Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 37

ĐỀ TÀI: CHIA QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN VÀ

THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.........................................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................................1
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu..............................................................................2
2.1. Đối tượng nghiên cứu.............................................................................................................2
2.2. Phạm vi nghiên cứu................................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu......................................................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................................................3
5. Bố cục của đề tài.............................................................................................................................4
PHẦN NỘI DUNG.....................................................................................................................................5
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHIA QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN....................................................................................................5
1.1. Khái niệm ly hôn, quyền sử dụng đất khi ly hôn và một số vấn đề liên quan........................5
1.1.1. Khái niệm ly hôn.................................................................................................................5
1.1.2. Tổng quan tình trạng ly hôn trong thời gian gần đây......................................................7
1.1.3. Hệ quả pháp lý của việc ly hôn..........................................................................................8
1.1.4. Khái niệm và bản chất của quyền sử dụng đất.................................................................9
1.1.5. Bản chất pháp lý của quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng theo quy định
pháp hiện hành.................................................................................................................................10
1.2. Lịch sử phát triển liên quan đến chế định chia quyền sử dụng đất khi ly hôn theo quy định
pháp luật từ trước đến nay..................................................................................................................11
1.3. Thực trạng quy định pháp luật về chia quyền sử dụng đất khi ly hôn.................................12
1.3.1. Thực trạng pháp luật về nguyên tắc phân chia quyền sử dụng đất khi ly hôn............12
1.4. Một số bản án và án lệ liên quan đến phân chia quyền sử dụng khi ly hôn theo quy định
pháp luật hiện hành..............................................................................................................................20
1.4.1. Án lệ số 03/2016/AL về vụ án “Ly hôn”..........................................................................20
1.4.2. Bản án số số 951/2019/HNGĐ-ST ngày 21/8/2019 của Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức
21
CHƯƠNG 2: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÂN CHIA QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT KHI LY HÔN, NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...................................................................24
2.1. Thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức................................................24
2.1.1. Các số liệu đáng chú ý liên quan đến việc giải quyết các vụ án ly hôn..........................24
2.1.2. Những mặt tích cực trong thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan chia quyền sử dụng
đất khi ly hôn tại Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức...............................................................25
2.1.3. Những hạn chế còn tồn đọng và nguyên nhân của những hạn chế...............................26
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến chia quyền sử dụng
đất khi ly hôn........................................................................................................................................27
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật chia quyền sử dụng đất khi
ly hôn Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức......................................................................................29
KẾT LUẬN...............................................................................................................................................31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................32
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền sử dụng đất là loại tài sản đặc biệt trong chế định pháp luật về tài sản ở
nước ta. Liên quan đến cơ chế quyền sử dụng đất, mới đây Ban Chấp hành Trung Ương
vừa ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
Ương Đảng khóa XIII nêu rõ “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu thông qua
việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất,
công nhận quyền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng và quy định thời hạn sử
dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất
không phải do người sử dụng đất tạo ra”1. Quyền sử dụng đất được công nhận là một loại
tài sản từ sau Hiến pháp năm 1992, theo đó các chủ thể có quyền sử dụng đất hợp pháp có
thể thực hiện các hoạt động chuyển quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật. Đồng thời
với những công nhận mới về tính pháp lý của quyền sử dụng đất như đã trình bày, phạm
vi chủ thể có thể được giao, cho thuê và có quyền sử dụng đất hợp pháp cũng được mở
rộng. Theo đó, việc sở hữu tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng đối với tài
sản là quyền sử dụng đất là một trong những chế định pháp luật đặc biệt.
Sở dĩ nhận định quyền sử dụng đất của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là một chế
định pháp luật đặc biệt là bởi vì, căn cứ theo quy định pháp luật đất đai hiện hành việc
người sử dụng đất được Nhà nước giao đất hay cho thuê đất thường là cá nhân hoặc tổ
chức. Trong khi đó, đối với cơ chế quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân, việc một bên vợ hoặc chồng được nhà nước trao quyền sử dụng đất sẽ
đồng thời phát sinh quyền của bên còn lại. Chính vì vậy, trong một số trường hợp thực tế,
nếu việc trao quyền sử dụng đất cho một bên vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có những
vướng mắc về xác định quyền sử dụng đất này tài sản chung hoặc tài sản riêng sẽ phát
sinh nhiều tranh chấp khi ly hôn. Trong giai đoạn hiện nay, việc giải quyết đúng đắn các
vụ kiện ly hôn về tranh chấp quyền sử dụng đất có ý nghĩa đặc biệt to lớn. Việc giải quyết
tranh chấp về bất động sản khi ly hôn phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn
nhân và Gia đình như: Nguyên tắc bình đẳng giữa vợ và chồng, nguyên tắc bảo đảm
quyền lợi của người vợ và con chưa thành niên, nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em…
1
Báo Thanh Niên, Quyền sử dụng đất là tài sản đặc biệt nhưng không phải quyền sở hữu, xem tại
https://thanhnien.vn/quyen-su-dung-dat-la-tai-san-dac-biet-nhung-khong-phai-quyen-so-huu-1851471864.htm, truy
cập 10/2/2023

1
khẳng định quyền sở hữu của cá nhân trong Bộ luật dân sự, đồng thời đảm bảo sự công
bằng về lợi ích của các bên đương sự, góp phần bình ổn xã hội dân sự, đảm bảo thống
nhất quản lý đất đai của nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay việc áp dụng pháp luật để giải
quyết các tranh chấp nhà ở và quyền sử dụng đất trong các vụ án ly hôn gặp nhiều khó
khăn và hạn chế. Một phần do quy định chồng chéo của các văn bản pháp luật, một phần
do trình độ yếu kém, chưa đồng đều của các cán bộ Tòa án. Điều đó, dẫn đến tình trạng
các đương sự không đồng ý với bản án sơ thẩm và nộp đơn phúc thẩm tạo nên sự quá tải
của tòa cấp phúc thẩm, từ đó kéo theo một số hệ lụy khác như: Việc giải quyết án chậm,
kém chất lượng, gây tốn kém tiền của, công sức… Nhận thấy việc giải quyết các tranh
chấp nhà ở và quyền sử dụng đất trong các vụ án ly hôn có vai trò quan trọng, là một đề
tài phong phú, có ý nghĩa thiết thực trong đời sống nên tôi đã lựa chọn đề tài “Chia quyền
sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án nhân dân
thành phố Thủ Đức" làm đề tài nghiên cứu.
2. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài “Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn
và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức” là các vấn đề
mang tính lý luận nói chung và các quy định pháp luật cụ thể nói riêng liên quan đến việc
giải quyết các vụ việc tranh chấp chia quyền sử dụng đất khi ly hôn theo pháp luật hiện
hành.
Ngoài các vấn đề mang tính lý luận như đã được trình bày trên đây, tác giả còn xác
định đối tượng nghiên cứu của đề tài này là thực tiễn áp dụng pháp luật về nội dung, pháp
luật về hình thức để giải quyết các vụ án tranh chấp chia quyền sử dụng đất khi ly hôn
trong thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn của đề tài này, tác giả tiến hành
việc nghiên cứu đề tài trong phạm vi các quy định pháp luật về hôn nhân gia đình, pháp
luật tố tụng để giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình hiện hành nói chung, trong đó
tập trung các quy định về chia quyền sử dụng đất khi ly hôn. Bên cạnh những quy định
pháp luật, nhằm mục đích làm rõ các vấn đề của đề tài này, tác giả còn tiến hành nghiên

2
cứu các bài báo, nghiên cứu khoa học được đăng công khai trên các tạp chí về pháp luật
để có được nhận định chính xác và toàn diện nhất về các vấn đề pháp lý của đề tài.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn được tiến hành trên phạm vi thực tiễn xét xử
và giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình nói chung và các tranh chấp ly hôn có chia
quyền sử dụng đất nói riêng tại Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức.
Ngoài ra, đề tài nghiên cứu cũng đề cập đến những thuận lợi, khó khăn và nguyên
nhân khi áp dụng trên thực tiễn, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện các
quy định của pháp luật liên quan đến chia quyền sử dụng đất khi ly hôn.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu “Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn và thực tiễn áp
dụng pháp luật tại Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức” tập trung làm rõ những vấn đề
mang tính lý luận về thực tiễn đối với vấn đề chia quyền sử dụng đất khi ly hôn nơi sinh
viên thực tập nói riêng. Theo đó, các mục tiêu nghiên cứu đề tài được nêu cụ thể bao gồm
nhưng không giới hạn các nội dung sau đây:
- Một là, phân tích các nội dung quy định pháp luật về quyền sử dụng đất và cơ chế
tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật Việt Nam
hiện nay. Trong đó nêu rõ các khái niệm bất động sản, quyền sử dụng đất, nguyên
tắc chia tài sản vợ chồng và chia quyền sử dụng đất khi ly hôn theo quy định pháp
luật hiện hành.
- Hai là, trên cơ sở những lý luận hệ thống phát luật đã được phân tích, tác giả tiến
hành phân tích, đánh giá việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn thông qua những
đánh giá về tình hình áp dụng pháp luật về chia quyền sử dụng đất khi ly hôn tại
địa phương và nơi tác giả đang thực tập.
- Ba là, đề xuất các giải pháp để hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật tại Việt
Nam thông qua đó nâng cao được hiệu quả áp dụng quy định pháp luật về chia
quyền sử dụng đất khi ly hôn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước.
Đồng thời, tác giả còn sử dụng và kết hợp một cách hợp lý các phương pháp nghiên cứu

3
khoa học như: phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn giải, so sánh, hệ thống và đánh giá
vấn đề nhiều mặt để đưa ra kết luận một cách phù hợp nhất liên quan đến các vấn đề pháp
luật môi giới bất động sản tại nước ta hiện nay.
Để đánh giá được tính chân thực và khả năng vận dụng các quy định của pháp luật
vào thực tiễn thì cần phải vận dụng kết hợp các phương pháp trên một cách khoa học và
hiệu quả. Ngoài ra, cần nghiên cứu, phân tích kỹ lưỡng và đánh giá các vấn đề được đặt ra
trong bài khóa luận một cách hoàn chỉnh.

