giả văn xuôi cụ thể - Hyun Jin Geon và
Nam Cao. Hai nhà văn có vị trí quan trọng và có những đóng góp to lớn cho
nền văn học hiện đại của hai quốc gia và là những nhà văn được chọn dạy
ở các cấp học trong chương trình giáo dục. Nghiên cứu hai nhà văn này còn
chỉ ra nét tương đồng của tư tưởng, quan niệm... trong sáng tác của họ và
thấy điểm thống nhất trong định hướng giáo dục của Việt Nam và Hàn Quốc.
Từ khóa: văn học Hàn Quốc, văn học Việt Nam, hiện đại hóa, văn học so
sánh, Hyun Jin Geon, Nam Cao.
A. Đặt vấn đề
Việt Nam và Hàn Quốc là hai quốc gia ở cùng châu lục, có chung người bạn
láng giềng là Trung Quốc và đều chịu ảnh hưởng nhiều từ văn hóa và văn học
Trung Quốc. Cùng có một bối cảnh lịch sử tương đồng nữa đó là những ảnh hưởng
từ văn học phương Tây khi Nhật trị Hàn Quốc và Pháp trị Việt Nam từ cuối thế kỉ
XIX đến nửa đầu thế kỉ XX. Với những tiếp xúc văn hóa Phương Tây trên nhiều
phương diện, nền văn học của hai quốc gia có những biến chuyển mạnh mẽ nhằm
thoát khỏi thi pháp trung đại, hướng tới hiện đại hóa văn học. Quá trình hiện đại
hóa văn học diễn ra trong nhiều năm với những đóng góp lớn lao của những người
mở đường, đặt bản lề quan trọng cho một nền văn học mới, hiện đại.
Hyun Jin Geon (1900 - 1943) là nhà văn lớn, một trong những cây bút tiên
phong, đặt nền móng cho thể loại truyện ngắn hiện đại, một trong những người
mở đường và dẫn dắt khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa, mở đường cho quá trình
hiện đại hóa văn học ở Hàn Quốc. Hyun Jin Geon là tác giả được chọn dạy ở trong
chương trình giáo dục Ngữ văn Hàn Quốc bậc học cấp 2 và cấp 3 với những tác
phẩm: Ngày may mắn, Người vợ nghèo, Quê hương. Bậc đại học, Huyn Jin Geon
là tác giả tiêu biểu trong học phần Chủ nghĩa hiện thực và văn học nửa đầu thế kỉ
XX. Năm 2013, sách giáo khoa mới của Hàn Quốc chọn dạy tác phẩm Quê hương
của ông trong chương trình cấp 3.
Nam Cao (1915 - 1954) là nhà văn lớn, là một trong ba phong cách truyện
ngắn hiện đại tiêu biểu Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, là nhà văn tiêu biểu cho văn
học theo khuynh hướng hiện thực, có vai trò hoàn thiện quá trình hiện đại hóa nền
văn học Việt Nam. Nam Cao là tác giả được chọn dạy trong chương trình giáo dục
Ngữ văn Việt Nam ở các bậc học. Cấp 2 và cấp 3 chọn dạy các tác phẩm: Lão Hạc,
Đời thừa, Chí Phèo. Bậc đại học, Nam Cao là tác giả tiêu biểu trong học phần Văn
học Việt Nam từ 1900 - 1945, cho khuynh hướng văn học hiện thực. Trong chương
trình sách giáo khoa mới đang biên soạn, Nam Cao là tác giả có định hướng được
chọn giảng dạy trong nhà trường.
Bài viết nhìn lại quá trình hiện đại hóa văn học của hai nền văn học và nhìn
sâu hơn vào 2 tác giả văn xuôi cụ thể. Hyun Jin Geon và Nam Cao là hai nhà văn
có vị trí quan trọng và có những đóng góp lớn đối với nền văn học hiện đại của hai
quốc gia, những nhà văn được chọn dạy ở các cấp học trong chương trình giáo dục.
Nghiên cứu hai nhà văn này còn chỉ ra nét tương đồng của tư tưởng, quan niệm...
trong sáng tác của hai nhà văn lớn, tiêu biểu, vừa để thấy điểm thống nhất trong
định hướng giáo dục của Việt Nam và Hàn Quốc.
