Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 24

b) Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị

trường

Để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kỹ thuật hiện nay,
việc trang bị công nghệ hiện đại cho các ngành kinh tế là rất quan trọng, nó phải liên
quan đến quá trình hiện đại hóa cả về phần cứng kỹ thuật và phần mềm.
Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, cuộc cách
mạng khoa học và kỹ thuật thứ nhất bùng nổ vào cuối những năm 1830 và diễn ra đầu
tiên ở Anh, với nội dung chủ yếu là chuyển lao động thủ công sang lao động cơ khí.
Một cuộc cách mạng kỹ thuật khác diễn ra vào khoảng thế kỷ 20, được gọi là cuộc
cách mạng công nghệ hiện đại.
Cả hai cuộc cách mạng khoa học và công nghệ thế giới đều đóng vai trò quan
trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở mọi quốc gia, nhất là các nền
kinh tế kém phát triển. Nó tạo ra một nền tảng vững chắc cho cơ sở hạ tầng, là quá
trình hiện thực hóa các thành tựu khoa học, hay nói cách khác là tạo ra những tư liệu
sản xuất, những nhà máy, sân đình, sân bãi hiện đại, phù hợp với điều kiện và đặc thù
của mỗi quốc gia. hạ tầng khá mạnh.
Cơ sở hạ tầng kiểm soát tất cả các giai đoạn phát triển kinh tế. Dựa trên kinh
nghiệm của các quốc gia thành công trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong
những năm gần đây, chúng tôi nhận thấy tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc
củng cố, mở rộng và phát triển cơ sở hạ tầng.
Qúa trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ đề cập đến sự phát triển của
ngành công nghiệp mà còn đề cập đến sự phát triển của tất cả các ngành, lĩnh vực hoạt
động của đất nước. Đây là một tất yếu vì nền kinh tế đất nước là một hệ thống các
ngành kinh tế đơn nhất và các ngành kinh tế có quan hệ mật thiết với nhau. Những
thay đổi kinh tế đòi hỏi hoặc đòi hỏi những thay đổi thích ứng trong các lĩnh vực hoạt
động khác. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là điều kiện cần thiết của quá trình công
nghiệp hóa. Cơ cấu tài chính phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Phản ánh đúng đắn và đáp ứng được các yêu  cầu của các quy luật khách
quan, đặc biệt là các quy luật kinh tế.    
+ Phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại
trên thế giới hiện nay.
+ Đảm bảo cho phép tối ưu hoá việc sử dụng lợi thế so sánh về tài nguyên, lao
động của nước phát triển muộn về công nghiệp.
Chỉ có như vậy mới cho phép chúng ta có thể khai thác tối đa và có hiệu quả
những tiềm năng vốn có của các ngành, các địa phương, các đơn vị kinh tế cơ sở. 
Việc xây dựng một cơ cấu kinh tế mới hợp lý trong quá trình công nghiệp hóa
là có ý thức, có kế hoạch và do đó nhất thiết phải dựa trên các yếu tố và nhu cầu, điều
kiện tự nhiên và khả năng của nhà nước.
Căn cứ vào tình hình đất nước hiện nay, Đảng ta khẳng định, công nghiệp hóa ở
nước ta là quá trình tạo ra cơ cấu “Kinh tế Công-Nông nghiệp-Dịch vụ”, có quan hệ
phân công và phù hợp quốc tế sâu sắc.
Tóm lại, có thể nói hai nội dung chủ yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là cung cấp trang thiết bị kỹ thuật hiện đại cho các thành phần kinh tế hình
thành, phát triển và tổ chức lại hợp lý. Thúc đẩy phân công lao động xã hội để tạo ra
nhiều ngành nghề mới có tác động tốt đến quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh, bền
vững và hiệu quả xã hội.
Suy cho cùng, năng suất lao động là nhân tố quyết định sự thành bại của một hệ
thống xã hội, chủ nghĩa xã hội đánh bại chủ nghĩa tư bản và thay thế chủ nghĩa tư bản
bằng cách tạo ra năng suất lao động cao hơn. “Phải nhấn mạnh rằng cơ sở kinh tế duy
nhất có thể có của chủ nghĩa xã hội là đại công nghiệp cơ khí. Ai quên điều đó, người
này không phải là cộng sản "chủ nghĩa cộng sản là chính quyền Xô Viết cộng với điện
khí hóa cả nước". Nhưng, đối với nước Nga, một nước chủ nghĩa tư bản phát triển
thấp, còn phổ biến sản xuất nhỏ, lại bị chiến tranh tàn phá, cái thiếu nhất để quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí, nền tảng vật chất của chủ nghĩa xã hội.
Do đó, ngay khi nội chiến kết thúc, nhiệm vụ công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xem đó là nhiệm vụ hàng đầu của chính quyền Xô-
viết.
Giải thích về điều này, tập trung vào khôi phục và phát triển công nghiệp rồi
thông qua đó để khôi phục lại toàn bộ nền kinh tế là điều đáng mong đợi, nhưng để
khôi phục công nghiệp cần phải có lương thực, thực phẩm cho công nhân, cần nguyên
liệu, nhiên liệu, năng lượng, máy móc, thiết bị... cho công nghiệp, nhưng lúc đó chưa
thể có được, trong khi nạn đói đang bao trùm đất nước, xã hội rối loạn, nên việc bắt
đầu từ nông nghiệp, nông dân là đúng đắn. Người còn nói rõ hơn: phải bắt đầu từ nông
dân. Những người không hiểu điều này, những người vẫn nghĩ rằng ưu tiên các vấn đề
nông dân có nghĩa là từ bỏ công nghiệp hóa, đơn giản là không nghĩ đến tình hình và
bị hướng dẫn bởi những lời sáo rỗng. Với sự hồi sinh và phát triển của nông nghiệp đã
tạo nền tảng và điểm xuất phát cho công nghiệp hóa. Việc thực hiện chính sách “tô
nhượng” để thu hút sự tham gia của tư bản nước ngoài và cho phục hồi, phát triển kinh
tế tư bản chủ nghĩa và hướng vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước cũng là để
thực hiện công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, là sử dụng các nhà tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Một minh chứng là ngay từ năm 1920, khi nội chiến chưa kết thúc, nhưng trước
thắng lợi của Hồng quân và khả năng kết thúc nội chiến đã thể hiện rõ, V.I.Lê-nin đã
thành lập Ủy ban điện khí hóa nước Nga (tháng 2-1920) và chỉ đạo xây dựng kế hoạch
điện khí hóa nước Nga (GOELRO) để đưa ra Đại hội VIII Xô-viết toàn Nga (tháng 12-
1920) thảo luận, thông qua. Đây là một chương trình lớn được xây dựng một cách
khoa học để khôi phục và xây dựng nền kinh tế nước Nga Xô-viết trên cơ sở điện khí
hóa, theo tư tưởng chỉ đạo “việc đặt nền móng cho sự thực hiện kế hoạch điện khí hóa
vĩ đại là cái sẽ cho phép chúng ta khôi phục nền đại công nghiệp và ngành vận tải trên
một quy mô và một cơ sở kỹ thuật khiến có thể hoàn toàn và vĩnh viễn chiến thắng nạn
đói kém, cảnh nghèo cùng”. Điện khí hóa là công nghệ hiện đại nhất những năm đầu
thế kỷ XX, tư tưởng về công nghiệp hóa trên nền tảng điện khí hóa gắn kết chặt chẽ
công nghiệp hóa với hiện đại hóa.
Trong hoàn cảnh vô cùng thiếu thốn cả về vốn, máy móc, thiết bị, nguyên liệu,
năng lượng, lương thực, thực phẩm, việc khôi phục sản xuất công nghiệp gặp rất nhiều
khó khăn, chủ trương “đóng cửa tới mức tối đa những xí nghiệp không có khả năng
hoạt động, nhằm tập trung sản xuất vào một số lượng không lớn những xí nghiệp được
tổ chức tốt nhất”. Trong khôi phục sản xuất công nghiệp,nên ưu tiên tập trung phục hồi
các xí nghiệp sản xuất nhiên liệu, năng lượng, vùng mỏ Đôn-bát (nơi cung cấp 60%
than cho đất nước), các giếng dầu, các xí nghiệp cơ khí sản xuất máy cày cho nông
dân, máy móc cho công nhân mỏ, đầu máy xe lửa cho ngành vận tải. Đặc biệt, nhà
nước Xô-viết tiến hành xây dựng nhiều nhà máy điện mới. Cùng với sắp xếp lại và
định hướng ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp, chuyển các xí nghiệp công
nghiệp nhà nước sang cơ chế hạch toán kinh tế, theo cơ chế thị trường, mà khi đó gọi
là theo những nguyên tắc buôn bán. Những xí nghiệp công nghiệp có quy mô tương
đối lớn, được trang bị kỹ thuật khá, được bảo đảm vật tư, nguyên liệu, ở những vị trí
địa lý thuận tiện, theo quyết định của nhà nước Xô-viết, được liên kết với nhau thành
tờ-rớt. Các tờ-rớt được tự chủ cao trong sản xuất, kinh doanh, được giao quyền kế
hoạch, phân phối vốn, bố trí cán bộ, trao đổi với các tờ-rớt khác cũng như với thị
trường. Cho đến cuối những năm 20 của thế kỷ XX, tờ-rớt là các đơn vị sản xuất chủ
yếu của nhà nước Xô-viết.
Nước ta quá độ từ một nước kém phát triển về kinh tế lên chủ nghĩa xã hội,
chưa chuyển qua phát triển tư bản chủ nghĩa nên khó khăn lớn nhất là thiếu cơ sở vật
chất cho chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, Đảng ta đã trình bày ngay tại Đại hội Đảng
lần thứ III (năm 1960), mở đầu cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
chính sách công nghiệp của đất nước và xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung
tâm của quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Chỉ trong một thời gian
ngắn, cùng với phục hồi cơ sở công nghiệp cũ, nhiều công trình công nghiệp mới, lớn
đã được xây dựng, như: Cơ khí Hà Nội, Gang thép Thái Nguyên, Hóa chất Việt Trì,
Dệt 8-3... Nhưng chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ và việc tập trung chi
viện cho cuộc kháng chiến ở miền Nam đã làm cho chương trình công nghiệp hóa bị
gián đoạn.
Phương hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta là phát triển nhanh, có
hiệu quả các sản phẩm, ngành, lĩnh vực có lợi thế phục vụ nhu cầu trong nước và xuất
khẩu. CNH, HĐH đất nước phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. công nghiệp hóa trong nền kinh tế mở, hướng ngoại.
Trong các ngành định hướng tập trung nguồn lực, phát triển mạnh và nâng cao chất
lượng các ngành có sức cạnh tranh, tạo ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao
động, như chế biến nông, lâm, thủy sản; quần áo, giày dép, đồ nhựa, đồ gia dụng; cơ
khí đóng tàu, sản xuất thiết bị đồng bộ, thiết bị điện, thiết bị xây dựng, máy nông
nghiệp, thiết bị giao thông vận tải, sản xuất và lắp ráp cơ điện tử; công nghiệp hỗ trợ,
công nghiệp CNTT, sản xuất phần mềm.
Tăng tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến xuất khẩu. Quan tâm phát triển ngành
năng lượng đồng thời với việc triển khai các công nghệ tiết kiệm năng lượng; công
nghiệp vật liệu và công nghệ tiết kiệm vật liệu; công nghiệp dược phẩm và chế phẩm
sinh học; ngành bảo vệ môi trường. Tập trung phát triển mạnh công nghiệp để nâng
cao tính hiện đại, chất lượng và sức cạnh tranh.
Nơi cần đổi mới sản xuất công nghiệp theo kinh tế - kỹ thuật vùng, miền và giá
trị mới. Hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm tăng.
Phát triển có chọn lọc công nghiệp chế biến lọc dầu, công nghiệp công nghệ cao, công
nghiệp năng lượng, công nghiệp khai khoáng, luyện kim, công nghiệp hoá chất, công
nghiệp quốc phòng.
Tại Đại hội IV của Đảng (năm 1976), Đại hội Đảng đầu tiên sau khi đất nước
hòa bình, thống nhất, Đảng ta tiếp tục xác định công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm
của đất nước để xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía
Bắc của đất nước, sự bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, cơ chế kinh tế kế
hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp đã đẩy đất nước vào khủng hoảng kinh tế làm
cho nhiệm vụ công nghiệp hóa do Đại hội IV đề ra không thực hiện được.
Trong bối cảnh đất nước khủng hoảng kinh tế, các Đại hội V, VI của Đảng chủ
trương tập trung vào đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, sản xuất lương thực, thực phẩm
và các chương trình sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
Thứ nhất, mục tiêu không trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020
với nhiều tiêu chí bất khả thi như GDP bình quân đầu người, tỷ trọng công nghiệp chế
tạo và nông nghiệp trong GDP, tỷ trọng lao động nông nghiệp trong lực lượng lao
động xã hội. . , mức độ đô thị hóa, sản lượng điện bình quân đầu người, bất bình đẳng
thu nhập, tỷ lệ lao động có trình độ học vấn, tỷ lệ dân số được sử dụng nước sạch...;
Tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu chiến lược đề ra, tốc độ chậm dần theo chu kỳ
10 năm; nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình.