5. Bố cục của đề tài


Kết cấu của tiểu luận gồm ba phần là phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận. Phần nội dung của tiểu luận sinh viên chia tiểu luận gồm hai chương như sau:
Chương I: Lý luận chung về ly hôn và pháp luật về chia quyền sử dụng đất khi ly
hôn
Chương II: Thực tiễn áp dụng pháp luật phân chia tài sản là quyền sử dụng đất khi
ly hôn và kiến nghị hoàn thiện các quy định phân chia quyền sử dụng đất khi ly hôn, nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật tại Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức

4
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHIA QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
1.1. Khái niệm ly hôn, quyền sử dụng đất khi ly hôn và một số vấn đề liên quan
Nền tảng pháp lý đầu tiên cần phải nhận thức đầy đủ trước khi tiến hành những
nghiên cứu cụ thể hơn được nêu trong mục tiêu của đề tài này đó chính là các khái niệm
pháp lý về ly hôn và quyền sử dụng đất khi ly hôn.
1.1.1. Khái niệm ly hôn
Thế nào là ly hôn? Về mặt bản chất, ly hôn là một sự kiện pháp lý làm chấm dứt
một sự kiện pháp lý đã được các chủ thể trong quan hệ này xác lập trước đó – kết hôn.
Như vậy, từ nhận định ban đầu này, có thể nhận thấy rằng khi tiến hành việc ly hôn, các
chủ thể đồng thời phải giải quyết các hậu quả pháp lý phát sinh từ sự kiện pháp lý này.
Như vậy, nếu xem xét ly hôn với quan điểm của Đảng và Nhà nước ta mong muốn xây
dựng xã hội vững mạnh mà nền tảng cơ bản cho công cuộc này là gia đình thì hiện tượng
pháp lý hôn có thể được xem là hiện tượng xã hội bất bình thường. Mặc dù vậy, nếu xem
xét một cách thấu đáo về nguyên nhân dẫn dến ly hôn thì có thể nhận định rằng sự bất
bình thường này là cần thiết để đảm bảo quyền tự do trong hôn nhân và nó như là biện
pháp để củng cố hôn nhân tự nguyện, tiến bộ2. Sở dĩ nói việc ly hôn là biện pháp để củng
cố hôn nhân tự nguyện, tiến bộ là bởi lẽ nguyên nhân ly hôn hầu hết đến từ kết hôn khi độ
tuổi còn quá nhỏ chưa đầy đủ nhận thức, xuất phát từ những mâu thuẫn kinh tế hoặc bạo
lực gia đình. Việc buộc những cuộc hôn nhân có quá nhiều vấn đề phải tồn tại sẽ gây ra
những hậu quả khó lường, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống nói chung của các cá
nhân liên quan và xã hội nói chung. Do vậy, việc xây dựng cơ chế pháp luật về ly hôn là
hoàn toàn cần thiết và phù hợp để giải quyết những nhu cầu được sống và lao động hạnh
phúc của các cá nhân trong xã hội hiện nay nói chung. Ly hôn cũng là một trong những
đặc trưng pháp lý khẳng định sự bình đẳng giới tính trong thế kỷ mới so với các chế định
không công bằng tồn tại ở giai đoạn Nhà nước phong kiến.
Về khái niệm ly hôn, căn cứ quy định tại khoản 14 Điều 3 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2014 thì ly hôn được hiểu là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết
2
Trang Thông tin Điện tử Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Gia Lai, Thực trạng ly hôn, nguyên nhân và giải pháp kiềm
chế, xem tại https://vksnd.gialai.gov.vn/Nghien-cuu-Trao-doi/thuc-trang-ly-hon-nguyen-nhan-va-giai-phap-kiem-
che-2083.html, truy cập ngày 11/02/2023

5
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Mặc dù khái niệm này được áp dụng trong thời
gian khá lâu kể từ khi Luật hôn nhân và gia đình được ban hành năm 2014, tuy nhiên vẫn
còn một số các thiếu sót về việc định nghĩa ly hôn tại quy định này. Theo đó, mặc dù nhận
định cụ thể chủ thể của quan hệ ly hôn tại khái niệm là vợ chồng, tuy nhiên quy định này
không đề cập đến tình trạng sinh học của chủ thể là vợ hoặc chồng khi ly hôn. Cần phải
nhận thức rõ ràng rằng, nếu một bên vợ hoặc chồng chết trong thời kỳ hôn nhân, người
còn lại sẽ không được tiến hành thủ tục ly hôn, trong trường hợp này quan hệ hôn của họ
đã chấm dứt trên thực tế. Do vậy, cần thiết phải xây dựng lại định nghĩa pháp lý về hiện
tượng ly hôn, trong đó thể hiện đầy đủ các nội dung phân tích như đã được đề cập. Như
vậy, có thể khái niệm lại ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng khi cả hai người đang
còn sống, do cả hai bên vợ chồng thuận tình và được Tòa án công nhận bằng quyết định
công nhận thuận tình ly hôn hoặc chỉ do một bên yêu cầu, được Tòa án đưa ra xét xử và
phán quyết bằng một bản án cho ly hôn 3. Như vậy, thông qua khái niệm về ly hôn này, có
thể nhận thấy việc ly hôn không chỉ dựa trên ý chí đồng thuận hoặc đơn phương của các
cá nhân, để được xem xét và công nhận việc ly hôn cần phải được thể hiện bằng một
quyết định hoặc bản án của Tòa án nhân dân có thẩm quyền.
Có thể nói, ly hôn là sự lựa chọn của hai người cả vợ và chồng hoặc đơn phương từ
một phía chồng hoặc vợ nhưng hệ lụy kèm với nó là cả một vấn đề. Nhìn chung, việc ly
hôn có thể làm ảnh hưởng tới cuộc sống của những người xung quanh, đặc biệt là ảnh
hưởng đến tâm sinh lý của những đứa trẻ; để lại gánh nặng cho xã hội nếu như con cái
của họ bị bỏ rơi, không được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục chu đáo từ đó sẽ ảnh hưởng
tới quá trình phát triển nhân cách của những đứa trẻ, làm chúng dễ sa ngã vào những tệ
nạn xã hội... Nguyên nhân gia đình không quan tâm một cách đầy đủ như đã được nêu là
một trong những lý do vì sao mà trong những năm gần đây tình trạng tội phạm tuổi vị
thành niên có xu hướng gia tăng.
Nội dung trên đây trình bày khái niệm ly hôn và các nội dung nghiên cứu về bản
chất liên quan đến việc ly hôn. Phần dưới đây của đề tài, tác giả sẽ tiến hành thống kê các
số liệu về ly hôn để cho thấy thực trạng ly hôn trên thực tế làm nền tảng cho những nội
dung nghiên cứu cụ thể hơn tại đề tài này.

3
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Tình trạng ly hôn gia tăng - Nguyên nhân, giải pháp khắc phục, xem tại
http://www.vksquangninh.gov.vn/trao-doi-nghiep-vu/cac-d-o-lu-t-tu-phap-m-i/2608-tinh-trang-ly-hon-gia-tang-
nguyen-nhan-giai-phap-khac-phuc, truy cập ngày 13/02/2023

6
1.1.2. Tổng quan tình trạng ly hôn trong thời gian gần đây
Số liệu thống kê cho thấy, số vụ ly hôn ở Việt Nam hiện ở mức 60.000 vụ/năm,
tương đương 0,75 vụ/1.000 dân. Tỷ lệ ly hôn so với kết hôn là 25%, có nghĩa rằng, cứ 4
cặp vợ chồng đi đăng ký kết hôn thì một đôi ra tòa 4. Trong một nghiên cứu khác, thống kê
của Viện nghiên cứu Gia đình và Giới vào năm 2018, trung bình cả nước có trên 60.000
vụ ly hôn mỗi năm, chiếm tỷ lệ 30% tổng số cặp đôi. Điều này đồng nghĩa với việc cứ 10
cặp đôi kết hôn thì có đến 3 cặp ly hôn. Trong số các cặp đôi ly hôn, 70% số vụ thuộc về
các gia đình trẻ trong độ tuổi từ 18-30, 60% ly hôn sau từ 1-5 năm chung sống, nhiều
trường hợp chỉ kết hôn được vài tháng hoặc vài ngày5.
Thông qua các số liệu này, có thể nhận thấy tình trạng ly hôn tại Việt Nam ngày
càng trở nên đáng báo động. Xã hội phát triển ngày càng nhanh chóng là nguyên nhân dẫn
đến những thách thức mới trong việc gìn giữ hôn nhân bền vững. Yêu vội và kết hôn vội
là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng gia tăng tỷ lệ ly hôn. Thêm
vào đó, cũng có thể nhận định, việc ngày càng ý thức rõ vai trò, vị trí của mình trong xã
hội, không muốn chịu sự bất công như đã bị đối xử ở những thời kỳ trước đó của đại bộ
phận phụ nữ cũng là nguyên nhân gián tiếp để số liệu về ly hôn tăng cao. Mặc dù vậy,
việc nâng cao ý thức của phụ nữ trong mối quan hệ hôn nhân gia đình như đã được trình
bày cũng góp phần quan trọng trong công tác xây dựng bình đẳng giới, hạn chế tình trạng
bạo lực gia đình.
Nhận thức đúng đắn các nguyên nhân dẫn đến tình trạng ly hôn này đặt ra những
yêu cầu về công tác quản lý của Nhà nước đối với các vấn đề hôn nhân và gia đình này.
Để xây dựng gia đình bền vững, hạnh phúc, các cặp vợ chồng cần nhận thức vai trò, vị trí,
trách nhiệm của mình và phải biết yêu thương, lắng nghe, chia sẻ, tôn trọng, nhường nhịn,
thủy chung với nhau. Bên cạnh đó, cần lồng ghép và tổ chức tuyên truyền pháp luật về
hôn nhân gia đình, vai trò của gia đình thông qua các cuộc họp, sinh hoạt đoàn thể ở cơ sở
và thường xuyên mở các cuộc thi về chủ đề hạnh phúc gia đình để gắn kết tình cảm giữa
các thành viên trong gia đình với nhau. Mới đây, để duy trì sự lành mạnh của các tế bào
của xã hội là gia đình, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã ban hành Bộ tiêu chí ứng xử

4
Báo Đại Đoàn Kết – Cơ quan của Mặt trận Trung Ương Việt Nam, Gia tăng tình trạng ly hôn, xem tại
http://daidoanket.vn/gia-tang-tinh-trang-ly-hon-5689906.html#:~:text=S%E1%BB%91%20li%E1%BB%87u%20th
%E1%BB%91ng%20k%C3%AA%20cho,th%C3%AC%20m%E1%BB%99t%20%C4%91%C3%B4i%20ra%20t
%C3%B2a, truy cập ngày 14/02/2023
5
Báo Thanh niên, Gia đình trẻ Việt ngày càng thiếu sự gắn bó và bền vững, xem tại https://thanhnien.vn/gia-dinh-
tre-viet-ngay-cang-thieu-su-gan-bo-va-ben-vung-1851503856.htm, truy cập ngày 15/02/2023

7
trong gia đình được ban hành kèm theo Quyết định 224/QĐ-BVHTTDL ngày 28/01/2022.
Đây là một trong những bước phát triển mới và thể hiện sự quan tâm nhất định của Nhà
nước ta trong việc duy trì sự bình ổn trong cuộc sống hôn nhân gia đình và hạn chế sự gia
tăng của tình trạng ly hôn.
1.1.3. Hệ quả pháp lý của việc ly hôn
Các hệ quả xã hội của tình trạng ly hôn có thể dễ dàng nhận thức được. Theo đó,
việc ly hôn tác động đa chiều đến các chủ thể liên quan bao gồm chính vợ chồng trong
quan hệ ly hôn, những đứa trẻ là con của họ và ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng sống
của xã hội nói chung. Tuy nhiên, khi đề cập đến các hệ quả pháp lý của việc ly hôn, rất ít
cá nhân có thể nhận thức đầy đủ những vấn đề liên quan. Điều này xuất phát từ sự thiếu
hiểu biết hoặc hiểu biết không toàn diện các quy định pháp luật về ly hôn và hệ quả pháp
lý của việc ly hôn.
Liên quan đến vấn đề này, có thể khái quát các hệ quả pháp lý của việc ly hôn bao
gồm những nội dung như sau:
Một là, ly hôn làm chấm dứt quan hệ hôn nhân của vợ chồng. Như đã được trình
bày tại phần khái niệm, khác kết hôn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân,
ly hôn là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp lý này. Điều này có nghĩa là, khi
việc ly hôn hoàn tất, quan hệ vợ chồng cũng sẽ chấm dứt, các cá nhân này không còn bất
kỳ quyền hoặc nghĩa vụ nào khác với nhau kể từ thời điểm Tòa án nhân dân có thẩm
quyền ra quyết định hoặc bản án cho phép ly hôn.
Hai là, về vấn đề con chung. Trong một số trường hợp ly hôn trên thực tế, vấn đề
con chung là vấn đề dẫn đến các tranh chấp lớn giữa với các bên. Theo đó, tại Điều 81,
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cũng nêu rõ trách nhiệm của cha mệ trong việc
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn. Cụ thể, sau khi ly hôn, cha
mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi mình; vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa
vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì
Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt
của con.