B. Nội dung
1. Đời sống văn học và quá trình hiện đại hóa văn xuôi nửa đầu thế kỉ XX
1.1. Văn học Hàn Quốc
Có thể nói những năm đầu thế kỉ XX là giai đoạn đầy biến động trong lịch sử
xã hội Hàn Quốc. Thời kỳ này, về chính trị, Hàn Quốc chịu ách đô hộ của thực dân
Nhật, xã hội hỗn loạn do sự xung đột văn hóa giữa lối sống phong kiến của chế độ
HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC - BƯỚC NGOẶT QUAN TRỌNG CỦA VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC... 187
cũ và ý thức tiếp nhận nền văn minh phương Tây mới mẻ, hiện đại. Trong lịch sử
văn học Hàn Quốc, tiểu thuyết (văn xuôi) là thể loại phù hợp và thể hiện đầy đủ
những biến động của xã hội Hàn Quốc. Tiểu thuyết mới vừa đóng vai trò là cầu nối
giữa tiểu thuyết cổ đại và tiểu thuyết hiện đại, vừa chứa đựng tư tưởng xã hội thời
kì khai hóa nhiễu loạn và dự đoán về tương lai, nói cách khác trong tiểu thuyết mới,
có cả đặc tính, chức năng của tiểu thuyết cổ đại và tiểu thuyết hiện đại. Và thời kì
trọng tâm của nó là vào những năm 1900 - 1910 với các tác phẩm Máu và nước mắt
của Lee In Jik và Vô cảm của Lee Kwang Soo.
Đặc trưng của tiểu thuyết mới là bắt đầu nhận thức về tính hư cấu của tiểu
thuyết và đề cập đến những vấn đề hiện thực, khác xa với tiểu thuyết cổ đại. Do đó
tiểu thuyết mới bắt đầu truyền tải những thông điệp có ý nghĩa qua miêu tả hoàn
cảnh và tâm lí nhân vật. Tuy nhiên, nó vẫn còn mang tính chất của tiểu thuyết cổ
đại nên nếu xét trên phương diện văn phong hay chủ đề thì vẫn chưa hoàn toàn
thoát khỏi lối văn cũ. Các tác giả tiêu biểu trong thời kỳ này là Lee In Jik, Lee
Hae Jo và Choi Chan Sik. Ngoài ra, thời kì này cũng thịnh hành các tiểu thuyết dịch
từ tiểu thuyết của Nhật. Một trong những người tiên phong mở đầu cho tư tưởng
hiện thực của tiểu thuyết Hàn Quốc chính là tác giả Lee Kwang Soo. Truyện dài
Vô cảm của ông được đánh giá là một tác phẩm để đời của văn xuôi hiện đại Hàn
Quốc. Trước tiên, nếu xét về phương diện nhận thức, thì tác phẩm đã làm nổi bật
lên cái tôi của các nhân vật. Bên cạnh đó các câu văn được viết theo lối văn xuôi
và đề cao tính hiện thực của thông tin. Trong tiểu thuyết mới, những miêu tả tinh
tế thông qua lời thoại đã phát triển một cách vượt bậc và việc đưa không gian, thời
gian cụ thể cũng làm cảm giác chân thực tăng lên bội phần. Vào những năm 1910,
tác phẩm này được biết đến như một “điểm khởi đầu” trong lịch sử văn xuôi Hàn
Quốc. Tinh thần nổi trội của thời kì này chính là tư tưởng khai sáng và khai hóa.
Do đó, chủ đề của tiểu thuyết mới là theo đuổi sự khai hóa văn minh và Vô cảm
của Lee Kwang Soo là tác phẩm đã tái hiện một cách rất chân thực tinh thần mưu
cầu sự khai hóa này.1
Những năm 1920 được biết đến với cái tên “thời đại bần cùng hóa”. Vì Hàn
Quốc đang đối mặt với nguy cơ mất nước, bị Nhật thâu tóm quyền lực, nên các
tác giả cùng với mộng tưởng khai sáng tiến bộ chẳng thể nào tránh khỏi hoàn cảnh
cùng cực, nghèo khổ. Thời kì này, cái đói khát và sự thống khổ tràn ngập trong
sáng tác văn học. Các tác giả tiêu biểu là Kim Dong In, Yeom Sang Seob, Hyun
Jin Geon và Na Do Hyang. Hyun Jin Geon cho thấy khuynh hướng chủ nghĩa hiện
thực phê phán thông qua một loạt các tác phẩm viết về cuộc sống nghèo khổ như
Vợ nghèo, Một ngày may mắn và Quê hương. Hyun Jin Geon lấy nhận thức về
1 Kim Seon Hak. Luận cương văn học, tài liệu văn học, 2012.
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
188 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL
cái nghèo làm nền tảng để tập trung làm bật lên mối tương quan giữa cá nhân với
xã hội hơn là mâu thuẫn giữa người với người. Tác giả Na Do Hyang với Cối xay
nước cũng quan tâm tới cuộc sống đói nghèo nhưng chưa khắc họa rõ nét về nhận
thức hiện thực như trong các tác phẩm của Hyun Jin Geon. Và KAPE, Cái chết của
Park Dol, “Ngọn lửa hông” của Choi Seo Hae, khắc họa sâu đậm sự tuyệt vọng,
bế tắc của cuộc sống nghèo đói. Dù trong hoàn cảnh như vậy nhưng những năm
1920 cũng là thời kì hoạt động sáng tác diễn ra sôi nổi trong lịch sử văn học Hàn
Quốc. Thêm vào đó, sự du nhập của những khuynh hướng văn học từ phương Tây
vào Hàn Quốc thông qua Nhật cũng làm đời sống văn học Hàn Quốc sôi động hơn.
