Professional Documents
Culture Documents
VN Khảo Cổ Tập San 6
VN Khảo Cổ Tập San 6
VN Khảo Cổ Tập San 6
https://books.google.com
SỐ 6
1
4
nde n Car
cke
Thi ?)
221
VIỆT - NAM
KHẢO CỔ ·
TẬP SA N
גגות
11/1
18
۱۱
۱
OCT 8G 1971
LIBORFARCYALIFORNIA
UNIVERSITY
www2
SAIGON 1970
Thư từ xin gửi về :
VIỆN KHẢO . CỔ
1 Đại lộ Thống -Nhất Saigon
Việt - Nam
VIỆT - NAM
18
00
HO
Y
SAIGON 1970
ཀཡ1སཔིུྱན|:
тили
Апос
PRO
DS55
6
V56
V. 6
MAIN
Các viễn -tượng của một Cộng- đồng như thế đã được Tổng
thống Đại-hàn Park -Chung -Hee nêu lên :
« Các bộ- trưởng cảm thấy sự khẩn thiết có sự công tác hoạt
động và hữu hiệu hơn giữa các nước tham-dự , vì ích lợi chung
của nhân dân các nước ấy về phạm vi kinh-tế , kỹ thuật , văn
hóa, xã -hội thông-tin .
Sau nhiều cuộc hội họp kế tiếp cấp Bộ- trưởng các nước
hội-viên , như Hội đồng Bộ-trưởng kỳ II tại Bangkok ( Thái- lan )
ngày 5 đến 7 tháng 7 năm 1967 , Hội - đồng Bộ- trưởng kỳ III tại
Canberra (Úc-đại -lợi ) ngày 30 tháng 7 năm 1968 , chiếu theo
Khánh-thành Ban Chấp -hành của Trung -tâm Văn hóa và Xã hội
đã họp tại Séoul từ 6 đến 7 tháng 9 năm 1968 , chiếu theo sự
thỏa hiệp thành lập một Trung -tâm Văn -hóa và Xã- hội cho miền
Á - châu Thái- bình dương . Có mặt trong Hội- nghị này : Các đại
biểu Úc-châu (Australia ) , Trung- hoa Dân-quốc , Nhật-bản , Đại
hàn , ( Korea ) , Mã-lai (Malysia ) , Tân- tây - lan (New Zealand) , Phi
luật- tân ( Philippines ) , Thái - lan (Thailand ) và Việt - nam .
Muốn cho « Cộng-đồng các dân - tộc trong miền Á-châu Thái
bình- dương » không phải giả-tạo mà trở nên một khối thật sự,
thì điều thiết- yếu là phải có một ý- thức-hệ chung cho các dân
tộc tạm gọi là ASPAC . Cái ý-thức- hệ ASPAC ấy không phải chỉ
căn -cứ vào địa-lý nhân-văn của nó là « Á-châu Thái -bình dương ,
đất giao - lưu của các chủng-tộc và văn minh , đứng giữa đường
Âu -Mỹ . Chúng ta thấy trong nhóm các nước hội- viên sáng-lập
hiện nay , tuy còn thiếu , nhưng cũng đủ đại- biều cho sắc thái
đặc biệt của ASPAC . Về chủng- tộc chủng ta thấy có Úc châu
và Tân-tây-lan đại diện cho chủng tộc da trắng đã từ Âu-châu
đến định cư trong miền Thái- bình.dương . Ngoài ra có các nước
hội-viên đại biểu cho chủng-tộc da vàng, như Trung-hoa Quốc
gia , Nhật-bản , Việt-nam , Thái-lan , da ngăm-ngắm như Mã -lai-a ,
Phi- luật -tân . Tóm tắt về chủng -tộc thì ASPAC hiện nay đã đại
diện được đặc-tính phức -tạp của nó với nhiều ngôn- ngữ khác
biệt nhau từ đơn-âm đến đa-âm .
của các dân-tộc ASPAC thì vấn -đề tiên -quyết phải là sự thông
hiểu lẫn nhau, thông- hiểu trên bình diện người với người ,
1
anh em bà con trong một đại gia đình , san phẳng hết thảy
thành kiến cũ như : « Dieu blanc homme jaune » ( Louis Roubaud)
(Thần da trắng , Người da vàng ) hay là « East is East and
West is West » (R.Kipling ) (Đông là Đông , Tây là Tây ) . Bởi
thế nên mới có sự thành lập Trung-tâm Văn hóa và Xã hội
của ASPAC , với chương trình sau đây :
Thái bình -dương trong việc theo đuổi và hoàn thành mục
tiêu chung của chúng trong sự cộng -tác , và do đấy để thực
hiện sự thịnh - vượng chung của các dân tộc Á - châu
·
Thái- bình -dương coi như một cộng đồng địa phương của
Thế giới Tự - do , Trung tâm Văn hóa và Xã hội ASPAC sẽ
chuyên tâm vào vấnđề giáo -dục , khảo cứu và liên - lạc chung
nhằm mục- đích mở rộng và đào sâu sự hỗ tương thông cảm
và thẩm định di-sản văn hóa và văn minh của nhau , như đã
được cụ thể-hóa trong quyết-nghị của Hội -nghị Bộ - trưởng về
ASPAC kỳ họp lần thứ hai tại Bangkok (Thailand ) từ ngày
5 đến ngày 7 tháng 7 năm 1967 thiết-lập Trung tâm Văn hóa
và Xã hội cho miền Á-châu và Thái bình dương .
Trung tâm sẽ thực thi những hoạt động sau đây để đem
lại hiệu-quả cho tác dụng của Trung - tâm như đã biểu thị
trong sự thỏa - hiệp thành lập một Trung - tâm Văn hóa và
Xã-hội cho Miền Á-châu và Thái- bình dương :
I.– Nhằm mục -đích thông -hiểu nhau hơn giữa các nước
hội viên của Trung -tâm , thì đường lối tối hảo cho sự thông
hiểu nhau hơn giữa cá nhân hay dân tộc ấy là khuyến
khích và khích khởi sự thông hiểu lẫn nhau bằng sự tiếp
xúc cá-nhân , giáo dục , khảo-sát và trao đổi tin -tức, v.v ...
khuyến -khích bằng những phương tiện như là trao đổi nhân
sự với nhau trong các cuộc hội họp quốc -tế, thuyết - trình ,
hội - thảo , tạo nên nhiều cơ -hội hơn cho nhiều dân tộc hơn
của khu vực . Thuyết -trình và hội thảo sẽ được tổ -chức tại
Trung tâm và tại các học - viện khác của các nước hội-viên .
Nhằm mục đích ấy , Trung-tâm sẽ khuyến khích sự thiết -lập
H.– Trung -tâm sẽ thi hành một chương trình học tập
ngôn-ngữ. Sinh-viên và học- giả của mỗi nước hội viên sẽ được
gởi đến các nước hội- viên khác để học- tập ngôn- ngữ, văn -hóa
và xã hội của các nước hội-viên , phi-tồn do Trung- tâm đài thọ .
Ngôn - ngữ-học của các nước hội- viên cũng sẽ được Trung tâm
thiết lập để khuyến khích sự thông- hiểu lẫn nhau và thầm
định di -sản văn -hóa và văn -minh thuộc khu vực Á châu và
Thái-bình- dương.
III.— Trung -tâm sẽ sưu-tập và phân -phối học -báo , tạp - chí ,
NGUYÊN -LÝ VÀ MỤC TIÊU ASPAC Z
tập kỷ -yếu , tintức và tài liệu tham khảo quan hệ đến những
vấn - đề địa -phương của các nước hội- viên cũng như hoạt động
của ASPAC. Vì thế mà Trung- Tâm sẽ sưu-tập tin-tức và tài
liệu về những hoạt- động văn -hóa và xã-hội trọng yếu của tất
cả cơ-quan công và tư trong Thế-giới Tự-do.
như trao đổi phải đoàn văn hóa và nghệ-thuật giữa các nước
hội - viên .
V.– Dịch-thuật sang Anh ngữ các tác phẩm giá -trị của
tác giả các nước hội viên sẽ được Trung tâm chủ -trương để
phân -phát cho các nước hội - viên nhằm phát-triển sự thông
cảm lẫn nhau . Vì thế mà một chương trình sự vụ dịch -thuật
sẽ thiết-lập trong tương - lai .
VIII.– Trung- tâm sẽ giữ một vai trò tàng -trử tài -liệu
tham -khảo cho các nước hội-viên . Công vụ này rất trọng
khảo -cứu - gia , tổ - chức và học- viện , tham - gia vào những hoạt
động giáo-dục , khảo cứu , và xuất- bản » .
Việt- nam với danh -hiệu lịch-sử tối cổ là Giao -chỉ , nơi
gặp - gỡ của dân tộc và văn -minh khác nhau giữa hai đại
truyền thống Hoa- Ấn như cái tên gọi cận đại của địa lý
học Indo - China , Việt-nam rất hoan - nghênh và mong mỏi sự
thành -lập « Cộng đồng Á -châu và Thái-bình-dương » như
ASPAC đã chủ trương .
ta đã đưa ra nhiều định nghĩa cho hai chữ văn -hóa , nhưng
hiềm vì định - nghĩa nào cũng đi xa căn - bản thực tế của văn
hóa là hoàn-cảnh địa-lý lịch-sử và có tính-cách trừu -tượng
tĩnh -quan , chẳng khác gì những phiến ảnh người ta đứng
« Quan thiên văn dĩ sát thời biến . Quan nhân văn dĩ hóa
thành thiên hạ ».
Theo nghĩa đen thì chữ Văn ở trong câu Thoán từ này
là cái đã hiện ra cho mắt thấy tai nghe , có tương quan với
10 KHẢO CỔ TẬP- SAN
vật khác . Và chữ Hóa có ý -nghĩa làm cho đôi khác theo mục
đích nào . Ý -nghĩa của Văn thì tĩnh , mà ý - nghĩa của Hóa
thì động .
Nếu xã- hội tính không phải là đặc-tính riêng của nhân
loại , thì phải chăng kỹ thuật là đặc - sản của nhân loại , nhờ
đỏ mà nhân -loại đã biến hóa hoàn cảnh bất lợi ra điều kiện
thuận - tiện cho nó . Nói như vậy thì chúng ta quên rằng
đàn ong có tài kiến- trúc chẳng kém gì các kiến -trúc -sự . Và
khi loài người còn ở trình độ ăn- lông ở-lỗ , thì ong đã biết
làm tổ khéo -léo . Nhưng trải qua hàng mấy nghìn năm , loài
người đã tiến-bộ từ trình độ đào lỗ đến trình độ xây dựng
đền đài nguy -nga hoa-mỹ , mà tổ kiến tổ ong thì không có gì
thay đổi. Vậy sở dĩ nhân loại mỗi ngày một tiến -bộ là vì nó
khác cầm-thủ ở chỗ biết quan niệm trước khi thực -hành . Do
đấy mà nó tích-lũy được kinh -nghiệm , học tập của tiền nhân
THỂ QUÂN- BÌNH VĂN- HÓA VIỆT- NAM ||
để mỗi ngày một phát- triển tri -thức, mở rộng kiến - văn . « Nhật
tân , nhật nhật tân , hựu nhật tân . Nghĩa là : Ngày một mới ,
lại ngày một mới . » ( Sách Đại Học ) .
