Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 22

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
GV: Thầy Ngô Tuấn Phương

TIỂU LUẬN
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MÂU THUẪN CƠ BẢN
VÀ KHÓ KHĂN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI. TRÌNH BÀY NHẬN THỨC BẢN THÂN VỀ VẤN ĐỀ VẬN
DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỂ XÂY DỰNG NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP VÀO NỀN KINH TẾ
THẾ GIỚI
Khoa : Nhật Bản học
Lớp : 2220DAI051L08
Nhóm thực hiện : Nhóm 3
Thành viên nhóm :
STT Tên thành viên MSSV

1 Nguyễn Ngọc Anh Chi 2156190013


2 Đinh Mỹ Duyên 2156190016
3 Trần Tấn Đạt 2156190018
4 Ngô Khánh Linh 2156190034
5 Đặng Hồng Phúc 2156190181
6 Đinh Thị Như Quỳnh 2156190061
7 Trần Lâm Gia Hân 2156190029

TP. Hồ Chí Minh, ngày 17 tháng 6 năm 2023


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1

I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mâu thuẫn cơ bản và khó khăn của Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội........................................................2

1. Mâu thuẫn cơ bản của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội..........2

2. Khó khăn của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.......................3

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người...............................................5

1. Ý nghĩa của việc xây dựng con người........................................................................6

2. Nội dung xây dựng con người....................................................................................7

3. Phương pháp xây dựng con người.............................................................................8

III. Xây dựng nguồn lực con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh và
thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ hội nhập vào nền kinh tế thế
giới 9

1. Nhận thức của Đảng về xây dựng nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ hộp
nhập vào nền kinh tế thế giới......................................................................................9

2. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay....................................................11

a. Số lượng nguồn nhân lực...................................................................................12

b. Chất lượng nguồn nhân lực...............................................................................12

3. Giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người Việt Nam phát triển toàn diện
trong bối cảnh Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới......................................13

4. Tổng kết................................................................................................................ 16

NGUỒN TÀI LIỆU....................................................................................................18


LỜI MỞ ĐẦU

C.Mác, Ph.Ăngghen và V.Lênin nhấn mạnh tính chất tất yếu khách quan của
tiến tới xã hội chủ nghĩa và chỉ rõ sứ mệnh lịch sử, vai trò đặc biệt của chủ nghĩa xã
hội đối với sự phát triển và biến đổi của kinh tế - xã hội loài người.
Theo học thuyết Mác - Lênin, có hai con đường nhằm quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Con đường thứ nhất là quá độ trực tiếp từ các nước tư bản phát triển lên chủ nghĩa
xã hội. Phương thức thứ hai là quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội ở các nước lạc hậu
hoặc các nước tiền tư bản chủ nghĩa.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
là một hình thức gián tiếp để quá độ từ một xã hội nông nghiệp thuộc địa và nửa phong
kiến sang chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, bước tiến của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là Việt Nam quá độ từ một nước nông nghiệp chậm phát triển sang chủ
nghĩa xã hội mà không phải qua quá trình sản xuất nông nghiệp mà là sự chuyển đổi
nền nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế văn minh, hiện đại. Điều này yêu cầu sự áp
dụng đồng thời nhiều hình thức đấu tranh chính trị, tư tưởng, văn hóa và xã hội, tiêu
diệt những lực lượng chống phá con đường hướng đến xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
gồm: Thứ nhất, xây dựng cơ sở kinh tế, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, đặt nền tảng cơ
sở tư tưởng, giai cấp, đạo đức và văn hóa xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, cải tạo
xã hội cũ để xây dựng xã hội mới, đồng thời đổi mới và xây dựng lâu dài chủ nghĩa xã
hội, trong đó lấy xây dựng làm trung tâm, chủ chốt.
Trong quá trình quá độ của Việt Nam nảy sinh nhiều mâu thuẫn và khó khăn do
những đặc điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy nguồn lực con người có thể là
yếu tố quan trọng nhất để giải quyết vấn đề này.

1
I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về mâu thuẫn cơ bản và khó khăn của Việt
Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Mâu thuẫn cơ bản của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trước hết, cần phải khẳng định rằng, việc tồn tại những mâu thuẫn trong thời kỳ
quá độ ở Việt Nam là tất yếu khách quan. Việc phủ nhận những mâu thuẫn của thực tế
và nuôi dưỡng ảo tưởng về một thế giới không có mâu thuẫn sé đưa chúng ta xa rời
thực tế.
Thứ hai, chúng ta phải thấy rõ những mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay giữa
hai khuynh hướng tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Đối trọng với khuynh hướng
xã hội chủ nghĩa thì khuynh hướng tư bản chủ nghĩa hiện diện cả trong tàn tích của xã
hội cũ và trong những yếu tố mới hình thành trong quá trình tái thiết. Mâu thuẫn cơ
bản hiện nay đang xuất hiện trong lĩnh vực chính trị nước ta là mâu thuẫn giữa nguyên
tắc dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và xu hướng tiến lên chủ nghĩa tư bản [1]
.
Nằm trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân trước
những âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù là một trong những nhiệm vụ tất yếu đi
đầu...
Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, những mâu thuẫn cơ bản tập trung vào quá
trình hoàn thiện của nền văn hóa tiên tiến, bản sắc dân tộc, sự tha hóa, suy thoái về đạo
đức và phương thức sinh hoạt trong xã hội. Mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại,
giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội.
Trong lĩnh vực kinh tế là mâu thuẫn giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hệ thống tổ chức quản lý lạc hậu, đồng bộ; từng bước xóa đói giảm nghèo và
trình độ phát triển thấp của lực lượng sản xuất. Giữa sự gia tốc công nghiệp hóa, hiện
đại hóa với nguy cơ hủy hoại môi trường sinh thái. Hơn nữa, Việt Nam hiện nay có
các mô hình sở hữu đa dạng và các thành phần kinh tế với các lợi ích khác nhau. Tất
nhiên, sự tương phản này chỉ là bộ phận và được thể hiện ở tính chất chung của nền
kinh tế thị trường. Đó là nền kinh tế thị trường, "có trình độ quan hệ sản xuất cao theo
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sở hữu có nhiều hình thức, nhiều thành
phần của nền kinh tế, trong đó kinh tế quốc dân giữ vai trò chủ đạo. Có và kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Các chủ thể trong các thành phần
kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật…” [2].

