Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 6

101: TỔNG QUAN VỀ DẦU THÔ

Crude oil, đôi khi gọi là petroleum, về khái niệm, là hợp chất hidrocarbon dạng lỏng, hình thành một
cách tự nhiên. Nói cách khác, tất cả những thứ được tạo thành bởi các chuỗi hydrocarbon, tồn tại dưới
dạng lỏng, đều có thể được coi là crude oil, hay dầu thô.

Khí tự nhiên, cũng bao gồm các chuỗi hydrocarbon, nhưng thuộc loại siêu ngắn, ví dụ methan (CH4),
phân tử chỉ có một nguyên tử Carbon, hay ethan (C2H6), phân tử gồm 2 nguyên tử Carbon. Nó tồn tại
dưới dạng khí, nên không được gọi là dầu thô. Nhưng khí tự nhiên, thường được tìm thấy cùng với dầu
thô.

Giai đoạn đầu của hoạt động khai thác dầu thô, khí tự nhiên từ các giếng dầu thường được coi là sản
phẩm phái sinh, không mong muốn và bị đốt bỏ.

Trong dầu thô, tồn tại hai nhóm lớn, là conventional crude oil (khác với conventional oil nhé) và
unconventional crude oil. Sự khác biệt lớn nhất của hai nhóm này chỉ là cách khai thác.

1. Conventional crude oil. Là loại dầu được khai thác theo phương pháp truyền thống, khoan thẳng
xuống lòng đất, chọc vào các giếng dầu và hút dầu lên. Dầu thô trong nhóm này thường tồn tại trong
các túi dầu, vì vậy một khi tìm được thì rất dễ khai thác và chi phí rẻ.

Được gọi là conventional vì phần lớn dầu trên thế giới tồn tại như vậy và những giếng dầu đầu tiên cũng
được khai thác theo kiểu này.

Cái túi dầu (tiếng Anh là reservoir) không phải là một khoảng không trống rỗng, mà nó là một lớp đá xốp
(reservoir rock), có các hốc, vết nứt đủ lớn để dầu có thể chảy tự do trong đó.

2. Unconventional crude oil. Là những loại dầu không được khai thác theo cách truyền thống kể trên. Ví
dụ dầu thô tồn tại xen lẫn trong các khe của đá phiến (shale oil) hay dầu tồn tại lẫn trong cát (sand oil).
Loại dầu thô này cần các phương pháp đặc thù để có thể khai thác và chi phí cũng đắt hơn.
Lưu ý, shale oil và oil shale là hai thứ khác nhau nhé. Oil Shale là đá phiến có chứa dầu, còn shale oil là
dầu khai thác được từ đá phiến có chứa dầu.

Đối với dầu của cả hai nhóm trên, có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau nữa. Trong đó cách
phổ biến nhất là theo tỷ lệ lưu huỳnh và theo độ API.

1. Dầu ngọt (sweet) và dầu chua (sour). Dự vào tỷ lệ lưu huỳnh, người ta chia dầu thô thành dầu ngọt và
dầu chua. Nhưng không có một quy định chung nào về biên giới giữa hai nhóm. NYMEX quy định dầu có
tỷ lệ lưu huỳnh dưới 0.42% thì gọi là dầu ngọt. Một số nơi quy định tỷ lệ lưu huỳnh trên 0.5%, có nơi là
trên 1% thì được gọi là dầu chua.

2. Dầu nặng (heavy) và dầu nhẹ (light). Dựa vào độ API người ta sẽ chia dầu thành dầu nặng và dầu nhẹ.
Cũng không có ranh giới cụ thể nào giữa dầu nặng và dầu nhẹ. Thực tế là các nhà sản xuất có thể chia
tùy ý, từ dầu siêu nhẹ, dầu nhẹ, dầu trung, dầu nặng và dầu siêu nặng.

Dầu càng nhẹ thì độ API càng lớn và ngược lại, dầu càng nặng thì độ API càng nhỏ.

Có hai nhóm đặc biệt, dầu siêu nhẹ, thường được gọi là condensate (khí ngưng tụ). Nhóm này vẫn được
khai thác và giao dịch như mọi loại dầu thô. Tuy nhiên, OPEC và OPEC+ không tính sản lượng của nhóm
này vào các hạn mức mà họ quy định cho thành viên. Khi đọc về sản lượng dầu của Nga, bạn sẽ luôn đọc
thấy là sản lượng dầu thô và condensate, chứ không chỉ là dầu thô.