Và Hyun Jin Geon được đánh giá là người mở đường cho thể loại truyện ngắn Hàn
Quốc hiện đại với lối viết mỉa mai châm biếm, nhà văn đã đề cập đến thế tiến thoái
lưỡng nan giữa cá nhân và xã hội một cách tinh tế, sâu sắc.
Những năm 1920 vừa là điểm khởi đầu vững chắc cho văn xuôi hiện đại Hàn
Quốc đồng thời cũng được gọi là thời kì đặc trưng của văn xuôi hiện đại. Những
sáng tác thời kì này đều thể hiện sự u ám, trầm uất và khuynh hướng văn học
phương Tây được du nhập lúc bấy giờ, nên có thể nói nó mang đến một diện mạo
mới, gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình sáng tác văn xuôi sau này.1
Những năm 30, văn xuôi chủ yếu tập trung vào sự phân chia thành thị và nông
thôn, một số về đề tài lịch sử. Thời kỳ này xuất hiện nhiều các tác phẩm văn xuôi
tâm lý, tác phẩm của các nữ văn sĩ và bên cạnh đó cũng bắt đầu xuất hiện những tác
phẩm ủng hộ Đế Quốc Nhật do sự đàn áp mạnh mẽ về văn hóa. Có những tác phẩm
sử dụng lối viết trào phúng để tố cáo xã hội thời bấy giờ như Tầng lớp trí thức và
bánh xèo, Nước đục, hay những tác phẩm của Yu Chingo nói về cuộc sống thành
thị của thực dân như Thầy Kim và giáo sư T, Nữ thợ dệt. Lee Hyo Seok với Cái
đèn đỏ bị đánh vỡ đã nêu những mâu thuẫn giữa giai cấp thượng lưu và dân nghèo
thành thị. Còn Park Tae Won với tác phẩm Khung cảnh bờ mương đã cho thấy sự
quan sát tỉ mỉ và tinh tế về cuộc sống đầy bất lực và mang bệnh của tầng lớp trí
thức… Ngoài ra còn có những sáng tác về đề tài nông thôn của các tác giả như Lee
Kwang Soo, Sim Hoon Hye, Lee Moo Young, Park Young Jun, Lee Tae Jun, Kim
Yu Jeong, Kim Jeong Han… Thời kỳ này có sự gia tăng số lượng văn học nữ giới
với các tác giả tiêu biểu có Park Hwa Sung, Kang Kyeong Ae, Baek Shin Ae, Choi
Jeong Hee. Từ giữa những năm 30 các sáng tác đi sâu vào khắc họa con người, đời
sống tinh thần của con người.
Trước khi giải phóng (1945) không khí của văn học Hàn Quốc ảm đạm vì
phải chịu sự đàn áp, cưỡng chế vô cùng mạnh mẽ của Nhật thông qua chính sách
thực dân hóa, hạn chế ngôn ngữ báo chí, dùng theo tên Nhật Bản. Và kết quả là
1 Kim Seon-Yong. Khái quát văn học, Tổ chức thi thời đại, 2014.
HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC - BƯỚC NGOẶT QUAN TRỌNG CỦA VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC... 189
phân chia thành người khuất phục trước Nhật, bán nước và người từ bỏ cuộc sống
giàu sang, không chịu khuất phục, ngoài ra một số nhà văn khác cũng phải chịu sự
khốn khổ khi đứng giữa ngã ba đường của sự tuyệt vọng, cạn kiệt sức lực. Những
tác giả tiêu biểu của thời kỳ này gồm có Hwang Soon Won, Choi Myong Ik, Jeong
Bi Seok, Kim Sa Ryang, Choi In Ok, Kwak Ha Shin, Choi tae Woong, Im Ok In...
