Viêm miệng là kiểu nhiễm virus phổ biến nhất ảnh hưởng tới miệng

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 3

VIÊM MIỆNG

Viêm miệng là kiểu nhiễm virus phổ biến nhất ảnh hưởng tới miệng; nó gây ra bởi
virus Herpes loại 1 và 2 ở người (HHV-1 và HHV-2). Thời kỳ ủ bệnh vào khoảng
5 ngày, và virus thường được truyền đi do tiếp xúc với vùng da bị tổn thương hoặc
bị viêm tuyến nước bọt. Virus có thể xuất hiện ở trẻ em mà không có bất kỳ triệu
chứng nào, hoặc là ở người đang dưỡng bệnh, hay ở trong nước bọt vài tháng (Trẻ
em có thể mang virus trong người mà không có bất kỳ triệu chứng nào, hoặc là
người đang dưỡng bệnh mà mang virus trong người, hay ở trong nước bọt vài
tháng ), nhưng virus hiếm khi bị phân lập ở người lớn một khi vết thương đã lành.
Nhiễm trùng xảy ra khi còn nhỏ thường là (biểu hiện) cận lâm sàng, chúng thường
bị coi thành hiện tượng “mọc răng”, nhưng khi nhiễm trùng xảy ra ở người lớn, các
triệu chứng rõ ràng và nghiêm trọng hơn. Ở những nước có tiêu chuẩn vệ sinh cao,
càng ngày càng nhiều người trưởng thành mắc bệnh gây ra bởi virus Herpes.

Trong các giai đoạn đầu, có thể sốt nhẹ đến sốt nặng và hạch bạch huyết sưng to, đi
kèm là cơn đau ở miệng hoặc ở họng; sau đó, ở vùng niêm mạc miệng, lưỡi và lợi
sẽ phát triển một số lượng mụn nước một cách lộn xộn, không theo sắp xếp. Các
mụn nước này nhanh chóng vỡ ra và tạo thành các vết loét tròn nhỏ hoặc không
đều với (các ban đỏ và xung quanh có màu vàng xám). Lợi bị viêm và nhiễm trùng
có thể bị nhầm lẫn với viêm nướu hoại tử cấp tính do vi khuẩn gây ra. Ở một vài
trường hợp, ANUG … Miệng sẽ rất đau và việc nhai và ăn uống sẽ có thể gặp khó
khăn. Các tổn thương sẽ biến mất mà không để lại sẹo trong 5-10 ngày.

VIÊM MÔI
Khoảng một phần ba bệnh nhân bị nhiễm herpes sơ cấp sẽ phát triển thành herpes
môi trong cuộc sống sau này do sự tái phát của virus tiềm ẩn mà đã có sẵn ở trong
hạch bán huyệt. Các tác nhân gây kích thích khiến cho bệnh tái phát:
- Stress
- Chấn thương
- Tiếp xúc với ánh nắng
- Kỳ kinh nguyệt
- Suy nhược
Vết thương phát triển ở vùng tiếp giác ở niêm mạc môi hoặc trên phần da xát với
lỗ mũi. Đặc trưng bởi các tổn thương có trước đó 24h, cùng với các dấu hiệu báo
trước là các cơn ngứa, cảm giác châm chích hoặc là cảm giác nóng ở trên da. Các
mụn nước sau đó to ra kết lại thành một khối, sau đó vỡ ra, đóng vảy và lành lại
trong 10 đến 14 ngày.
Sự tái phát nhiễm trùng herpes trong miệng xảy ra không thường xuyên; nó thường
liên quan tới vòm miệng, và lợi. Những tổn thương này sẽ phát triển tương tự như
tổn thương ở vùng môi, xuất hiện một cụm các vết loét nhỏ, viền xung quanh đỏ,
không đều nhau. Đau không phải biểu hiện chung của bệnh, các tổn thương trong
miệng có thể tái phát hoặc không và diễn ra trong nhiều năm.

VIÊM ĐẦU NGÓN TAY


Viêm da Herpe đặc trưng bởi cảm giác ngứa, đau và rát. Nhiều mụn nước bắt đầu
xuất hiện và lưu lại 4 đến 5 ngày sau đó vỡ ra, đóng vảy và lành trong 2 đến 3 tuần.
Các nha sĩ mà không bị mắc viêm da herpes khi còn nhỏ có thể bị lây nhiễm từ
bệnh nhân bị herpes (nguyên phát hoặc thứ phát). Nhiễm trùng ở dạng viêm da trên
ngón tay có thể dẫn đến những tổn thương cực kỳ đau đớn.Viêm ngón tay có thể
tái phát nhưng không thường xuyên bằng bị ở vùng quanh miệng.

Dịch tiết của vùng tổn thương được nhuộm bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang
đối với virus loại 1 và 2. Kỹ thuật này đặc hiệu và nhanh chóng.

Virus herpes dễ dàng bị phân lập từ các vết tổn thương miệng trong nhiều hệ thống
nuôi cấy mô khác nhau

Trong nhiễm trùng sơ cấp, hàm lượng kháng thể tăng gấp bốn lần hoặc cao hơn so
với huyết thanh giữa cấp tính và trung bình là dấu hiệu của nhiễm virus herpes.
Việc chứng minh các kháng thể globulin miễn dịch bằng kỹ thuật miễn dịch huỳnh
quang trong cùng một mẫu cũng có thể sử dụng để chuẩn đoán.

Viêm miệng Herpes từ nhẹ tới nặng được điều trị bằng aciclovir uống và bôi, cùng
với các biện pháp để điều trị chiệu trứng. Tuy nhiên việc sử dụng aciclovir ở những
bệnh nhân bị tái phát nên được giới hạn ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch và
những người có tiền sử tổn thương nặng, bị lan rộng hoặc quá thường xuyên tái
phát. Người bệnh nên sử dụng thuốc trước khi hình thành mụn nước để có kết quả
tốt nhất.

THUỶ ĐẬU VÀ ZONA (HHV-3)


Nhiễm virus varicella-zoster nguyên phát gây ra bệnh thuỷ đậu. Còn nhiễm virus
thứ phát gây ra bệnh zona do sự tái phát của các virus tiềm ẩn trong hạch cảm giác.

Thuỷ đậu là một bệnh truyền nhiễm phổ biển thường hay mắc khi còn ở thời thơ
ấu.

Trước khi các phát ban da hình thành, các tổn thương có thể được tìm thấy trong
miệng, bất kỳ vùng nào ở niệm mạc miệng, nhưng đặc biệt là ở trên vòm miệng,
vòm họng và lưỡi gà. Phát ban da đặc trưng có tính hướng tâm, và phát triển thành
mụn mủ và mụn nước trước khi đóng vảy, giúp phân biệt thuỷ đậu với các bệnh
gây loét miệng khác. Các tổn thương ở miệng bao gồm các vết loét nhỏ bao quanh
là vùng da đỏ. các mụn nước nhanh chóng vỡ ra nên ít được chú ý. Các tổn thương
có thể gây đau đớn ở người lớn, nhưng trẻ em thì ít khi thấy khó chịu.

You might also like