Dầu siêu nặng, còn được gọi là bitumen. Đây là sản phẩm dầu chính của Canada, khai thác từ oil sand.
Dầu nặng sẽ có chuỗi hydrocarbon dài hơn, càng nặng thì càng dài, và ngược lại, dầu nhẹ có chuỗi
hydrocarbon ngắn hơn. Điều này sẽ ảnh hưởng đến các loại sản phẩm lọc dầu (xăng, kerosene, diesel)
mà chúng tạo ra trong quá trình lọc (refine).

Dầu nhẹ sẽ chỉ cho ra được các sản phẩm nhẹ như xăng, naphtha, LPG trong khi dầu nặng cho ra được
cả kerosene (xăng máy bay), dầu diesel, nhưng tốn chi phí lọc hơn.

Vì vậy mà các nhà máy thường muốn lọc một loại dầu trung bình, không quá nặng, cũng không quá nhẹ
để có thể tạo thành tất cả các loại sản phẩm, mà chi phí lọc rẻ hơn. Đây là lý do vì sao Mỹ khai thác dầu
lớn nhất thế giới mà vẫn phải đi nhập dầu

Liên hệ thực tế một chút, Canada là nước cung cấp dầu nặng chính cho Mỹ, để Mỹ pha với dầu nhẹ của
mình trước khi lọc dầu. Đường ống Keystone bị rò rỉ hôm trước là đường ống lớn duy nhất vận chuyển
dầu từ Canada sang vùng Vịnh Mỹ. Đường ống này dừng hoạt động sẽ buộc Mỹ phải tìm nguồn cung dầu
nặng khác, mà khả dĩ nhất là từ Venezuela, nên nếu Keystone dừng hoạt động quá lâu, khả năng cao
chúng ta sẽ thấy Mỹ nới lỏng thêm cấm vận cho Venezuela.

LỌC DẦU VÀ CÔNG NGHỆ


API càng thấp, tức dầu càng nặng thì đòi hỏi công nghệ và đầu tư ban đầu càng lớn, ngược lại, dầu càng
nhẹ thì càng dễ lọc. Tức là độ API sẽ ảnh hưởng đến chi phí lọc dầu (vì vậy mà dầu nặng sẽ rẻ hơn dầu
nhẹ, trong phần lớn thời gian). Đổi lại thì dầu nặng sẽ cho ra nhiều loại sản phẩm lọc dầu hơn. Vì vậy mà
phần lớn các nhà máy lọc dầu sẽ ưa thích lọc dầu cỡ trung.

Về tỷ lệ lưu huỳnh, thì càng ít càng tốt, vì nó là chất không mong muốn trong dầu, có nhiều cũng chẳng
lợi gì, nên các nhà máy sẽ ưu tiên dầu ngọt.
Tóm lại, nếu có thể lựa chọn, các nhà máy sẽ lựa chọn dầu trung bình - ngọt để lọc. Tuy nhiên, không
phải cứ muốn là được. Bởi khả năng lọc dầu của các nhà máy phụ thuộc vào công nghệ của nó.

Đến đây thì có liên quan đến một vấn đề, đó là các nhà máy lọc dầu thường chỉ lọc được một số loại dầu
thô nhất định. Cái này không sai, nhưng cũng không đúng với tất cả các nhà máy.

Gần như là mỗi nhà máy sẽ có một thiết kế riêng. Nhưng nhìn chung có thể phân chia làm 4 nhóm:

- Topping refinery: Loại nhà máy lọc dầu cơ bản, chỉ cho ra được các sản phẩm như dầu diesel, dầu hỏa...
Và nhà máy này cũng không loại bỏ được lưu huỳnh trong sản phẩm cuối.

- Hydro-skimming refinery: Nhà máy này có thể cho ra toàn bộ các sản phẩm lọc dầu mong muốn, từ
xăng, xăng máy bay, dầu diesel... và cũng có thể giảm tỷ lệ lưu huỳnh trong sản phẩm cuối.

- Conversion refinery: Loại nhà máy này có thể thay đổi cấu trúc của dầu thô, biến các sản phẩm nặng
(vd gas oil) thành các sản phẩm nhẹ hơn như xăng, xăng máy bay... Nhờ đó mà những nhà máy này có
thể linh hoạt về sản phẩm đầu ra cho phù hợp với thị trường.

- Deep conversion refinery: Những nhà máy này thuộc loại hiện đại nhất, đầu tư nhiều tiền nhất. Loại
này có thể biến những loại dầu cặn (residual oil) từ quá trình lọc dầu trước thành những loại sản phẩm
nhẹ hơn. Tức là có thể tận dụng đến giọt dầu cuối cùng. Và cũng vì thế mà có thể lọc thẳng những loại
dầu siêu nặng như bitumen.