« Tất cả các nhóm người đều tìm kiếm cách thức để sinh
« tồn . Chúng đạt mục đích ấy bằng các phương sách kỹ-thuật
đề đối-phỏ với hoàn cảnh tự nhiên của mình và để thu -lượm
« ở chính hoàn-cảnh ấy lấy những phương tiện nhu cầu và
« để hoạt động hàng ngày. Bằng cách này hay cách khác ,
« chúng phân -phát những cái chúng đã sản xuất , và chúng
« có một hệ thống kinh tế để thu lượm được nhiều kết quả
« với những khả năng có hạn của mình. Tất cả các nhóm người
« đều đặt cho tổ - chức gia -đình , hay cho những cơ-cấu tổ- chức
« rộng lớn hơn , căn cứ vào huyết- thống hay vào liên-hệ khác .
« Không một xã hội nào sinh hoạt trong sự hỗn độn vô chính
« phủ . Không có một xã hội nào lại không có một triết-lý về
« nhân sinh , không có ý - niệm về nguồngốc và vận hành của
« vũ -trụ , và những lý- thuyết về những cách-thức điều khiển các
« thế- lực siêu -nhiên , đề nhằm tới những mục - đích mong muốn .
« Để tóm-tắt các phương-tiện của văn hóa , chúng ta thêm
« vào đấy nào khiêu - vũ , ca - hát, kẻ - truyện , nghệ - thuật ,
-
« vẽ , nặn , mục - đích đem lại thỏa mãn mỹ - thuật, ngôn
ngữ đề diễn- đạt tư tưởng và tất-cả một hệ thống những
« giới-điều cấm đoán và những lý tưởng để đem lại cho đời
« sống
?. ý- nghĩa và ý vị của nó . Tất cả những bộ mặt văn hóa
« cũng như đích-thân văn-hóa đều là đặc sản của tất cả các
Vậy văn hóa là tất cả những cái gì của nhân loại để điều
hòa thích ứng với hoàn -cảnh đặng sinh- tồn . Hoàn-cảnh địa lý
khi-hậu hay là thiên -nhiên , và hoàn cảnh xã-hội lịch-sử. « Quan
thiên văn dĩ sát thời biến » là điều -hòa thích ứng với hoàn
cảnh thiên nhiên . “ Quan nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ »
là điều hòa thích -ứng với hoàn cảnh xãhội lịch sử mà nhân
loại làm chủ động hóa thành .
Đấy là định - nghĩa văn hóa hết sức tổng -quát mà cũng hết
sức xác- thực của tư - tưởng cổ -truyền Á- đông , vốn đứng ở
quan điểm biến dịch để nhìn sựvật một cách hội thông , chứ
không nhất diện vụn-vặt « Thánh nhân hữu dĩ kiến thiên
khứ truyền thống , ngọn thì vươn lên cái tương lai vô cùng .
Lấy toàn- thẻ mà nói thì văn-hóa của một xã hội có tinh -chất
bền vững , còn lấy từbộ- phận mà nói thì có sự thay đổi biếnよう
hóa. Bền vững và thay đổi là hai phương diện hỗ tương của
văn -hóa . Cho nên ở giai đoạn lịch sử nhất định nào , một dấn**
tộc hay một nhóm người trưng bày ra một thế quân bình của
văn-hóa , biểu-thị các trạng - thái quân bình của xã hội , trong
đó cá nhân tìm thấy quân bình ở tâm hồn mình , quân bình
THẾ QUÂN BÌNH VĂN-HÓA VIỆT- NAM 13
giữa cả-nhân với đoàn thể bên trong xã-hội , và quân-bình giữa
xã - hội và hoàn cảnh tự nhiên của nó . Ấy là thời đại thịnh
vượng của lịch sử hay dân tộc . Ở giai đoạn suy đồi của lịch
sử , xã hội mất quân bình nội- bộ , cá - nhân khủng-hoảng trong
tinh-thần , bởi vì giữa tinh thần cá- nhân với hoàn-cảnh xã hội
có một sự quan - hệ mật thiết và hỗ tương với nhau .
hội nông- nghiệp , sinh hoạt gần gủi với thảo mộc thiên nhiên .
Tinh thần của văn hóa cổ hữu là văn-hóa đồng ruộng , nặng
chĩu về tình cảm mà ít chú trọng về vấn đề lý - trí. Nó muốn
cùng với tạo -vật chung quanh đồng hóa cảm sinh , lấy nguồn
sống của cỏ cây thảo -mộc làm ý-nghĩa trường tồn . Hồn sông
hồn núi , thần lúa , thần cây , Nguyễn - Du với bốn câu thơ réo -rắt
đã mô - tả một cách linh động cái tin- ngưỡng vạn -hữu Thần lấy
nguồn sống tràn- ngập làm trung -tâm điểm :
(Kiều )
( Kiều )
Quân-bình giữa bên lý với bên tình , giữa cá -nhân với đoàn
thể , tình Nhà nợ nước. Cái xã hội nông-nghiệp ấy, tổ-chức
lấy tiểu đoàn thể gia đình làm đơn - vị , quân bình chủ nghĩa
phân - quyền xã-thôn dân - chủ với chủ nghĩa tập - quyền quốc
gia quân-chủ . Căn-bản kinh -tế là điền địa , thì phân chia theo
theo phép bản - công bản - tư , vì người nông-dân chưa có khuynh
hưởng độc quyền , chưa quên hẳn ý- nghĩa của sự sống không
giới-hạn trên mặt đất mà còn mở rộng lên với vũ trụ như
câu ca-dao đã chứng tỏ :
Ở đời muôn sự của chung
Hai giai- cấp chính của xã hội là Sĩ với Nàng cũng chưa
quên ý -nghĩa phân - công hợp -tác đề trở nên giai- cấp đấu tranh
như Nguyễn -Công Trứ đã quan niệm :
Cho nên kẻ thống trị với kẻ bị trị , giới trí- thức với giới
cần - lao ở xã -hội Tây-Âu phong-kiến thì cách biệt nhau bằng
một vực sâu của giòng -giỏi , ở xã - hội nông -nghiệp Việt- Nam
người ta không thấy có biên giới nhất-định , nhờ cái nguyên
tắc : « Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân nhất thị giai dĩ tu thân vi
bản » « Từ vua cho tới dân hết thảy đều lấy sửa mình làm gốc
Cái xã-hội ấy đang tự-mãn với thế quân bình văn hóa đặt
căn bản triết lý ở chỗ « hợp nội ngoại chi đạo » , « ngoài lý
trong tình » , thì chợt xúc tiếp với mưa Âu gió Mỹ, liền bị rung
động đến tận nền mỏng , khác nào một cây cổ thụ bị cơn gió
bão lay chuyền đến tận gốc rễ .
(Tản - Đà )
Cấu thơ của thi sĩ Tản-Đà nặng lòng với thời- thế , thực
như đã phô bày tất cả tâm- trạng bất mãn của sĩ- phu Việt-Nam
ở thời đại giao-thời , lòng người cũng như xã hội chưa tìm thấy
sự thích ứng chính-đáng mà dân-tộc đòi hỏi . Dòng dã ngót một
thế - kỷ , giới sĩ-phu lãnh-đạo dân tộc giác-ngộ sự hèn yếu của
quốc-gia , muốn tìm đường đề chỗi dậy. Kẻ Đông -du « Hướng
Cảng Hoành-Tân lỏi len đường mới » . Kẻ Tây - du học hỏi
« Mạnh -Đức với Lư-Thoa » (Phan -Bội- Châu ) . Nhưng sau cuộc
thế giới chiến -tranh thứ nhất , nhà lãnh-tụ phong - trào Đông
du thất-vọng trở về khuyên chúng ta bằng hai câu Kiều -lầy :
( Kiều )
Và nhà lãnh-đạo phong -trào Tây -du tuy không thất bại
hẳn , nhưng bắt đầu lên tiếng trong đất nước cho đồng bào
lại khuyên chúng ta đi tìm căn -bản đạo đức Đông - Tây .
16 KHẢOCỔ TẬP - SAN
Đây là tất cả các bài học của các bậc tiền-bối đã đem
muốn tìm chữa bệnh cần phải tìm chữa từ nguồn gốc , chẳng
phải dùng thời-phương mà dò- dẫm ở ngọn ngành . Thấy Tây
phương hùng- cường mà mình bị thua về máy-móc chúng ta
tưởng có thể vội vàng mượn ngay vũ lực cơ giới để cũng
trở nên hùng- cường . Đấy là chúng ta chỉ bắt chước nơi ngọn .
Sự thực cái cây cỏ -thụ là tổ -quốc chúng ta đã bị mục nát
ở tận gốc rễ . Quả nhiên Trung Quốc Mãn - Thanh với Việt
Nam cận đại trong khoảng ngót một thế kỷ nay ngắc- ngoái
chỉ vì đã làm cái việc bỏ gốc cầu ngọn .
Thật vậy , tất cả vấn đề khủng hoảng của dân tộc Việt
Nam chỉ là vấn-đề thích-ửng văn hóa xã thôn nông-nghiệp
cố hữu của Á Đông , với văn hóa đô thị kỹ nghệ của Âu-Tây .
Công việc điều hòa thích ứng ấy thực vô cùng khó -khăn
·
như chúng ta đã thấy , ngót một thế kỷ các bậc tiền bối kiệt
sức thực hiện mà kết quả thì mong-manh . Tuy nhiên không
phải vì dân tộc Phù -Tang đã được hóa -công nặn bằng thứ
đất thỏ đặc -biệt gì hơn dân - tộc ta mà đã thành công trong
sự điều hòa Đông- Tây để biến nước họ thành một nước
hùng-cường . Dân-tộc Việt- Nam vốn có đức-tính thông-minh
linh -lợi và cần cù hiếu học xưa nay có đủ tư- cách điều
hòa các khuynh -hướng văn-hóa mâu thuẫn sung - đột như lịch -
sử đã chứng-minh một cách hùng hồn . Sống trên một giải
đất mà ngày nay các nhà địa-lý học đã mệnh danh là Ấn- Độ
Chi - na , dân-tộc Việt đã làm tròn sứmệnh lịch -sử mà giang
sơn này ngấm-ngầm giao phó . Lãnh thổ Ấn -Độ Chi-na hình
chữ S này không những chỉ có ý-nghĩa địa lý , mà nó còn có
ý -nghĩa xã hội nhân - văn nữa . Lịch - sử mấy ngàn năm của
dân - tộc này là lịch-sử dụng hòa của hai nền văn hóa cổ -kinh
Á-Đông, văn hóa Phật với văn - hóa Không . Văn -hóa Phật chủ
về nội-hưởng vô - vi cốt đi tìm nguồn gốc tâm -linh , cái bản thể
THẾ QUÂN-BÌNH VĂN- HÓA VIỆT-NAM 17
phổ - biến của bản -tinh . Văn hóa Không chủ-trương ngoại-hướng
hữu -vi cốt thực -hiện cái đức nhân-ái ở hành động thực tế xã
hội . Văn-hóa Phật từ Ấn- Độ sang với văn hóa Khổng từ Trung
Quốc xuống , quả là hai khuynh-hưởng văn hóa cực-đoan mẫu
thuẫn , một đàng chủ về Thể, một đàng chủ về Dụng . Một
đàng thiên về Đạo , một đàng thiên về Đời , tức như Tây
phương quan -niệm về bản-thể (essence ) với hiện-sinh ( exis
tence) . Đứng giữa hai giao -phong ấy, một là dân-tộc Việt đề
cho xấu-xé tiêu-diệt mất hết quân bình vì không có bản lĩnh
hợp-nhất . Một nửa sẽ bị đồng hóa vào Ấn Độ , một nửa vào
Trung -Hoa , một nửa đi về Đời , một nửa đi về Đạo . Hai
là nó sẽ tồn tại đề còn là dân-tộc độc lập nếu nó có thể
giải-quyết được sự mâu - thuẫn của hai văn - hóa cực đoan
trên , nếu nó có thể tìm được đến cái chỗ nhất lý « hợp
nội ngoại chỉ đạo » . Trải qua Đinh , Lê , Lý , Trần , Lê, Nguyễn
chúng ta đã tỏ ra thành-công là một dân-tộc có bản-lĩnh ,
từng viết những trang lịch -sử anh-hùng ở góc trời Đông- Nam
Á này . Được như thể là vì nó đã tìm thấy thế quân bình
*
văn -hóa xã-hội của nó ở chỗ « ngoài thì là lý song trong là
tình » (Nguyễn - Du ), hay là như Nguyễn - Công- Trứ tuyên -bố :
Cho nên Việt- Nam đã vượt lên trên các hình thức khác
nhau đề cốt thực- hiện cải nội - dung duy-nhất « hành tàng bất
nhị kỳ quan » , bởi vì thực-tại đại-đồng vượt lên trên các quan
điểm nhận-thức.