2
Trong xã hội hiện đại, các mâu thuẫn chủ yếu thiên về tính không đối kháng.
Đó là mâu thuẫn của những cá nhân hoặc các tổ chức xã hội có lợi ích cục bộ. Để hóa
giải các mâu thuẫn này thì phải tiến hành đối thoại, đàm phán, thương lượng và hòa
giải mà không sử dụng vũ lực. Đặc biệt trong việc hình thành liên minh công nhân 
nông dân và lực lượng lao động đã công nhận việc xử lý những mâu thuẫn không đối
kháng trên tinh thần đồng thuận vì lợi ích dân tộc, củng cố nền móng khối đại đoàn kết
toàn dân. Đó là một giải pháp hiệu quả và trở thành nguồn lực quan trọng trong xây
dựng xã hội.
Cùng với đó, những mâu thuẫn đối kháng trong xã hội của chúng ta đã không
biến mất. Mục tiêu giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa cộng sản vô cùng đối lập
với tư tưởng “một mất một còn” của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Sự chống phá kịch liệt
của các lực lượng phản động cũng vô cùng đối lập với lý tưởng đấu tranh của ta. Vì
vậy, quá trình chống phá kiên quyết và không ngừng nghỉ của ta đối với các thế lực
thù địch trong thời kỳ quá độ là nhằm xử lý dứt điểm những xung đột đối kháng.
2. Khó khăn của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Theo Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một
thời kỳ khó khăn, phức tạp và lâu dài [3]
. Tính chất khó và phức tạp của chủ nghĩa xã
hội được Hồ Chí Minh lý giải trên những điểm chính:
Thứ nhất, nó là cuộc cách mạng làm thay đổi nhiều phương diện cuộc sống xã hội
của loài người và xã hội nói chung kể cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Nó
đưa ra những yêu cầu về nhiều khía cạnh khác nhau.
Hoàn cảnh của Việt Nam trong thời kỳ hiện nay có vô vàn khó khăn. Việt Nam
xuất phát từ một nước xã hội thuộc địa, nửa phong kiến nên trình độ của lực lượng sản
xuất còn thấp. Thêm vào đó, do đất phải trải qua chiến tranh ác liệt kéo dài, bị tàn phá
nặng nề, hậu quả tàn dư của chế độ thực dân, phong kiến còn nhiều trên tất cả các lĩnh
vực. Lực lượng sản xuất thời bấy giờ hầu hết không có kỹ năng chuyên môn cao và
chưa được qua đào tạo, sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền
miệng. Bên cạnh đó, tư liệu sản xuất của nước ta vẫn còn thô sơ lạc hậu, mặc dù sản
xuất nông nghiệp là chủ yếu nhưng công cụ sản xuất người lao động có cũng chỉ có
cuốc, cày, rất ít có máy móc hỗ trợ. Mặc dù quan hệ sản xuất là thứ mở đường tạo
động lực cho lực lượng sản xuất, tuy nhiên, do người lao động không được chú trọng
về trình độ cũng như thái độ, đã tạo nên sự thụ động trong cơ chế quan liêu bao cấp [4]
.

3
Nhà nước theo hướng tập thể hóa trong vấn đề sở hữu vật tư khiến người lao động bị
biệt lập với đối tượng lao động. Quan hệ sản xuất tách rời với lực lượng sản xuất dẫn
dến sản xuất bị kìm hãm, năng suất lao động thấp nên kinh tế nước ta lần nữa lại lâm
vào khủng hoảng.
Việt Nam đã quá độ lên chủ nghĩa xã hội, từ một nước thuộc địa nửa phong kiến,
bỏ qua thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản cho nên đã có khá nhiều trở ngại về vấn đề
phát triển chủ nghĩa xã hội. Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam gồm nhiều
thành phần kinh tế khác nhau, thuộc những loại sản xuất tương ứng với các loại hình
sỡ hữu khác nhau và mặc dù trái ngược nhau nhưng nằm chung một cấu phần kinh tế
quốc dân đồng nhất. Các thành phần kinh tế vừa phải đối lập nhau về tính chất và chức
năng, nhiệm vụ lại phải vừa đồng nhất với nhau. Chúng vừa đấu tranh lại kết hợp và
bổ túc lẫn nhau. Vậy cho nên trong từng giai đoạn phát triển của cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng cần xử lý tốt xung đột chúng. Việc này diễn ra trong suốt thời kỳ quá
độ và là thách thức xuyên suốt đặt ra cho Đảng và Nhà nước ta.
Thứ hai, đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể cả trên phương diện
kinh tế, Đảng và Nhà nước, nhân dân ta không có đủ điều kiện và lại vừa đi vừa học
tập nên không tránh được sai lầm và thiếu xót.
Chủ nghĩa Mác – Lênin xác định hai hình thái chủ yếu của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Đó là quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và quá độ
gián tiếp từ những hình thái xã hội đối lập lên chủ nghĩa xã hội. Cho đến nay, thời kỳ
quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội chưa bao giờ diễn ra. Tất cả
các nước đang tiến lên chủ nghĩa xã hội trên thế giới, bao gồm cả Liên Xô và Đông Âu
trước đây, đều đi từ xã hội tư bản chủ nghĩa chưa phát triển hoặc tiền tư bản chủ nghĩa.
Như đã biết, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm là một nước thuộc
địa nửa phong kiến, nên việc gặp phải khó khăn là điều không thể tránh khỏi [5].
Trên phương diện kinh tế còn có những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và thị
trường, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Điều này biểu hiện rõ ràng ở vấn
đề tốc độ tăng trưởng và khả năng phát triển thấp, thiếu bền vững; cơ sở hạ tầng chưa
hoàn chỉnh; quy mô và tiềm lực của nhiều đơn vị kinh tế trong đó có doanh nghiệp nhà
nước còn hạn chế; môi trường sinh thái ô nhiễm nhiều nơi; việc quản lý và điều hành
kinh tế có nhiều hạn chế, việc cạnh tranh quốc tế diễn ra quyết liệt.