Thực tiễn cho thấy: giai đoạn 1991-2000, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt
7,6%/năm, giai đoạn 2001-2010 xuống còn 6,6%/năm, giai đoạn 2011-2020 trung bình
chỉ đạt 6,17%/năm. Thu nhập bình quân đầu người vẫn nằm trong nhóm nước đang
phát triển có thu nhập trung bình thấp, khoảng cách về thu nhập bình quân đầu người
của Việt Nam so với các nước trong khu vực vẫn còn rất xa và không dễ thu hẹp cũng
như thấp hơn rất nhiều so với mức thu nhập bình quân đầu người của thế giới (là hơn
10.000 USD).

Thứ hai, nội lực tiềm ẩn của nền kinh tế còn nhiều nhược điểm, năng suất lao
động thấp và chậm được cải thiện, tính độc lập, tự chủ thấp, phụ thuộc lớn vào khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài; khu vực kinh tế tư nhân trong nước chưa phát huy vai
trò là động lực quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; DNNN còn nhiều hạn
chế; đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể còn nhiều thách thức. Khi tiến hành
phân tích cấu trúc liên ngành I-O cho thấy, nền kinh tế Việt Nam cơ bản còn là một
nền kinh tế thâm dụng vốn; gia công, lắp ráp là chủ yếu; chênh lệch Tổng sản phẩm
trong nước (GDP) và Tổng thu nhập quốc gia (GNI) ngày càng lớn trong những năm
gần đây (Giai đoạn 2006-2010, bình quân GNI bằng khoảng 96,6% GDP; giai đoạn
2011-2015 chỉ còn 95,46%; giai đoạn 2016-2020 là 94,13%). Khả năng tự chủ của nền
kinh tế chịu ảnh hưởng mạnh từ biến động hoạt động sản xuất khu vực đầu tư nước
ngoài và một số thị trường lớn.

Việt Nam cũng phải nhập khẩu phần lớn công nghệ, máy móc, thiết bị, phụ
tùng, nguyên liệu chủ yếu cho sản xuất công nghiệp; hơn 70% máy móc, thiết bị nông
nghiệp; một số giống cây trồng, vật nuôi vẫn phụ thuộc nhập khẩu, thường là 80%
giống rau, hoa và 60% giống ngô... Ưu tiên phát triển sản phẩm có lợi thế cạnh tranh,
sản phẩm có khả năng tham gia cạnh tranh. mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị toàn
cầu trong công nghiệp công nghệ cao, cơ khí chế tạo, công nghệ thông tin và truyền
thông, dược phẩm.

Phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ. Tập trung đẩy mạnh các ngành kinh tế liên
qun như các loại năng lượng tác tạo nhằm tiết kiệm và bảo vệ môi trường.

Thứ ba, công nghiệp phát triển thiếu bền vững, giá trị gia tăng thấp, chưa tham
gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu; các ngành công nghiệp nền tảng, công
nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ phát triển còn nhiều hạn
chế, công nghiệp thông minh phát triển còn chậm. Các ngành dịch vụ quan trọng
chiếm tỉ trọng còn nhỏ, mối liên kết với các ngành sản xuất còn yếu. Chuyển đổi số,
phát triển kinh tế số, xã hội số mới đạt được kết quả bước đầu, vẫn còn khoảng cách xa
so với các nước và so với mục tiêu đề ra.