Nhờ ý thức cái bản -lĩnh duy nhất quân-bình ấy, nhờ cái
quan - niệm trung hòa hợp nội ngoại , tình lý hỗ-trợ bồ -túc ấy
mà dân -tộc Việt-Nam cho tới nay vẫn còn cá -tính để thâu -hóa
sáng tạo .
Trần - Thái- Tông nửa đêm bỏ cung điện ngai vàng lăn lộn
lên thác xuống ghềnh tìm vào núi Yên - Tử đề hỏi một vị Đạo
Sĩ về Chân -lý Phật. Vị Đạo - Sĩ ấy là Quốc-Sư Phù -Vân lại trả
lời cho nhà Vua rằng : « Sơn bản vô Phật duy tồn hồ tâm .
1
Tâm tịch nhi trí thị danh chân Phật. Kim Bệ hả nhược ngộ
18 KHẢO CỔ TẬP - SẢN
thử tâm, tắc lập -địa thành Phật vô khổ ngoại cầu » . Nghĩa là :
« Trong núi vốn không có Phật , Phật có ở tại nơi tâm . Tâm
trong sạch mà biết ấy là Phật thật . Nay Bệ -hạ nếu thấy được
cái tâm ấy tức thì thành Phật , không phải uồng công tìm
ở bên ngoài » .
Và sau nhân quần thần thống thiết van nài , nhân việc
quân Nguyên đe dọa vào lãnh thổ , cho nên Vua Trần - Thái
Tông lại trở về ngôi báu để vì dân vì nước . Từ đây trở đi
nhà Vua vừa làm bổn - phận nhân sinh bảo - vệ sơn - hà xã tắc ,
nhưng không lúc nào ngài quên những nội- điền trầm -tư cho
đến khi đọc thấy câu ở kinh Kim - Cương : « Ưng vô sở trụ
nhi sinh kỳ tâm » , « Nên không chấp vào đâu mà nẩy sinh
ra cái tâm của mình » .
Nhà vua bèn khoát nhiên tự ngộ , lấy cái triết-lý truyền
thống của dân -tộc Việt- Nam , đem tâm-đạo để phụng- sự cho
đời làm căn bản cho thế quân bình của văn -hóa đồng ruộng .
Cho nên ngài mới kết luận về tinh thần Phật- giáo Việt-Nam
rằng :
« Trầm thiết vị Phật vô Nam Bắc, quân khả tu cầu . Tính
4
« hữu trí ngu đồng tư giác -ngộ . Thị dĩ quần mê chi phương
« tiền , minh sinh tử chi tiệp kính dã , ngã Phật chi đại giáo dã,
« nhậm thùy thế chi quyền hành , tác tương lai chi quĩ phạm
« giả , tiên thánh nhân chi trọng trách dã . Cổ tiên đại thánh
« nhân dữ đại sư vô biệt , tắc tri ngã Phật chi giáo , hựu giả
« tiên thánh nhân dĩ truyền ư thế » .
Nghĩa là :
xã hội phương Bắc với tinh thần văn hóa tâm-linh phương
Nam . Thế quân-bình ấy lập- cước ở tình yêu sáng-suốt và tích
cực hành động. Ngài không những là bó đuốc của Thiên- tông
Việt- Nam . Ngài cũng là kim chỉ nam cho nhà Nho hành động
chân - chinh nữa vậy . Cái tư tưởng thực -hiện đạo ở trong và
đức ở ngoài ấy đã có ảnhhưởng chói - lọi vào nhân cách của
Huyền Trân Công-Chúa , vì vận- mệnh sinh tồn của dân-tộc mà
hiến thân vàng ngọc để phối - hợp Bắc -Nam , để đồng hóa hai
nền văn hóa cổ kính Ấn - Độ Chi-Na trên đất này . Công cuộc
đồng- hóa ấy không phải không có sự hy- sinh đau -đớn , như đã
bộe- lộ ở bài hát réo-rắt u buồn này :
Sựhy- sinh ấy của Huyền - Trân Côngchúa tuy đau -đớn cho
cá nhân nàng, nhưng đã đánh dấu một sự đồng hóa vĩ đại của
20 KHẢO - CỔ TẬP- SAN
hai dân-tộc , một sự phối hợp phong phú của hai nền văn hóa
Chiêm -Việt, để kết- tinh ra đất Hoan -Châu mà hơn hai trăm năm
về sau đã là đất Thần kinh văn vật của Đức Thế Tổ , sau khi
hoàn thành công -cuộc thống nhất Đại Nam .
Cái ý-thức -hệ lãnh đạo của Vua thời Trần thích-ứng với hạ
tầng cơ -cấu của xã - hội Việt -Nam xưa . Thực vậy , tổ -chức chính
trị kinh -tế của xã hội Việt- Nam trước thời Pháp thuộc căn cứ
vào hệ -thống tổ - chức trái-nghịch và trùm -lớp lên nhau . Ở bên
· ·
dưới là một xã thôn dân chủ tự trị phân quyền mà bản vị là
gia -tộc , như ngạn -ngữ nói : “ Trong họ ngoài làng » . Ở bên trên
xã thôn là hệ thống quân chủ chuyên chế tập quyền . Hai hệ
thống căn-bản trái-nghịch nhau, hệ-thống quân-chủ tập-quyền
thuộc về xã hội bế quan . Cả hai đều tịnh hành trải qua các giai
đoạn thịnh-suy của lịch -sử hàng ngàn năm , thời nội chiến cũng
như thời ngoại- xâm . Sở dĩ như thế được là nhờ có một hệ -thống
kẻ sĩ đứng ở giữa hai thế lực trên kia để điều- giải với một
đường lối chính trị giáo hóa để phụng-sự dân tộc .
Cái cơ sở dân chủ xã-thôn ấy rất thích -hợp cho sự bền
vững của xã - hội nông - nghiệp Việt- Nam , cho nên một chính trị
gia Pháp đã công -nhận :
Tam -Viện
1. Sử-Quán
2. Hàn - Lâm
Viện
3. Quốc- Tử
Giám
Như thế đủ thấy dân -tộc Việt-Nam không kém gì dân tộc
Nhật- Bản về khả-năng điều -hóa thâu hóa các khuynh hướng
mâu thuẫn có quan hệ sinh tồn của dântộc . Nhưng ngót một
thế kỷ nay trong các cuộc tiếp - xúc Á - Âu , so với dân tộc Phù
Tang , thì chúng ta đã thua kém xa , chúng ta chưa tìm được
thế quân bình văn -hóa trong sự dung hòa Đông Tây có khả
năng sáng -tạo và do đấy dân -tộc Việt- Nam cận -đại đã bày ra
trạng thái khủng hoảng mất quânbình .
« Phóng chi tắc di lục hợp , quyền chi tắc thoái tàng ư mật .
« Kỳ vị vô cùng giai thực học dã . » .
Nghĩa là :
« Phóng ra thì đầy vũ -trụ , thu vào thì náu ẩn ở thân tâm .
Ý vị của nó vô cùng, đều là cái học vụ- thực vậy . »
Lùa vào mấy ngàn vạn nơi hắc -ám địa - ngục ;
Vậy chúng ta đã mất cái đạo -học căn - bản là cái “ học
làm người » đề chuyên -trị vào cái học ý- thức kiến - văn , thì
dù có noi theo được cái học cơ giới của người , cũng lại chỉ
thêm lợi khi để tự hại lẫn nhau . Chúng ta đã quá chìm đắm
vào cái học từ- chương chúng ta lại tưởng lầm là đạo học
chân chính . Rồi chúng ta nghĩ rằng đạo đức không thể đi
đối với khoa - học . Vậy muốn trở nên văn -minh như Âu - Mỹ ,
chúng ta phải phủ nhận hết thảy tàn-tích của văn-hóa cổ
truyền . Sự thực chỉ trong các nước ở Á- Châu, một dân-tộc
Nhật- Bản đã đồng hóa mau lẹ văn -minh khoa học Tây .
phương mà không tổn hại gì đến cái đạo làm người của họ .
Và lạ thay , chính họ xưa kia cũng là nước độc nhất hưởng
ứng cái Tâm học của họ Vương , trong khi ở Trung-Quốc thì
ruồng-rẩy, mà Việt-Nam thì không ai để ý, như thế đủ thấy
rằng càng giữ được cải học tâm-linh thực-học cổ truyền , thì
càng mới có thể thâu hóa hiệu nghiệm nền văn-hóa khoa
học Âu-Mỹ để hóa thành một nền văn hóa phong-phú vậy .
Vậy vấn đề đồng hóa Đông Tây tỏ ra chật vật gian nan
ở Việt- Nam cũng như ở Trung- Quốc thì không phải gì « Đông
là Đông mà Tây là Tây » như người ta đã nói , mà chính vì chúng
ta đã bỏ mất cái chân- chính Đông- phương cổ -truyền là đạo
học thực- hiện của chúng ta , chúng ta đã không tìm vào
nguồn gốc của sự đồng hóa mà chỉ vụ bắt chước bề ngoài .
Chúng ta đã không dám tin lời của Lục - Tượng Sơn :
24 KHẢO- CỔ TẬP- SAN
Nghĩa là :
Cái nguồn - gốc đồng hóa là gì ? Chính là cái thực- thể tâm
linh , là nhân -tính phổ -biến , đạo trời với đạo người đồng.
nhất ở thể ; tri- thức khoa -học với tình cảm luân lý tổng hợp
làm một ở trung-tâm siêu- thức của nhân loại , một nhân loại
đầy đủ cả tình , ý và trí , một con người tự do trong tinh
thần và tự do ngoài xã hội. Ở đấy chúng ta mới có được
cái cơ-sở để dung hòa Đông Tây đặng kiến thiết ở mình một
tin- tưởng vững chắc .
« Tâm thông hồ đạo , nhiên hậu năng biện thị phi , như
« trì quyền hành dĩ hiệu khinh trọng . Mạnh Tử sở vị : « tri
« ngôn thị dã » . Tâm bất thông u đạo nhi hiệu cổ nhân chi
« thị phi , do bất tri quyền hành nhi ước khinh trọng , kiệt kỳ
« mục lục , lao kỳ tâm trí , tuy xử thời trúng diệc cỏ nhân
« sở vị ức đạc lũ trúng , quân tử bất qui đã » .