4
Trên phương diện chính trị, xã hội ngày càng xuất hiện nhiều giai cấp và tầng lớp
khác nhau. Các tầng lớp và giai cấp này một mặt liên minh hợp tác với nhau, mặt khác
lại đấu tranh với nhau. Điều này là do mỗi giai cấp và tầng lớp có những lợi ích riêng,
những lợi ích này xung đột, mâu thuẫn nhau mà lãnh đạo vẫn chưa giải quyết được.
Trên phương diện văn hóa, tư tưởng, sự giao thoa và xung đột của cái mới và cái
cũ. Những tư tưởng của xã hội thuộc địa nửa phong kiến và ảnh hưởng văn hóa nô
dịch đế quốc vẫn còn tồn tại, lấn át những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
Bên cạnh đó, những tư tưởng, văn hóa lỗi thời của xã hội cũ cụm lại thành một thế lực
và chèn ép những tư tưởng của xã hội mới vừa xuất hiện.
Trên phương diện xã hội, cách biệt giàu nghèo gia tăng, trình độ giáo dục, chăm
sóc sức khỏe cùng nhiều phúc lợi xã hội khác bị giảm sút; văn hóa và đạo đức con
người suy thoái; tội ác cùng những tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Đặc biệt là tình
trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí về kinh tế và tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối
sống còn xảy ra rất nhiều.
Thứ ba, sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thường xuyên bị những
phần tử thù địch trong và ngoài nước phá hoại [6].
Sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở một loạt các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu là cái cớ để các thế lực thù địch, phần tử phản động chính trị tung
ra các quan điểm sai trái, thù địch, phủ nhận sự đúng đắn, khách quan của chủ nghĩa xã
hội trên toàn thế giới với tư cách là một học thuyết, một chế độ xã hội, đẩy mạnh chiến
lược “diễn biến hòa bình” chống phá chủ nghĩa xã hội. Đối với sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, các thế lực thù địch cho rằng sự kiên định với tư tưởng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là lạc nhịp, lỗi thời với xu hướng
phát triển của thế giới. Thủ đoạn mà các thế lực thù địch thường dùng là tạo dựng,
xuyên tạc bản chất, nền tảng tư tưởng của Đảng, thông tin sai sự thật, lập lờ về tình
hình đất nước. Họ xuyên tạc rằng những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là do sự đầu tư, giúp đỡ của chủ nghĩa tư bản chứ
không phải do vai trò lãnh đạo của Đảng, không phải do Việt Nam đã lựa chọn con
đường đúng đắn là đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây hoàn toàn là sự bịa đặt trắng trợn, sai
sự thật hòng gây hoang mang về hệ tư tưởng, lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Trong cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay, bảo vệ, đấu tranh, phản bác, làm
thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình”, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên

5
chủ nghĩa xã hội của các thế lực thù địch, phần tử phản động là nội dung cơ bản, qua
đó khẳng tính khoa học, cách mạng, củng cố niềm tin, sự kiên định tư tưởng, hành
động vào con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhân dân Việt Nam đã lựa
chọn.

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người

1. Ý nghĩa của việc xây dựng con người

Từ quan điểm coi con người là yếu tố vốn quý nhất và quyết định sự thành công
của sự nghiệp cách mạng vàcon người vừa là mục đích vừa là động lực của cách mạng
Việt Nam nên tính cần thiết và vai trò của sự phát triển con người đã được Người thể
hiện rõ qua quá trình cách mạng Việt Nam cùng sự tiến bộ xã hội. Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn coi xây dựng con người là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng,
nhiệm vụ mang tính thời sự cấp bách, lâu dài và có ý nghĩa chiến lược trong công cuộc
đổi mới; là mục tiêu, mối quan tâm thường trực và yếu tố trọng tâm để xúc tác, hòa
quyện cùng nhiệm vụ chính trị, văn hóa, xã hội cấu thành nên chiến lược phát triển đất
nước.

Khi đến dự “Lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc” ngày
13/9/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho đời câu nói nổi tiếng: “Vì lợi ích mười
năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Người xem việc xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài, đầy gian khổ, đồng thời
nhấn mạnh, đề cao, nêu bật tầm quan trọng giáo dục đào tạo đối với tiến trình đó.
“Trồng người” là nhằm bồi dưỡng và xây dựng thế hệ người kế tục đắc lực sự nghiệp
cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước. “Trồng người” là một trách nhiệm nặng
nề nhưng lại vẻ vang, đó là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội “một sớm một
chiều” mà tất yếu phải trải qua một quá trình lâu dài, phải gắn chặt xuyên suốt tiến
trình đi lên chủ nghĩa xã hội và quan trọng hơn hết, phải thực hiện chiến lược xây
dựng con người sao cho gặt hái được những thành tựu cụ thể trong từng giai đoạn cách
mạng. Để đạt được mục tiêu trước mắt là đưa Việt Nam hoàn thành sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải thực hiện lồng ghép, đan xen giữa nhiệm vụ phát triển
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và chiến lược “trồng người”.
Người nhắc đến sự nghiệp “trồng người” nhằm nhấn mạnh ý nghĩa to lớn của con

6
người đối với sự nghiệp cách mạng và khẳng định con người phải gắn chặt với sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trách nhiệm
xây dựng, phát triển con người không chỉ là công việc của Đảng, Nhà nước, các đoàn
thể chính trị - xã hội, đơn vị, nhà trường, gia đình…mà còn là quá trình đòi hỏi tính
tích cực, chủ động, tự giác của mỗi cá nhân, mỗi nhân dân phải thấm nhuần được giá
trị của việc “trồng người”, từ đó vun đắp vào cuộc sống thực tiễn như là quyền lợi,
trách nhiệm của cá nhân đối với sự nghiệp xây dựng đất nước.