Thứ tư, kết quả CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn còn hạn chế; tổ chức sản
xuất kinh doanh chủ yếu vẫn dựa vào nông hộ nhỏ, thiếu liên kết chưa đáp ứng yêu
cầu nông nghiệp hiện đại; nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng
tạo, đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế, chưa trở thành động lực chính để tạo đột phá
phát triển; nhiều loại giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông nghiệp phụ thuộc nhiều
vào nhập khẩu. Thu hút đầu tư cho phát triển nông nghiệp, dịch vụ ở nông thôn gặp
nhiều khó khăn. Công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp, chế biến nông sản chưa đáp
ứng được yêu cầu; cơ giới hoá nông nghiệp chưa đồng bộ, tổn thất sau thu hoạch còn
cao.

Thứ năm, đô thị hoá chưa gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với CNH, HĐH. Tỷ lệ
đô thị hoá đạt được thấp hơn mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011 - 2020 và còn khoảng cách khá xa so với tỉ lệ bình quân của khu vực và thế giới.
Chất lượng đô thị hoá chưa cao, phát triển đô thị theo chiều rộng là chủ yếu, gây lãng
phí về đất đai, mức độ tập trung kinh tế còn thấp. Kết cấu, chất lượng hạ tầng đô thị
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển dân số và kinh tế khu vực đô thị; chưa thích ứng
với biến đổi khí hậu, ứng phó với dịch bệnh quy mô lớn. Khả năng tiếp cận dịch vụ
công và phúc lợi xã hội của người nghèo và lao động di cư tại đô thị còn thấp và nhiều
bất cập. Nếu tại các khu đô thị, trung tâm thành phố lớn xảy ra ô nhiễm dễ làm gia
tăng xảy ra các xu hướng tệ hại và phức tạp hơn về mặt môi trường.

Thứ sáu, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại chưa đạt yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; hiệu quả kết nối và chất lượng chưa cao; Còn chênh lệch
khoảng cách về kết quả CNH, HĐH giữa các vùng miền; thành quả của công nghiệp
hóa chưa được phân bổ đồng đều giữa các nhóm dân cư và các khu vực; Liên kết vùng
trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn kém hiệu quả, chưa hình thành được
các mô hình cụm ngành công nghiệp, đặc biệt là các cụm ngành chuyên môn hóa.

Thứ bảy, các vấn đề về phát triển văn hoá, xã hội, con người, môi trường còn
nhiều hạn chế, bất cập. Một mặt khác là phần trăm thống kê tình trạng thoát, giảm
nghèo ván chưa có sự tương quan và đồng đều, tồn tại nhiều hạn chế về mặt kinh tế xã
hội. Văn hoá chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở
thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước và gắn kết với
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công tác cảnh báo môi trường và ứng phó với
biến đổi khí hậu tuy có tiến bộ nhưng còn bị động, lúng túng; tài nguyên thiên nhiên
chưa được quản lý, sử dụng hiệu quả và bền vững; ô nhiễm môi trường tiếp tục gia
tăng, chất lượng không khí ở các đô thị lớn còn kém; đa dạng sinh học có nguy cơ suy
yếu, mất cân bằng sinh thái trên diện rộng, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội,
sức khỏe và đời sống nhân dân.

Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương và có chính sách phù hợp để xây dựng, phát
triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, tăng hàm lượng khoa học – công
nghệ và tỉ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm, tập trung vào những ngành có tính nền
tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền vững,
nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả
vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầ. Ngày nay, tốc độ tăng trưởng cao và đầy ấn
tượng trong sự ổn định chính trị xã hội của chúng ta qua những năm đổi mới, chứng tỏ
tiến trình công nghịêp hoá- hiện đại hoá đã đạt được những thành tựu nhất định, nền
kinh tế đã có sự khởi sắc dù mới chỉ là bước đầu, còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục
được bổ sung và hoàn thiện. Phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng,
cơ khí, điện tử, hoá chất, công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an
ninh.

Chú trọng phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh; công nghiệp hỗ trợ; công
nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn; năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và sản
xuất vật liệu mới; từng bước phát triển công nghệ sinh học, công nghiệp môi trường và
công nghiệp văn hoá; Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn,
ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, giá trị gia tăng, đẩy mạnh
xuất khẩu. Đẩy mạnh phát triển khu vực dịch vụ theo hướng hiện đại, đạt tốc độ tăng
trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP.

Tập trung vào sự phát triển của một ngành dịch vụ với nhiều lợi ích, bí quyết
và hàm lượng công nghệ cao. Phát triển mạnh kinh tế biển nhằm tăng cường tiềm lực
kinh tế đất nước và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Quan tâm phát triển công nghiệp dầu
khí, khai thác hải sản xa bờ và hậu cần nghề cá, kinh tế biển (kinh doanh dịch vụ cảng
biển, đóng và sửa chữa tàu biển, vận tải biển), du lịch biển đảo. Chúng tôi tập trung
đầu tư, hoàn thiện các khu kinh tế ven biển. Hài hòa hóa chiến lược, kế hoạch phát
triển của các nền kinh tế, vùng và miền. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng
theo hướng ưu tiên phát triển các vùng kinh tế động lực, tạo lực kéo và lan tỏa phát
triển đến các địa phương và các vùng khác. Đổi mới cơ chế, chính sách định hướng
quá trình phát triển đô thị theo đúng quy hoạch, kế hoạch. Từng bước hình thành hệ
thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường, bao gồm
một số đô thị lớn và nhiều đô thị vừa và nhỏ, liên kết với nhau và phân bổ hợp lý giữa
các vùng. ưu tiên phát triển đô thị miền núi, phát triển mạnh vùng ven biển. Nâng cao
chất lượng, tính thống nhất và khả năng cạnh tranh của các đô thị; coi trọng việc phát
huy vai trò là động lực phát triển kinh tế và các giá trị đặc trưng cấp quốc gia và khu
vực. Đẩy mạnh huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội để tập trung
đầu tư hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tương đối đồng bộ với
nhiều công trình hiện đại. Ưu tiên và đa dạng hóa các hình thức đầu tư vào các lĩnh
vực trọng điểm: hạ tầng giao thông đồng bộ, trung tâm kết nối các trung tâm kinh tế,
các trục giao thông chính; hạ tầng ngành điện đảm bảo cung cấp đủ điện cho sản xuất
và sinh hoạt phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; hạ tầng thủy lợi đáp ứng
yêu cầu phát triển nông nghiệp và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; hạ
tầng đô thị hiện đại, đồng bộ, từng bước đáp ứng tiêu chuẩn đô thị xanh của các nước
công nghiệp phát triển.

Nâng cao năng lực tự chủ về sản xuất, công nghệ và thị trường, bảo vệ và phát
huy tốt thị trường trong nước. Chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp sang các
ngành có tính nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn, có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng
cao. Chuyển đổi các ngành công nghiệp thâm dụng tài nguyên, năng lượng sang các
ngành công nghiệp xanh, công nghiệp phát thải các-bon thấp. Cơ cấu lại các ngành
nông nghiệp và dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển
các loại dịch vụ mới có tính liên ngành và giá trị gia tăng cao, đẩy nhanh dịch vụ hóa
các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong đó tiếp tục đẩy nhanh thể chế hóa các
nghị quyết, kết luận của Đảng có liên quan đến CNH, HĐH, hoàn thiện cơ chế, chính
sách cho phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo phù hợp với thực tế Việt
Nam và thông lệ quốc tế. Ưu tiên xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên
ngành về phát triển công nghiệp quốc gia và các lĩnh vực công nghiệp đặc thù như
công nghiệp công nghệ số, công nghiệp quốc phòng, an ninh, năng lượng. Xây dựng
khung pháp luật cho phát triển kinh tế số, xã hội số, chính phủ số… Ngoài ra, nghị
quyết cũng đề ra nhiệm vụ, mục tiêu và các giải pháp về xây dựng nền công nghiệp
quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường; nâng cao năng lực ngành xây dựng. Phát triển
khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH. Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy đô thị hóa
nhanh và bền vững, gắn kết chặt chẽ và tạo động lực cho CNH, HĐH đất nước. Phát
triển các thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy CNH, HĐH. Đổi mới chính sách tài chính,
tín dụng thúc đẩy CNH, HĐH đất nước nhanh, bền vững. Quản lý, sử dụng hiệu quả,
tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng
cường hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả đi đôi với bảo vệ và phát triển thị trường
trong nước. Phát huy giá trị văn hóa, bản lĩnh, trí tuệ con người Việt Nam, xây dựng
giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; đội ngũ trí thức và doanh nhân xung kích, đi
đầu trong CNH, HĐH đất nước; bảo đảm tốt an sinh xã hội.