Vấn đề là, không phải các nhà máy lọc dầu muốn lọc thế nào thì lọc, mà các sản phẩm lọc ra phải đạt
một tiêu chuẩn nào đó (tùy vào thị trường tiêu thụ) ví dụ về tỷ lệ lưu huỳnh, tỷ lệ kim loại, độ octan...

Đối với các nhà máy kiểu Topping và Hydro-skimming, khả năng lọc bỏ tạp chất không mong muốn ở
mức hạn chế, sẽ phải lựa chọn loại dầu thô phù hợp với sản phẩm đầu ra mong muốn và thiết kế nhà
máy cho phù hợp với loại dầu đó. Những nhà máy này ít có khả năng linh hoạt trong dầu thô đầu vào.

Trong khi đó, các nhà máy hiện đại hơn thuộc nhóm Conversion và Deep conversion có khả năng loại bỏ
tạp chất tốt hơn, nhờ các loại modules bổ sung. Ngoài ra thì những nhà máy này có thể lọc được các loại
dầu nặng, sẽ dễ dàng lọc được các loại dầu nhẹ.

Tức là nó có "khả năng" lọc được nhiều loại dầu hơn. Còn nó có lựa chọn lọc nhiều loại dầu hay không,
phụ thuộc phần lớn vào bài toán kinh tế.

Thực tế, thì phần lớn các nhà máy ở châu Âu thuộc 2 nhóm đầu, vì đã xây khá lâu rồi. Còn các nhà máy ở
Mỹ, Trung Quốc, và Trung Đông thuộc 2 nhóm cuối. Thực ra thì nhà máy của Mỹ cũng đang ngày càng cũ
dần rồi. Chỉ có các nhà máy của Trung Quốc mới xây có các siêu tổ hợp với nhiều modules hiện đại khác
nhau, cho phép xử lý rất nhiều loại dầu.

Ví dụ mới luôn về Trung Quốc. Vừa hôm nay Trung Quốc cấp hạn ngạch xuất khẩu sản phẩm lọc dầu mới
cho các nhà máy của mình. Bao gồm 17.06 triệu thùng sản phẩm lọc dầu nói chung, và ngoài ra còn hạn
ngạch xuất khẩu riêng cho 8 triệu thùng VLSFO (Very low sulfur Fuel oil, loại dầu tiêu chuẩn dùng cho tàu
biển kể từ đầu năm nay). Vì sao?

Vì giá VLSFO trong cuối năm đang tăng cao, các nhà máy lọc dầu Trung Quốc chuyển sang lọc những loại
dầu ngọt hơn bình thường (sẽ đắt hơn, nhưng đỡ tốn công lọc bỏ lưu huỳnh) để cho ra dầu nhiên liệu
(Fuel Oil) có tỷ lệ lưu huỳnh phù hợp với tiêu chuẩn.
GIÁ NĂNG LƯỢNG TÍNH NHƯ THẾ NÀO VÀ CON BÀI MỚI CỦA CHÂU ÂU
Hàng hóa có hai thị trường tách biệt, là thị trường hàng thực và thị trường kỳ hạn. Trên thị trường kỳ
hạn, chúng ta có những loại giá tiêu chuẩn (benchmark) để làm cơ sở cho việc chốt giá giao dịch hàng
thực.

Tuy nhiên, như chúng ta cũng biết là phần lớn khối lượng giao dịch trên thị trường kỳ hạn là giao dịch
đầu cơ, vậy nên thị trường hàng thực cũng sẽ phải có cái gì đó tác động ngược lại thị trường kỳ hạn, nếu
không thì chả mấy chốc mà giá kỳ hạn sẽ bay lên trời hoặc giảm xuống đáy vì mấy cái dòng tiền đầu cơ.

Trong giới hàng hóa thì có những đơn vị, gọi là Price Report Agency thực hiện chính việc đó. Những đơn
vị này sẽ thu thập số liệu giao dịch của các thành viên trên thị trường hàng thực và tổng hợp nó lại thành
một con số cuối cùng, mà tiếng Anh hay gọi là price assessment để phản ánh giá hàng thực đang được
giao dịch. Ví dụ như trên thị trường dầu, chúng ta sẽ có Dated Brent do S&P Global Platts, một trong hai
PRA lớn nhất trên thị trường dầu, thực hiện.

Các thành viên trên thị trường, có thể căn cứ vào biến động của Dated Brent và kỳ vọng vào giá dầu của
mình để có thể đưa ra bid/offer phù hợp trên thị trường kỳ hạn, qua đó thì sẽ phản ánh những diễn biến
từ thị trường hàng thực vào thị trường kỳ hạn.