“Muốn có chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải xây dựng những con người xã hội
chủ nghĩa và có tư tưởng xã hội chủ nghĩa”. Đó là lời căn dặn khi Người tham dự Đại
hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội diễn ra vào ngày 20/6/1960. Lời dặn dò của Bác
không chỉ nhấn mạnh ý nghĩa và tầm quan trọng của con người mới đối với sự nghiệp
xây dựng xã hội chủ nghĩa mà còn là quan điểm chỉ đạo đối với việc xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa. Nhân dân phải tự xây dựng lên xã hội chủ nghĩa. Và
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải huy động nguồn lực con người ra để sản
xuất. Để xây dựng nên chủ nghĩa xã hội trước hết phải chú trọng nâng cao hiệu suất
làm việc, tức là phải quản lý sức lao động thật chặt chẽ [7]
. Con đường xây dựng con
người trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua phát triển tư bản chủ nghĩa,
đòi hỏi nhiều sức sáng tạo và tính tự giác, thực hiện ở một đất nước xuất phát từ nền
sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, từ góc độ thực tiễn đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định, không phải chỉ xây dựng một nền kinh tế mới, phát triển văn hóa, xã hội
mà còn xây dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa, hai nhiệm vụ không được
tách rời nhau mà phải được đan xen vào nhau, thực hiện đồng thời cả hai trách nhiệm.
Do đó, vấn đề con người không phải là nhất thời mà cần phải kiên trì giải quyết lúc
ban đầu và chú ý xuyên suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

2. Nội dung xây dựng con người

Người quan tâm lớp người xây dựng chủ nghĩa xã hội toàn diện vừa “hồng thắm”
vừa “chuyên sâu”, vừa “có tài” vừa “có đức”. Đó là những con người có năng lực tự
chủ, phẩm chất cần, kiệm, chí công vô tư, trình độ khoa học – kỹ thuật cao và tinh
thần dám nghĩ dám làm, có đầy đủ lý tưởng cao đẹp, có đạo đức trung thực, thẳng
thắn, có tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa, có ý thức làm chủ nhà nước. Lớp

7
người mới xã hội chủ nghĩa phải biết phối hợp nhuần nhuyễn các yếu tố trên. Xây
dựng con người theo quan điểm của Người dựa trên các khía cạnh:

Đặt trong bản thân tư tưởng “ta vì mọi người và vạn người vì ta” và “chăm lo việc
nước như thể chăm lo việc thân”, biết dung hòa giữa lợi ích bản thân và lợi ích tập thể,
quán triệt sâu sắc tư tưởng tập thể xã hội chủ nghĩa và phải biết tự thân mình chăm lo,
đảm đương và không thụ động, ngồi đợi hay thoái thác nhiệm vụ. Theo Người, phải đề
cao ý thức tiết kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội và giữ gìn của chung, bài trừ tham
nhũng, lãng phí và loại trừ tuyệt đối các tư tưởng công thần, địa vị và danh vọng của
cá nhân,làm giàu cho bản thân [8]. Chủ nghĩa cá nhân, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật cùng
những thói xấu khác là “kẻ địch” nguy hiểm của chủ nghĩa cộng sản nên cần phải biết
chống và chiến thắng các hệ tư tưởng xấu xa đó.

Cần kiệm phát triển kinh tế và hăng hái xây dựng Tổ quốc [9]
. Mỗi người cần phải
hình thành trong mình ý thức bảo vệ đất nước, đó cũng là trách nhiệm, bổn phận của
mỗi chúng ta vì Tổ quốc là của dân, do dân và vì dân và nếu để đất nước rơi vào tay
thù địch, lịch sử dân làm nô lệ, cuộc sống kham khổ bị lặp lại. Bất kể là già trẻ, trai
hay gái, chúng ta đều phải thấm nhuần tinh thần làm chủ nước nhà.

Có lòng yêu nước nồng nàn, nhiệt thành và tinh thần quốc tế trong sáng là yêu cầu
đạo đức đối với toàn thể con người Việt Nam nói chung và mỗi cán bộ nói riêng. Thứ
nhất, phải có tinh thần đoàn kết với dân tộc các quốc gia khác vì lý tưởng giải phóng
con người khỏi áp bức, bóc lột. Thứ hai, trong mỗi cộng đồng và từng cá nhân với
nhau phải có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ dựa trên nguyên tắc hài hòa sự phối hợp
của lợi ích dân tộc và nghĩa vụ quốc tế, đấu tranh tự do, dân chủ và nhân quyền. Thứ
ba, giữ vững nền tảng tinh thần đoàn kết quốc tế rộng lớn bằng cách kết hợp chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa quốc tế, chống lại mọi biểu hiện của kỳ thị dân tộc. Nếu lòng
yêu nước không được hun đúc và ý thức thế giới không đủ mạnh sẽ dần dần đưa đến
tư tưởng dân tộc hẹp hòi.

Có phương pháp lao động sáng tạo và tác phong giản dị, mẫu mực, nêu gương [10]
.
Đừng tự cao tự đại, phải luôn nỗ lực trong học tập và làm việc, đồng thời tự kiểm điểm
lỗi lầm của mình và nhanh chóng sửa chữa. Phải biết tôn trọng ý kiến và huy động trí
tuệ tập thể giao phó và thực hiện nguyên tắc đoàn kết vì sự thống nhất của tập thể và

8
luôn tuyệt đối tuân theo. Trong tác phong mẫu mực là phải làm gương trong từng hoạt
động, từ việc nhỏ đến việc lớn phải luôn dựa trên phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính”,
“chí công vô tư”.