Nghĩa là :
« Tâm cảm thông với đạo -thề rồi sau mới có thể phân-biệt
« phải trái , như cầm cân để so- sánh nặng nhẹ. Mạnh-Tử bảo :
« thấu biết lời nói » là thế vậy . Tâm không cảm -thông với đạo
« mà so sánh lẽ phải trái của người xưa thì khác nào không
« cầm cân đề ước - lượng nặng nhẹ , mỏi sức mắt , mệt tâm trí ,
« tuy cũng có lúc trúng, nhưng cũng như cổ nhân bảo « ức
« đoán thường trúng » . Người quân tử không qui gì điều
« ấy vậy » .
( Trích ở Cận - Tư -Lục)
THẾ QUÂN- BÌNH VĂN -HÓA VIỆT-NAM 25
nguồn gốc của Tam -Giáo Đồng - Nguyên cho nên đã bao trùm
được các phương- diện mâu thuẫn khác nhau của các văn
hóa du nhập . Cái bí quyết của sự dung hòa các tư tưởng
khác nhau để tìm lấy nguồn sinh lực sáng tạo , không để rơi
vào thông bệnh triết trung của hình -thức bề ngoài (eclectisme ) ,
khiến cho mất cả tình mà không còn sinh -khí , ấy là tìm cách
cảm -thông tới đạo thể đến cái duy- tinh duy nhất ở vũ trụ , ở
nhân quần và ở tại chính bản -thân mình , ngược dòng về đến
tận suối tâm- linh . Đến đây mới có được nhỡn giới thống
quan nhất quán để vừa cảm thông với cá- tinh đặc thù , vừa
của các dântộc chưa được mở - mang , cho nên sự hợp tác
kém phần thành thật và phong phú vì còn thiếu một ý -thức
thế - giới thống - nhất tức là một đạo- tâm đại đồng để cho các
dân tộc thông cảm với nhau .
Phương chi cuộc cách -mệnh chính- trị tiếp theo cuộc cách
mệnh kinh -tế của thế-kỷ 19 đã xô xã-hội Âu - Tây vào chế độ tự
do cạnh - tranh quá trớn , đưa đến sự độc-quyền và khủng
26 KHẢO- CỔ TẬP- SAN
hoảng kinh tế. Người ta quen lấy sức người mà chiếm đoạt
thiên nhiên , coi thiên- nhiên với người như hai thù -địch . Trong
quốc - gia thì người tranh đấu với người, giai -cấp với giai- cấp ,
trên thế- giới thì dân-tộc chiến-tranh với dân tộc , hết thảy chỉ
biết « giao trinh lợi » như lời Mạnh Tử xưa kia đã nói , cho
nên một trăm năm sau cuộc đại cách-mệnh chính trị ở Pháp
thì xã-hội kỹ - nghệ đã mất thế quân bình nội tại.
Ngày nay từ thế quân bình cố hữu của văn hóa nông
nghiệp , chúng ta bắt buộc phải tìm một thế quân bình mới
cho văn- hóa Việt -Nam , tất -nhiên chúng ta phải dung hòa văn .
hóa xã thôn nông- nghiệp với văn hóa đô thị kỹ nghệ , vì xã
hội Việt-Nam cũng sẽ kỹ nghệ - hóa . Không phải xã- thôn nông
nghiệp của Á-Đông với đô thị kỹ nghệ của Âu - Châu có tinh
cách mâu thuẫn xung đột ở tại căn bản tổ chức của chúng
đâu . Cả hai tổ -chức, một đàng có khuynh - hưởng vật- lý vận
động của cơ khi , một đàng có khuynh hưởng sinh-lý vận-động
của cỏ cây , chỉ là những cách thức của nhân loại điều hòa
thích -ứng với hoàn - cảnh đề sinh - tồn , lẽ tất- nhiên chúng đều
muốn tôn trọng quyền sống của người . Sở dĩ chúng bầy ra
hiện tượng mâu thuẫn ngày nay là vì bước đầu của đô thị
kỹ - nghệ đã làm đường, dựng cá nhân thành một thế- lực độc
lập trơ trọi , đem nhân- tạo với thiên -nhiên đối lập thành hai
thể lực thù địch , đem tâm ly -khai với vật , lý-tri ly -khai với
tình -cảm , coi lý -tri với tín ngưỡng như không thể cộng-tồn .
Và như thi- hào Ấn-Độ R. Tagore đã nói : « Nhân loại đô thị đã
sống trong quan -niệm thế -giới phân - chia và qui định » .
Vậy nhất- định là văn hóa quốc gia Việt - Nam tự -do độc
lập ngày nay phải đồng hóa với văn -hóa đô-thị Âu-Tây , hướng
theo cải lý -tưởng tiêu chuẩn của văn-hóa nhân loại hiện thời
mà R. Tagore đã tuyên bố :
« Cái bản - ngã vô hạn của nhân loại chỉ có thể hoàn thành
« trong cải đại hòa - điệu của tất cả các dân- tộc thế- giới. »
« Muốn có một nền giáo- dục hoàn -bị ngày nay thì sự nghiên
« cửu có hệ thống những nền văn hóa Á.Đồng cũng thiết yếu
« như sự nghiên -cứu các khoa học Âu - Tây . »
#
THE EQUILIBRIUM OF VIETNAMESE CULTURE
SOME
OME people think that culture is the level of educa
tion, others think it is literature itself or the arts , others a
doctrine, a system of thinking . Also , there are people who
take culture for civilization. Then they want to advance
the idea of giving it a scientific , national and universal cha
racter. None of these conceptions are appropriate to the
subject : « The Equilibrium of Vietnamese Culture » . We pro
pose our own definition of culture , based on the teaching of
the Dich Kinh or Book of Change in traditional oriental
philosophy. « Observe the phenomena of Nature to study the
change of weather. Observe the phenomenon of human soci
ety to change the people and the world » .
roots are deep in the ground of the past and whose branches
are still spreading towards an infinite future . Stability and
change are two complementary aspects of culture . Therefore ,
at a specific epoch of history, a nation or a group of men
always represents a cultural equilibrium which is ( 1) the
image of a society in which the individual finds equilibrium
within himself, (2) the image of equilibrium between the indi
vidual and the group within the society, and (3) the equilibrium
between society and its natural milieu. This is a prosperous
done on a half private and half public basis ; the peasant had
not yet achieved the right of ownership . This was illustrated
by the popular proverb :
<
« From the Emperor down to a single citizen the only im
portant difference lies in the degree of self- betterment » . That
society was proud of its cultural equilibrium, the philosophical
basis of which was the harmony of reason and sentiment.
In contact with Western civilization, this culture was shaken
to its roots .
This is quoted from Tan Da, a poet who was very much
concerned with the social situation of the country. He has
clearly shown the disatisfaction of the Vietnamese literates
during the period of transition , when individuals as well as
society could not achieve an adjustment to the new influen
ces of the West. During that century, the literate class
became conscious of the weakness of the country and looked
for a way to revolution . « Some went East to Hong Kong
and Yokohama , searching a new way, others went West to
study Montesquieu and Jean-Jacques Rousseau ». ( Phan
Boi Chau ).
for the cause of the country, the union of the North and
the South , and of assimilation of the two old cultures of
Indo- China. This is reflected in the following touching song :
Like a sunflower
Chau was born. Two hundred years later, after the unifica
tion achieved by Emperor Gia Long, this land became the
capital of the whole country.
<
«< the kings laws had to submit to the commune customs »,
as prescribed an old proverb .
ADMINISTRATIVE MASTER OF
DIVISION AUTHORITIES WORSHIP
CEREMONIES
11 - Decora
B. DEMOCRATIC SYSTEM
Body of Notables elected by the families
«In the East when there are wise men, the same sentiment
and reason must appear ».
«In the West when there are wise men, the same sentiment
and reason must appear ».
<
« Today, in order to have a perfect education, the study
of Eastern cultures is as important as the study of Eastern
sciences >>.
Ông Chủ - tịch khai-mạc buổi họp chuyên - biệt vào 9 giờ 30
sáng bằng mấy lời chào mừng đại-biểu Việt- nam , và lưu ý toàn
thể hội- viên về sự hữu -ích và thiết- yếu của công cuộc hợp -tác
văn -hóa xã -hội trong khu - vực Á -châu Thái-bình -dương .
1) Lập mục-lục thư tịch của Thư viện Quốc-gia trao đổi
46 KHẢO - CỔ TẬP- SAN
3) Học hỏi các ngôn -ngữ khác với tiếng mẹ đẻ để tạo nên
một sự thông -cảm thật-sự .
Bảo - vệ văn-hóa dân tộc là việc đầu tiên của các quốc-gia
nhưng cũng là vấn đề quốc -tế nữa . Rất cần có sự hợp -tác quốc
tế nhất là về phạm - vi kỹ -thuật như là phim ảnh tài- liệu và phục
hưng tác -phẩm nghệ -thuật.
Nối lời đại biểu Úc -châu , đại- biểu Trung hoa ông Shun Yao
nhấn mạnh về sự giao dịch rất cần-thiết.
sót thông-tin giữa các nước trong miền làm cản trở sự hợp tác.
Các nước hội-viên ASPAC đến nay chỉ liên -lạc chặt-chẽ với Tây
phương hơn là tiếp xúc nhiều với nhau . ASPAC cần phải
chấn hưng cho mạnh - mẽ mối liên - lạc giữa các nước , các dân
tộc miền Á-châu Thái- bình dương . Ông đề nghị ASPAC nên
thành lập một trung -tâm thông tin để giúp cho sự kiến tạo
thông-hiểu địa phương của khu - vực ASPAC .
Đại- biểu Đại-hàn , Bác-sĩ Chung nhấn mạnh vào mục - đích
của sự thông -hiều lẫn nhau giữa các nước miền Á-châu Thái
Đại- biểu Tân -tây -lan (New Zealand) là Giáo -sư Thompson
nêu lên cải lý - tưởng « đồng -nhất trong sai- thù » (Unity through
Diversity ) của sự hợp tác trên 3 điểm cơ bản :
1) Hợp -tác trên bình diện nhà nước với nhau trong khu
virc ASPAC .
2) Khuyến - khích công trình khảo cứu của học giả từng
nước trên bình diện hội học quốc tế .
3 ) Trên bình diện phổ -thông cho dân -chúng thông hiểu
lý -tưởng của ASPAC , cần phải thành -lập các ủy - ban địa
phương của ASPAC trung lập với chính -quyền địa - phương .
Đại-biểu Thái- lan , Bác -sĩ Xuto , đề-nghị trao đổi nhiều
hơn về các thanh -niên giữa các nước hội-viên với nhau . Ông
cũng biểu đồng tình với lý -tưởng hợp -tác của ông Thompson
là « Unity through Diversity » nghĩa
nghĩa làlà « Đồng-nhất trong
Sai- thủ » .
lưu - ý hội -nghị đến sự cải tiến về sự học hỏi tư -tưởng Tây
phương nhất là về phương-pháp khoa-học thực nghiệm của
Âu - Tây . Để xúc-tiến sự thông-cảm giữa các nước hội-viên
ASPAC với nhau , đề nghị lập chương trình trao- đỗi học-giả
và sinh - viên một cách thường - xuyên .
Xin ghi thêm là bài thuyết trình của chúng tôi cùng đoạn
thảo - luận tại hội-trường được hội-nghị đặc-biệt chú ý , và vẫn
cho ấn - loát và phát- hành để lưu trữ tại Trung- tâm ASPAC .