8
Ba là, hệ quả pháp lý về tài sản chung. Sau khi ly hôn, các tài sản thuộc sở hữu
chung của vợ chồng sẽ được phân chia theo thỏa thuận hoặc theo nội dung pháp quyết của
Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Việc phân chia tài sản chung vợ chồng phải đảm bảo các
nguyên tắc phân chia tài sản được quy định tại Luật hôn nhân và gia đình. Trong số các
tài sản chung của vợ chồng được phân chia khi ly hôn, quyền sử dụng đất là tài sản dẫn
đến nhiều tranh chấp nhất. Phần dưới đây của đề tài nghiên cứu sẽ trình bày các vấn đề lý
luận liên quan đến khái niệm và bản chất của quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật
hiện hành.
1.1.4. Khái niệm và bản chất của quyền sử dụng đất
a. Khái niệm
Như đã được trình bày trên đây, quyền sử dụng đất là một loại tài sản đặc biệt bên
cạnh các loại tài sản khác như vật, tiền và giấy tờ có giá. Mặc dù là khái niệm pháp lý
xuất hiện thường xuyên trong cuộc, tuy nhiên hiện nay chưa có bất kỳ quy định pháp luật
nào quy định cụ thể về khái niệm quyền sử dụng đất. Mặc dù vậy, xem xét cơ chế sở hữu,
đặc biệt là cách thức xử lý của pháp uật khi quy định về quyền sử dụng đất, trong đó có
các quyền và phương thức để bảo vệ các quyền đó, có thể hiểu khái niệm pháp lý về
quyền sử dụng đất là là quyền tài sản thuộc sở hữu của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân phát
sinh trên cơ sở quyết định giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc từ các giao dịch nhận chuyển quyền sử dụng đất 6.
Về mặt chủ quan, quyền sử dụng đất được xem là một quyền năng của tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân nhằm khái thác các thuộc tính có ích của đất đai và đem lại lợi ích vật
chất nhất định cho họ. Xét trên phương diện khách quan, quyền sử dụng đất được hiểu là
một chế định quan trọng của pháp luật đất đai bao gồm tổng hợp các quy pháp luật đất đai
do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã họi phát sinh trong quá trình sử
dụng đất. Do là một loại quyền tài sản đặc biệt, cho nên việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt quyền sử dụng đất phải tuân thủ các điều kiện, thủ tục do pháp luật quy định
b. Bản chất pháp lý của quyền sử dụng đất
Quyền sử dụng đất trong phân loại tài sản theo quy định tại Điều 106 Bộ luật dân
sự năm 2015 thuộc dạng bất động sản phải đăng ký theo pháp luật. Quyền sử dụng đất có
các bản chất pháp lý cần chú ý như sau:

6
Bộ Tư Pháp, Suy nghĩ về khái niệm quyền sử dụng đất của Việt Nam, xem tại
https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2168, truy cập ngày 17/02/2023

9
Thứ nhất, như đã được trình bày, quyền sử dụng đất là một loại quyền về tài sản và
được xác định giá trị và được phép chuyển đổi trên thị trường
Thứ hai, do tính chất đặc thfu của chế độ sở hữu toàn dân nên quyền sử dụng đất
được hình thành trên cơ sở quyền sở hữu toàn dân về đất đai. Điều này có nghĩa là, người
sử dụng đất có quyền sử dụng đất có queyenf sử dụng đất khi được Nhà nước giao đất,
cho thuê đất sử dụng dụng ổn định lâu dài. Bên cạnh đó, quy định pháp luật hiện hành
cũng thừa nhận các quyền liên quan đến chuyển quyền sử dụng đất của các cá nhân, tổ
chức có quyền sử dung đất hợp pháp nếu việc chuyển quyền này phù hợp và đáp ứng các
điều kiện quy định pháp luật.
Thứ ba, quyền sử dụng đất có tính chất không trọn vẹn. Cụ thể, tính không trọn
vẹn của quyền sử dụng đất thể hiện ở điểm người sử dụng đất không có đầy đủ các quyền
năng giống như Nhà nước và không phải bất cứ người nào có quyền sử dụng đất hợp pháp
cũng có quyền năng về chuyển quyền sử dụng theo quy định. Điều này là đúng khi xem
xét quyền sử dụng là tài sản chung của vợ chồng, theo đó vợ hoặc chồng không được tự
quyền định đoạt chuyển quyền sử dụng đất nếu không có sự đồng thuận của người còn lại,
trừ trường hợp quyền sử dụng đất này được xác định là tài sản riêng.
Thứ tư, quyền sở hữu đất đai là một loại quyền tồn tại độc lập còn quyền sử dụng
đất là mộ loại quyền phụ thuộc. Tính phụ thuộc của quyền sử dụng đất thể hiển ở điểm,
người sử dụng đất không được tự mình quyết định mọi vấn đề phát sinh trong quá trình sử
dụng đất mà chỉ được quyết định một số vấn đề, còn cơ bản họ vẫn phải hành động theo ý
chí của Nhà nước với tư cách là người đại diện chủ sở hữu đối với đất được giao.
Nhìn chung, người có quyền sử dụng đất hợp pháp sẽ được nhà nước bảo hộ quyền
sở dụng đất bằng các biện pháp, quyết định phù hợp với quy định pháp luật. Trong trường
hợp quyền sử dụng đất phát sinh tranh chấp phân chia, việc phân chia phải tuân thủ và
đảm bảo các quy định. Quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn nếu
phải chia cũng phải tuân thủ các điều kiện theo quy định pháp luật. Phần dưới đây của đề
tài, tác giả sẽ trình bày cụ thể nội dung phân tích về quyền sử dụng đất là tài sản chung
của vợ chồng theo quy định pháp luật hiện hành.

10
1.1.5. Bản chất pháp lý của quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng theo
quy định pháp hiện hành
Trong chế đinh sở hữu tài sản của vợ chồng, quyền sử dụng đất cũng tương tự với
các tài sản khác được xác định là tài sản chung hợp nhất có thể phân chia theo quy định
tại khoản 1 Điều 213 Bộ luật dân sự năm 2015. Do vậy, trong quan hệ vợ chồng theo luật
hôn nhân gia đình, quyền sử dụng đất là tài sản có thể tồn tại dưới hai dạng thức, một là
tài sản chung của vợ chồng hoặc hai là phân chia quyền sử dụng đất căn cứ trên công sức
đóng góp và sự thỏa thuận hai bên. Quyền sử dụng đất có thể phân chia khi ly hôn có thể
được hiểu là sự phân chia để một bên nhận về giá trị tương ứng và một bên nhận hoàn
toàn quyền sử dụng đất hoặc cả hai bên đều là chủ quyền sử dụng đất hợp pháp. Tuy
nhiên cũng cần lưu ý rằng, để phân chia quyền sử dụng đất hợp pháp để trong trường hợp
như được đề cập, cần thiết phải đáp ứng các quy định về tách thửa, đăng ký biến động
theo quy định pháp luật đất đai.
Nhìn chung, bản chất pháp lý của quyền sử dụng là tài sản chung của vợ chồng
cũng có những tính chất tương tự với bản chất pháp lý nói chung của quyền sử dụng đất
đã được trình bày trên đây. Tuy nhiên, do hàm chưa cơ chế sở hữu chung, cho nên việc
quyết định chuyển nhượng, tặng cho,… và thực hiện các quyền khác đối với quyền sử
dụng là tài sản chung của vợ chồng cần phải có sự thống nhất và đồng thuận của bên còn
lại. Việc tạo lập và nguồn gốc của quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng đóng
vai trò quan trọng là bằng chứng cho việc phân chia các quyền sử dụng đất khi ly hôn.
Đồng thời với những chứng cứ là nguồn gốc và sự tạo lập ban đầu, để chia quyền sử dụng
đất khi ly hôn phù hợp với quy định pháp luật, Tòa án nhân dân sẽ xem xét đến nhiều yếu
tố khác như công sức đóng góp, …
Việc quy định các quy định pháp luật về chia quyền sử dụng đất khi ly hôn được
ghi nhận được ghi nhận từ khá lâu. Để nhận thức cụ thể hơn về vấn đề này, phần dưới đây
của đề tài, tác sẽ trình bày sơ lược lịch sử phát triển liên quan đến chế định chia quyền
chia quyền sử dụng đất khi ly hôn theo quy định pháp luật.
1.2. Lịch sử phát triển liên quan đến chế định chia quyền sử dụng đất khi ly hôn
theo quy định pháp luật từ trước đến nay
Mặc dù văn bản Luật hôn nhân và gia đình ra đời khá sớm, tuy nhiên ở những văn
bản đầu tiên của Luật hôn nhân và gia đình, tác giả nhận thấy rằng chưa có sự ghi nhận về
chế định quyền sử dụng đất và chia quyền sử dụng đất khi ly hôn. Theo đó, ra đời trên cơ
11
sở Hiến pháp năm 1946, Luật hôn nhân gia đình năm 1959 vẫn chưa có quy định cụ thể
về quyền sử dụng là sở hữu chung của vợ chồng trong hôn nhân. Tương tự, Luật hôn nhân
gia đình năm 1986 cũng không có những quy định về quyền sử dụng đất cũng như cơ chế
chia quyền sử dụng đất khi ly hôn. Sở dĩ những văn bản pháp luật thời kỳ này không có
quy định về quyền sử dụng đất là tài sản chung khi ly hôn và chia quyền sử dụng đất xuất
phát từ nguyên nhân thời đại. Theo đó, trong thời điểm các các văn bản pháp luật này có
hiệu lực, cơ chế sở hữu đất đai và thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại tài sản vẫn
chưa tồn tại. Do ảnh hưởng của công cuộc chống giặc ngoại xâm, đồng thời cần phải có
sự thống nhất về quản lý để phát triển đất nước sau chiến tranh đang gặp nhiều khó khăn
do sự chống phá, do vậy trong thời kỳ này Nhà nước ta không thừa nhận quyền sử dụng
đất là một loại tài sản và cũng không cho phép các cá nhân, tổ chức được quyền sở hữu
quyền tài sản này để thực hiện việc chuyển nhượng, tặng, cho, thừa kế hoặc các hoạt động
khác có tính chất tương tự. Xuất phát từ nguyên nhân chung nêu trên, cho nên cơ chế
quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân và việc chia
quyền sử dụng đất khi ly hôn cũng không được thừa nhận.
Đến thời điểm Luật hôn nhân gia đình năm 2000 ra đời, với sự cởi mở trong tư duy
lập phát và cũng nhằm phát triển mạnh mẽ nền kinh tế đang cần sự thúc đẩy của những
nhân tố mới, quy định pháp luật thời kỳ này đã bắt đầu ghi nhận quy định về quyền sử
dụng đất là tài sản chung của vợ chồng cũng như các quy định về chia quyền sử dụng đất
là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Mặc dù vậy, một hạn chế của các quy định của
Luật hôn nhân và gia đình 2000 là không có các quy định chuyển tiếp để xử lý các trường
hợp quyển sử dụng đất của vợ chồng trước thời điểm Luật này có hiệu lực. Điều này đã
gây ra những hạn chế nhất định trong việc áp dụng các quy định pháp luật tại Luật hôn
nhân gia đình năm 2000 vào thực tiễn đời sống.
Kế thừa sự tiến bộ của Luật hôn nhân gia đình năm 2000, Luật hôn nhân và gia
đình năm 2014 cũng tiếp tục ghi nhận các quy định về phân chia quyền sử dụng khi ly
hôn của vợ chồng. Đây là văn bản pháp luật hôn gia đình có hiệu lực hiện nay, để hiểu rõ
thêm các quy định pháp luật về chia quyền sử dụng đất khi ly hôn, phần dưới đây của đề
tài sẽ trình bày cụ thể hơn về nội dung này.