Các tác giả tiêu biểu tạo nên hình thức và ý nghĩa của truyện ngắn Hàn Quốc
bắt đầu từ năm 1920 là Kim Dong In, Yeom Sang Seob và Hyun Jin Geon. Kim
Dong In đã phát triển quan điểm, nội dung tư tưởng qua cái nhìn của nhân vật ở
ngôi thứ nhất “tôi”, Yeom Sang Seob thì lại miêu tả nội tâm nhân vật một cách rõ
nét thông qua lối viết tự bộc bạch, còn Hyun Jin Geon lại dùng chính những trải
nghiệm trên cuộc sống đời thực mà ông đang sống để mà quan sát, suy ngẫm về
một xã hội cận đại mà những người dân bị đè xuống tận đáy cùng.
1.2. Văn học Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Bọn
chúng đã thực hiện những chính sách và thủ đoạn đàn áp, thống trị thâm độc, dã
man làm cho xã hội Việt Nam nổi lên hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa dân
tộc với thực dân Pháp, mâu thuẫn giữa quần chúng nhân dân với giai cấp địa chủ
phong kiến.
Sau hai cuộc khai thác thuộc địa, xã hội Việt Nam có những biến đổi sâu sắc
theo hướng hiện đại. Đô thị phát triển, xuất hiện lớp công chúng văn học mới (tầng
lớp tư sản, tiểu tư sản, thợ thuyền và dân nghèo thành thị), sự du nhập của văn hoá
phương Tây, báo chí và các nhà xuất bản phát triển mạnh... đã thúc đẩy văn học phải
đổi mới theo hướng hiện đại hoá trên mọi phương diện về quan niệm thẩm mĩ, về hệ
thống thi pháp (tính quy phạm, hệ thống ước lệ tượng trưng, tính chất sùng cổ, phi
ngã... đã bị phá bỏ). Các thể loại văn học phát triển mạnh và phong phú (thơ, tiểu
thuyết, truyện ngắn, kịch, phóng sự, phê bình văn học...). Chữ quốc ngữ được sử
dụng rộng rãi và thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm. Các nhà văn sáng tác mang tính
chuyên nghiệp hơn... Vào thời kì này, do đặc thù xã hội, văn học cũng có sự phân
biệt về hệ ý thức (ý thức hệ tư sản và ý thức hệ vô sản). Sự khác nhau giữa hệ ý thức
đã làm nảy sinh các dòng văn học khác nhau. Tuy nhiên, các bộ phận văn học khác
nhau lại có ảnh hưởng qua lại, làm cho bức tranh của nền văn học Việt Nam thêm
phong phú, đa dạng.
Văn học giai đoạn này đã có sự thức tỉnh của ý thức cá nhân. Cái tôi cá nhân
xuất hiện có ảnh hưởng lớn đến cảm quan sáng tác của người nghệ sĩ. Nó xuất hiện
trước hết ở lớp trí thức Tây học, đây là tầng lớp vừa sử dụng chữ quốc ngữ vừa sử
dụng tiếng Pháp và thường xuyên tiếp xúc với văn hoá phương Tây. Những tác giả
tiêu biểu ở giai đoạn đầu có thể kể đến là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Hoàng Ngọc
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
190 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL
Phách... Đến những năm ba mươi của thế kỉ XX, cái tôi thực sự được khẳng định như
một xu thế tất yếu, trở thành khuynh hướng vận động chung của cả nền văn học. Sự
khao khát sống và sống trong cái tôi cảm xúc chân thật của mình đã làm cho con người
của thời đại này cảm thấy rõ sự gò bó của lễ giáo phong kiến. Không phải ngẫu nhiên
mà khi các nhà văn Tự lực văn đoàn phất lá cờ chống lễ giáo phong kiến, các nhà Thơ
Mới mãnh liệt bày tỏ tình cảm, hy vọng và cả những buồn đau trong sâu thẳm tâm
hồn, lập tức được công chúng nồng nhiệt đón nhận
Những nhà văn hiện thực như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất
Tố, Nguyên Hồng,... qua những sáng tác của mình đã phơi bày sự bất công của
xã hội, đấu tranh để đòi quyền sống cho những con người khốn khổ, tủi nhục nhất,
những con người “bé nhỏ”, “dưới đáy” của xã hội. Vấn đề mà các tác giả hiện thực
này chú ý là vấn đề giai cấp, vấn đề xã hội. Trong số những cây bút hiện thực ấy,
Nam Cao là nhà văn thức tỉnh sâu sắc về ý thức cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa
và khát vọng sống xứng đáng với danh hiệu cao quý của con người. Ở Nam Cao,
ý thức cá nhân gắn với đời sống và ý thức xã hội, là sự hoà hợp giữa con người cá
nhân và con người xã hội. Chứng kiến con người vật vã trước nỗi khổ áo cơm, Nam
Cao nhận thức sâu sắc rằng: “Chừng nào người còn phải giật của người từng miếng
ăn thì mới có ăn, chừng nào một số người còn phải giẫm lên đầu những người kia
để nhô lên, thì loài người còn phải xấu xa, bỉ ổi, tàn nhẫn và ích kỷ. Chất độc ở
ngay trong sự sống” (Sống mòn). Ý thức cá nhân ở Nam Cao gắn liền với nỗi đau
của nhà văn trước thực tế cuộc sống, trước kiếp làm người trong xã hội thực dân.