Vậy vì sao hôm nay mình lại nói chuyện này. Vì dự kiến là EU sẽ bắt đầu thực hiện một quy trình price
assessment tương tự cho giá Khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại thị trường EU kể từ thứ 6 tới.

Đợt vừa rồi EU có cáo buộc các trader đầu cơ đã làm méo mó và đẩy giá khí đốt ở lục địa này lên cao, đi
ngược lại lợi ích người dân. Vì vậy mà EU không tin bố con thằng nào và quyết định sẽ tự mình tính toán
ra giá trị thực của LNG. Đây có thể hiểu là nỗ lực của EU để kiểm soát giá khí đốt tại lục địa. Nhưng đồng
thời nó cũng sẽ chèn ép việc làm ăn của các PRA lớn.

Vì các sở giao dịch, các trader hàng thực và nhiều tổ chức tài chính đều là khách hàng của những PRA
này. Hồi mình còn làm ở sở MXV, có lần làm việc với bên Refinitiv, họ có dẫn hai ông giám đốc vùng của
Platts sang làm việc. Vì hôm đó sang đột xuất nên các sếp không ai ở nhà. Thế nên cuối cùng mình và
một thằng cu nữa ngồi nói chuyện với hai ông ấy. Giá dịch vụ của Platts, nếu giờ nhớ không nhầm, là 10k
USD/tháng.

EU có thể làm, nhưng các thành viên thị trường có sử dụng price assessment do EU đẻ ra hay không lại
là chuyện khác. Vì độ phổ biến của price assessment nó phụ thuộc vào mức độ đáng tin cậy của PRAs xây
dựng và thực hiện nó.

PLX - MỘT BƯỚC TIẾN MỚI TRONG HÀNH TRÌNH SỐ HÓA - 'TIỀN' CHUYỂN ĐỔI
SỐ.
Xét trong bình diện toàn bộ nền kinh tế, chưa có ngành nghề nổi bật nào đứng mũi chịu sào cho hành
trình gọi là tiên phong chuyển đổi số. Thay vào đó, trong mỗi ngành nghề sẽ xuất hiện một vài doanh
nghiệp chủ động tiên phong. Có thể kể đến những cái tên như Techcombank của ngân hàng, Mobile
World, Masan của nhóm ngành tiêu dùng... Từ những vượt trội của những "kẻ tiên phong", trong nội bộ
ngành dần xuất hiện thêm những cái tên chen chân vào cuộc đua chuyển đổi số sớm. Và đó là những
MBBank, TPBank của ngành ngân hàng, là PNJ, TLG cùng ở nhóm ngành hàng tiêu dùng không thiết yếu.
Thành tựu được cho là rõ ràng nhất trong mọi cuộc chuyển đổi số chính là quá trình cải thiện năng suất
lao động, hay được biết đến trong kinh tế học với tên gọi “Năng suất nhân tố tổng hợp” (TFP) - mà công
nghệ đã được nhiều mô hình chứng minh có vai trò then chốt. Trực quan hơn những cái tên nhắc phía
trên từ TCB tới MWG, rồi PNJ & hiện tại là TLG đang cho thấy rất nhiều những chuyển mình trong hoạt
động kinh doanh.

Điều khó khăn nhất, hay rào cản thách thức với tất cả các doanh nghiệp theo đổi đi tới tận cùng một
hành trình chuyển đổi số dành riêng cho doanh nghiệp mình nằm ở việc "Đổi mới mô hình kinh doanh
chính" trên nền tảng của hoạt động kinh doanh cốt lõi hiện hữu. Điều này dẫn tới chuyển đổi số có tính
không đồng đều giữa các ngành với các lý do khách quan đặc thù trong quá trình mô hình hóa trước khi
được số hóa cho tới chuyển đổi số toàn bộ. Rồi mới tới những yếu tố chủ quan như năng lực đội ngũ,
động lực & tham vọng lãnh đạo. So với ngành ngân hàng hay cũng là một loại hình bán lẻ giống như
MWG, PNJ - Petrolimex (PLX) có những khó khăn nhất định với tính đặc thù bởi ngành hàng kinh doanh,
trong khi ở phía chủ quan nằm ở phía chủ sở hữu thực sự. Một câu chuyện cũng không khác mấy ở
những Vinamilk, Vietnam Airlines....