3. Phương pháp xây dựng con người

 Mỗi cá nhân phải biết kết hợp tu dưỡng, rèn luyện bản thân với xây dựng tính
khoa học, cơ chế của bộ máy và tạo nền dân chủ.
 Phát huy trách nhiệm của từng cấp ủy Đảng, Nhà nước và nhân dân trong thực
hiện phong trào “Thi đua yêu nước” và “Người tốt việc tốt” trong xây dựng con người
mới. Muốn trở thành một người tốt, trở thành người Việt Nam toàn diện, chỉ có gắn
mình vào phong trào thi đua yêu nước sôi nổi và chính qua phong trào đó, bản thân tự
đánh giá, tự điều chỉnh để có nhiều việc tốt mà trở thành người tốt.
 Cần phải chú trọng vào vai trò của giáo dục  đào tạo và phải xác định đúng
phương châm giáo dục. Chỉ có giáo dục mới phát huy, nâng cao được tri thức – sức
mạnh của con người, của dân tộc. Vì lẽ đấy, đẩy mạnh giáo dục và nâng cao dân trí là
một nội dung cơ bản của việc xây dựng con người Việt Nam mới theo tư tưởng Hồ
Chí Minh. Có học thức khoa học mới góp phần xây dựng xã hội chủ nghĩa. Cần phải
kết hợp khoa học và chính trị  kỹ thuật, đồng thời phải gắn chủ nghĩa Mác – Lênin
với học tập và làm việc mỗi ngày.

III. Xây dựng nguồn lực con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh và thực
trạng nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ hội nhập vào nền kinh tế thế giới

1. Nhận thức của Đảng về xây dựng nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ hộp nhập
vào nền kinh tế thế giới

Hiện nay, Việt Nam đang chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa
để chủ động tham gia tiến trình hội nhập thế giới với mục đích hàng đầu là phát huy
nguồn nhân lực. Những giá trị cốt lõi về lý luận, văn hóa, tinh thần của Chủ tịch Hồ
Chí Minh xoay quanh vấn đề giá trị nhân văn vẫn còn nguyên giá trị cho đến nay, soi
sáng mọi chủ trương, hành động trong công cuộc đổi mới toàn diện của Việt Nam. Vì

9
vậy, nước ta đang chủ trương thực hiện nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế gắn liền với con
người.

Từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã nhấn mạnh về vai trò việc làm chủ
của quần chúng lao động. Với phương châm “thực chất là tôn trọng con người, phát
huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây
dựng xã hội mới” nên mọi đường lối và chủ trương của Đảng luôn được nhấn mạnh về
vấn đề chăm sóc và phát triển nguồn lực con người.

Tại Hội nghị lần 4 Ban Chấp hành Trung ương khóa VII, lần đầu tiên Đảng ta đã
ra các nghị quyết đặt lên hàng đầu chiến lược “phát triển con người, với tư cách vừa là
động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước”. Đảng
nhận thấy cần thiết hiểu biết về các ý nghĩa to lớn có tính chất quy luật của yếu tố con
người là chủ thể của sự phát triển về nhiều loại đời sống thể chất và tinh thần trong
mọi nền văn hóa xã hội… Con người ngày càng cao về tầm vóc, khỏe về thể lực,
mạnh mẽ về trí tuệ và sáng ngời về nhân cách là nguồn động lực của công cuộc xây
dựng xã hội mới và cũng là mục đích của chủ nghĩa xã hội [11].

Trong Đại hội VIII, Đảng đã nhấn mạnh đến việc phát triển nguồn nhân lực và
xem đây là động lực chủ yếu cấu tạo nên lực lượng sản xuất – yếu tố quyết định năng
suất và việc phát triển bền vững của phương thức sản xuất mới ở Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, việc nâng cao dân trí, gióa dục  đào tạo, bồi
dưỡng và phát triển tiềm năng vô hạn của con người Việt Nam là yếu tố quyết định
thắng lợi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng luôn khẳng định: con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp phát triển. Nguồn lực quan
trọng, lớn lao và quyết định là con người phải có trình độ tri thức và phẩm chất ngày
càng cao mới có thể thực hiện tốt nhiệm vụ công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đại hội
VIII nêu rõ: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người
Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” [12].

Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ: “đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn
nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”, đồng thời khẳng định phương hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản,

10
toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình phổ cập
trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước phát
triển kinh tế tri thức” [13].

Đặc biệt, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đánh dấu cột mốc tạo bước chuyển quan
trọng khi quan điểm chỉ đạo của Đảng được nâng tầm, phát triển lý luận khi xác định
xây dựng nguồn nhân lực theo bối cảnh đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Cách tiếp cận như vậy thể hiện nhận thức mới trong tư duy lý luận của Đảng về văn
hóa, con người Việt Nam thời kỳ mới. Trong xu thế hội nhập quốc tế, Nghị quyết Đại
hội XIII của Đảng khẳng định: “mọi quyết sách của Đảng và Nhà nước đều phải
hướng tới nâng cao mức sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”; mặt
khác Văn kiện cũng nêu quan điểm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có phẩm chất, đạo đức, trí tuệ và có trách nhiệm cao đối với cá nhân, gia đình, xã hội
và Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng
cao...”; đi đôi với đó là quán triệt quan điểm: “Đào tạo con người theo hướng có đạo
đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng
làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập
quốc tế. Đây là nội dung được nhấn mạnh và nhắc đến nhiều lần, thể hiện quyết tâm
chính trị cao của Đảng trong phát huy giá trị vai trò nguồn lực con người Việt Nam
thời kỳ mới, phù hợp với xu thế phát triển khách quan của thời đại, sát với thực tiễn
đất nước. Về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ yêu cầu đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đại hội XIII chủ trương: “Đẩy
mạnh phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ
chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số,
nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý
xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người” và đồng thời định hướng: “ưu tiên
nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở
nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục,
đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu,
chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ; khơi dậy khát vọng phát

11
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn
hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [14].

2. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay

Nguồn nhân lực thực chất là những yếu tố, các quá trình tinh thần và vật chất đang
và sẽ tạo ra sức mạnh thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thuật ngữ
“nguồn nhân lực” chỉ ra nguồn gốc sản sinh, nuôi dưỡng các yếu tố vật chất, tinh thần
để tạo ra năng lực và sức mạnh của sự phát triển. Nguồn lực con người bao gồm hai
yếu tố cơ bản là số lượng và chất lượng. Muốn nâng cao, phát triển nguồn lực con
người thì cần phải xây dựng nguồn nhân lực về số lượng, đảm bảo về chất lượng và sử
dụng nguồn nhân lực một cách hiệu quả.

a. Số lượng nguồn nhân lực

Theo số liệu mới từ Liên Hợp Quốc, dân số tính đến 01/6/2023 của Việt Nam là
99,6 triệu người, con số này được dự đoán sẽ đạt đến 100 triệu trong thời gian ngắn
với tốc độ tăng trưởng tăng số nhanh chóng này. Trong số đó, số tham gia lực lượng
lao động ở độ tuổi 25 – 29 chiếm tỷ lệ cao nhất và khoảng 67,7% dân số đang ở độ
tuổi lao động. Quy mô dân số càng lớn thì tất yếu kéo theo quy mô nguồn lực con
người càng lớn. Vì vậy, Việt Nam đang nắm trong tay nguồn nhân lực dồi dào so với
các nước trong khu vực và thế giới. Xét từ khía cạnh cung ứng lao động, đây là một
thuận lợi lớn cho nước ta. Tuy nhiên, đó cũng là thách thức cho nền sản xuất xã hội
không giải quyết đủ việc làm cho người lao động. Quy mô dân số đông cùng với tốc
độ tăng trưởng dân số nhanh chóng như hiện nay đang là một áp lực, khó khăn đối với
vấn đề giáo dục, đào tạo, nâng cao nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, Việt Nam đang trong
giai đoạn dân số vàng và tốc độ già hóa đang tăng nhanh, Việt Nam đang phải đối mặt
với thách thức già hóa dân số: từ 35,9% năm 2009 lên 48,8% năm 2019.

b. Chất lượng nguồn nhân lực

- Về trí lực:

Người Việt Nam có tố chất thông minh, có khả năng sáng tạo, vận dụng và thích
ứng nhanh là một ưu thế nổi trội trong nguồn nhân lực nước ta. Trình độ học vấn và
trình độ chuyên môn kỹ thuật nguồn nhân lực nước ta đã được cải thiện rõ rệt trong

12
nhiều năm qua. Xét trên khía cạnh trình độ chuyên môn kỹ thuật, có tới 86,7% lực
lượng lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, và chỉ có 13,3% người lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Trung bình mỗi năm chỉ có khoảng 37% số
lượng cử nhân, kỹ sư tốt nghiệp Đại học ra trường tìm được việc làm, còn lại phần lớn
rơi vào tình trạng thất nghiệp [15]. Xét về tiêu chí giáo dục và đào tạo, có sự chênh lệch
đáng kể giữa trình độ học vấn của thành thị và nông thôn, tổng quan kỹ năng thực
hành nhóm và năng lực sử dụng ngoại ngữ còn kém dẫn đến năng suất lao động của
Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn so với các nước đang phát triển trong khu vực.

- Về thể lực:

So với các nước có cùng mức thu nhập thì các chỉ số cơ bản về sức khỏe của
nguồn nhân lực Việt Nam đã có nhiều cải thiện, song nhìn chung, chỉ ở mức trung
bình, kém các nước trong khu vực và thế giới cả chiều cao, cân nặng cũng như sức
bền, sự dẻo dai. Đến năm 2017, so với chuẩn quốc tế, của nữ thanh niên thấp hơn 10
cm, chiều cao trung bình của nữ thanh niên Việt Nam thấp hơn 10 cm, của nam thanh
niên thấp hơn 12,6 cm. So với các nước trong khu vực châu Á, chiều cao của người
Việt Nam đứng thứ 9, chỉ hơn Indonesia, Philippines và Lào; thấp hơn Nhật Bản 8 cm,
Hàn Quốc 10 cm. Bên cạnh đó, sức bền, độ dẻo dai của người lao động cũng còn thấp.
Theo điều tra của Viện Khoa học Lao động Việt Nam năm 2015, chỉ có 52% lao động
Việt Nam có thể trạng bình thường; 42% có thể trạng gầy; và 6% quá gầy [16]
. Vì vậy,
phần lớn nguồn nhân lực Việt Nam chưa đáp ứng được cường độ làm việc công
nghiệp cũng như sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế.

- Về phẩm chất đạo đức – tinh thần:

Truyền thống quý báu của người Việt chính là tình thần yêu nước, ý thức dân tộc,
tự lực tự cường, tự tôn dân tộc, tư tưởng nhân văn, nhân ái…và trong quá trình lao
động sản xuất và điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt đã tạo ra con người đất Việt mang
trong mình đức tính kiên trì, nhẫn nại, cần cù, siêng năng, điều đó góp phần phát huy
chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam phát triển lên tầm cao mới. Tuy nhiên, Người lao
động Việt Nam phần lớn xuất phát từ lực lượng nông thôn, nông nghiệp còn mang
nặng tâm lý cộng đồng làng xã, lấy các quan hệ họ hàng, làng xóm làm chuẩn mực cư
xử. Song, vẫn còn coi trọng địa vị, chủ nghĩa hình thức, bảo thủ…Kỹ năng làm việc

13
nhóm, ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần hợp tác còn thấp, chưa đáp ứng được yêu
cầu của công ty doanh nghiệp.

3. Giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người Việt Nam phát triển toàn diện
trong bối cảnh Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới

Trước hết, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và bản thân người lao động
về vai trò, tầm quan trọng của nguồn nhân lực có chất lượng vì chỉ khi đó mới đưa ra
được các giải pháp thiết thực, khả thi để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; bản thân
người lao động mới tự giác tham gia vào quá trình đào tạo và tự đào tạo để trau dồi tri
thức, trình độ chuyên môn, kỹ năng.

Gắn chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo
với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng địa phương, thị trường
lao động bởi cung nhân lực mới đáp ứng nhu cầu nhân lực của nền kinh tế, thị trường
lao động cả về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu nhân lực và
năng lực phẩm chất.

Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác dự báo nhu cầu nhân lực. Phải điều
tra, khảo sát thường xuyên số lượng nhân lực và chất lượng nhân lực ở tất cả các
ngành, các cấp, địa phương và cả nước; đảm bảo cân bằng cung - cầu nhân lực để phát
triển kinh tế - xã hội trong phạm vi cả nước và từng ngành, từng cấp. Trên cơ sở đó,
tính toán quy mô và cơ cấu ngành nghề đào tạo, đưa ra dự báo để định hướng và hỗ trợ
đào tạo.

Một là, giải pháp về nâng cao trí lực, tâm lực của nguồn nhân lực.

Chú trọng phát triển năng lực và phẩm chất của người học thông qua đổi mới
mạnh mẽ, đồng bộ các yếu tố căn bản của giáo dục và đào tạo, học tập suốt đời và xây
dựng xã hội học tập theo Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục đào tạo theo
hướng hiện đại, gắn với thị trường lao động, với nhu cầu chuyển đổi các ngành sản
xuất. Học phải đi đôi với hành, gắn lý luận với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp
với giáo dục gia đình và xã hội. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri

14
thức pháp luật, ý thức kỷ luật lao động, ý thức công dân. Chuẩn hóa tin học, ngoại ngữ
theo hướng thiết thực để người học sử dụng được.

Đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong đào tạo. Trước hết, khuyến khích doanh nghiệp
tham gia vào quá trình đào tạo, từ xây dựng nội dung, biên soạn giáo trình, phương
pháp, phương tiện thực hành. Thông qua các hình thức liên kết đào tạo giữa nhà
trường với doanh nghiệp, nhân lực được đào tạo sẽ từng bước phù hợp với nhu cầu
của thị trường lao động, tránh lãng phí nguồn lực. Bên cạnh đó, đẩy mạnh hợp tác
quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực thông qua việc khuyến khích nước ngoài xây
dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo ở Việt Nam; khuyến khích doanh nghiệp FDI xây
dựng các cơ sở đào tạo nghề trong các khu công nghiệp; tuyển chọn đội ngũ nhân lực
đi đào tạo ở các nước có nền giáo dục tiên tiến.

Điều chỉnh cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực, khắc phục tình trạng “thừa thầy, thiếu
thợ” hiện nay và nâng cao tỷ lệ nhân lực đã qua đào tạo theo hướng: Với bậc đại học,
cao đẳng: mở rộng quy mô đào tạo về số lượng tuyệt đối, giảm về tỷ lệ tương đối so
với quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật; điều chỉnh cơ cấu
đào tạo giữa các ngành học cho phù hợp với yêu cầu của chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, của thị trường lao động. Hình thành mạng lưới đào tạo theo 3 nấc: Đại học
Quốc gia, Đại học trọng điểm, Đại học cộng đồng. Với đào tạo nghề (trung học
chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật): mở rộng quy mô đào tạo nghề cả về số lượng
tuyệt đối và tương đối; quy hoạch lại hệ thống đào tạo nghề theo hướng đồng bộ cả về
cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu trình độ, cơ cấu vùng miền; xã hội hóa công tác đào tạo
nghề, mở rộng các hình thức đào tạo nghề, chú trọng đào tạo nghề tại doanh nghiệp.
Với bậc phổ thông, thực hiện phân luồng học sinh theo hướng: để một tỷ lệ nhất định
học sinh sau tốt nghiệp THCS học lên THPT, còn lại đi vào học nghề và bổ túc văn
hóa; để một tỷ lệ nhất định học sinh sau tốt nghiệp THPT học lên Đại học, còn phần
lớn chuyển sang đào tạo nghề.

Hình thành tác phong, kỷ luật lao động mới cho người lao động là vấn đề không
phải một sớm, một chiều là có được, vì vậy, cần thực hiện theo hướng:

Giáo dục từ trong nhà trường đến doanh nghiệp, cơ sở sản xuất. Trong quá trình
giáo dục nghề nghiệp, các cơ sở giáo dục bên cạnh rèn luyện kỹ năng nghề cũng cần

15
phổ biến ý thức, kỷ luật cho người lao động. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất ngay từ
khâu tuyển dụng, ngoài các thông tin yêu cầu công việc, mức lương, cần đưa thêm
thông tin về nội quy, quy chế, hình thức khen thưởng và xử phạt khi người lao động vi
phạm kỷ luật, hợp đồng lao động. Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động, doanh
nghiệp hay chủ cơ sở cần thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, động viên.

Tăng cường vai trò của các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên qua việc đẩy mạnh
công tác giáo dục, tuyên truyền, các phong trào thi đua lao động, nhất là bồi dưỡng
kiến thức pháp luật lao động, giúp người lao động nâng cao nhận thức, ý thức trách
nhiệm, rèn luyện tác phong lao động công nghiệp, từng bước đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi
của thị trường lao động.

Thưởng, phạt phải kịp thời, đúng người, đúng việc. Nếu thực hiện tốt biện pháp
này sẽ tạo ra môi trường công minh, bình đẳng, giúp người lao động điều chỉnh những
hành vi chưa đúng, phát huy những mặt mạnh của mình, từng bước hoàn thiện bản
thân, hình thành ý thức, tác phong, kỷ luật lao động công nghiệp.

Hai là, nâng cao thể lực cho nguồn nhân lực.

Tăng cường công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng: xây dựng mạng lưới y tế đến
từng xóm, thôn, bản, bảo đảm cho mọi người được tiếp cận với dịch vụ y tế; truyền
thông giáo dục về dinh dưỡng và sức khỏe, đặc biệt cho bà mẹ và phụ nữ có thai; thực
hiện cung cấp nước sạch cho toàn dân.