12
1.3. Thực trạng quy định pháp luật về chia quyền sử dụng đất khi ly hôn
1.3.1. Thực trạng pháp luật về nguyên tắc phân chia quyền sử dụng đất khi ly hôn
Trước khi đi vào nghiên cứu cụ thể hơn về các nguyên tắc phân chia quyền sử
dụng đất khi ly hôn, cần nhận thức được như thế nào là quyền sử dụng đất là tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể được chia khi ly hôn theo quy định pháp luật.
Như đã được trình bày trên đây, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và
gia đình năm 2014 thì quyền sử dụng được chia sau khi ly hôn là “Quyền sử dụng đất mà
vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc
chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng
tài sản riêng”. Quyền sử dụng đất thuộc loại bất động sản phải đăng ký, do vậy, căn cứ
quy định tại Điều 34 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được hướng dẫn tại Điều 12
Nghị định 126/2014/NĐ-CP thì quyền sử dụng đất được xác định là tài sản chung của vợ
chồng phải đăng ký theo quy định pháp luật.
Về nguyên tắc, nếu quyền sử dụng đất được xác định là tài sản chung của vợ chồng
thì vợ và chồng đều có thể đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó. Trong
trường hợp căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 12 Nghị định 126/2014/NĐ-CP, quyền sử
dụng đất là tài sản chung của vợ chồng đã được đăng ký và ghi tên một bên vợ hoặc
chồng thì vợ, chồng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp đổi để ghi tên của cả vợ
và chồng. Thủ tục cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong trường hợp này tuân
theo các quy định của Luật đất đai và các văn bản pháp luật liên quan. Trong trường hợp
tài sản chung được chia trong thời kỳ hôn nhân mà trong giấy chứng nhận quyền sở hữu,
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi tên cả vợ và chồng thì bên được chia phần tài sản
bằng hiện vật có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký tài sản cấp lại giấy chứng nhận quyền sở
hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở văn bản thỏa thuận của vợ chồng hoặc
quyết định của Tòa án về chia tài sản chung7.
Một thực tế hiện nay có thể nhận thấy, giá trị quyền sử dụng đất ngày càng tăng
cao, do vậy các tranh chấp phát sinh liên quan đến vấn đề này khi ly hôn giữa các cắp vợ
chồng cũng nhanh chóng gia tăng. Sau khi có được nhận thức cơ bản về quyền sử dụng
đất của vợ chồng có thể bị chia khi ly hôn, phần dưới đây của đề tài nghiên cứu sẽ tiến
hành trình bày những nội cụ thể hơn các nguyên tắc chia quyền sử dụng đất của vợ chồng
khi ly hôn.
7
Khoản 3 Điều 12 Nghị định 126/2014/NĐ-CP

13
a. Chia tài sản là quyền sử dụng đất trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia
đình mà ly hôn
Là một quốc gia truyền thống, việc tồn tại các gia đình nhiều thế hệ là thực tế dễ
dàng nhận thấy trong thời sống hiện nay. Gia đình nhiều thế hệ tạo nên an sinh xã hội và
là một môi trường sống chan hòa khi người già, người trẻ sống cùng nhau. Các thành viên
trong gia đình nâng niu, chăm sóc, nương tựa lẫn nhau bằng tình thương và trách nhiệm
sẽ góp phần xây dựng mái ấm gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh 8. Tuy nhiên,
một hạn chế cũng cần thừa nhận đó chính là gia đình nhiều thế hệ sẽ làm phát sinh nhiều
mâu thuẫn, tranh chấp, đặc biệt là vấn đề tài sản chung của vợ chồng trong gia đình nhiều
thế hệ. Một trong những tranh chấp về tài sản phổ biến và khó giải quyết nhất liên quan
đến tài sản sử dụng chung trong hộ gia đình đó chính là quyền sử dụng đất.
Cụ thể, liên quan đến quyền sử dụng đất là tài sản chung của hộ gia đình, pháp luật
đất đai cũng có những quy định liên quan đến vấn đề này. Tuy nhiên, trước tiên, cần thiết
phải nhận thức như thế nào là hộ gia đình. Căn cứ quy định tại Điều 106 Bộ luật dân sự
năm 2015 quy định “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp
công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ
dân sự thuộc các lĩnh vực này”. Trường hợp vợ chồng là thành viên trong gia đình được
xác định là hộ gia đình theo quy định pháp luật đất đai, việc xác định tài sản để chia khi ly
hôn của vợ chồng sẽ có nhiều nội dung phức tạp hơn. Cụ thể, căn cứ quy định tại khoản 1
Điều 212 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Tài sản của các thành viên gia đình cùng
sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài
sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên
quan”. Như vậy, trường hợp giả định vợ chồng sau khi kết hôn sống cùng gia đình, đóng
góp và tạo lập quyền sử dụng đất chung với các thành viên trong gia đình thì tài sản này
được xác định là tài sản chung của gia đình. Liên quan đến việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung của các thành viên trong gia đình nói chung và vợ chồng nói riêng
được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là quyền sử
dụng đất là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các
thành viên gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả thành viên có năng lực hành vi dân sự
8
Cổng thông tin điện tử xã Hóa Thượng, Đầm ấm gia đình nhiều thế hệ, xem tại
http://hoathuong.donghy.thainguyen.gov.vn/tin-tuc-su-kien/-/asset_publisher/NFciV42HxBkF/content/-am-am-gia-
inh-nhieu-the-he/259513?inheritRedirect=false&redirect=http%3A%2F%2Fhoathuong.donghy.thainguyen.gov.vn
%2Ftin-tuc-su-kien%2F-%2Fasset_publisher%2FNFciV42HxBkF%2Fcontent%2Ftang-cuong-kiem-tra-cac-co-so-
kinh-doanh-thuoc-tan-duoc-tren-ia-ban%2F259513, truy cập 20/02/2023

14
đầy đủ, trong đó có vợ chồng sống chung với gia đình. Tuy nhiên, trong trường hợp
không thỏa thuận được, pháp luật dân sự cũng đưa ra định hướng giải quyết đó là tiến
hành chia tài sản chung của hộ gia đình theo phần theo quy định pháp luật dân sự, trừ
phần quyền sử dụng đất được xác định là tài sản chung của vợ chồng.
Các quy định của Luật hôn nhân gia đình hiện hành cũng có hướng quy định tương
tự như Bộ luật dân sự năm 2015. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 62 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014 quy định, trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất
nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn
phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định của Luật này.
Cụ thể sau khi phần quyền sử dụng đất của vợ chồng đã được tách ra sẽ được chia theo
thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp không phân chia được theo thỏa thuận của vợ
chồng, các bên có quyền yêu cầu Tòa án chia giải quyết. Các nội dung cụ thể hơn của nội
dung chia quyền sử dụng đất khi ly hôn này, tác giả sẽ trình bày cụ thể trong phần tiếp
theo của đề tài nghiên cứu này.
Trường hợp khác, nếu vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử
dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng
đất và không tiếp tục sống chung với gia đình sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều
61 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó, tại khoản 1 Điều 61 Bộ luật dân sự năm
2015 quy định trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu quyền
sử dụng đất là tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định
được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ
vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản
chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản
chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình, nếu không thỏa thuận được thì vợ chồng khi
ly hôn hoàn toàn có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi thỏa thuận hoặc có phán
quyết của Tòa án về việc xác định phần tài sản trong quyền sử dụng đất chung của gia
đình, phần tài sản này sẽ được chia cho vợ chồng theo thỏa thuận hoặc tuân theo phán
quyết của Tòa án khi ly hôn. Mặc dù vậy, cùng với sự thay đổi của nhiều hệ thống pháp
luật chuyên ngành, chế định pháp luật liên quan đến “hộ gia định sử dụng đất” đang được
xem xét bỏ trong Dự thảo luật đất đai sửa đổi. Trong trường hợp Dự thảo được thông qua,
các quy định liên quan đến quyền sử dụng đất của vợ chồng khi sống chung với gia đình
sẽ có nhiều điểm không phù hợp với pháp luật đất đai.