Sau các cuộc thảo luận , hội- nghị ASPAC lần đầu tiên về sự
« Xúc-tiến Văn-hóa và Xã-hội Cộng-tác trong lãnh-xực Á - châu
và Thái bình dương » họp tại Seoul từ 19-5 đến 23-5-1969 dưới
sự bảo trợ của Trung -tâm Văn hóa và Xã-hội ASPAC , đã kết
thúc vào một dự - án chung sau đây gồm có ba điểm :
1) Sưu tầm học-liệu cho các cấp học sinh theo tinh thần
ASPAC trên.
2 ) Phổ - biến kiến - thúc cho đại chúng các nước trong miền.
quan và phương - tiện gì có thể hợp -tác vào phạm vi hoạt động
của Trung -tâm ASPAC .
Cảm - nghỉ :
CỦA TRUNG
TÂM VĂN HÓA XÃ HỘI Á CHÂU
(18 /23-5-1969)
Hội-nghị Á -Châu Thái- Bình -Dương họp lần thứ nhất tại
Quan - sát- viên rất ít, phần nhiều là nhân - viên của Trung
tâm . Họ không có quyền phát -biểu ý -kiến .
TƯỜNG TRÌNH VỀ KHÓA HỘI THẢO 51
-
- dự - án hợp -tác Văn -hóa ngắn hạn và dài hạn trong
vùng Á . C. T. B. D ;
Cuộc hội -thảo sôi nổi và hào -hứng nhưng sự trao- đổi ý
kiến có vẻ hạn chế giữa các quốc - gia thông- dụng Anh - ngữ
như Hoa-Kỳ , Tân Tây-Lan và Úc-Châu ; đại -diện các quốc-gia
khác ( ngoại trừ Đại Hàn và Việt- Nam ) quả ít nói hoặc vì
bản tính e- dè hoặc vì không thông thạo Anh - ngữ . Sự diễn
tiến của khóa hội thảo đã được ghi lại và in ronéo gửi cho
các đại- diện .
Sau 4 ngày bàn luận , hội- thảo viên đã đúc kết được một
bản quyết- nghị 6 điểm khuyến - khích sự hợp-tác và trao -đổi
học-sinh , sinh - viên , học-giả và nghệ - sĩ cũng như tài-liệu
Văn-hóa giữa những quốc - gia hội-viên .
Những đề-tài được đem ra bàn luận tại cuộc hội thảo chỉ
nhằm mục-đích giúp Trung -tâm hoạch định chương trình
hoạt- động của họ một cách rõ ràng hơn. Vì Trung - Tâm là
một cơ - quan quốc-tế nên cuộc hội thảo cũng giúp ích một
cách gián-tiếp các quốc- gia hội- viên nếu Trung-tâm thực- hiện
được những điều nêu ra . Hiện Trung - tâm đang ở thời kỳ
phôi thai , bề ngoài tuy tráng lệ nhưng thực sự chưa đủ
tư -cách hoạt-động .
52 KHẢO- CỔ TẬP - SAN
Sở sưu -tầm tài -liệu Văn -hóa Xã hội mà Trung -tâm định
thành- lập (mà tôi có phác-họa sự tổ - chức hộ trong bài
thuyết - trình ) mới vỏn vẹn có vài trăm cuốn sách mỏng ( phần
đông không mấy giá- trị) và chưa có người quản trị . Chánh
phủ Việt-Nam (Tòa Đại-Sứ) đang can -thiệp cho 1 giáo-sư
việt- văn hiện ngụ tại Hán - Thành giữ chức vụ Quản - thủ Thư
viện đó (chức-vụ quốc tế duy nhất của Trung -tâm chưa có
người đảm nhiệm ) nhưng chưa có kết quả gì vì Mã - Lai và
Tân Tây -Lan cũng muốn đề cử người của họ . Tôi cũng xin
trình qua rằng Trung tâm đã mấy lần ngỏ ý định mời tôi
giữ chức ấy nhưng tôi đã từ chối .
:
DANH SÁCH ĐẠI BIỂU
-
THAM · DỰ KHÓA HỘI THẢO
(Đính kèm bản phúc trình ngày 5-6-1969 của Giáo -sư Nguyễn -Đăng- Thục)
――――――
Đại-biểu Úc-đại-lợi (Australia ) :
2 ) Bác -sĩ Chen Chi- Lu , Chủ - tịch ngành Nhân -chủng -học
Đại-học Quốc-gia Đài- loan .
-
Đại-biểu Đại-hàn (Korea ) :
1) Bác -sĩ Bom-Mo Chung , Giáo - sư Cao đẳng Giáo dục Đại
học Quốc gia Đại- hàn .
1 ) Ông Ismail bio Ambia , Thu -kỷ Phụ -tá chính Phân-cục
Kinh- tế và Hợp- tác Địa - phương Bộ Ngoại giao và Thư-ký
Văn - phòng Á -châu vụ .
1) Ông David Atkins , Đệ -nhất Thư -ký Tòa Đại-sứ Tân - Tây
lan ở Nhật- bản .
―――
Đại-biểu Phi- luật-tân ( Philippines) :
-
Đại -biểu Thái-lan (Thailand ) :
-
Đại-biểu Việt- nam :
-
Quan sát- viên Mỹ-quốc ( U. S. A.) :
――
Trung tâm Văn-phòng :
MEMBER COUNTRIES
Trong một phiên họp của Hội nghị ASPAC tại Seoul
từ 19 đến 24 tháng 5 năm 1969 , thảo luận về Văn Hóa Xã
Hội , đại- biểu của V.N.C.H. ( Phủ Quốc- vụ khanh đặc- trách Văn
Hóa ) có nêu lên sự khẩn trương của vấn -đề bảo tồn di-sản văn
hóa Việt- Nam , hiện đang chìm trong khói lửa chiến tranh .
Chỉ riêng một thành phố Huế, hồi tháng 2 năm 1968 khi
trở thành một bãi chiến -trường , kẻ muốn chiếm , bên cố sức
giành lại , hai bên giằng co , kéo dài trong suốt một tháng trời ,
súng đạn đã lạnh lùng tàn phá cả khu trung -tâm di-tích lịch-sử
này của triều đại nhà Nguyễn . Một phần lớn cổ vật , cô- tích bị
tiêu-hủy, phần khác bị mất mát thất lạc , sự tổn- thất được ghi
nhận trên 50 % , đã làm đau lòng các nhà cổ học V.N. cũng như
các nhà cổ học thế- giới nói riêng và cho toàn thẻ dân-tộc V.N.
nói chung . Vậy mà chiến -tranh đã tiếp diễn từ 1945 đến nay .
và lan rộng trên toàn lãnh thổ V.N. bao nhiều thành phố đã
lần lượt làm mục tiêu của chiến -tranh , sự phá hoại càng
lớn lao , đủ để chứng -minh việc bảo tồn di- sản văn-hóa , quả
là vấn đề hết-sức khẩn trương vậy.
có nhận định rất chính xác về điều-kiện sinh tồn của ASPAC
như sau :
Khu vực Á châu Thái bình dương biểu lộ một tập hợp
phức tạp về yếu tố tín ngưỡng văn hóa và xã hội...
Tuy- nhiên , khi nào những yếu tố phức tạp được điều hòa
qua sự thông cảm lẫn nhau và sự phối hợp , chúng có thể giúp
cho sự xây dựng nên một xã hội tự do, đánh dấu bằng cái lý
« Đồng qui nhi thù đồ » . Chỉ trong cộng- đồng tự do ấy mới thấy
được đường lối cho sự hợp -tác có thiện-chí và hăng hải « The
Asian and Pacific region reprents a composite of heterogeneous ,
cultural an social elements ...
cầu thực tế bắc qua các dân tộc kém mở mang với thế-giới văn
minh tân-tiến vậy.
Nhưng ý thức cộng đồng ASPAC không phải chỉ xây dựng
bằng những quan hệ kinh tế , chính trị , binh bị nhất thời .
Chính yếu -tố văn -hóa , hiểu là tất cả sự biểu -hiện ý - chi sinh
tồn của các nhóm người trong điều kiện địa -lý lịch-sử đặc
thù , mới thực là chất xi-măng để xây dựng , để có kết những
yếu tố phức tạp thành một khối thuần nhất , nhất-trí có cả
tinh đặc -biệt « Á - châu Thái- bình -dương *( ܀ASPAC ). Vì cộng
đồng này là cả một thế giới thu nhỏ , trong đó có đại-diện cho
văn -hóa Âu - Tây , có đại diện cho văn -hóa Á -châu , hai mô-thức
văn - hóa , cơ bản của thế - giới , tức là khoa -học tiến - bộ với đạo
học truyền thống xưa nay mâu thuẫn . Việt- Nam với vị trí
địa - lý Ấn độ Chi- na cố hữu của nó , đã trở nên trung - tâm
của sự mâu thuẫn Đông-Tây cận đại . Cho nên nó đã là bãi
chiến trường suốt từ đệ - nhị thế - chiến tới nay , cũng như trước
kia kể từ đầu kỷ nguyên Thiên - chúa , nó đã là đất qua lại, giao
lưu (Giao - châu ) của các chủng -tộc và văn minh . (Crossroad of
peoples and civilisations ) Ngày nay người ta còn mục kích ở
đấy di -tích văn-minh và chủng -tộc Anh -đô -nê -diên (Indoné .
sien ) mà tiêu - biểu là « Trống đồng » Đông - sơn ; di- tích văn
minh và chủng -tộc Tây- Thái mà tiêu -biểu là Cổ Mộ Lạch trường
tại Bắc - Việt , di- tích văn -minh và chủng -tộc Chàm và Khmer tại
Trung và Nam Việt -Nam . Như thế đủ thấy văn hóa Việt Nam
là cả một phức thề, tượng trưng cho một sự phối hợp lâu dài
trong sự gặp - gở của các chủng tộc và văn hóa khác nhau . Ở
đấy có cả một bài học kinh -nghiệm cho sự tìm phối hợp và thông
hiểu lẫn nhau của các nước hội- viên hiện nay trong cộng
đồng ASPAC .
Bởi vậy chúng tôi nghĩ rằng vấn đề tiên quyết thiết yếu
của Cộng -đồng ASPAC là phải chú - ý đến việc sưu - tầm và bảo
tồn những tài -liệu di sản văn hóa của các nước hội-viên , thiết
lập một trung-tâm nghiên cứu văn-hóa ASPAC đế trưng bày ,
trao đổi , bảo-vệ di sản văn-hóa chung , ngõ hầu tạo nên một
sự thông- cảm thân mật giữa nhân dân các nước hội -viện . Trước
khi mở các hội-thảo và tổ -chức các cuộc thăm viếng và trao
đồi , triển -lãm di- sản văn -hóa để tạo điều - kiện cho sự phối hợp
BẢO VỆ DI- SẢN VĂN HÓA 59
và thông cảm giữa các nước trong cộng đồng ASPAC nên tổ
chức các lớp chuyên -môn để bảo tồn và trùng tu di- sản văn
hóa , theo kiểu « Centre international pour la conservation et
la restauration des biens culturels » nhu UNESCO đã tô- chức
tại ROME - CENTRE năm 1969. Ở đây chương trình dĩ- nhiên
sẽ thu hẹp vào phạm -vi « Á - châu - thái -bình dương và mục- tiêu
nhằm vào điểm chính yếu : « điều - hòa đặc thù » :
―――――
B. Nguyên -tắc bảo-tồn và trùng - tu những cô -tích và tác
phẩm văn -hóa . Những cô -tích , trung - tâm lịch -sử đối với công.
cuộc kỹ- nghệ hóa ở các nước kém mở mang . Bảo vệ , trùng -tu
và chỉnh đốn các trung-tâm lịch-sử. Tổ-chức pháp-lý quản - trị
theo tinh thần cộng đồng ASPAC trong việc bảo tồn những
cổ -tích , di- tích văn-hóa và trung tâm lịch sử . Tổng-chi « Bảo
tồn di-sản văn hóa các nước hội-viên » , Trung-tâm ASPAC
(Văn-hóa xã hội miền Á- châu Thài- bình dương ) nên có một
chương -trình dài hạn đại qui-mô đề thi-hành đặc biệt cho
nhóm dân-tộc nhược tiểu thiếu điều -kiện phát- triển khả năng
dân-tộc của mình , mà vị trí địa -lý là ở vào đầu mối giao - dịch
giữa hai nền văn -minh chính của thế - giới là Đông phương
và Tây - phương .