Hơn thế, nó còn “biểu hiện trình độ tự giác của con người cá thể về sự tồn tại có ý
nghĩa của mình trong đời sống và thái độ khẳng định ý nghĩa ấy”1. Cái tôi ấy của
Nam Cao đã hoá thân vào những nhân vật trí thức như Điền (Giăng sáng), Hộ (Đời
thừa), Thứ (Sống mòn)... đến những nhân vật nông dân, những kẻ khốn cùng như
Lão Hạc (Lão Hạc), Chí Phèo (Chí Phèo),... qua đó thể hiện tư tưởng nhân văn
sâu sắc và mới mẻ của ông trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với cộng đồng, với
xã hội và nhân loại.
Công cuộc hiện đại hoá văn học thể hiện trước nhất ở phương diện hình thức
nghệ thuật. Hiện đại hoá văn học được bắt đầu bằng sự hình thành của nền văn xuôi
quốc ngữ. Đầu thế kỉ XX, việc sử dụng chữ quốc ngữ để sáng tác vẫn còn rất khiêm
tốn. Người ta vẫn sử dụng chữ Hán và chữ Nôm là chính. Nhưng văn học Hán Nôm
không phải là văn học đại chúng, công chúng hầu hết rất ít người sử dụng được chữ
Hán - Nôm. Hiện đại hoá văn học buộc phải tính đến vấn đề chữ viết. Chữ quốc
ngữ là loại chữ dễ sử dụng, ngôn ngữ viết dựa trên ngôn ngữ nói, ngôn ngữ đời
sống nên nó phong phú, gần gũi với mọi tầng lớp trong xã hội. Chữ quốc ngữ được
1 Nguyễn Đăng Mạnh (1991), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của các nhà văn, NXB Giáo
dục Việt Nam. Trang 43.
HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC - BƯỚC NGOẶT QUAN TRỌNG CỦA VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC... 191
sử dụng rộng rãi sẽ tạo nên một lớp công chúng mới đông đảo, nó sẽ thúc đẩy nền
văn xuôi Việt Nam phát triển. Cùng với việc truyền bá rộng rãi chữ quốc ngữ là
sự xuất hiện của báo chí và dịch thuật. Báo chí là nơi giới thiệu nhiều thể loại văn
học mới, giới thiệu những sáng tác bằng chữ quốc ngữ, giúp người đọc làm quen
với cách viết hiện đại, buộc phải loại trừ lối văn biền ngẫu, rườm rà... Ở Việt Nam,
ngôn ngữ báo chí được coi như những bước đi ban đầu cho ngôn ngữ văn xuôi hiện
đại. Từ báo chí, dịch thuật đến sáng tác là con đường hình thành và phát triển nền
văn xuôi quốc ngữ Việt Nam.
Từ đầu thế kỉ XX đến năm 1920 đã có một số sáng tác viết bằng văn xuôi quốc
ngữ như : Chuyến đi Bắc kì năm Ất Hợi (1876), Chuyện đời xưa (1986) của Trương
Vĩnh Ký; Thầy Lazazo Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản... nhưng những tác
phẩm này chưa có được sự bứt phá rõ rệt trong cách tân nghệ thuật vì phần lớn tác
giả chặng đường này vốn xuất thân Nho học, họ chưa dễ dàng thoát khỏi những
ràng buộc của thi pháp văn học thời kì trung đại.
Những năm 20 của thế kỉ XX, văn xuôi quốc ngữ đạt nhiều thành tựu đáng ghi
nhận. Nhiều nhà văn viết tiểu thuyết xuất hiện, đặc biệt ở miền Nam Việt Nam có Hồ
Biểu Chánh (Chúa Tàu Kim Qui - 1922, Cay đắng mùi đời - 1922, Cha con nghĩa
nặng - 1929...), Phú Đức (Châu về Hiệp Phố - 1926, Lửa lòng - 1929), Bửu Đình
(Nghĩa tình khẳng khái - 1923...)... ở miền Bắc Việt Nam có Đặng Trần Phất (Cành
lê điểm tuyết - 1921, Cuộc tang thương -1923), Hoàng ngọc Phách (Tố Tâm -1925),
Tản Đà (Giấc mộng lớn - 1929), Trọng Khiêm (Kim Anh lệ sử - 1925), Nguyễn
Trọng Thuật (Quả dưa đỏ -1925)... Về truyện ngắn, chặng đường này ở ngoài Bắc
nổi trội hơn cả là tác phẩm của Phạm Duy Tốn (Sống chết mặc bay, 1918) và Nguyễn
Bá Học (Câu chuyện một tối tân hôn, 1921). Đây cũng là chặng đường mà các nhà
văn nỗ lực trong việc hoàn thiện câu văn xuôi quốc ngữ. Tuy nhiên, dấu ấn của thi
pháp trung đại vẫn còn khá sâu đậm. Ba mươi năm đầu thế kỉ được coi như giai
đoạn giao thời giữa văn học trung đại và văn học hiện đại.