15
Trong trường hợp khác, nếu vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ
chồng trong tổng khối tài sản chung của gia đình có thể xác định theo phần khi ly hôn,
phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định
pháp luật hôn nhân gia đình. Cụ thể, khi ly hôn, quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ
chồng sẽ được phân chia trước tiên theo thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp giữa
vợ chồng không thể đi đến thống nhất trong việc phân chia quyền sử dụng là tài sản chung
của vợ chồng, việc phân chia quyền sử dụng đất sẽ được thực hiện theo nguyên tắc phân
chia được quy định định tại khoản 2 Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể
việc phân chia quyền sử dụng đất khi ly hôn của vợ chồng sẽ được chia đôi giá trị nhưng
cũng sẽ xem xét đến các yếu tố liên quan như:
Thứ nhất, hoàn cảnh của gia đình và vợ, chồng. Trong quá trình xét xử ly hôn và
phân chia tài sản nói và quyền sử dụng đất nói riêng, Tòa án sẽ xem xét đến trình trạng về
về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu
nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ
chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia
đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên
kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ
nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng9
Thứ hai, công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển
khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu
nhập. Liên quan đến vấn đề này, tại Điều 7 Thông tư 01/2016/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC-BTP quy định công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và
phát triển khối tài sản chung là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình
và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung.
Trong trường hợp này, Tòa án khi xem xét phân chia quyền sử dụng đất khi ly hôn của vợ
chồng sẽ xem xét đến việc ai có công sức tạo lập quyền sử dụng đất nhiều hơn trong hôn
nhân.
Thứ ba, bảo vệ lợi ích chính đang của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập. Quy định này có nghĩa là
việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề
nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được

9
Điểm a Khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP

16
tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần
giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh
doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của
vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân
sự10. Theo đó, trong trường hợp chia quyền sử dụng đất khi ly hôn, một bên vợ hoặc
chồng chỉ có ngành, nghề sản xuất nông nghiệp gắn liền với việc sử dụng quyền sử dụng
đất đó, Tòa án sẽ xem xét theo hương bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên này.
Thứ tư, lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. Liên quan đến
vấn đề này, Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP cũng đã đưa ra
một số giải thích cụ thể như: Trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, không
chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi
của người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của vợ và con chưa thành niên. Tương tự như vậy, trong trường hợp phân chia tài sản
chung là quyền sử dụng đất nếu Tòa án xét thấy việc ly hôn xuất phát từ lỗi của một bên,
Tòa án sẽ ra phán quyết căn cứ trên những nội dung này.
Nội dung được nêu trên đây trình bày các phân tích pháp lý liên quan đến việc chia
quyền sử dụng đất khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình. Việc
chia quyền sử dụng đất khi ly hôn của vợ chồng trong một số tình huống cụ thể còn phụ
thuộc vào hình thức trao quyền sử dụng đất của Nhà nước. Phần dưới đây của đề tài sẽ
trình bày nội dung các nguyên tắc chia quyền sử dụng đất được Nhà nước giao khi ly hôn.
b. Nguyên tắc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Khác với các nội dung quy định của Luật hôn nhân gia đình năm 2000 được hướng
dẫn bởi Nghị định 70/2001/NĐ-CP trước đây, nguyên tắc chia quyền sử dụng đất là tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn phụ thuộc nhiều vào hình thức có được quyền sử dụng
đất của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Theo đó, trước đây Luật hôn nhân gia đình năm
2000 quy định các trường hợp riêng biệt trong việc áp dụng pháp luật để chia quyền sử
dụng đất khi ly hôn của vợ chồng như trường hợp được nhà nước giao đất, cho thuê đất
hoặc trong trường hợp được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế chung, nhận thế chấp.
Đến nay, Luật hôn nhân gia đình 2014 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã lược bỏ
các quy định liên quan đến việc chia quyền sử dụng đất khi ly hôn trong các trường hợp

10
Điểm c Khoản 3 Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP

17
nêu trên. Theo quy định pháp luật hiện hành, việc chia quyền sử dụng đất của vợ chồng
khi ly hôn phải tuân thủ các nội dung quy định như sau:
Một là, nếu quyền sử dụng đất được xác định là tài sản riêng của một bên vợ hoặc
chồng trong thời kỳ hôn nhân thì khi ly hôn quyền sử dụng này vẫn thuộc về bên đó. Cụ
thể, trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn,
quyền sử dụng đất là tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn
nhân, hoặc quyền sử dụng đất có trong thời kỳ hôn nhân nhưng giữa vợ và chồng có văn
bản hoặc thống nhất rằng quyền sử dụng đất này là quyền sử dụng đất riêng của một bên
thì khi ly hôn, quyền sử dụng đất này vẫn thuộc về bên đó.
Hai là, đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai
bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của
hai bên. Trường hợp nếu hai bên không thỏa thuận được thì vợ chồng có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết theo các nguyên tắc đã được trình bày trên đây trong trường hợp chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn, tính đến công sức, hoàn cảnh của vợ chồng khi ly
hôn. Tuy nhiên, một đặc thù cần phải lưu ý đó chính là, theo quy định pháp luật đất đai
hiện hành, việc phân chia quyền sử dụng đất là đất nông nghiệp hàng năm cũng cần phải
đáp ứng các điều kiện cụ thể theo quy định pháp luật. Quy định này cho phép các bên
được quyền thỏa thuận chia quyền sử dụng đất nông nghiệp hàng năm, nhưng sau khi
quyền sử dụng đất nông nghiệp hàng năm này xong thì các thủ tục pháp lý tiếp theo cần
phải thực hiện là gi vẫn chưa được đề cập. Có cần phải thụ tục đăng ký biến động, thuê
đất lại hay tách Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không? Do vậy, nội dung này
cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện nhằm đảm bảo tính khả thi khi đáp ứng vào thực tiễn.
Mặt khác, trong trường hợp trong vợ và chồng chỉ có một bên có nhu cầu và có điều
kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên
kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng. Cần phải nhận thức được rẳng, đối
với quyền sử dụng đất của đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, việc sử dụng đất của các
chủ thể được trao quyền sử dụng đất chỉ được tính theo đơn vị năm, việc sử dụng đất có
thể bị Nhà nước thu hồi bất kỳ lúc nào theo quy định của pháp luật đất đai. Do vậy, việc
quy định bên sử dụng đất có trách nhiệm thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử
dụng đất mà họ được hưởng được xác định như thế nào, vẫn là vấn đề đang bị bỏ ngỏ, có
thể dẫn đến những khó khăn trong việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn.

18
Hai là, đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất
ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Theo đó,
như đã được phân tích trên đây, việc chia quyền sử dụng đất là đất trồng cây lâu năm, đất
lâm nghiệp để trồng rừng hoặc đất ở, việc chia phải đảm bảo các nội dung nguyên tắc về
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn tại như đã được phân tích trên đây. Theo đó,
việc thỏa thuận hoặc quyết định phân chia những loại quyền sử dụng đất thì phải căn cứ
vào các yếu tố khác như công sức của các bên, hoàn cảnh của vợ hoặc chồng,….
Ba là, đối với các loại đất khác thì được chia theo quy định về pháp luật đất đai. Mặc
dù vậy, căn cứ các quy định pháp luật đất đai hiện hành, chưa có bất kỳ quy định pháp
luật nào liên quan đến việc phân chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn. Chưa
có bất kỳ quy định viện dẫn nào liên quan đến vấn đề chia giá trị quyền sử dụng đất cho
người không có nhu cầu thực tế sử dụng đất. Ví dụ, trong trường hợp là đất lúa, theo quy
định của pháp luật đất đai hiện hành, người sử dụng đất lúa phải là người trực tiếp sản
xuất trên thửa đất. Nếu căn cứ quy định này thì cơ sở nào cho phép chia giá trị cho người
không trực tiếp sử dụng đất lúa.
Nội dung trên đây trình bày các phân tích liên quan đến việc chia quyền sử dụng đất
khi ly hôn của vợ chồng. Hiện nay, trên cơ sở áp dụng pháp luật đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp tối thiểu của các bên, Luật hôn nhân gia đình năm 2014 còn có những quy định
liên quan đến quyền lưu cư của vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp một bên vợ hoặc
chồng bị tuyên thua và không còn nơi lưu trú.
c. Quyền lưu cư của vợ chồng khi ly hôn
Đầu tiên, cần tìm hiểu thế nào quyền lưu cư? Lưu cư là một thuật ngữ pháp lý được
sử dụng trong trường hợp đối với vụ kiện dân sự 11. Tuy nhiên, hiện nay chưa có bất kỳ
quy định cụ thể nào về quyền lưu cư theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm
2014. Mặc dù vậy, về mặt ngữ nghĩa, có thể hiểu quyền lưu cư dưới góc độ hôn nhân gia
đình đó chính là việc tòa án quyết định người đang có chỗ ở, có thể chỗ ở đó là nhà thuê;
nhà của vợ chồng nhưng đã có quyết định ly hôn, một bên được chia nhà, Tuy vậy, vì
những lý do khách quan, chủ quan, người đang ở chưa thu xếp được chỗ ở khác thì tòa án
hay cơ quan thi hành án sẽ ấn định thời gian cho người đang ở nơi đó được quyền lưu lại
một thời gian nhất định.
11
Báo bảo vệ pháp luật – Cơ quan của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bàn về quyền lưu cư trong vụ án dân sự, xem
tại https://baovephapluat.vn/cai-cach-tu-phap/thuc-tien-kinh-nghiem/ban-ve-quyen-luu-cu-trong-vu-an-dan-su-
128939.html, truy cập ngày 10/3/2023

19
Tại Điều 63 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Nhà ở thuộc sở hữu
riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của
người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong
thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận khác”. Trong trường hợp này, nhà ở là tài sản gắn liền với đất (hay quyền sử dụng
đất), trong trường hợp khi ly hôn, nhà ở thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng
thì vẫn thuộc sở hữu riêng của bên đó mặc dù họ có đưa nhà ở (cùng quyền sử dụng đất)
vào sử dụng chung hay không, trong trường hợp này nếu vợ hoặc chồng có khó khăn về
chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm
dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Mặc dù được đánh giá là quy định khá tiến bộ và nhân văn, tuy nhiên về mặt lập
pháp quy định về quyền lưu cư nêu trên vẫn còn một số điểm vướng mắc nhất định. Cụ
thể, quy định nêu trên chỉ quy định trường hợp “nhà ở”, quy định nêu trên khá bó hẹp về
đối tượng điều chỉnh, trong trường hợp là quyền sử dụng đất có nguồn gốc sở hữu riêng
của một bên vợ hoặc chồng thì khi xây dựng nhà ở chung phải giải quyết quyền và lợi ích
của các bên trong trường hợp này như thế nào?
Thêm vào đó, Điều 63 Luật hôn nhân và gia đình quy định là quyền lưu cư của một
bên, nghĩa là bên còn lại phải có nghĩa vụ cho lưu cư. Quy định này dường như gây áp lực
rất lớn cho bên có nghĩa vụ, bởi lẽ về nguyên tắc hôn nhân giữa những cá nhân này đã
chấm dứt trên thực tế. Việc quy định nghĩa vụ buộc họ phải cho phép bên còn lại trong
quan hệ vợ chồng đã chấm dứt này được quyền lưu cư sẽ khó khả khi trong thực tế. Do
vậy, cần thiết phải có định hướng hoàn thiện các quy định về liên quan đến việc cho phép
lưu cư này để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật một cách có hiệu quả
trên thực tế.
Các nội dung được nêu trên đây trình bày thực trạng quy định pháp luật liên quan
đến vấn đề chia quyền sử dụng đất khi ly hôn của vợ chồng. Để thấy rõ hơn việc áp dụng
các quy định này trong thực tiễn xét xử, phần dưới đây của đề tài tác giả sẽ tiến hành phân
tích một số án lệ liên quan đến việc xét xử ly hôn trong đó có yêu cầu chia quyền sử dụng
đất.