Thứ nhất: Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động phải phù hợp với quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế và xu thế phát triển chung của nền kihn tế tri thức. Điều này
đòi hởi hệ thống giáo dục cần xây dựng và phát triển nhiều hơn nữa cả về chất lượng
và số lượng, nhất là về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật, về phẩm chất đạo
đức, năng lực thì mới có thể tiếp cận, hướng dẫn người lao động tiếp cận với nền kinh
tế tri thức và hội nhập quốc tế.
Thứ hai: Vận dụng lý luận một cách phù hợp vào thực tế điều kiện, hoàn cảnh
Việt Nam. Với lợi ích của người sử dụng lao động và người lao động cần phải hài hòa,
cân đối. Tránh việc làm phát sinh, gây mâu thuẫn gay gắt mà  phải tạo mối quan hệ
gần gũi, thân thiết, thống nhất giữa người lao động và người đi thuê lao động.
Thứ ba: Vận dụng lý luận về hàng hóa sức lao động phải gắn liền với việc hình
thành đội ngũ lao động có trình độ và cơ cấu hợp lý, đáp ứng nhu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ tư: Thúc đẩy sự giao dịch trên thị trường lao động băng các hình thức như
phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm, tăng cường quản lý Nhà nước, củng
cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, phát
triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động, hoàn thiện hệ thống pháp luật về
thị trường lao động.
Thứ năm: Bên cạnh việc nâng cao chất lượng lao động, đồng thời phải có chế
độ tiền lương hợp lý, đảm bảo cho việc người lao động có thể đảm bảo cuộc sống sinh
hoạt hàng ngày, đáp ứng việc sản xuất va tái sản xuất sức lao động.
Tóm lại, sự tồn tại và phát triển của hàng hóa sức lao động và thị trường lao
động là một tất yếu khách quan. Việc thừa nhận sức lao động trở thành hàng hóa giúp
kích thích người lao động và người sử dụng lao động có những đóng góp tích cực hơn
vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác ra đời trên cơ sở nghiên cứu phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phát hiện giá trị thặng dư làm nổ ra cuộc cách mạng thực
sự trong toàn bộ khoa học kinh tế, trang bị cho giai cấp vô sản thứ vũ khí sắc bén
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản.
Việc vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của Mác trước hết phải nhận thức
đúng khái niệm bóc lột và bóc lột giá trị thặng dư trong học thuyết Mác. “Bóc lột” là
một bộ phận người trong xã hội hoặc tập đoàn xã hội nào đó, chiếm đoạt không có
bồi thường thành quả lao động của một người khác hoặc của một tập đoàn khác.
Nhưng việc “chiếm hữu không có bồi thường” thành quả lao động của người khác
hoặc tập đoàn xã hội, không chỉ dựa vào sở hữu tư liệu sản xuất hoặc tư bản tiền tệ
mà cũng có thể thông qua bạo lực, quyền lực, chinh phục bằng vũ lực.
Học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu lịch
sử nền sản xuất hàng hoá hàng hóa tư bản chủ nghĩa.Cho nên, chính Mác chứ không
phải ai khác là một trong những người nghiên cứu sâu sắc về nền kinh tế hàng hóa tư
bản chủ nghĩa hay gọi là kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, với nhiều thành phần kinh tế trong đó có thành
phần kinh tế tư nhân, không thể phủ nhận chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân thông qua
hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp đã góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển và nâng cao mức sống của người lao động. Và như vậy, việc vận dụng học
thuyết giá trị thặng dư trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là cần thiết, tập trung khai thác, vận dụng những vấn đề sau:
Một là, khai thác những di sản lý luận C. Mác về phương pháp sản xuất ra giá
trị thặng dư trong nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa. Ngay từ khi mới ra đời, chủ
nghĩa tư bản đã phát triển nền kinh tế hàng hóa, thông qua thị trường, giai cấp tư sản
mới mua được tư liệu sản xuất và sức lao động, mới bán được hàng hóa và bóc lột
được giá trị thặng dư do người lao động tạo ra.
Hai là, khai thác những luận điểm của Mác về những biện pháp, thủ đoạn
nhằm thu được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản để góp phần vào việc quản
lý thành phần kinh tế tư nhân( đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân) trong nền kinh tế ở
nước ta sao cho vừa khuyến khích phát triển, vừa hướng thành phần kinh tế này đi
vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.  Điều này cần có chính sách thúc đẩy thành phần
kinh tế này để qua đó thu hút được nhiều lao động xã hội, sử dụng nhiều trình độ lao
động để tạo ra nhiều sản phẩm thỏa mãn nhu cầu xã hội. Nhưng để đảm bảo định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước cần phải quản lý doanh nghiệp này để nhằm hạn
chế việc bóc lột người lao động quá mức như kéo dài thời gian lao động vượt quá
thời gian quy định của luật lao động  mà không có sự thống nhất của người lao động,
việc cắt xén tiền công, cắt xén các chế độ của người lao động như bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tai nạn lao động.
Ba là, nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản để có cơ
chế, chính sách phân phối giá trị thặng dư đảm bảo công bằng trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. C.Mác đã khẳng định giá trị thặng
dư không phải do tư bản (tiền) được đầu tư vào sản xuất sinh ra, hoặc do máy móc
tạo ra. Giá trị thặng dư là do lao động thặng dư của người lao động tạo ra. Hiện nay,
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, người lao động
không chỉ bao gồm người công nhân trực tiếp đứng máy, mà còn có những người lao
động khác như lao động của những người chủ doanh nghiệp, lao động của bộ phận
quản lý sản xuất kinh doanh.
Như vậy hiện nay ở nước ta, mục đích nghiên cứu kinh tế chính trị nói chung
và lý luận giá trị thặng dư nói riêng có sự thay đổi. Nếu trước đây, mục đích nghiên
cứu của kinh tế chính trị là để phê phán phương thức sản xuất TBCN tìm ra bản chất
bóc lột giá trị thặng dư của CNTB cổ điển và xu hướng thay thế CNTB bằng một xã
hội tốt đẹp hơn, thì giờ đây, bên cạnh mục đích như trước, chúng ta còn nghiên cứu,
khai thác học thuyết giá trị thặng dư với tư cách là một hệ thống lý luận phong phú
và sâu sắc nhằm vận dụng vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN. 
Thị trường nước ta hình thành chưa đồng bộ hoàn thiện còn nhiều bất cập. Thị
trường chứng khoán còn mới phôi thai, qua hơn một năm hoạt động với hàng hoá quá
nghèo nàn, có lẽ còn lâu mới trở thành phong vũ biểu cho nền kinh tế như ở các nước
phát triển. Thị trường bất động sản, thị trường lao động và nhiều thị trường khác chư a
phát triển. Sự cạnh tranh trên thị trường còn nhiều yếu tố bất bình đẳng. Vì vậy, sự
phân phố i và sử dụng nguồn lực như đất đai, lao động, nguồn vốn còn kém hiệu quả.

Sự tăng trưởng của nền kinh tế chưa thật ổn định và vững chắc. Sự tăng trưởng
này chủ yếu theo đầu tư vốn và lao động. Chưa tạo l ập được một hệ thống thị trường
đầy đủ theo yêu cầu của cơ chế thị trường, thị trường hàng hoá và dịch vụ tuy có hoạt
động sôi nổi nhưng chỉ tập trung ở thành phố, đô thị lớn và một số tỉnh biên giới, về cơ
bản là tự phát, lộn xộn rất không bình thường, thị trương nông thôn không được quan
trọng. măt khác nó cũng chưa với tới bàn tay vô hình tới những vùng miền núi, trung
du – nơi có tiềm năng lớn về tài nguyên khoáng sản. Trong khu vực kinh tế nhà nước,
thị trường lao động chỉ tồn tại ở trình độ thấp, còn có 1/3 trong số hơn 6000 doanh
nghiệp nhà nước làm ăn chưa có lãi hoặc thua lỗ.Tình trạng kinh doanh phi pháp rất
nghiêm trọng. Nạn tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả ngày càng gia tăng phá hoại
sản xuất nội địa gây thiệt hại cho lợi ích người tiêu dùng và gây thất thu cho ngân sách
nhà nước.
Việt Nam đã dần hình thành, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị
trường, vận hành cơ bản thông suốt. Nhìn chung trong hơn một nhập kỷ qua, theo
thống kê đã chứng minh tốc độ tăng trưởng của buôn bán lẻ tính trên bình quân đầu
người đã tăng 2 đến 3 lần so với độ tăng trường cùng kỳ. Quy mô lực lượng lao động
từ 15 tuổi trở lên tăng từ 50,51 triệu người (cuối năm 2010) lên 53,65 triệu người (cuối
năm 2013) và 53,8 triệu người (năm 2014). Thị trường một số loại dịch vụ công cơ
bản, nhất là về y tế, giáo dục có bước phát triển mới, huy động được các nguồn lực
ngoài ngân sách nhà nước.