Từ những năm ba mươi của thế kỉ XX đến năm 1945, văn xuôi quốc ngữ đã có
những biến chuyển sâu sắc. Trên văn đàn xuất hiện một loạt tên tuổi làm nên đỉnh
cao về truyện ngắn như: Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nguyễn
Tuân, Nam Cao, Tô Hoài, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Bùi Hiển, Kim Lân,... Sáng tác
của những nhà văn tài năng này không còn dấu ấn của thi pháp trung đại. Tiểu thuyết
được hiện đại hoá dưới ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây, không chỉ thay đổi
căn bản đề tài cũ mà còn sử dụng kiểu kết cấu mở, kết cấu bỏ ngỏ, ngôn ngữ đa thanh,
dân chủ, gắn với ngôn ngữ đời sống, trần thuật linh hoạt, nhiều điểm nhìn... Trong
công cuộc này, phải kể đến đóng góp của các cây bút trong nhóm Tự lực văn đoàn
với câu văn trong sáng, giản dị, chuẩn mực. Lối “văn Tầu” và “văn Tây” đều bị nhóm
Tự lực chế giễu (Nhất Linh có bài Hai cái thái cực in trên báo Phong Hoá 3/1933).
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
192 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL
Từ chủ trương viết theo lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, có tính cách An Nam,
văn xuôi Tự lực văn đoàn đã làm một cuộc cách tân, bứt phá ngoạn mục. Sự mới mẻ,
giản dị, tinh tế trong các trang văn của những bậc “trí thức”ấy đã mang lại những giá
trị đáng kể cho công cuộc hiện đại hoá văn học dân tộc. Nhưng nó cũng sớm trở nên
kiểu cách, sáo mòn trước lối viết linh hoạt, giàu sức sống của Nguyễn Công Hoan,
Vũ Trọng Phụng; lối viết uyển chuyển, tinh tế nhưng cũng rất chân thực của Thạch
Lam, Nguyễn Tuân, Tô Hoài; lối viết đa dạng, vừa góc cạnh, gân guốc, vừa tinh tế
của Nam Cao.
Suốt gần nửa thế kỉ, văn xuôi quốc ngữ Việt Nam đã đạt được những thành tựu
lớn lao trong quá trình hiện đại hoá nền văn học dân tộc. Công cuộc hiện đại hoá
được tiến hành dần từng bước, với sự đóng góp của nhiều tác giả trên nhiều lĩnh
vực. Là người kết thúc một trào lưu văn học, cũng là người đi sau cùng trong công
cuộc hiện đại hoá văn học, Nam Cao vừa kế thừa, vừa phát huy cá tính sáng tạo của
mình và đã là một trong số nhà văn quan trọng kết thúc vẻ vang và hoàn thiện công
việc hiện đại hoá văn học nước nhà.
1 Kim Dong-Sik, Con đường dẫn đến bộ mặt của Joseon, NXB Văn học và Tri thức, p.358
HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC - BƯỚC NGOẶT QUAN TRỌNG CỦA VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC... 193
Sáng tác của Hyun Jin Geon miêu tả về cuộc sống của tầng lớp dân nghèo
trong xã hội thực dân. Trong sáng tác của mình, ông đã chia thế giới ra thành hai
nửa, một nửa thế giới được nhìn bằng con mắt của người tri thức, một nửa còn lại
được nhìn bằng con mắt của người dân nghèo, từ đó ông cho chúng ta những cảm
giác chân thật về tác phẩm, về những mâu thuẫn, đối nghịch nằm trong nó. Cái tên
thân mật “người tri thức” để gọi một tầng lớp khác biệt với những tầng lớp khác
trong xã hội, thế nhưng cái tên ấy lại không cho ta thấy được những diện mạo tích
cực của bản thân nó, ngược lại, tác giả cho ta thấy được cả tính tính cực, tính tiêu
cực gọi chung là tính hai mặt của tầng lớp tri thức cũ.