20
1.4. Một số bản án và án lệ liên quan đến phân chia quyền sử dụng khi ly hôn theo
quy định pháp luật hiện hành
1.4.1. Án lệ số 03/2016/AL về vụ án “Ly hôn”
a. Nội dung án lệ:
Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người
con đã xây dựng, nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con
xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì;
vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc
kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng
người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất.
b. Nhận xét của sinh viên:
Mặc dù có những quy định về chia quyền sử dụng đất khi ly hôn trong trường hợp
vợ chồng sống chung với gia đình, tuy nhiên pháp luật hiện hành chưa thực sự làm rõ và
dự liệu được các tình huống có thể xảy ra trong thực tế. Cụ thể, trong thực tế có rất nhiều
trường hợp vợ chồng được cha mẹ cho quyền sử dụng đất nhưng không thực hiện việc
tặng cho theo đúng quy định pháp luật. Vợ chồng người con sau khi được tặng cho đất đã
xây dựng nhà ở, sinh sống lâu dài và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và
quyền sở hữu nhà ở, những người trong gia đình biết nhưng không phản đối. Đến khi vợ
chồng người con phát sinh tranh chấp ly hôn, bố mẹ trong gia đình mới xác định là chưa
cho đất, chỉ cho mượn để xây dựng nhà nên đề nghị Tòa án xác định quyền sử dụng đất
này không phải là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Có thể dễ dàng nhận thấy, việc
xác định đây không phải là tài sản chung của vợ chồng sẽ gây ảnh hưởng vô cùng nghiêm
trọng đến quyền và lợi ích của một bên trong quan hệ vợ chồng. Do vậy, khi pháp luật
chưa quy định cụ thể cách thức giải quyết trong tình huống này, Tòa án nhân dân tối cao
đã ban hành và thông qua Án lệ số 03, theo đó thừa nhận tiền lệ trong trường hợp cả gia
đình biết nhưng không phản đối việc sử dụng, phát triển và sở hữu của vợ chồng đối với
đất đai thì tương đồng với việc những cá nhân này thừa nhận tài sản này là tài sản chung
của vợ chồng. Việc chia quyền sử dụng đất này tuân thủ theo đúng các nguyên tắc chia
quyền sử dụng đất khi ly hôn đã được trình bày trên đây.

21
1.4.2. Bản án số số 951/2019/HNGĐ-ST ngày 21/8/2019 của Tòa án nhân dân Quận
Thủ Đức12
a. Nội dung bản án:
Bà Trần Thị Thanh N1 khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Bùi Văn N cư trú tại quận
Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Trần Thị Thanh N1 khởi kiện yêu cầu ly hôn với
ông Bùi Văn N cư trú tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Trần Thị Thanh
N1 khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Bùi Văn N cư trú tại quận Thủ Đức, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Bà Trần Thị Thanh N1 yêu cầu Toà án chia tài sản chung là nhà và đất toạ lạc tại
Đường số G, khu phố D, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ theo Giấy
chứng nhận Quyền sử dụng đất Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
CD 255990 số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 03632 ngày 09/6/2016 của Uỷ ban nhân
dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh thì phần nhà và đất trên thuộc quyền sử dụng
và quyền sở hữu của bà N1 và ông N2. Căn cứ theo Giấy chứng Giấy chứng nhận Quyền
sử dụng đất Quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì diện tích khuôn viên
đất là 144,4 m2. Bà N1 và ông N2 thống nhất chia đôi phần đất trên mỗi người nhận 72,2
m2.
Căn cứ theo Bản đồ hiện trạng vị trí – xác định ranh do Trung tâm đo đạc bản đồ
thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh thì phần đất được chia thành
2 khu có diện tích bằng nhau là 72,2 m2, , căn cứ theo quy định tại Quyết định số
60/2017/QĐUBND ngày 05/12/2017 của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, nếu
chia đôi phần đất như yêu cầu của bà N1 và ông N2 thì đủ điều kiện để tách thửa. Nên
Hội đồng xét xử ghi nhận.
Căn cứ trên những chứng cứ và tình tiết có trong vụ án, Hội đồng xét xử xác định
căn nhà và đất toạ lạc tại Đường số G, khu phố D, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí
Minh, đã được Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức cấp giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH
03632 ngày 09/6/2016 là tài sản chung của bà Trần Thị Thanh N và ông Bùi Văn N2.
Chia cho bà N1 phần nhà và đất có diện tích 72,2 m2 thuộc Khu 2 (phần nằm trong Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số

12
Tòa án nhân dân Tối cao, xem tại https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta407426t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày
11/3/2023

22
CD255990 ngày 09/6/2016 của Uỷ ban nhân dân quận Thủ Đức) thể hiện trên Bản đồ
hiện trạng vị trí xác định ranh do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi
trường lập ngày 22/6/2018.
Chia cho ông Bùi Văn N phần nhà và đất có diện tích 72,2 m2 thuộc Khu 1 (phần
nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với
đất số CD255990 ngày 09/6/2016 của Uỷ ban nhân dân quận Thủ Đức) thể hiện trên Bản
đồ hiện trạng vị trí xác định ranh do Trung tâm đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và
Môi trường lập ngày 22/6/2018.
b. Nhận xét của sinh viên.
Trong vụ án nêu trên, Hội đồng xét xử đã có sự xem xét thấu đáo và áp dụng các
quy định pháp luật phù hợp để xác định tài sản là nhà và đất là tài sản chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân. Việc chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất trong
thời kỳ hôn nhân của vợ chồng cũng được xem xét một cách cụ thể và rõ ràng. Theo đó,
việc chia quyền sử dung đất có xem xét đến các quy định pháp luật đất đai liên quan như
điều kiện tách thửa là vô cùng phù hợp với thực tiễn. Cũng liên quan đến nội dung này,
hiện nay pháp luật hiện hành chưa có những quy định cụ thể liên quan đến điều kiện để
chia quyền sử dung đất (bao gồm điều kiện tách thửa), do vậy việc định hướng hoàn thiện
pháp luật là cần thiết đề cập đến những nội dung này theo hướng trong trường hợp nếu
không đủ điều kiện tách thửa quyền sử dụng đất thì phải giải quyết cho phép một bên
quản lý và sử dụng thực tế, bên còn lại được nhận giá trị quyền sử dụng đất.
Những nội dung được trình bày trên đây liên quan đến các nội dung áp dụng pháp
luật pháp luật trong thực tiễn thể hiện qua các bản án án lệ. Căn cứ những nội dung lý
luận được nêu trên đây, tác giả sẽ tiến hành việc phân tích những vấn đề thực tiễn áp dụng
pháp luật về chia quyền sử dụng đất khi ly hôn tại Tòa án nhân dân nơi sinh viên thực tập
– Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức.

23
CHƯƠNG 2: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÂN CHIA QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT KHI LY HÔN, NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
2.1. Thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức
2.1.1. Các số liệu đáng chú ý liên quan đến việc giải quyết các vụ án ly hôn
Theo số liệu tổng hợp thì từ ngày 01-7-2008 đến ngày 31-7-2018, Tòa án nhân dân
các cấp trên cả nước đã thụ lý theo thủ tục sơ thẩm 1.422.067 vụ án ly hôn, giải quyết
1.384.660 vụ, đạt tỷ lệ 97,4%, còn lại 37.407 vụ đang trong quá trình giải quyết. Cũng
trong năm vừa qua 2022, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã có báo cáo gửi đến Quốc
hội, khẳng định, hệ thống Tòa án đã giải quyết hơn 500.000 vụ việc với chất lượng cao
trong năm này, bao gồm các vụ án ly hôn nói riêng và các vụ án hôn nhân gia đình nói
riêng.
Trong quá trình thực tập tại Tòa án nhân dân quận thành phố Thủ Đức, thành phố
Hồ Chí Minh, do những hạn chế trong quá trình thu thập số liệu vì giới hạn phạm vi tiếp
cận cũng như xuất phát từ lý do bảo mật thông tin, các số liệu về tình hình giải quyết các
vụ án hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí
Minh mà sinh viên có được chỉ mang tính khái quát và có sự giới hạn về các thông tin dẫn
chứng. Tuy nhiên, trên tinh thần cố gắng, sinh viên mong muốn truyền tải và phân tích
được những bức tranh bao quát về thực tiễn giải quyết các vụ án hôn nhân gia đình tại
Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức trong giai đoạn năm 2020 đến năm 2021.
Về bối cảnh thu thập thông tin, giai đoạn từ đầu năm 2020 đến cuối năm 2021 là giai
đoạn bùng phát và lan rộng đại dịch Covid 19. Ảnh hưởng của đại dịch này đối với xã hội
Việt Nam và trên thế giới là hết sức nặng nề. Các thiệt hại của đại dịch không chỉ tác
động vào nền kinh tế - chính trị mà còn làm thay đổi đột ngột các thói quen hoạt động của
con người, trong đó hoạt động xét xử của Tòa án cũng bị ảnh hưởng một cách nặng nề.
Để phòng ngừa dịch bệnh lây lan, các biện pháp phòng chống dịch bệnh được triển khai
trong công tác tiếp nhận và xét xử như hạn chế xét xử trực tiếp các vụ án đồng thời do hạn
chế trong việc di chuyển nên việc tiếp nhận và thụ lý các vụ án, trong đó có các vụ án hôn
nhân gia đình có nhiều hạn chế. Theo đó, số vụ ly hôn được Tòa án nhân dân thành phố
Thủ Đức thụ lý và giải quyết trong giai đoạn này là hơn 110 vụ, trong đó các vụ tranh

24
chấp ly hôn là hơn 50 vụ, còn lại là không thể hòa giải và phải giải quyết thông qua thủ
tục tố tụng tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Trong giai đoạn năm 2020-2021, Tòa án
nhân dân thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh không có vụ tranh chấp hôn nhân
gia đình được xét xử theo thủ tục rút gọn. Đồng thời, cũng không có các bản án tranh
chấp hôn nhân gia đình bị Tòa án cấp trên trực tiếp tuyên hủy án vì sai phạm trong thủ tục
tố tụng. Để có được sự nhìn nhận một cách tổng quát hơn, sinh viên tiến hành phân tích
một số bản án hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, thành phố
Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung này sẽ được thể hiện rõ hơn trong phần dưới đây của
đề tài báo cáo thực tập.
2.1.2. Những mặt tích cực trong thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan chia quyền
sử dụng đất khi ly hôn tại Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức.
Trên cơ sở các dữ liệu phân tích được sinh viên đưa ra trên đây, có thể nhận thấy
một trong những điểm đạt được trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình
nói chung và các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất khi ly hôn của Tòa án nhân dân
thành phố Thủ Đức và hệ thống Tòa án nhân dân tại nước ta là tuân thủ một cách chặt chẽ
quy trình tố tụng khi xét xử. Các bản án cùng số liệu về hủy án của Tòa án cấp trên của
Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức đã phản ánh chân thật sự tuân thủ các quy trình tố
tụng trong quá trình xét xử các vụ án hôn nhân gia đình của Tòa án nhân dân thành phố
Thủ Đức.
Đa số các vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình được giải quyết tại Tòa án nhân dân
thành phố Thủ Đức đều đảm bảo đúng thời hạn xét xử. Cụ thể đối với 02 bản án được nêu
và phân tích trên đây, việc xét xử và ra quyết định chỉ kéo dài trong khoảng thời gian từ
03 tháng đến 05 tháng. Việc xét xử nhanh chóng và đúng pháp luật đã góp phần quan
trọng để tiết kiệm các chi phí liên quan trong quá trình xét xử cho các bên đương sự.
Đồng thời, việc xét xử nhanh chóng và có hiệu quả còn thúc đẩy việc xây dựng hệ thống
tòa án hoàn thiện hơn, tránh tình trạng tồn đọng án, không giải quyết triệt để gây ảnh
hưởng đến tâm lý và sự tin tưởng của người dân đối với hệ thống pháp luật nói chung và
ngành tư pháp nước ta nói riêng.
Đặc biệt, trong quá trình xét xử các vụ án ly hôn có tranh chấp chia quyền sử dụng
đất, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức đều xem xét và xét xử các vụ án theo đúng quy
định pháp luật, tuân thủ nội dung và hình thức, đảm bảo không ảnh hưởng và xâm phạm
đến quyền và lợi ích của các bên có liên quan. Ngoài việc vận dụng có hiệu quả các nội