Sau nhiều năm tín dụng liên tục được mở rộng, lạm phát cao xảy ra như một hệ
quả tất yếu. Năm 2010 với tốc độ tăng bình quân 32%/năm, đạt đỉnh năm 2007 ở mức
xấp xỉ 54%. Khi nguồn cung tiền tệ có tốc độ tăng trưởng lớn hơn tốc độ tăng trưởng
GDP, trong trường hợp Việt Nam là lớn hơn rất nhiều, tất yếu dẫn tới lạm phát cao.
Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu tính trên GDP khá lớn, nhưng phần lớn hàng xuất
khẩu có nguồn gốc từ nhập khẩu, nên lạm phát cao những 2008-2011 cũng chịu tác
động của giá cả tăng cao trên thị trường quốc tế. Vì vậy, nền kinh tế rất dễ bị tổn
thương trước những biến động bên ngoài. Nên lưu ý rằng trong giai đoạn 1991-1996,
tổng đầu tư/GDP của Việt Nam bình quân chỉ là 23%, ICOR chung chỉ khoảng 2,7,
nghĩa là hiệu quả đầu tư rất cao.
Phân công lao động là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy mạnh phát triển
kinh tế hàng hoá, cần phải nhân rộng phân công lao động xã hội, phân bố lại lao động
và dân cư trong phạm cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng
chuyên môn hoá, hợp tác hoá nhằm khai thác mọi quyền lực, phát triển nhiều ngành
nghề, sử dụng có hiệu quả, cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho người
lao động. Cùng với mở rộng phân công lao động xã hội trong nước, phải tiếp tục mở
rộng quan hệ kinh t ế với nước ngoài nhằm gắn phân công lao động trong nước với
phân công lao động quốc tế, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Quan hệ sở hữu phải được xem xét và xây dựng trong mối tương quan với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và trinh độ xã hội hoá của nền kinh tế. Cần xây
dựng các loại hình sở hữu, quy mô và cấp độ phù hợp với đặc điểm của từng lĩnh vực
sản xuất kinh doanh. Đây là một vấn đề phức tạp, cần nắm vững nội dung bản chất,
hình thức biểu hiện và điều kiện hình thành của các quan hệ sở hữu.
Cần nhận thức, xem xét đầy đủ cả về mặt nội dung và cấu trúc quan hệ sở hữu.
Xem xét mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sở hữu với chiếm hữu, quyền định đoạt
và quyền sử dụng trong kinh doanh.
Phải xây dựng quan hệ sản xuất, phải tién hành từ thấp đến cao, đa dạng hoá
hình thức sở hữu và bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng
sản xuất. Khắc phục những nhận thức không đúng về vai trò của sở hữu nhà nước cũng
như vai trò của thành phần kinh tế nhà nước.
Kinh tế nhà nước phải củng cố và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác
để trở thành nền tảng của nền kinh tế có khả năng, có hướng dẫn các thành phần kinh
tế khai thác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực chất của quan h ệ sở hữu là lợi ích, mà lợi ích đó lại được thể hiện ở
quyền sở hữu, quyền sử dụng, quỳen làm chủ quá trình sản xuất và sản phẩm làm ra.
Bảo đảm lợi ích không chỉ phản ánh ở nguyên tắc phan phối mà còn ở những hình thức
phân phối thể hiện trong quan hệ sở hữu và phải được thể chế hoá.
Quan hệ sở hữu phải được xem xét và xây dựng trong mối tương quan với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ xã hội hóa của nền kinh tế. Cần xây
dựng các loại hình sở hữu, quy mô và cấp độ phù hợp với đặc điểm của t ừng lĩnh vực
sản xuất kinh doanh. Đây là một vấn đề phức tạp, cần nắm vững nội dung bản chất,
hình thức biểu hiện và điều kiện hình thành các quan hệ sở hữu.
Cần nhận thức, xem xét đầy đủ c ả về nội dung cấu trúc quan hệ sở hữu. Xem
xét mối quan hệ bi ện chứng giữa quan hệ sở hữu với quan hệ phân phối và quan hệ
quản lý giữa quyền sở hữu với quyền chiếm hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng
kinh doanh.
Phải xây dựng quan hệ sản xuất tiến hành từ thấp đến cao, đa dạng hoá hình
thức sở hữu và bước đi thích hợp làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản
xuất. Khắc phục những nhận thức không đúng về vai trò của sở hữu nhà nước cũng
như vai trò của thành phần kinh tế nhà nước.
Hệ thống kết cấu hạ tầng cơ s ở và dịch vụ hiện đại, đồng bộ cũng đóng vai trò
quan trọng cho sự phát triển kinh tế hàng hoá. Hệ thống đó ở nước ta đã quá lạc hậu,
không đồng bộ, cân đối nghiêm trọng nên đã cản trở nhiều đến quyết tâm của các nhà
đầu tư cả ở trong nước lẫn nước ngoài; cản trở phát triển kinh tế hàng hoá ở mọi miền
đất nước.
Vì thế, cần gấp rút xây dựng và củng cố các yếu tố của h ệ th ống kết cấu đó.
Trước mắt, nhà nước cần tập trung ưu tiên xây dựng, nâng cấp một số yếu tố thiết yếu
nhất như đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, điện nước, hệ thống thông tin liên lạc,
ngân hàng, dịch vụ, bảo hiểm.
Trong kinh tế hàng hoá, các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh
tranh nếu thường xuyên đổi mới công nghệ để hạ chi phí, nâng cao chất lượng sản
phẩm. Muốn vậy, phải đẩy mạnh công cuộc cách mạng khoa học-công nghệ vào quá
trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. So với thế giới, trình độ công nghệ của ta còn
thấp kém không đồng bộ, do đó khả năng cạnh tranh của hàng hoá nước ta so với hy
nước ngoài trên cả thị trường nội địa và thế giới còn kém.
Đại hội IX tiếp tục khẳng định khoa học và công nghệ cùng với giáo dục và đào
tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Đối với khoa học xã hội và nhân văn: hướng vào việc giải đáp các vấn đề lý
luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung cấp luận cứ khoa học cho việc
hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng con
người, phát huy những di sản văn hoá dân tộc, sáng tạo những giá trị văn hoá mới của
Việt Nam.
Đối với khoa học tự nhiên: hướng vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn, xây
dựng cơ sở khoa học củ a sự phát triển các lĩnh v ực công nghệ trọng điểm và khai thác
các ngu ồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, dự báo, phòng chống thiên tai.
Khoa học-công nghệ hướng vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản
phẩm, nâng cáo năng lực cạnh tranh của Hàng hoá trên Thị trường, xây dựng năng l ực
công nghệ quốc gia, ứng dụng một cách sáng tạo những công nghệ nhập khẩu, từng
bước tạo ra công công nghệ mới. Đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng công
nghệ hiện đại, công nghệ cao.i
Tạo thị trường cho khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính nhằm
khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dựng khoa học và công nghệ với sản xuất kinh
doanh, quản lý, dịch vụ.
Tăng đầu tư ngân sách và có chính sách và có chính sách khuyến khích, huy
động các nguồn lực khác để đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ
hiện đại, công nghệ cao
Coi trọng nghiêm cứu cơ bản trong các ngành khoa học. Sắp xếp và đổi mới hệ
thống nghiên cứu khoa học, phối hợp chặt chẽ việc nghiên cứu khoa học tự nhiên,
khoa học-công nghệ với khoa học xã hội và nhân văn.Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong
nghiên cứu khoa học và công nghệ. Thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, đãi
ngộ đặc biệt đối với các nhà khoa học có công trình nghiên cứu xuất sắc.
Đại hội IX tiếp tục khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa rạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng
là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình,
độc lập và phát triển.
Việt Nam sẵn sàng là đối tác tin cậy, điều đó thể hiện rõ hơn chủ trương củ a
Đảng ta “chủ động hội nhập quốc tế và khu vực, chủ yếu và trước hết về nền kinh
tế”.Trong quan hệ hợp tác kinh tế, chúng ta muốn hợp tác lâu dài, có hiệu quả, tin cậy
lẫn nhau với các nước trên cơ s ở các nguyên tắc xác định; phát triển quan hệ hợp tác
hữu nghị với các nước, trong đó hợp tác lâu dài, tin cậy lẫn nhau, đối tác tin cậy của
nhau là cơ sở để củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị vì mục tiêu và lưọi ích chung,
vì độc lập, hoà bình và phát triển.
Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới: Tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình
và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập và
chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và dân chủ. Giải pháp của vấn đề mở rộng
quan hệ đối ngoại là:
Mở rộng quan hệ trên nhiều khía cạnh khác nhau, song phương và đa phương
với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức
quốc tế và khu vực theo nguyên tắc: Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe do ạ
dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi; giải quyết các bất đồng tranh chấp bằng thương
lượng hoà bình; Làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường
quyền. Tích cực hơn trong việc gia nhập vào các hội liên hiệp kinh tế quốc tế trên thế
giới và trong khu vực, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, có sự ràng buộc về mặt pháp
luật giúp cho kinh tế phát triển bền vững và an toàn.
c) Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với đảm bảo phát triển bền
vững, tiến bộ và công bằng xã hội và thúc đẩy hội nhập quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là tất yếu mà còn đem lại những lợi ích to
lớn trong phát triển của các nước và những lợi ích kinh tế khác nhau cho cả người sản
xuất và người tiêu dùng. Cụ thể:
Hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là mở rộng thị trường để thúc đẩy
thương mại phát triển, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước, tận dụng triệt để các lợi
thế kinh tế của nước ta trong phân công lao động quốc tế, phục vụ cho mục tiêu thúc
đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững và chuyển đổi mô hình tăng trưởng sang chiều sâu
với hiệu quả cao.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hợp lý, hiện đại và hiệu quả hơn, qua đó hình thành các lĩnh vực kinh tế mũi
nhọn để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm
và doanh nghiệp trong nước; góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, làm
tăng khả năng thu hút khoa học công nghệ hiện đại và đầu tư bên ngoài vào nền kinh
tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và tiềm lực
khoa học công nghệ quốc gia. Nhờ đẩy mạnh hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu
khoa học với các nước mà nâng cao khả năng hấp thụ khoa học công nghệ hiện đại và
tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công
nghệ để thay đổi, nâng cao chất lượng của nền kinh tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp
cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế để thay đổi công nghệ sản
xuất, tiếp cận với phương thức quản trị phát triển để nâng cao năng lực cạnh tranh
quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để cải thiện tiêu dùng trong nước, các cá
nhân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã

DIỄN BIẾN XUẤT NHẬP KHẨU QUA 30 NĂM ĐỐI
MỚI GIAI ĐOẠN 1986- 2016 (Nguồn: Tổng cục Thống
kê)

Xuất khẩu Nhập khẩu

200000
180000
160000
140000
120000
100000
80000
60000
40000
20000
0
8 6 91 9 3 9 5 97 9 9 01 03 0 5 07 0 9 11 13 1 5
19 19 19 19 19 19 20 20 20 20 20 20 20 20
chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên
ngoài, từ đó có cơ hội tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm
bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó xây dựng và điều chỉnh
chiến lược phát triển hợp lý, đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước.
Đối với hoạt động xuất, nhập khẩu: Kim ngạch xuất khẩu không ngừng được
tăng lên, đóng góp một phần quan trọng vào sự tăng trưởng GDP. Nếu năm 1986, tổng
kim ngạch xuất khẩu mới đạt 789 triệu USD, thì năm 2006 xuất khẩu đã đạt trên 39 tỷ
USD và kể từ sau khi gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên, đạt
trên 170 triệu USD năm 2016. Không chỉ xuất khẩu, kim ngạch nhập khẩu cũng tăng
lên tương ứng cho thấy mức độ mở cửa của nền kinh tế là tương đối lớn với tỷ lệ tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu đã lên đến trên 150% GDP.

VỐN FDI THỰC HIỆN GIAI ĐOẠN 30 NĂM ĐỐI MỚI


1986 - 2026 (Nguồn: Tổng cục Thống kê, đơn vị
tính:triệu USD)
18000 16500
16000
14000
12000
12000 11000 11500
10000
8000
8000
6000
4000 2370 2400
1800 2350 2100 2000
2000 500 1000
0
1991 1993 1995 1997 1999 2001 2003 2005 2007 2009 2011 2013 2015