Cần nâng cao thu nhập cho người dân. Khi có thu nhập bảo đảm được mức sống
thì con người mới chú trọng đến tình trạng dinh dưỡng cũng như chăm sóc y tế, rèn
luyện sức khỏe. Do đó, cần phân định rõ đối tượng để có các biện pháp phù hợp, cụ
thể: đối với những người có thu nhập từ lương, cải cách chế độ tiền lương theo hướng:
tính lương theo vị trí việc làm; tính đúng, tính đủ giá trị sức lao động; khuyến khích
trọng dụng người tài. Đối với các đối tượng khác: đa dạng hóa ngành nghề, phát triển
sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nhằm nâng cao giá trị gia
tăng...

Noi theo gương Bác Hồ vĩ đại, xây dựng phong trào thể dục thể thao toàn dân với
các phương châm toàn dân rèn luyện thân thể; phát động phong trào thể dục thể thao

16
người cao tuổi, người khuyết tật; phát triển công tác thể chất trong Nhà trường; phát
động và thực hiện phong trào thể dục thể thao trong các cơ quan, doanh nghiệp hay
đoàn thể.

Do vậy, cần phải phát triển văn hóa, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ;
hướng các lĩnh vực ấy vào việc phát triển con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững, đồng thời cần phải đổi mới cơ chế, chính sách sử dụng nguồn nhân lực
một cách hợp lí nhất, nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.

4. Tổng kết

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người có “đức” và “tài”, “hồng” và “chuyên” luôn
là định hướng định hình của con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ngày nay phải
phát triển toàn diện, yêu nước, tri thức, sống có văn hóa, tích cực, sáng tạo đưa khoa
học và công nghệ vào quá trình sản xuất và quản lý. Đồng thời, Đảng ta luôn quan
niệm con người là chủ thể phát triển, là mục tiêu của phát triển; là trung tâm của chiến
lược phát triển. Vì vậy, trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vấn đề
phát triển nguồn nhân lực có phẩm chất đạo đức đúng đắn là hết sức cần thiết để thực
hiện mục tiêu chiến lược tăng trưởng kinh tế - xã hội.

17
18
NGUỒN TÀI LIỆU

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB
Chính Trị, Hà Nội.
[2] Nguyễn Tuấn Linh. (2023). Học thuyết Mác Lênin về mâu thuẫn và sự vận
dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Cộng
sản. Truy cập từ https://tapchicongsan.org.vn/en_US/nghien-cu/-/2018/38926/hoc-
thuyet-mac---le-nin-ve-mau-thuan-va-su-van-dung-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-
nghia-xa-hoi-o-viet-nam-hien-nay.aspx?
fbclid=IwAR0H18yBK581AWADs5Xrsq_O6EAPnQGd2fxicYTBD7C9uOl758jSwzI
SrEI
[3] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021). Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính
Trị, Hà Nội.
[4] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa Xã hội Khoa học. Hà
Nội: NXB Chính Trị.
[5] Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Triết học Mác-Lênin. Hà Nội:
NXB Chính Trị.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự Thật, xuất bản lần thứ 3,
H, 2011, t.12.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, xuất bản lần thứ 3,
2011, t.13, tr. 69.
[8] Hoàng Đình Cúc. Quán triệt Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong xây
dựng con người Việt Nam hiện nay. Lý luận chính trị 11 – 2006, tr. 10.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tập 12, tr. 604.
[10] Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội
2021, tr. 247.
[11] Hồng Hiếu. (2018). Vận dụng quan điểm của Các Mác về bản chất con người
trong chiến lược phát triển con người ở nước ta. Truy cập 30/5/2023, từ
https://truongchinhtri.binhthuan.dcs.vn/Tin-tuc/post/25765/van-dung-quan-diem-cac-
mac-ve-ban-chat-con-nguoi-trong-chien-luoc-phat-trien-con-nguoi-o-nuoc-ta#!
[12] Cao Hải Yến. (2012). Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển nguồn
nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Truy cập 01/6/2023, từ

19
https://www.bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/766-v-n-d-ng-tu-tu-ng-h-chi-minh-v-
phat-tri-n-ngu-n-nhan-l-c-trong-s-nghi-p-cong-nghi-p-hoa-hi-n-d-i-hoa.html
[13] Nguyễn Đình Bằng & Bùi Thị Hoàn. (13/4/2021). Quan điểm Đại hội XIII của
Đảng về bảo đảm và thúc đẩy quyền con người. Truy cập 02/6/2023, từ
http://m.tapchiqptd.vn/vi/quan-triet-thuc-hien-nghi-quyet/quan-diem-dai-hoi-xiii-cua-
dang-ve-bao-dam-va-thuc-day-quyen-con-nguoi-16961.html
[14] Bùi Hoài Sơn. (2022). Xây dựng hệ giá trị văn hóa để tạo sự thống nhất về nhận
thức và định hướng hành vi cho con người. Truy cập ngày 08/6/2023, từ
https://dangcongsan.vn/dua-cac-he-gia-tri-quoc-gia-van-hoa-gia-dinh-va-chuan-muc-
con-nguoi-viet-nam-vao-cuoc-song/he-gia-tri-van-hoa/xay-dung-he-gia-tri-van-hoa-
de-tao-su-thong-nhat-ve-nhan-thuc-va-dinh-huong-hanh-vi-cho-con-nguoi-
623936.html
[15] Nguyễn Thanh Hải. (2022). Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh
con người Việt Nam theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng. Truy cập ngày 01/6/2023,
từ https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/825014/xay-
dung-va-phat-huy-gia-tri-van-hoa%2C-suc-manh-con-nguoi-viet-nam-theo-tinh-than-
dai-hoi-xiii-cua-dang.aspx
[16] Lê Thị Hoài Nghĩa. (2012). Toàn cầu hóa và vấn đề phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam hiện nay (Luận văn thạc sĩ, khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh).
[17] Nguyễn Thị Miền. (/2019). Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Truy cập ngày 04/6/2023, từ
http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/2931-nang-cao-chat-luong-
nguon-nhan-luc-dap-ung-yeu-cau-doi-moi-mo-hinh-tang-truong-kinh-te-viet-nam.html

20

You might also like