Hyun Jin Geon là tác giả sáng tác theo phong cách hiện thực phê phán với
lối viết mỉa mai châm biếm. Mặc dù thuật ngữ “Hiện thực phê phán” (realism) đã
xuất hiện và đứng vững trên văn đàn Hàn Quốc từ lâu nhưng phải cho đến thời kì
của Hyun Jin Geon thì sức sống của Chủ nghĩa hiện thực trong văn học cận đại
mới phát huy được sức mạnh thật sự. Hyun Jin Geon vừa khắc họa một cách nổi
bật hiện thực của xã hội đương thời đồng thời cũng mang những nét đặc sắc trong
văn hóa với những tình cảm sâu sắc của cá nhân thông qua những hiện thực lịch sử
thời đại và những trải nghiệp trực tiếp của chính ông. Thông qua lối viết mỉa mai,
Huyn Jin Geon đã viết bằng cái nhìn khách quan của mình dưới góc nhìn từ xa so
với sự việc. Tuy tác phẩm đầu tay của ông Hy sinh hóa (1920) vấp phải những lời
phê bình gay gắt nhưng sau đó với những tác phẩm như Vợ nghèo (1921), Xã hội
xúi giục uống rượu (1921), Một ngày may mắn (1924)... ông đã không ngừng phát
triển kĩ thuật trần thuật và đồng thời cũng truyền tải đến độc giả những câu chuyện
về một thế giới thực và khắc họa được bối cảnh thực tế của Hàn Quốc thời kì thực
dân qua cái nhìn khách qua.
Huyn Jin Geon được đánh giá là một trong những tác giả kiến lập hình thức
truyện ngắn.1 Các tác phẩm của Huyn Jin Geon đều có đặc trưng chung là theo chủ
nghĩa tả thực. Ông chú trọng những câu chuyện xung quanh mình và hiện thực
cuộc sống thông qua những trải nghiệm. Nhân vật xuất hiện trong tác phẩm của
Hyun Jin Geon luôn nỗ lực để vượt qua những khó khăn tưởng chừng như không
thể vượt qua được trong cuộc sống. Dù có thất bại, họ vẫn luôn quyết tâm khắc
phục gian khổ. Bởi vậy, Hyun Jin Geon trong văn đàn đương đại, luôn được đánh
giá như một nhân tài lạ thường mà phi thường trong nghệ thuật và là một trong
những nhà văn thể hiện cái nhìn đa chiều về hiện thực cuộc sống, tác động tới độc
giả bằng giá trị nhân văn, tỉnh táo, khách quan mà vẫn lay động thức nhận hết sức
sâu sắc. Vì thế sáng tác của Hyun Jin Geon không chỉ được giới nghiên cứu quan
tâm mà còn rất có giá trị trong giáo dục thế hệ trẻ.
1 Nhiều tác giả (1998), Nam Cao về tác gia và tác phẩm, Bích Thu biên soạn và tuyển chọn, NXB
Giáo dục Việt Nam. Trang 61.
HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC - BƯỚC NGOẶT QUAN TRỌNG CỦA VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC... 195
Trong toàn bộ sáng tác của Nam Cao, dù viết về người nông dân hay người
trí thức, mỗi trang văn của ông đều tha thiết tình yêu và khẳng định những giá trị
tốt đẹp của con người. “Phải cố tìm mà hiểu”, phải xem xét đằng sau cái biểu hiện
dù là điên khùng, lưu manh (như Chí Phèo), dù bề ngoài có vẻ gàn dở, lẩm cẩm
(như Lão Hạc), dù là so đo, tính toán (như Thứ, San, Oanh...) họ vẫn là con người
và còn có những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện, chân chính mà chỉ có con người
mới có. Suy tư, dằn vặt, trăn trở về cuộc sống, về kiếp người, những trang viết của
Nam Cao thường đạt tới một tầm khái quát nhân sinh to lớn nên đề tài dù hẹp mà
tư tưởng thì rộng lớn, sâu sắc.
Kỵ nhất cái lối viết văn “thấy người ăn khoai cũng vác mai đi đào”, Nam Cao
tự mình tìm cho mình một lối đi riêng, không màng đến “thị hiếu tầm thường của
độc giả”, không bị “rợp bóng” bởi các cây đại thụ đàn anh. Những cạnh tài của ông
đã đem đến cho văn chương một lối văn mới, sâu xa, chua chát và tàn nhẫn, thứ
tàn nhẫn của con người biết tin ở tài mình, ở thiên chức của mình”1. Điều đó cũng
được hình thành từ khát vọng khẳng định mình của Nam Cao. Khát vọng ấy được
nhà văn gửi gắm qua lời tuyên ngôn của Hộ (Đời thừa): “Văn chương không cần
đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ
dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi,
và sáng tạo những gì chưa có...”.