25
dung pháp luật hôn nhân gia đình, trong quá trình giải quyết các vụ án này, Tòa án nhân
dân thành phố Thủ Đức cũng kết hợp việc áp dụng các nội dung pháp luật về đất đai và
nhà ở.
2.1.3. Những hạn chế còn tồn đọng và nguyên nhân của những hạn chế
Như đã được trình bày trên đây, trong phạm vi nghiên cứu đề tài của sinh viên về
thực tiễn giải quyết các vụ án tranh chấp ly hôn chia quyền sử dụng đất pháp luật hiện
hành tại Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức nhìn chung có nhiều ưu điểm. Do vậy, trong
phần hạn chế này, sinh viên sẽ phân tích những hạn chế mang tính cơ bản chung trong
hoạt động xét xử của các tòa án, không nhằm mục đích chứng minh những hạn chế này là
của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức. Các hạn chế trong giải quyết vụ án hôn nhân gia
đình nói chung và vụ án ly hôn tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng có thể kể đến
như:
Thứ nhất, trong thực tiễn việc tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án ly hôn của tòa
án hôn nhân gia đình còn thiếu căn cứ chính xác. Đồng thời, sau thời hạn tạm đình chỉ
giải quyết vụ án hôn nhân gia đình, Tòa án có sự chậm trễ trong công tác tiếp nhận và giải
quyết lại các vụ án hôn nhân và gia đình.
Thứ hai, việc điều tra, thu thâp chứng cứ của các vụ án ly hônhiện nay được thực
hiện vẫn còn khá nhiều điểm hạn chế, các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các vụ án
hôn nhân gia đình chủ yếu dựa vào các chứng cứ được các bên đương sự cung cấp, quá
trình thu thập và điều tra chứng cứ không toàn diện. Việc kiểm tra thu thập chứng cứ của
Tòa án trong các vụ án tranh chấp chia quyền sử dụng đất khi ly hôn của vợ chồng còn thể
hiện ở điểm Tòa án ít hoặc chậm trễ trong việc xác minh thực trạng nhà đất tranh chấp mà
chỉ tập trung vào lời khai của các bên đương sự, dẫn đến những quyết định không thỏa
mãn và không phù hợp với thực tiễn tranh chấp.
Thứ ba, thực tiễn khi tiến hành hòa giải các vụ án về ly hôn, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng không tuân thủ về mình trình tự, thủ tục khi tiến hành tố tụng. Trong
một số trường hợp, thành phần tham gia phiên hòa giải không đảm bảo, chỉ có thẩm phán
tham gia mà không có thư ký tham gia là vi phạm thủ tục tố tụng theo quy định pháp luật.
Thứ tư, trong nhiều trường hợp do các vụ án liên quan đến việc chia quyền sử dụng
đất khi ly hôn, việc xác định Tòa án nhân dân có thẩm quyền vẫn còn nhiều hạn chế.
Trong nhiều trường hợp, các Tòa án vẫn xác định Tòa án có thẩm quyền phải là Tòa án

26
nơi có bất động sản. Tuy nhiên, việc xác định như trên có thể gây ảnh hưởng và làm trì
hoãn việc xét xử các vụ án, trong trường hợp này mặc dù có liên quan đến quyền sử dụng
đất nhưng đối tượng tranh chấp chính của vụ án này không phải là quyền sử dụng đất.
Đây vẫn là vụ án hôn nhân gia đình về bản chất, do vậy việc xác định thẩm quyền vẫn
tuân thủ các quy định, cụ thể Tòa án có thẩm quyền tùy từng trường hợp sẽ là Tòa án nơi
bị đơn cư trú hoặc Tòa án nơi cư trú của nguyên đơn nếu các bên thống nhất lựa chọn.
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế được nêu trên đây xuất phát từ việc có những
thiếu sót, chậm trễ trong việc nghiên cứu áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các
vụ án hôn nhân gia đình. Một nguyên nhân chủ quan khác dẫn đến những hạn chế này đó
là việc chưa đáp ứng được về trình độ chuyên môn của đội ngũ Thẩm phán, người tiến
hành tố tụng còn hạn chế, hiệu quả áp dụng pháp luật không cao. Nhằm khắc phục những
hạn chế nêu trên, tác giả tiến hành đề xuất một số giải pháp hoàn thiện để nâng cao hiệu
quả giải quyết tranh chia quyền sử dụng đất khi ly hôn. Nội dung này sẽ được trình bày cụ
thể hơn trong phần dưới đây của đề tài báo cáo.
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến chia
quyền sử dụng đất khi ly hôn.
Như đã được trình bày trên đây, các quy định liên quan đến pháp luật chia quyền sử
dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn vẫn còn nhiều vướng mắc, gây ra
những khó khăn nhất định cho việc áp dụng pháp luật trong vực thực tiễn. Do vậy, phần
dưới đây của đề tài, tác giả tiến hành đề xuất một số kiên nghị nhằm hoàn thiện quy định
pháp luật liên quan đến chia quyền sử dụng đất khi ly hôn:
Một là, cần thiết quy định cụ thể khái niệm lưu cư. Như đã trình bày trên đây, khi vợ
chồng tiến hành thủ tục ly hôn, nếu nhà ở được xác định là tài sản riêng của một bên vợ
hoặc chồng thì bên còn lại nếu không có khả năng ổn định chổ ở có quyền lưu cư lại 06
tháng kể từ ngày có bản án/quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, nội dung quy định vẫn
chưa bao quát trong trường hợp chỉ có quyền sử dụng đất là tài sản riêng, còn nhà là tài
sản chung được vợ chồng tạo lập. Thêm vào đó, hiện nay căn cứ quy định pháp luật, việc
lưu cư cũng được xác định là quyền của bên không thu xếp được chổ ở, điều này cũng có
nghĩa là việc cho phép bên đó lưu cư lại là nghĩa vụ của bên còn lại. Trong trường hợp
này, các bên đang trong một mối quan hệ khá nhạy cảm, do vậy trường hợp các pháp luật
cho phép các bên thỏa thuận thì trên thực tế các bên cũng khó đạt được sự thỏa thuận

27
nhanh chóng. Do vậy, cần thiết sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản hướng dẫn Điều
63 Luật hôn nhân và gia đình theo hướng:
“Trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng nhưng
tài sản gắn liền với đất được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung thì quyền sử
dụng đất vẫn là tài sản riêng của bên đó, tài sản gắn liền với đất chia theo quy định tại
Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trường hợp cả nhà và quyền sử dụng đất
đều được xác định là tài sản riêng, bên không thu xếp được chổ ở có thể lưu cư trong thời
hạn tối đa không quá 06 tháng kể từ ngày có phán quyết của Tòa án. Các bên cũng có
quyền thỏa thuận để bên còn lại trong quan hệ hỗ trợ chổ ở khác nếu việc lưu cư là
không phù hợp với nhu cầu và lợi ích của các bên”
Hai là, liên quan đến chia quyền sử dụng đất của vợ chồng trong trường hợp vợ
chồng sống chung với gia đình. Hiện nay, các quy định liên quan đến chế định pháp lý
quyền sử dụng đất của hộ gia đình vẫn là những vấn đề đang gặp nhiều tranh cãi. Chính vì
vậy, việc Luật hôn nhân gia đình ghi nhận quyền sử dung của vợ chồng trong hộ gia đình
trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập sẽ dẫn đến những khó khăn trong việc áp dụng pháp
luật để chia quyền sử dụng đất khi ly hôn. Thêm vào đó, pháp luật hôn nhân gia đình hiện
hành cũng quy định cơ chế “tách quyền sử dung đất của vợ chồng” trong khối tài sản
chung của hộ gia đình. Tuy nhiên, việc tách như thế nào, nguyên tắc tách quyền sử dụng
đất ra sao vẫn còn bỏ ngõ. Nếu vận dụng các quy định của pháp luật đất đai trong trường
hợp này cũng còn nhiều hạn chế và bất cập. Theo đó, pháp luật đất đai cũng chưa quy
định cụ thể cơ chế tách quyền sử dụng đất trong hộ gia đình, do vậy việc cho phép vợ
chồng khi ly hôn được tách quyền sử dụng đất là có những điểm mâu thuẫn và không phù
hợp với những quy định pháp luật đất đai hiện hành. Do vậy, để giải quyết được những
hạn chế và tồn đọng được nêu trên đây, cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể cơ chế áp
dụng pháp luật trong trường hợp tách quyền sử dụng đất của vợ chồng trong tài sản chung
của gia đình để có cơ chế giải quyết khi những trường hợp này xảy ra trong thực tế.
Ba là, mặc dù án lệ cũng là một nguồn pháp luật được thừa nhận tại nước ta, tuy
nhiên hệ thống quy định pháp luật luôn là nguồn pháp luật có giá trị áp dụng cao nhất.
Nội dung án lệ số 03 đã phản ánh một trong những tình huống pháp lý xảy ra nhiều trong
thực tế, do vậy tác giả kiến nghị kiện toàn và bổ sung nội dung quy định pháp luật liên
quan đến vấn đề tại án lệ só 03 trong các văn bản hướng dẫn công tác xét xử tại Tòa án