« Trong « Tân Hy- vọng cho một Thế- giới Biến -chuyền »
Bertrand Russell chứng minh rằng loài người thường xuyên
bận -tâm vào ba sự xungđột cơ bản : 1 ) xung đột với Thiên
nhiên , 2) xung - đột với
tha nhân , 3 ) xung đột với chính
-
mình . Những xung - đột ấy đại khái có thể đồng - hóa với
những vấn-đề con người thiên nhiên , con người xã hội và
- · ·
con người tâm lý . Các đại truyền thống văn hóa sống
còn cũng có ba là Trung - hoa , Ấn - độ và Tây - phương .
Điều ấy giúp ta thông hiểu và trình bày những viễn
tượng độc - đáo của ba truyền thống ấy như là mỗi
cái nhấn mạnh vào một trong ba vấn-đề cơ bản của nhân loại
trên đây . Nói đại- khái thì Tây-phương đã nhấn mạnh vào vấn
đề thiên nhiên , Trung hoa vào xã hội Ấn độ vào tâm lý »
Hiện nay khu -vực ASPAC (Miền Á.châu Thái- bình dương )
bao- hàm đủ đại biểu cho ba đại truyền thống văn -hóa nói trên
Thực - hiện được ý-thức văn hóa ASPAC , có thể bảo rằng đã giải
quyết được những xung-đột cơ -bản của con người , không những
cho miền Á - châu Thái - bình -dương mà còn cho cả thế giới tương
lai nữa . Bởi thế mà vấn đề « Bảo tồn di-sản văn hóa các nước
Hội - viên trong cộng đồng Á- châu Thái bình dương là vấn đề
khẩn trương và rất chính đáng vậy .
1.
Ở Việt- Nam ngoài Phật giáo , Nho giáo và Lão giáo còn
có tục sùng bái đặc biệt là thờ các vị thần linh , mà hình thức
biểu hiện là trạng thái lên đồng . Hiện tượng này phổ biến sâu
rộng trong giới phụ nữ của miền Bắc và Trung nhưng cũng
lại bị giới nho sĩ cho là mê tín dị đoan “ đồng cốt quang xiên » .
} Chữ « Đồng » trong đồng cốt có nghĩa là đứa trẻ ngây thơ ,
tâm hồn trong trắng chưa bị ám ảnh hay cám dỗ của vật dục.
Cốt có nghĩa là xương .
Mẫu Liễu Hạnh ) Thượng -ngàn và Mẫu thoải. Các chầu tức là
các bà các cô theo hầu tam tòa thánh mẫu. Có 5 quan lớn : đệ
nhất, đệ nhị , đệ tam , đệ tử và đệ ngũ Tuần Tranh dưới hai cô
tiên , 10 hoàng tử và các cậu quận .
Loài vật được thờ phượng trong tin ngưỡng này là ngũ hồ :
tướng quân trấn vùng đông , tây , nam , bắc và trung ương.
Ngoài ra đền thờ nào cũng có 2 con rắn bằng giấy quấn trên
trần nhà trước bàn thờ đó là Thanh Xà , Bạch Xà tượng trưng
cho quan lớn Tuần Tranh .
Như vậy tín đồ đồng bóng không phải thờ một vị thần
duy nhất mà cỏ cả một thế giới hỗn tạp và vì vậy tục lễ bái
của tín ngưỡng này biến ảo lạ lùng . Ta thấy cả một thế giới
của màu sắc của âm nhạc của vũ điệu quay cuồng trong khung
cảnh hư ảo huyền bí .
Thánh mẫu Liễu -Hạnh còn gọi là Thánh -mẫu Phủ giầy hay
Thần nữ Vân -Cát . Chữ Phủ dùng để gọi nơi đền thờ của các
vị chúa , Thánh Mẫu được sắc phong “ Liễu - Hạnh Công Chúa »
vào năm Nhâm - Ti 1672 vua Gia - Tòng nhà Hậu Lê phong là
« Chế Thắng Hòa Đại- vương » .
Phủ thờ ngài ở Kẻ Giầy nên gọi là Phủ Giầy . Triều vua
Lê Anh-Tông ( 1557 ) xã Kẻ Giày đổi tên là An - Thái , gồm có
4 thôn : Vân -Cát , Vân - Đình , Văn -Cầu , Nham -Miếu . Về sau
An - Thái lại chia làm 2 xã nhỏ : Tiên -Hương và Vân - Cát . Mỗi
xã đều có phủ thờ ngài . Có nhiều dã sử chép về sự tích đức
Thánh -Mẫu .
Ngài sinh năm 1557 triều vua Lê Anh Tông , tháng thìn ,
ngày dần , giờ dần . Thân phụ là Lê Công- Chính và thân mẫu
cháu họ Trần người bị tàn sát người bị hành hạ rất nhiều nên
gia đình ngài đổi họ Trần ra Lê để tránh tai họa đó ( 1 ) Lê phu
nhân lúc có mang chỉ thích ăn hoa quả và quả kỳ hạn mà
vẫn chựa sinh nở và làm bịnh . Trong nhà ngờ là có tà ma yêu
quái quấy nhiễu nên mời thầy phù thủy trừ tà chữa bệnh ,
nhưng bệnh trạng Thái bà mỗi ngày một tăng. Một đêm kia ,
có một dị nhân mặc áo đạo sĩ đến xin chữa bệnh . Khi vào tới
trong sân đạo sĩ rút chiếc búa bằng ngọc ở trong tay áo , đứng
bắt « ấn » niệm thần trú rồi ném mạnh chiếc búa xuống đất .
Lê -Thái ông liền mê man đi .
Trong giấc mộng , Lê- Thái ông thấy mình bị dắt đi tới nơi
công thành làm bằng vàng rồi đi đến 1 dinh thự tráng lệ nguy
nga . Nhìn vào thấy chư tiên đang yến ẩm , đàn sáo réo rắt
tưng bừng . Các tiên cô , tiên bà đang dâng rượu chúc Ngọc
ngọc vỡ tan tành . Tội bất cẩn bị Đức Ngọc Hoàng nổi giận giảng
chỉ đầy xuống hạ giới 21 năm , Tiên nương ấy là Đệ nhị Quỳnh
Nương Tiên chúa . Tiên chúa run run bái biệt Ngọc Hoàng , lui
gót theo sứ giả về ngã Nam môn .
Đến đấy Lê - Thái ông tỉnh giác , mở mắt ra không thấy người
đạo sĩ chỉ nghe sực nức hương thơm và tiếng khóc oe oe . Hỏi
ra mới biết lịnh bà sinh hạ một bé gái rất ư xinh đẹp . Ông đặt
tên cho con là Lê thị Thăng tự Giảng Tiên , nghĩa là tiên
giáng thế ! Ngài có diện mạo khác thường , là tuyệt thế giai
nhân , theo đòi việc bút nghiên, thi thơ kinh sử lại thêm
nữ công nữ hạnh hoàn toàn .
Những khi rảnh việc Ngài thường dạo chơi quanh vườn
đề ngâm thơ, vịnh phủ , khải đàn . Hiện nay thi ca mẫu còn
(1) Sự tích đức Liễu - Hạnh Công chúa . Hội Phủ - Giày tưởng tể xuất
bản ( 1959 ) .
64 KHẢO - CỔ TẬP- SAN
Dịch nôm .
Dịch nôm :
Dịch nôm :
Nước nổi màu lam , non chuốt ngọc ,
Dịch nôm :
Năm 19 tuổi Giáng tiên xuất giá kết duyên với một thanh
niên họ Trần , ở thôn Vân Đình thuộc xã Tiên - Hương , tên
là Trần -Đào -Lang , vốn nhà trâm anh thế phiệt . Cầm sắt
hòa hợp được chừng vài năm thì một hôm nàng vô bệnh mà
mất nhầm ngày mồng ba tháng ba năm 1578. Mộ táng ở
xứ cây đa xã Tiên Hương , hiện nay mộ ngài vẫn còn ở đấy .
Khi Ngài mất , Trần phu nhơn đêm ngày thương nhớ , một hôm
đến chỗ thư phòng của nàng trông thấy gương soi còn đó , đàn
gầy còn đấy , sách vở bút nghiên trên kỷ mà người thì chẳng
thấy đâu , tranh lòng thương nhớ , khóc than thảm thiết , ngả
lăn ra bất tỉnh , trong cơn hôn mê , một trận gió lạnh từ
phương tây đưa đến , Ngài hiện lên ôm lấy Trần phu nhân mà
gọi « Mẹ ơi , tỉnh dậy , con đây , mẹ đừng thương nhớ nữa » Vừa lạ
lùng vừa sợ hải bà kêu to lên , mọi người trong nhà có cả Đào
lang ở đấy . Giáng Tiên an ủi mọi người trong chốc lát rồi bảo
( 1 ) Sự tích đức Liễu Hạnh công- chúa . Hội phủ giầy Tương tế
xuất bản năm 1959.
NHỮNG VỊ THÁNH CỦA TÍN NGƯỠNG ĐỒNG BÓNG 67
với mọi người: “ Con từ trần kiếp về chốn tiên cung , chỉ vì nghĩ
đến công cúc dục cù lao , nên phải hiện về để tỏ lòng thương
nhớ , nhưng không được ở lâu , xin tạ từ để về thượng giới. »
Đào lang khóc mà rằng : « Tôi mong được phối hợp lương
duyên , cùng mong bách niên giai lão , nào ngờ nửa đường ly
biệt , nay lại tái sinh , xin lưu lại đề tự tình một đôi lời cho thỏa
lòng khao khát » . Ngài đáp ... « Không bao lâu, tất có ngày
tương ngộ » Nói xong biến mất , năm sau quả nhiên Đào-lang
cùng theo về cực lạc .
Ngọc Hoàng thượng đế cho phép Ngài tái giáng làm phúc
thần nhận cúng dàng của nhân gian . Khi thì Ngài hiện ra
người con gái đẹp ngâm thơ dưới trăng, khi hóa làm bà lão
chống gậy bên đường . Ngài thường qua lại hạt Lạng - Sơn , trụ
trì ở chùa Thiên Minh . Nhân lúc nhàn hạ Ngài ngồi dưới
cây tùng gảy đàn mà hát.
Nghĩa là :
Bóng mây một mình qua lại với núi non chót vót .
Than ôi, rừng núi vui thay , cái chi làm nhụt
được chi cao vời.
Nghĩa là :
Nghĩa là :
( Hai chữ sơn ) hợp lại thành chữ xuất k , chữ lại
đứng cạnh chữ nhân A thành chữ sứ ) .