Theo đó, từ năm 2019 PLX đã đặt các bước đầu cho tham vọng làm sao để số hóa hoạt động, bằng cách
thêm những ý tưởng vận hành & kinh doanh mới đồng bộ với ứng dụng các phương thức số hóa quy
trình. Tuy nhiên thực tế cho tới nay các ứng dụng chuyên sâu trong lộ trình số hóa hoạt động của PLX
vẫn tương đối nghèo nàn. Nổi bật nhất các thành tựu ghi nhận tới năm 2021 bao gồm tích hợp thành
công của Hệ thống Quản trị cửa hàng bán lẻ (EGAS) từ một đơn vị nội bộ (Piacom); Hệ thống hóa đơn
FDA triển khai năm 2021 hay đã mạnh dạn triển khai hệ thống báo cáo thông minh BI nhằm tận dụng tối
đa nguồn dữ liệu lớn của tập đoàn. Điểm nhấn lớn nhất trong quyết tâm số hóa của PLX trong 4 năm
qua sẽ chính là Triển khai hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt chấp nhận hầu hết các thẻ ngân
hàng nội địa, Visa, Master... tại 2000 cửa hàng trực tiếp sở hữu. Song song với hoạt động này,
Petrolimex triển hệ thống PLX ID giúp khách hàng theo dõi quản lý các thông tin, về đơn hàng, hàng hóa,
thanh toán một cách nhanh chóng tiện lợi và minh bạch hóa các thông tin của mình. Hỗ trợ Petrolimex
quản lý nhận diện chăm sóc khách hàng một cách toàn diện và chu đáo. Mới nhất, hoạt động này đã
được nâng cấp bằng hợp tác với Visa bằng thanh toán không chạm. Trong dự án này, Petrolimex đã sử
dụng thiết bị POS tiên tiến và triển khai lắp đặt tại hệ thống cửa hàng bán lẻ xăng dầu trên toàn quốc,
cho phép khách hàng chạm để thanh toán bằng các loại thẻ Visa. Thiết bị POS mới triển khai đáp ứng
đầy đủ yêu cầu đảm bảo an toàn phòng chống cháy nổ theo quy định, tích hợp với cột bơm, kết nối
không dây (Wi-Fi) để phục vụ khách hàng thanh toán ngay tại cột bơm. Từ đây thời gian phục vụ cho mỗi
khách hàng được giảm xuống tối đa. Về phía khách hàng sử dụng dịch vụ xăng dầu sẽ thực sự thuận tiện,
nhanh chóng.

Dù vẫn chưa thực sự quyết liệt và có tốc độ trong hành trình số hóa vận hành cho tới cung cấp dịch vụ.
Tuy nhiên sau từng đấy năm ít nhiều PLX cũng đang bỏ túi cho mình ít vốn thu lượm được mà ở đó với
hoạt động kinh doanh truyền thống sẽ là cải thiện thị phần chứ không có an phận ở 50%. Tham vọng
hơn, không quá xa nữa với nguồn tài nguyên dữ liệu có được hệ thống PLX ID đã vận hành 1 năm qua tới
đây PLX sẽ hoàn toàn có thể triển khai các dịch vụ bán chéo, hay tích hợp các tiện ích mà nhiều bên đối
tác dịch vụ mong muốn "add-on". Thêm nữa có được những điều mới mẻ ngoài bức tranh truyền thống
cũ kỹ, cũng là cách để Petrolimex hấp dẫn hơn trong con mắt các nhà đầu tư chiến lược tới tài chính
muốn tìm đến sẵn sàng chi trả những mức giá có thặng dư cao hiện sở hữu nhà nước tại PLX ~76%.
Như đã chia sẻ ở bài viết trước, ART INVESTOR đã nhìn thấy PLX có mức định giá tương đương hồi IPO
hay mức giá tại đợt bán tháo trong hoảng loạn hồi tháng 03/2020. Với trao đổi tại bài viết này, AI còn
nhìn thấy những bước tiến chuyển đổi mới tuy chậm nhưng nhiều màu sắc và có ít nhiều thành tựu của
PLX chưa được phản ánh tới thị giá trong khí giá trị nội tại của Vua Xăng Dầu rõ ràng là có được gia tăng
thêm.

Ở ART INVESTOR, AI team nắm rõ từng chi tiết các con số, câu chuyện từng doanh nghiệp trước khi mở
vị thế đầu tư. Hãy tương tác & chia sẽ để lan tỏa bài viết nếu bạn cảm thấy hữu ích cho cộng đồng. Để
có thể trở thành độc giả thân thiết và nhận các Báo cáo phân tích, đầu tư chuyên sâu của AI.

You might also like