Vốn FDI

Về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, đa dạng, có nhiều nhóm
hàng “chủ lực” đạt kim ngạch lớn. Nhiều mặt hàng xuất khẩu có khối lượng lớn, kim
ngạch đứng thứ hạng cao trên thế giới. Nếu như năm 1986 chúng ta chưa có mặt hàng
nào xuất khẩu trên 200 triệu USD thì hiện này đã có nhiều mặt hàng vượt kim ngạch 1
tỷ USD, 5 tỷ USD. Cơ cấu mặt hàng đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ
trọng hàng thô hoặc mới sơ chế giảm.
Đối với hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Vốn FDI đã
trở thành một trong những động lực chính cho phát triển kinh tế của Việt Nam, đặc
biệt kể từ sau khi Việt nam gia nhập WTO. Nếu như những năm đầu của thời kỳ mở
cửa, vốn FDI vào Việt Nam không đáng kể thì kể từ sau năm 2007, lượng vốn FDI
không ngừng tăng lên. Số vốn đăng ký và cấp mới có năm (2007) còn lên đến trên 70
tỷ USD. Nếu xét về vốn thực hiện, xu hướng tăng lên cũng xuất hiện rõ rệt kể từ năm
2007. Vốn FDI thực hiện đạt 15,8 tỷ USD, tương đương 23,4% tổng vốn đầu tư toàn
xã hội và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2015.i
Hội nhập kinh tế quốc tế là tiền đề cho hội nhập về văn hóa, tạo điều kiện để
tiếp thu những giá trị tinh hoa của thế giới, bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn
hóa, văn minh của thế giới để làm giàu thêm văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã
hội. Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng đặt ra
nhiều rủi ro, bất lợi và thách thức:
Hội nhập kinh tế quốc tế có thể dẫn đến phân phối không công bằng lợi ích và
rủi ro cho các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng
khoảng cách giàu - nghèo và bất bình đẳng xã hội. Trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, các nước đang phát triển như nước ta phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều
tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp. Có vị trí bất lợi và thua
thiệt trong chuỗi giá trị toàn cầu. Do vậy, dễ trở thành bãi rác thải công nghiệp và
công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường
ở mức độ cao. Hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền
lực Nhà nước, chủ quyền quốc gia và phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đối với việc duy
trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội.
Hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống
Việt Nam bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài. Bảy là, hội nhập có
thể làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm
xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp.
Bên cạnh những thành tựu, chúng ta cần phát huy hơn nữa, lấy thành tựu làm
động lực. Còn các hạn chế ta cần có cái nhìn đúng đắn và những giải pháp để nâng cao
hiệu quả của hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Các biện pháp cụ thể:
Cần có nhận thức đúng đắn về hội nhập kinh tế quốc tế: Nhận thức về hội nhập
kinh tế quốc tế có tầm quan trọng và ảnh hưởng to lớn đếnnhững vấn đề cốt lõi của hội
nhập, về thực chất là sự nhận thức quy luật vận độngkhách quan của lịch sử xã hội.
Chủ động tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện đầy đủ các cam kết
của Việt Nam trong các liên kết kinh tế quốc tế và khu vực. Việt Nam đã thực hiện
nhiều cải cách chính sách thương mại theo hướng minh bạch và tự do hóa thể hiện ở
các cam kết đa phương về pháp luật và thể chế cũng như các cam kết mở cửa thị
trường hàng hóa, dịch vụ.
Hoàn thiện thể chế kinh tế và luật pháp: Một trong những điều kiện của hội
nhập kinh tế quốc tế là sự tương đồng giữa các nước về thể chế kinh tế. Trên thế giới
ngày nay hầu hết các nước đều phát triển theo mô hình kinh tế thị trường tuy có sự
khác biệt nhất định. Việc phát triển theo mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” của nước ta mặc dù có sự khác biệt với các nước về định hướng chính trị
của sự phát triển nhưng nó không hề cản trở sự hội nhập. Nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc tế của nền kinh tế: Hiệu quả của hội nhập kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng như của các doanh nghiệp. Nhà nước cần
sớm chủ động, tích cực tham gia đầu tư và triển khai các dự án xây dựng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, có kiến thức, kỹ năng cần thiết đáp ứng
yêu cầu mới của hội nhập sâu rộng. Nâng cao hiệu quả đào tạo nghề theo cơ chế thị
trường, chú trọng đào tạo gắn với nhu cầu của các doanh nghiệp và nhu cầu xã hội.
Đảm bảo lợi ích quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế có tầm quan trọng và ảnh hưởng to lớn
đến những vấn đề cốt lõi của hội nhập, về thực chất là sự nhận thức quy luật vận động
khách quan của lịch sử xã hội. Đó là cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để xây dựng
chủ trương và chính sách phát triển thích ứng. 
Trong nhận thức, trước hết cần phải thấy rằng hội nhập kinh tế là một thực tiễn
khách quan, là xu thế khách quan của thời đại, không một quốc gia nào có thể né tránh
hoặc quay lưng với hội nhập. Việt Nam cũng không thể đứng ngoài dòng chảy của lịch
sử, hội nhập quốc tế không chỉ là “khẩu hiệu thời thượng” mà phải là “phương thức
tồn tại và phát triển” của nước ta.
Nhận thức về hội nhập kinh tế cần phải thấy rõ cả mặt tích cực và tiêu cực vì
tác động của nó là đa chiều, đa phương diện; trong đó, cần phải coi mặt thuận lợi, tích
cực là cơ bản. Đó là những tác động thúc đẩy của hội nhập kinh tế quốc tế tới: tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, tiếp cận khoa học - công nghệ, mở rộng thị trường...;
đồng thời cũng phải thấy rõ những tác động mặt trái của hội nhập kinh tế như: những
thách thức về sức ép cạnh tranh gay gắt hơn; những biến động khó lưòng trên thị
trường tài chính, tiền tệ, thị trường hàng hóa quốc tế và cả những thách thức về chính
trị, an ninh, văn hóa.
Thực chất chiến lược hội nhập kinh tế là một kế hoạch tổng thể về phương
hướng, mục tiêu và các giải pháp cho hội nhập kinh tế. Xây dựng chiến lược hội nhập
kinh tế phải phù hợp với khả năng và điều kiện thực tế. 
Trước hết, cần đánh giá đúng được bối cảnh quốc tế, xu hướng vận động kinh
tế, chính trị thế giới; tác động của toàn cầu hóa, của cách mạng công nghiệp đối với
các nước và cụ thể hóa đối với nước ta; trong đó, cần chú ý tới sự chuyển dịch tương
quan sức mạnh kinh tế giữa các trung tâm; xu hướng đa trung tâm, đa tầng nấc đang
ngày càng được khẳng định; nền tảng kinh tế thế giới có những chuyển dịch căn bản.
Mặt khác, cũng cần phải đánh giá được vai trò của tổ chức kinh tế quốc tế, các
công ty xuyên quốc gia và vai trò của các nước lốn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản,
Nga và EU; cũng như các điều chỉnh chính sách của các nước này trong vai trò chủ
đạo, dẫn dắt các xu hướng liên kết kinh tế quốc tế.
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cho đến nay, về hợp tác song phương,
Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn hàng trăm quốc gia trên thế giới, mở
rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới các thị trường quốc gia và vùng lãnh
thổ, ký kết trên 90 hiệp định thương mại song phương, hiệp định khuyến khích và bảo
hộ đầu tư, hiệp định chống đánh thuế hai lần. 
Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế là sự hình thành các liên kết kinh tế
quốc tế và khu vực để tạo ra sân chơi chung cho các nước. Việc tích cực tham gia các
liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện nghiêm túc các cam kết của các liên kết góp phần
nâng cao uy tín, vai trò của Việt Nam trong các tổ chức này; tạo được sự tin cậy, tôn
trọng của cộng đồng quốc tế, đồng thời giúp chúng ta nâng tầm hội nhập quốc tế trên
các tầng nấc, tạo cơ chế liên kết theo hướng đẩy mạnh chủ động đóng góp, tiếp cận đa
ngành, đa phương, đề cao nội hàm phát triển để đảm bảo các lợi ích cần thiết trong hội
nhập kinh tế.
Việc tích cực tham gia các liên kết kinh tế quốc tế và thực hiện nghiêm túc các
cam kết của các liên kết góp phần nâng cao uy tín, vai trò của Việt Nam trong các tổ
chức này; tạo được sự tin cậy, tôn trọng của cộng đồng quốc tế, đồng thời giúp chúng
ta nâng tầm hội nhập quốic tế trên các tầng nấc, tạo cơ chế liên kết theo hướng đẩy
mạnh chủ động đóng góp, tiếp cận đa ngành, đa phương, đề cao nội hàm phát triển để
đảm bảo các lợi ích cần thiết trong hội nhập kinh tế.
Một trong những điều kiện của hội nhập kinh tế quốc tế là sự tương đồng giữa
các nướC về thể chế kinh tế. Trên thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều phát triển
theo mô hình kinh tế thị trường tuy có sự khác biệt nhất định. Việc phát triển theo mô
hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của nước ta mặc dù có sự khác
biệt với các nước về định hướng chính trị của sự phát triển nhưng nó không hề cản trở
sự hội nhập. 
Vấn đề có ảnh hưởng lớn hiện nay là cơ chế thị trường của nước ta chưa hoàn
thiện; hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ, chính sách điều chỉnh kinh
tế trong nước chưa phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; môi trường cạnh
tranh còn nhiều hạn chế. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, cần
hoàn thiện cơ chế thị trường trên cơ sở đổi mới mạnh mẽ về sở hữu, coi trọng khu vực
tư nhân và doanh nghiệp nhà nước; hình thành đồng bộ các loại thị trường; đảm bảo
môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế.
Nhà nước cần rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là luật pháp liên quan
đến hội nhập kinh tế như: đất đai, đầu tư, thương mại, doanh nghiệp, thuế, tài chính tín
dụng,... Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp vối luật pháp quốíc tế;
đồng thời phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là tranh
chấp thương mại, đầu tư quốc tế; xử lý có hiệu quả các tranh chấp, vướng mắc kinh tế,
thương mại nhằm bảo đảm lợi ích của người lao động và doanh nghiệp trong hội nhập.
Hiệu quả của hội nhập kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào năng lực cạnh tranh của
nền kinh tê cũng như của các doanh nghiệp Với nền tảng công nghệ và hạ tầng yếu
kém, nguồn lao động có chất lượng thấp, quy mô đầu tư nhỏ bé khiến cho năng lực
cạnh tranh thấp, hạn chế khả năng vươn ra thị trường thế giới của các doanh nghiệp.
Tác động của hội nhập kinh tế có thể rất tích cực, sống không có nghĩa đúng với mọi
ngành, mọi doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, ngành hàng, lợi ích cũng không tự
đến. Đổ đứng vững trong cạnh tranh, các doanh nghiệp phải chú trọng tới đầu tư, cải
tiến công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Đặc biệt là phải học các
cách thức kinh doanh trong bối cảnh mới: học cách tìm kiếm cơ hội kinh doanh, học
cách kết nối cùng chấp nhận cạnh tranh, học cách huy động vốn, học cách quản trị sự
bất định, học cách đồng hành với Chính phủ, học cách “đối thoại pháp lý”.
Nhà nước cần chủ động, tích cực tham gia đầu tư và triển khai các dự án xây
dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với nhu cầu của các
doanh nghiệp; tổ chức các khóa đào tạo, trao đổi kinh nghiệm về kỹ năng hội nhập,
quản trị theo cách toàn cầu, đề cao năng lực sáng tạo, đặc biệt là kiến thức về luật kinh
tế, thương mại quốc tế..., phát triển, hoàn thiện hạ tầng cơ sở sản xuất, giao thông,
thông tin, dịch vụ... giúp giảm chi phí sản xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút
vốn, công nghệ tiên tiến, thúc đẩy tăng năng suất lao động của các doanh nghiệp.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ không chỉ xuất phát từ quan điểm, đường
lối chính trị độc lập, tự chủ mà còn là đòi hỏi của thực tiễn, nhằm bảo đảm độc lập, tự
chủ vững chắc về chính trị, bảo đảm phát triển bền vững và có hiệu quả cho nền kinh
tế, cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế. Khi đã có độc lập, tự chủ về chính trị thì
nội dung cơ bản của độc lập, tự chủ của một quốc gia là xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ. Nền kinh tế độc lập, tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào
nước khác, người khác, hoặc vào một tổ chức kinh tê nào đó về đường lối, chính sách
phát triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thương mại, viện
trợ... để áp đặt, không chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân
tộc.
Đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đáp
ứng yêu cầu và lợi ích của đất nước trong quá trình phát triển; đồng thời qua đó phát
huy vai trò của Việt Nam trong quá trình hợp tác với các nước, các tổ chức khu vực và
thế giới.
Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong hội nhập
quốc tế. Mở rộng quan hệ quốc tế phải quán triệt và thực hiện nguyên tắc bình đẳng,
cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng
hòa bình. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại để tạo sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa nước ta với
các nước trong khu vực và trên thế giới.
d) Hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hệ
thống chính trị

Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây dựng
được môi trường pháp luật thông thoáng, bảo vệ được lợi ích chính đáng của các chủ
thể kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là lợi ích của đất nước. Trong bối cảnh hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia còn phải tuân
thủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật
của nước ta đã và đang thay đổi tích cực. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất hiện nay là tuân
thủ pháp luật. 
Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu phải đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế (bao gồm hệ thống đường bộ, đường sắt, đường
sông, đường hàng không...; hệ thống cầu công; hệ thống trộn, nước; hệ thống thông tin
liên lạc...). Nhờ phát triển kết cấu hạ tầng được coi là một trong ba đột phá lớn, trong
nhũng năm vừa qua, kết cấu hạ tầng của nền kinh tế nước ta đã được cải thiện rất đáng
kể, đáp ứng nhu cầu của các hoạt động kinh tế. Môi trường vĩ mô về kinh tế đòi hỏi
Nhà nước phải đưa ra được các chính sách phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế trong
từng giai đoạn. Thực tế cho thấy, các chính sách kinh tế của Việt Nam đang từng bước
đáp ứng yêu cầu này. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế còn là
tạo lập môi trường văn hóa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường. Đó là
môi trường trong đó con người năng động, sáng tạo; tôn trọng kỷ cương, pháp luật; giữ
chữ tín…
Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy luật
thị trường, sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi ích kinh tế
của một bộ phận dân cư được thực hiện rất khó khăn, hạn chế. Vì vậy, nhà nước cần có
các chính sách, trước hết là chính sách phân phối thu nhập nhằm bảo đảm hài hòa các
lợi ích kinh tế, Trong điều kiện kinh tế thị trường, một mặt, phải thừa nhận sự chênh
lệch về mức thu nhập giữa các tập thể, các cá nhân là khách quan; nhưng mặt khác
phải ngăn chặn sự chênh lệch thu nhập quá đáng. Sự phân hóa xã hội thái quá có thể
dẫn đến căng thẳng, thậm chí xung đột xã hội. Đó là những vấn đề mà chính sách phân
phối thu nhập cần phải tính đến. Phân phối không chỉ phụ thuộc vào quan hệ sở hữu,
mà còn phụ thuộc vào sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao,
hàng hóa, dịch vụ càng dồi dào, chất lượng càng tốt, thì thu nhập của các chủ thể càng
lớn. Do đó, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ sẽ
góp phần nâng cao thu nhập cho các chủ thể kinh tế. Đó chính là những điều kiện vật
chất để thực hiện ngày càng đầy đủ sự công bằng xã hội trong phân phối.
Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của phân phối thu nhập. Phân phối công
bằng, hợp lý góp phần quan trọng đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế. Do đó, Nhà
nước phải tích cực, chủ động thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập. Hiện nay,
công bằng trong phân phối có thái quan niệm chính: công bằng theo mức độ (căn cứ
vào mức thu nhập mà mỗi chủ thể nhận được) và công bằng theo chức năng (căn cứ
vào mức đóng góp trong quá trình tạo ra thu nhập). Mỗi quan niệm đều có ưu điểm và
nhược điểm, vì vậy cần sử dụng kết hợp cả hai quan niệm này. Trước hết, Nhà nước
phải chăm lo đời sống vật chất cho mọi người dân. ở mỗi giai đoạn phát triển, người
dân phải đạt được mức sống tối thiểu. Để làm được điều này, Nhà nước cần thực hiện
có hiệu quả các chính sách xóa đói, giảm nghèo, tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình
đẳng các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thoát đói
nghèo vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo, khắc phục tư tưởng
bao cấp, ỷ lại. Chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội, vận động toàn dân tham gia các
hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn. Đẩy mạnh các hoạt động nhân
đạo, từ thiện, giúp đỡ người nghèo, đồng bào các vùng gặp thiên tai... Nhà nước cần có
các chính sách khuyến khích người dân làm giàu hợp pháp, tạo điều kiện và giúp đỡ
họ bằng mọi biện pháp. Về nguyên tắc, người dân được làm tất cả những gì luật pháp
không cấm; luật pháp chỉ cấm những hoạt động gây tổn hại lợi ích quốc gia và các lợi
ích hợp pháp khác. Để lợi ích kinh tế thật sự là động lực của các hoạt động kinh tế,
người lao động và người sử dụng lao động phải có nhận thức và hành động đúng trong
lĩnh vực phân phối thu nhập. Họ cần phải hiểu được các nguyên tắc phân phối của kinh
tế thị trường để có sự phân chia hợp lý giữa tiền lương và lợi nhuận; chủ doanh nghiệp
phải hiểu và tự nguyện thực hiện nghĩa vụ nộp thuế... Tuyên truyền, giáo dục để nâng
cao nhận thức, hiểu biết về phân phối thu nhập cho các chủ thể kinh tế - xã hội là
những giải pháp rất cần thiết để loại bỏ những đòi hỏi không hợp lý về thu nhập.
Trong trường hợp người lao động và người sử dụng lao động không tự nhận thức và
thực hiện được, Nhà nước cần có sự tư vấn, điều tiết hợp lý. Bên cạnh đó, trong cơ chế
thị trường, thu nhập từ các hoạt động bất hợp pháp như buôn lậu, làm hàng giả, hàng
nhái; lừa đảo; tham nhũng... tồn tại khá phổ biến. Các hoạt động này càng gia tăng,
càng làm tổn hại lợi ích kinh tế của các chủ thể làm ăn chân chính. Để chống các hình
thức thu nhập bất hợp pháp, bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế, trước hết, phải có bộ
máy nhà nước liêm chính, có hiệu lực. Bộ máy nhà nước phải tuyển dụng, sử dụng
được những người có tài, có tâm; sàng lọc được những người không đủ tiêu chuẩn.
Cán bộ, công chức nhà nước phải được đãi ngộ xứng đáng và chịu trách nhiệm đến
cùng mọi quyết định trong phạm vi, chức trách của họ. Nhà nước phải kiểm soát được
thu nhập của công dân, trước hết là thu nhập của cán bộ, công chức nhà nước. Trước
pháp luật, mọi người dân và cán bộ, công chức nhà nước phải thực sự bình đẳng; mọi
vi phạm phải được xét xử theo quy định của pháp luật. Thực hiện công khai, minh
bạch mọi cơ chế, chính sách và quy định của Nhà nước... Nhờ đó, người dân, doanh
nghiệp và cán bộ, công chức nhà nước hiểu rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình.
Đồng thời, các cơ quan công quyền, cán bộ, công chức nhà nước được giám sát, sẽ
tránh được tình trạng lạm quyền, thiếu trách nhiệm, tham nhũng…
Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện các quy định, văn bản quy
phạm pháp luật về quản lý, điều hành bảo đảm công khai, minh bạch, góp phần xóa bỏ
cơ chế “xin - cho”, “duyệt - cấp”; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích
nhóm”, “sân sau”, trục lợi trong quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công, cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu tư, đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài chính, ngân
hàng, thuế, hải quan, phân bổ, quản lý và sử dụng biên chế…
Ngăn ngừa là chính nhưng khi mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế bùng phát có
thể dẫn đến xung đột (đình công, bãi công...). Khi có xung đột giữa các chủ thể kinh
tế, cần có sự tham gia hòa giải của các tổ chức xã hội có liên quan, đặc biệt là nhà
nước.

You might also like