Nam Cao luôn thể hiện một khả năng sắc bén trong việc nắm bắt, khám phá
những tầng sâu của cuộc sống, của con người, đồng thời thể hiện những cảm xúc,
suy nghĩ chân thực của nhà văn về cuộc sống và con người. Với cảm hứng phân
tích và lí giải hiện thực, “khám phá con người trong con người”, khi viết về người
trí thức như trong “Đời thừa”, “Sống mòn” hay người nông dân như trong “Lão
Hạc”, “Chí Phèo” … Nam Cao đều có cái nhìn đa chiều, thấy cả “rồng phượng
lẫn rắn rết” trong mỗi con người, làm thức tỉnh những giá trị cao đẹp của con
người và dành sự cảm thông thương xót, cơ hội sửa sai cho mỗi tội lỗi… Với sự
da diết và sâu sắc, với cá tính sáng tạo và lòng nhân ái và cả sự tự trọng của con
người đời thường và người nghệ sĩ Nam Cao, sáng tác của nhà văn luôn để lại sự
lay động, thức tỉnh và trân trọng đến người nghiên cứu, người đọc và thế hệ trẻ.
C. Kết luận
Văn chương ngày càng đổi mới theo hướng hiện đại nhằm bắt kịp xu thế thời
đại và những diễn biến phức tạp của cuộc sống. Cuộc sống đa chiều đòi hỏi văn
học phải mang tính đối thoại, không thể sử dụng cái nhìn đơn nhất, lời văn đơn
1 Nhiều tác giả (1998), Nam Cao về tác gia và tác phẩm, Bích Thu biên soạn và tuyển chọn, NXB
Giáo dục Việt Nam. Trang 493.
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
196 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL
giọng đối với thế giới và con người. Thay đổi thi pháp sáng tác, quan niệm về văn
chương là nhu cầu tất yếu của mỗi nền văn học. Những bước đi đầu tiên của những
người góp phần làm thay đổi diện mạo nền văn học luôn luôn đầy thách thức, đòi
hỏi cái nhìn khách quan, thấu đáo, sâu sắc và bản lĩnh với một trái tim nồng ấm có
khả năng làm lay động tâm thức mọi thế hệ. Nam Cao và Hyun Jin Geon tuy ở hai
đất nước khác nhau nhưng tài năng và tâm huyết của họ đã gặp một bối cảnh xã
hội giống nhau khiến cho ngòi bút họ tỏa sáng, trở thành những trụ cột quan trọng
của nền văn học mới ở hai quốc gia. Sáng tác của họ không nằm lại ở giá trị đương
thời mà còn có giá trị nhân sinh sâu sắc. Và họ đã trở thành những tác gia có sức
lan tỏa, có tầm giáo dục cho mọi thế hệ. Sáng tác của họ không chỉ là kết tinh của
nỗ lực sáng tạo và những gì tha thiết nhất trong tâm thức đối với dân tộc mà còn là
tài sản vô giá ghi nhận bước trưởng thành, tính chất hiện đại của văn xuôi sau chưa
nhiều ngày rời bỏ thi pháp trung đại.
Việc trân trọng những nhà văn có tầm và có tâm, đưa sáng tác của họ vào
chương trình giáo dục các cấp cho thấy điểm tương đồng trong định hướng giáo
dục của hai quốc gia Việt Nam và Hàn Quốc. Trong cuộc sống ngày hôm nay,
chúng ta cần hướng tới và mong muốn thế hệ trẻ có được sự nhận thức đúng đắn về
xã hội, ý thức dân tộc và giá trị làm người, cũng như cần giáo dục thế hệ trẻ phải
có sự nỗ lực và bản lĩnh sáng tạo không ngừng. Sáng tác của hai nhà văn Hyun Jin
Geo và Nam Cao có thể đáp ứng được định hướng đó.
Abstract: Korea and Vietnam lie on the same continent. Both countries also
have a lot of similarities in social changes. In 1945, Korea and Vietnam gained
independence, and by entering a new age, both literatures experienced a
similar shift. In the first half of the 20th century, both countries’ literary worlds
entered the modern age as the medieval literature (Chinese letter literature)
came to an end. This thesis illuminates the modernizing the process of both
countries’ literary worlds and thoroughly examines the authors Hyun Jin
Geon and Nam Cao. Hyun Jin Geon and Nam Cao contributed greatly to both
countries’ literature and took an important position, and have been selected
by both countries’ education curriculum. Studying both of these authors can
not only reveal the similarities between the pure and clear ideology and
perspective in their creative activity but also reveal the similarities in both
countries’ intention of education.
1 University of Education;
Email: lehaianhsphn@gmail.com.
2 Ha Noi University.