28
nhân dân có thẩm quyền đối với vụ án tranh chấp ly hôn chia quyền sử dụng đất của vợ
chồng.
Bốn là, liên quan đến cơ chế xác định giá xác định quyền sử dụng đất để trả cho một
bên vợ chồng khi quyền sử dụng đất không đủ điều kiện để tách thửa theo quy đinh pháp
luật đất đai. Hiện nay, các nội dung quy định của pháp luật hôn nhân gia đình liên quan
đến việc chia quyền sử dụng đất khi ly hôn của vợ chồng đều có ghi nhận các quy định
liên quan đến việc hoàn trả giá trị quyền sử dụng đất cho bên không nhận tài sản.Tuy
nhiên, pháp luật hôn nhân gia đình hiện hành vẫn chưa có bất kỳ quy định nào liên quan
đến việc trong trường hợp việc chia tách quyền sử dụng không đáp ứng đủ các điều kiện
về tách thửa đất thì sẽ đươc giải quyết ra sao. Nội dung bản án được nêu trên đây và
những phân tích của tác giả cho thấy rằng, trong trường hợp thực tế nếu quyền sử dụng
đất không đủ điều kiện tách theo quy định pháp luật thì Tòa án sẽ giải quyết cho bên đang
quản lý tiếp tục được quản lý, bên còn lại sẽ được chia bằng giá trị quyền sử dụng đất. Do
vậy, cần thiết bổ sung quy định nêu trên vào các văn bản hướng dẫn Luật hôn nhân gia
đình, làm cơ sở cho các Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử theo đúng quy định pháp
luật, đảm bảo lợi ích của các bên trong vụ án ly hôn.
Năm là, cần nhận thức rằng, quyền sử dụng đất là một loại tài sản đặc biệt trong số
các tài sản được quyền sở hữu theo quy định pháp luật hiện hành. Trong một số trường
hợp, chủ thể sử dụng đất phải đáp ứng đủ các điều kiện để có thể có được quyền sử dụng
đất. Hiện nay, pháp luật hôn nhân gia đình cũng chưa có quy đinh cụ thể trong trường hợp
chia quyền sử dụng đất đặc thù như quyền sử dụng đất lúa, quyền sử dụng đất thuê ngắn
hạn,….Do vậy, để đảm bảo tính kịp thời và phù hợp với những thực tế áp dụng pháp luật,
cần thiết có những quy định pháp luật liên quan đến việc chia quyền sử dụng đất khi ly
hôn trong những trường hợp này. Theo đó, đảm bảo rằng, những nội dung quy định pháp
luật liên quan đến chia quyền sử dụng đất khi ly hôn phù hợp với những nội dung quy
định pháp luật về đất đai và pháp luật chuyên ngành khác.
Ngoài những nội dung hoàn thiện quy định pháp luật đươc nêu trên đây, trong quá
trình thực tập và trao dồi kinh nghiệm tại Tòa án nhân dân quận Bình Thanh, tác giả cũng
mong muốn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chia
quyền sử dung đất khi ly hôn của Tòa án nhân dân quận Bìn Thạnh.

29
2.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật chia quyền sử
dụng đất khi ly hôn Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức
Trong thời gian gần đây, toàn Đảng và toàn dân ta đang triển khai thực hiện nghiêm
túc các nhiệm vụ về Cải cách Tư pháp theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới 13.Để đáp ứng được nhu cầu kiện
toàn bộ máy nhà nước và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động Tư pháp,
Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều phương hướng hoàn thiện khác nhau, trong đó chủ
yếu tập trung vào việc nâng cao trình độ của đội ngũ Thẩm phán. Phần dưới đây sinh viên
tiến hành đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện trong công tác áp dụng pháp luật nói chung
và pháp luật về chia quyền sử dụng đất khi ly hôn nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả trong
công tác xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, cụ thể:
Thứ nhất, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức trước tiên cần tập trung khắc phục
bằng được các tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra; giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng
mắc phát sinh trong thực tiễn hoạt động; đồng thời phát triển, hoàn thiện theo hướng nâng
cao yêu cầu, chất lượng đối với một số giải pháp cho phù hợp với tình hình mới. Theo đó,
riêng đối với các tranh chấp về chia quyền sử dụng đất khi ly hôn, Tòa án cần tập trung
giải quyết nhanh chóng trong việc xác đinh thẩm quyền thụ lý, tăng cường công tác thu
thập chứng cứ, xác minh đúng chủ sở hữu quyền sử dụng đất để có đinh hướng bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
Hai là, làm tốt công tác phối hợp với các cơ quan có liên quan nâng cao chất lượng
hướng dẫn áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật liên quan tới các vụ án tranh
chấp chia quyền sử dụng đất khi ly hôn, nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình
giải quyết các vụ án này.
Ba là, cải cách mạnh mẽ thủ tục tố tụng, thủ tục hành chính tư pháp để tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân, trong đó có những đương sự của vụ án tranh chấp chia quyền sử
dụng đất khi ly hôn khi tham gia tố tụng hoặc có công việc tại Tòa án. Các Tòa án tăng
cường làm tốt công tác tự kiểm tra và phải coi đây là nhiệm vụ thường xuyên. Tăng
cường kỷ cương, kỷ luật công vụ; thực hiện nghiêm Quy định xử lý trách nhiệm người
giữ chức danh tư pháp trong Tòa án nhân dân
13
Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nâng cao chất lượng xét xử, giải quyết các loại vụ án, xem tại
https://dangcongsan.vn/phap-luat/nang-cao-chat-luong-xet-xu-giai-quyet-cac-loai-vu-an-633610.html, truy cập ngày
14/3/2023

30
Bốn là, tăng cường các lớp bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt là độ ngũ Thẩm phán để tăng
cường hiệu quả trong công tác xét xử, trong đó có các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất
khi ly hôn.

31
KẾT LUẬN
Gia đình là nền tảng quan trọng nhất để xây dựng và phát triển xã hội. Việc giải
quyết các tranh chấp trong hôn nhân gia đình một cách đúng quy định pháp luật cũng là
một trong những biện pháp cần cân nhắc và phát huy trong bối cảnh xây dựng nhà nước
xã hội pháp quyền. Hiến pháp nước ta quy định, mọi công dân đều được pháp luật bảo hộ
các quyền và lợi ích chính đáng. Các quyền và lợi ích liên quan đến tài sản trong hôn
nhân cũng được pháp luật nước ta điều chỉnh và bảo vệ theo hướng thỏa đáng quyền và
lợi ích của các bên. Hiện nay, các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất khi ly hôn
của vợ chồng ngày càng phổ biến do giá trị quyền sử dụng đất ngày càng tăng cao. Việc
nhận thức và hiểu được các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này là cần thiết.
Tại đề tài nghiên cứu này, tác giải trình bày các nội dung mang tính lý luận liên
quan đến vấn đề ly hôn và quyền sử dung đất trong ly hôn, trong đó tập trung làm rõ các
vấn đề về khái niệm, đặc điểm pháp lý của vấn đề ly hôn và quyền sử dụng đất. Trên cơ
sở những phân tích mang tính lý luận này, tác giả cũng tiến hành trình bày các thực trạng
pháp luật về chia quyền sử dụng đất khi ly hôn hiện hành làm nền tảng cho những phân
tích về khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Trên cơ sở
những hạn chế còn tồn động, sinh viên đưa ra một số giải pháp hoàn thiện việc giải quyết
các vụ án lý hôn có tranh chấp quyền sử dụng đất trong thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân
dân thành phố Thủ Đức.
Đề tài báo cáo thực tập này được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu và học hỏi quá
trình làm việc thực tiễn trong quá trình thực tập của sinh viên tại Tòa án nhân dân thành
phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Trong trường hợp còn thiếu xót, sinh viên mong
muốn nhận được sự đánh giá và cho ý kiến hoàn thiện của các giảng viên để ngày càng
phát tiển khả năng của bản thân.

32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. VĂN BẢN PHÁP LUẬT
1. Hiến pháp năm 2013
2. Bộ luật dân sự năm 2015
3. Luật đất đai năm 2013
4. Luật hôn nhân gia đình năm 2014
5. Luật hôn nhân gia đình năm 2000
6. Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình
7. Nghị định 70/2001/NĐ-CP Hướng dẫn Luật Hôn nhân và gia đình
8. Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn thi hành
quy định của Luật hôn nhân và gia đình do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao -
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành
B. CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC
9. Báo Thanh Niên, Quyền sử dụng đất là tài sản đặc biệt nhưng không phải quyền sở
hữu, xem tại https://thanhnien.vn/quyen-su-dung-dat-la-tai-san-dac-biet-nhung-
khong-phai-quyen-so-huu-1851471864.htm, truy cập 10/2/2023
10. Trang Thông tin Điện tử Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Gia Lai, Thực trạng ly hôn,
nguyên nhân và giải pháp kiềm chế, xem tại https://vksnd.gialai.gov.vn/Nghien-
cuu-Trao-doi/thuc-trang-ly-hon-nguyen-nhan-va-giai-phap-kiem-che-2083.html,
truy cập ngày 11/02/2023
11. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Tình trạng ly hôn gia tăng - Nguyên
nhân, giải pháp khắc phục, xem tại http://www.vksquangninh.gov.vn/trao-doi-
nghiep-vu/cac-d-o-lu-t-tu-phap-m-i/2608-tinh-trang-ly-hon-gia-tang-nguyen-nhan-
giai-phap-khac-phuc, truy cập ngày 13/02/2023
12. Báo Đại Đoàn Kết – Cơ quan của Mặt trận Trung Ương Việt Nam, Gia tăng tình
trạng ly hôn, xem tại http://daidoanket.vn/gia-tang-tinh-trang-ly-hon-
5689906.html#:~:text=S%E1%BB%91%20li%E1%BB%87u%20th%E1%BB
%91ng%20k%C3%AA%20cho,th%C3%AC%20m%E1%BB%99t
%20%C4%91%C3%B4i%20ra%20t%C3%B2a, truy cập ngày 14/02/2023
33
13. Báo Thanh niên, Gia đình trẻ Việt ngày càng thiếu sự gắn bó và bền vững, xem tại
https://thanhnien.vn/gia-dinh-tre-viet-ngay-cang-thieu-su-gan-bo-va-ben-vung-
1851503856.htm, truy cập ngày 15/02/2023
14. Bộ Tư Pháp, Suy nghĩ về khái niệm quyền sử dụng đất của Việt Nam, xem tại
https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2168, truy
cập ngày 17/02/2023
15. Cổng thông tin điện tử xã Hóa Thượng, Đầm ấm gia đình nhiều thế hệ, xem tại
http://hoathuong.donghy.thainguyen.gov.vn/tin-tuc-su-kien/-/asset_publisher/
NFciV42HxBkF/content/-am-am-gia-inh-nhieu-the-he/259513?
inheritRedirect=false&redirect=http%3A%2F
%2Fhoathuong.donghy.thainguyen.gov.vn%2Ftin-tuc-su-kien%2F-
%2Fasset_publisher%2FNFciV42HxBkF%2Fcontent%2Ftang-cuong-kiem-tra-
cac-co-so-kinh-doanh-thuoc-tan-duoc-tren-ia-ban%2F259513, truy cập 20/02/2023
16. Báo bảo vệ pháp luật – Cơ quan của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bàn về quyền
lưu cư trong vụ án dân sự, xem tại https://baovephapluat.vn/cai-cach-tu-phap/thuc-
tien-kinh-nghiem/ban-ve-quyen-luu-cu-trong-vu-an-dan-su-128939.html, truy cập
ngày 10/3/2023
17. Tòa án nhân dân Tối cao, xem tại
https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta407426t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày
11/3/2023
18. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nâng cao chất lượng xét xử, giải quyết các
loại vụ án, xem tại https://dangcongsan.vn/phap-luat/nang-cao-chat-luong-xet-xu-
giai-quyet-cac-loai-vu-an-633610.html, truy cập ngày 14/3/2023

34

You might also like