Ông Phùng - Khắc- Khoan thấy cô gái đối đáp như thế
biết không phải là người thường , bèn ngâm một câu như sau :
Dich :
« Văn tử đới trường cân , tất thị học sinh thị trướng » .
Nghĩa là :
Câu đối thật là đối từng chữ . Phùng công thấy vậy rất thán
phục muốn hỏi thăm lai lịch nhưng ngoảnh đi ngoảnh lại đã
biến mất, chỉ còn thấy cây gỗ nằm ngang , hiện ra 4 chữ
« Mão khẩu công chúa » p pà nghĩ mãi ông mới đoán ra
Người con gái hiện hình đấy tức là Công Chúa Liễu
Hạnh . Họ Phùng liền khởi công làm đền thờ Ngài vậy .
Ngài lại xuất hiện ở Tây Hồ và những nơi danh lam thắng
cảnh như Sầm Sơn , Phố Cát . Khi xuất hiện ở Tây Hồ Ngài có
làm thơ xướng họa với họ Phùng , họ Lý và họ Ngô .
Những người hương lão trong làng phải kêu xin với
nhà vua cho phép sửa sang đền miếu . Từ đấy nữ thần đền
Sòng lại càng linh hiền hơn , thường vật chết những kẻ vô
lễ xúc phạm đến Ngài . Muốn trừ cái hại ấy , Vua lại ra lệnh
diệt yêu quái trong đền Sòng đi . Phù thủy Nội đạo Trường
xin đảm nhận trọng trách ấy . Nữ thần bị phù thủy vây lưới
sắt bèn biến thành con muỗi trốn xuống dưới giếng Âm dương
định chui qua lưới tẩu thoát. Nội đạo Trường vừa toan yểm
bùa giết đi thì có Đức Phật Thế Tôn hiện xuống cản
ngăn , Nội đạo Trường phải thu phép lại . Nữ thần cảm ơn
cứu mạng bèn xin quy Phật hứa cải tà quy chánh . Đức Thế
Tôn ưng thuận . Từ đấy nữ thần đền Sòng trở nên một vị
từ bi không chấp lỗi lầm và hết lòng phù hộ dân .
Năm 1665 đời vua Lê Huyền - Tông niên hiệu Cảnh - Trị ,
quận công Phan văn Phái đi dẹp giặc Chiêm Thành . Trước khi
DMC
70 KHẢO - CỔ TẬP - SAN
xuất trận , quận công đến lễ ở đền Mẫu xin độ trì . Quả nhiên
quân ta thắng . Vua cảm tạ ơn ấy , tác phong cho Mẫu « Chế
Thắng hòa đại vương » . Năm 1672 đời Lê -gia -Tông niên hiệu
Dương Đức lại phong cho mẫu là « Liễu Hạnh công chúa » .
Dân xem Ngài như một bậc mẹ hiền , nên gọi là Mẫu . Vi
mẫu theo đạo Phật và muốn kỷ niệm việc mẫu quy đạo nên
đến ngày mồng 3 hoặc 6/3 âm lịch thì người ta rước bát
nhang mẫu lên chùa chầu Phật , lúc rước bát nhang về, có
thỉnh kinh Phật đề chư Tăng tụng niệm trước bàn thờ mẫu
trong 3 ngày 3 đêm . Nguyên nhân đám rước hằng năm là
như thế .
―――― Mày hãy vì ta lấy cho được thiên hạ nếu không thì
Như vậy nhân dân sùng bái Đức thánh Trần không phải
ông là một anh hùng lịch sử mà ở cái quyền năng ma thuật
chữa bệnh trừ tà , và theo họ Vương cũng là một vị Thanh
Tiên Đồng tử mà Ngọc Hoàng thượng đế sai xuống để trừ
72 KHẢOCỔ TẬPSAN
tà dẹp loạn . Vì vậy tất cả tôi con nhà thánh đều tôn Vương
làm Đức Thánh Cha , và hàng năm cứ đến ngày 20/8 âm lịch
các ông đồng đều phải qui tụ về đền thờ Ngài đề lễ bái.
Mẫu Thoải là Thánh Mẫu của nước Thoải đọc trại ra của
chữ thủy . Mẫu Thoải là con gái của Lạc Long Quân ở Hồ
Động Đình lấy chồng là Kinh - Xuyên con vua ở trên đất liền.
Mẫu là người vợ hiền nhưng Kinh.Xuyên lại có nàng vợ lẽ là
Thảo Mai hay tráo trở dèm pha ganh tị muốn cướp hết tình
thương của Kinh- Xuyên nên tìm cớ gieo oan cho Mẫu.
Đem nàng đày vào rừng sâu thẳm , một mình vò võ , sớm
khuya cùng núi cỏ ngàn mây.
Tất cả thú vật đều cảm thông nỗi lòng sầu thảm của Công
chúa nên sớm hôm dâng hoa cúng quả chẳng nài công phu.
Một mình vò võ trong hang sâu núi thẳm than thân trách phận
trải qua 3 thu dãi dầu sương nắng . Xảy đâu có người hàn sĩ tên
là Liễu-Nghi , thi rớt mãi , cả chẳng vượt nổi vũ môn , buồn lòng
mới bỏ vào miền núi non cô quạnh . Trong khi « Lòng quân
tử đeo đai cảnh vật » chợt thấy chúa đang má đào châu lệ
chứa chan , vừa khóc vừa than một mình , Liễu -Nghi chạnh
lòng ướm tiếng hỏi thăm . Chúa hỏi thăm Hàn sĩ và kẻ lề sự
tình . Chúa nhờ Liễu -Nghi đem thơ về cho Lạc- Long - Quân ở Hồ
Động -Đình nơi Thủy phủ . Trong khi chúa kẻ lễ sự tình oan ức,
Vua Động -Đình biết được nguồn cơn truyền lịnh cho quan đi
bắt Kinh Xuyên và đem Công chúa về . Kinh- Xuyên và Thảo
Mai bị đày . Công- chúa từ đây được người dân tôn làm Thánh
Mẫu của nước .
. Hai cái trứng ấy một thời gian sau nở thành 2 con rắn . Bà
vợ sợ hải định đem giết đi nhưng ông chồng cản ngăn . Lý
luận rằng :
« Trời cho ta để khuây cảnh già đấy » Hai con rắn từ đấy
cử quấn quít theo 2 vợ chồng già . Nhưng phải cái nó lại hay
ăn gà . Ông già phải đi ăn cắp gà để cung phụng cho nó , về sau
sợ làng xóm biết được nên buộc lòng ông phải đem vứt nó
xuống sông Tranh . Chỗ vứt 2 con rắn ấy về sau thành một nơi
nước xoáy mạnh .
4.4.
Một hôm có một bà Công chúa muốn qua sông , nhưng
nước xoáy mạnh , thuyền không đi được . Theo lời dân sở tại
quan cho vời 2 vợ chồng ông lão đến .
Bà lão sợ hãi , lấy 2 nắm cơm vất xuống sông mà kêu rằng :
bà làm vợ, bà ta nhất định cự tuyệt . Đến đêm ngủ .bỗng lại
thấy người ấy xuất hiện và nhất định đòi lấy . Bà nói chuyện
lại với ông phủ , ông phủ cũng lấy làm lạ , cho phòng ngừa cần
thận lắm . Một hôm ngài có việc quan đi vắng, đến lúc về thấy
phòng trống không . Quan phủ buồn phiền , xin từ chức, đến bờ
sông Tranh tìm vợ . Gặp ông Tiên tên là Quỷ Cốc mách rằng :
―
Bà phủ đã bị Hoàng - tử thứ 5 con vua Thủy Tề bắt xuống
làm vợ rồi .
Quỷ Cốc thương tình quan phủ nên giúp phép cho ông ta
đến được đền thủy phủ mà đòi vợ.
Trong các điện đền, chúng ta tìm gặp dưới bàn thờ các thánh ,
trước mặt người ngồi lên đồng bao giờ cũng có một bàn thờ
ngũ hồ , có vẽ hình cọp mà tín đồ Đồng bóng gọi là “ ông
năm Dinh » .
Đào là loài tiên mộc, thử cây của tiên . Đào có nhiều thứ :
anh đào , bích đào , cự đào , chương đào , dương đào , hồng
đào , kim đào , linh đào , ngân đào , tiên đào , tương đào .
桃 板 署 門 而 納 慶
葦 繩羅 戶 以 祛 災
Hay :
爆竹 聲 除
除 舊 歲
桃符 萬戶 更新 春
76 KHẢO- CỔ TẬP- SAN
Người xưa còn dùng cành đào kết làm chổi cho đồng
bóng quét nhà trừ tai ách .
Gỗ đào để trừ tà , thì nhựa đào lại là một món thuốc quý .
Nhựa đào ngâm trong nước tro cây dâu để uống trừ bá bịnh.
Người nào uống nhựa đào lâu ngày thì thân thề nhẹ nhàng lại
có ánh sáng , đứng trong đêm tối được thấy rõ như ở giữa
ban ngày , uống mãi thì có thể khỏi phải ăn cơm mà thành tiên .
Vào khoảng tháng 2 đào trở hoa . Hoa đào có loại hồng
loại trắng , loại cánh đơn cảnh kép .
Theo sách Chu lễ, tháng trọng xuân đào trổ hoa , nam nữ
hợp lại kết bạn trăm năm thành vợ chồng . Cho nên mùa cây
đào trở hoa là mùa hôn nhân . Do đó thi nhân cảm hứng làm
bài thơ Đào yêu đề tặng người con gái hiền thục và mong nàng
sẽ hòa thuận êm ấm gia đình khi về nhà chồng .
Hoa đào màu hồng hồng xinh tươi được ví với má hồng
của người đẹp (đào kiểm ). Vì thế hễ nói hoa đào là nhớ
đến người đẹp .
CÂY ĐẢO 77
Vài ngày sau Thôi Hộ trở lại nơi ấy thì nghe phía trong
có tiếng khóc , liền gõ cửa hỏi . Một ông lão bước ra :
-
Anh có phải là Thôi-Hộ không ?
Thưa phải .
―――――――
Anh giết con gái của lão rồi . Ông lão nói rồi khóc
to , đoạn nói tiếp :
Con gái tôi đọc bài thơ của anh rồi nhịn ăn mà chết .
Thôi- Hộ cảm động xin vào khấn . Chốc lát người con
gái sống lại . Ông lão liền ghép nàng với Thôi-Hộ nên nghĩa
vợ chồng . Đấy hoa đào đã làm mai dong cho trai tài gái sắc
gặp nhau .
78 KHẢO- CỔ TẬP -SAN
Thời gian thấm thoát trôi qua , mười bốn năm sau Đỗ.Mục
mới sực nhớ liền tìm đến Hồ-châu thì hay tin cô bé đẹp tuyệt
trần năm xưa đã có chồng được ba năm và sinh đặng hai
đứa con . Đỗ -Mục thất vọng tự trách mình lỗi hẹn , ngậm
ngùi thốt nên bốn câu thơ bất hũ tả cây đào đương xuân lúc
trổ hoa hương xông sực- nức và trách mình lại đến chậm .
Nay lúc xuân tàn hoa đào rụng sạch vì gió mưa dồi dập mình
mới nhớ lời ước cũ để đến nơi thì thấy lá xanh đã che rợp thành
bóng mát và trái đã đơm đặc đầy cành : người con gái đẹp để
năm xưa nay đã đẫy- đà với con - cái tay bồng tay dắt.
Khi xuân tàn hoa đào rã cánh đề trái kết đầy cành .
vua nước Tề yêu quý, cùng đi chơi với vua trong vườn , ăn
được một trái đào rất ngon, bèn lấy phân nửa còn thừa lại dâng
cho vua dùng. Vua khen : « Ngươi trung thay ! » Về sau Di- Tử
Hà bị ruồng bỏ vì sắc kém yêu phai mà bị tội . Vua quở :
CÂY ĐÀO 79
Ôi ! Cũng ở nửa quả đào ăn thừa mà khi yêu khi ghét lời
nói thốt ra ở một miệng người mỗi lúc một khác nhau .
—1
Không nhận đào thì không dũng, Công -tôn - Tiếp nói
xong liền giành một trái đào đứng lên .
-
Như cái dũng của Dã đây cũng đáng được ăn đào mà
không được ăn như hai vị . Nói xong Dã - Tử rút kiếm đứng lên.
―
Cái dũng của chúng tôi không bằng ngài , cái công
của chúng tôi không kịp ngài mà lại giành ăn đào không
nhường cho ngài là tham vậy . Như thế mà không chết là
không dũng .
ww
Khâu này biết rồi , Không-Tử đáp . Nhưng xôi là món
quý đứng đầu ngũ cốc , mà đảo thì kém hơn . Người quân tử
80 KHẢO -CỒ TẬP - SAN
lấy cái hèn chùi cái quý , chớ chưa bao giờ nghe lấy cải
quý chùi cái hèn .
Theo cách ăn uống của bực vua chúa đời xưa , xôi dùng
đề chùi trái đào . Nhưng trót đã ăn xôi trước, Không - Tử phải
đánh trống lãng đề chữa cái hở của mình .
Trái đào còn dẫn chúng ta vào những giai thoại thần tiên .
Đào Vân -đài : Trương- Lăng dẫn các đệ tử lên núi Vân
đài . Núi cao nguy hiểm . Từ trên ngó xuống vực sâu giữa
vách đá cheo leo , mấy thầy trò thấy một cây đào mọc ở đáy
vực , cành đầy trái to . Trương -Lăng bảo :
Thăng nghĩ thầm : « Có thần linh phù hộ thì còn có nguy hiềm
gì nữa ?» Thăng liền phóng mình nhảy bừa xuống ôm được
cây đào . Nhưng vách đá quả cao không thể chuyền trái đào
lên được. Thăng hái 102 trái ném lên . Trương-Lăng chụp lấy
chia cho các đệ tử , chừa hai trái , ăn một đề dành cho Thăng
một . Trương - Lăng đưa tay kéo Thăng thì bỗng tự nhiên
Thăng đã lên khỏi vực lập tức.
Đào Quảng-Cố : Theo sách Dậu dương tập trở, một hôm
Thích Huệ Tiêu từ Quảng - Cố đến núi Hiễn sơn , nghe tiếng
chuông ngân , liền tiến tới thấy một ngôi chùa , bèn đến xin
một bữa ngọ . Một sa -di đưa cho hòa- thượng một trái đào
đề ăn , rồi một chốc lại đưa thêm một trái nữa cho dùng
và bảo :
CÂY ĐÀO 381
Thích Huệ Tiêu đi ra trông lại thì không thấy ngôi chùa
là đâu cả . Khi về đến Quảng -cố , hòa thượng được các đệ tử
cho biết rằng hòa thượng đã đi mất hai năm , thì mới rõ
hai trái đào là tượng trưng hai năm vậy .
Đào Thiên thai : Năm thứ 5 niên hiệu Vĩnh -bình đời vua
Hán Minh- đế ở Thiềm huyện có Lưu Thần và Nguyễn Triệu
cùng vào núi Thiên - thai hái thuốc . Lạc đường lại hết lương
thực hai người trông ra xa thấy trên núi có một cây đào đầy
trái . Lưu Nguyễn phải leo trèo khó nhọc mới lên được , ăn
vài trái thấy hết đói , bèn xuống núi.
Bên bờ khe to có hai nàng con gái dung sắc tuyệt vời .
Lưu Nguyễn liền đến hỏi đường về . Hai người con gái liền
bảo tỳ nữ :
-
Hai chàng tuy đến được nơi đây , nhưng món đào vừa
ăn không được ngon lắm . Ngươi mau làm đồ ăn , có món
dương phủ (thịt dê khô ) ở núi Hồ -ma rất ngon.
Hai nàng liền bày tiệc thịnh soạn đãi hai chàng và giữ
hai chàng ở lại thành vợ chồng . Hơn nửa năm Lưu Nguyễn
nhớ nhà xin về . Vừa ra khỏi núi , Lưu Nguyễn không còn
nhận là đâu , lại gặp đứa cháu bảy đời cho biết là có nghe
đời trước có hai vị vào núi mà không về . Tinh lại sáu tháng
ở cảnh tiên bằng một trăm mấy mươi năm ở trần gian . Lưu
Nguyễn liền trở lại núi Thiên-thai , nhưng không gặp hai tiên
cô độ trước . Tình cảnh lỡ - làng ấy được thi sĩ Tào Đường tả
lại bằng một bài thơ tuyệt bút :
Bài này viết theo tục truyền , xin quý đọc giả chớ quá tin, vì
lắm nhân vật trong mẫu chuyện thiếu cả tên lẫn họ . Hơn nữa phần
nhiều những giai thoại văn chương của nước ta đều do các cụ
ăn không ngồi rung đùi nghĩ ra rồi gán cho ông này cụ nọ có tên
tuổi đương thời đề xác thực hóa mà cụng chén với nhau làm
vui, dễ khiến người đời sau về lấy tin ngay là thật.
TƯ ƠNG truyền
ƯƠNG cụ Lê Quý- Đôn có một đứa con trai
và một người học trò đều nức danh hay chữ . Việc này từ
lâu đã được vua Lê Hiền - Tông và chúa Trịnh-Sâm hay biết .
Đến khoa thi, vua Lê và chúa Trịnh đánh cuộc với nhau .
Vua Lê đoan chắc con trai của Lê Quý-Đôn đỗ đầu . Chúa
Trịnh nhất quyết học trò của Lê Quý Đôn cướp đứt giải
nguyên . Nhưng biết con và hiểu học trò không ai thấu đáo
bằng chính cụ Lê Quý- Đôn cả . Cho nên trước ngày thi , cụ
dặn học trò và đứa con trai phải đánh tráo bài lẫn nhau ,
trước là cho con mình hơi kém tài được đỗ trước, sau là
bảo hại chúa Trịnh thua cuộc chơi một mách .
Thế là cha con thầy trò phải phủi tay về vườn một loạt.
Nhưng thời vận của nhà họ Lê này còn đỏ lắm , chưa can chi .
84 KHẢO- CỔ TẬP- SAN
Bỗng có một viên sứ thần của thiên quốc nhà Thanh đến
của Nam -quan , dừng lại và gởi về kinh đô một bức vóc có
thêu một chữ * với lời nhắn gởi : « Triều đình An-nam đáp
được thì sử thần Thiên triều mới khủng vào kinh đô » .
Các quan bàn tán rằng phải hỏi cụ Lê Quý - Đôn mới xong
chuyện . Sứ giả liền vưng lịnh chúa Trịnh đến tức tốc vời cụ
Bảng nhãn họ Lê . Cụ Lê từ chối không chịu lên kiệu về triều,
nói thác là mình có quan chức chi mà dám vào triều bàn
việc nước với vua với chúa . Sứ giả đành trở về tâu lại .
Chúa Trịnh bất đắc dĩ phải khôi phục chức tước cho cụ
Lê Quý - Đôn như cũ . Cụ Lê được mũ áo như xưa mới chịu
chễm chệ lên đường về triều cùng sử giả.
Bi quả , chúa Trịnh lại phải bất đắc dĩ một lần nữa xuống
sắc khôi phục khoa mục lại cho con và học trò của cụ Lê
Quý- Đôn ngay , để cụ vui lòng đem hết trí sáng suốt ra ứng
đáp với sứ thần Trung- quốc mà cửu danh dự nước Đại- Việt
một phen , nếu không thì cả triều đình An-nam ê mặt lắm.
;4 Vua chúa đình thần chẳng ai hiểu ý nghĩa gì, nhưng cũng
thi hành y theo lời .
Vừa nhận được chiếc áo cầu mới tinh hảo , sứ thần nước
đuôi sam liền vào kinh đô Thăng-long . Cụ Lê Quý - Đôn được
đề cử làm trưởng phái đoàn ra đón tiếp .
Trong phái đoàn An - nam có lắm bực thâm nho biết ngay
câu Phỉ xa bất động là chữ trong thiên thơ Mao-khâu trong
kinh Thi, bức đầu bức óc tự trách mình không nhanh trí
bằng cụ Lê bảng- nhãn .
Phỉ xa bất đông theo nghĩa từng chữ là không phải chữ
* xa, cũng không phải chữ * đông , cho nên sứ thần Trung
quốc mới viết † là một phần mà thôi chớ không phải hẳn là
chữ * xa hay chữ ề đông , mà đó triều đình nước ta . (Nhưng
ý nghĩa trong toàn chương thì khác ) .
Trong lúc mọi người đều khiếp phục , cụ Lê Quý - Đôn liền
ngâm trọn chương ba thiên thơ Mao -khâu trong kinh Thi :
狐裘 蒙 戎
HE 車 不 東
叔 兮 伯 兮
靡 所
所 與 同
Mỹ sở dữ đồng .
Dịch nghĩa
4) Chẳng đồng một lòng với chúng tôi , tuy được chúng
tôi thông báo mà chẳng chịu đến .
Dich tho
Ở lâu áo da chồn cũ rách ,
Còn sử thần thiên triều , theo ý kiến của chúng tôi , thì
hay thì thật là hay , nhưng tệ thì thật là tệ , vì qua ý nghĩa
trọn thiên thơ Mao-khâu , hành động này của sứ thần Trung
quốc đáng bị triều đình nhà Thanh kết án : làm nhục thiên
triều với bài thơ đầy giọng than thở ăn mày trong kinh Thi.
Theo thuyết xưa , vua tôi nước Lê sau khi mất nước chạy
sang ở nhờ nước Vệ . Ở trọ lâu ngày , mọi vật theo mùa mà
biến đổi , họ mới lên gò trước cao sau thấp (= mao-khâu) thì
thấy cây sắn đã lớn đã dài và đốt của nó đã thưa và rộng ,
nhân đấy họ mới mượn lời cảm thán rằng :
« Cây sắn trên gò trước cao sau thấp , sao mà đốt của nó
thưa rộng ra như thế ? Các vị bề tôi nước Vệ có việc gì mà
đã nhiều ngày rồi không thấy đến tiếp cứu chúng tôi .
thông báo cho các ông hay sao ? Nhưng các chú bác bề tôi
nước Vệ chẳng đồng lòng với chúng tôi, tuy được thông báo
mà chẳng chịu đến .
« Vua tôi nước Lê chúng tôi lưu lạc chia lìa nhỏ mọn như
thế này thì quả đáng thương . Còn bề tôi nước Vệ thì cười
mãi và bít tai lại không chịu nghe gì .
Riêng chúng tôi lại càng phục lăn phục lóc cụ Lê Quỷ
Đôn hơn nữa , vì hành động của cụ thật đúng với binh pháp
Tôn- Tử : Trăm lần đánh trăm lần thắng không phải là cái giỏi
của người giỏi. Không đánh mà khuất phục được quân binh
người mới thật là cái giỏi của người giỏi (Bách chiến bách
thắng , phi thiện chi thiện giả dã . Bất chiến nhị khuất nhân
chi binh , thiện chi thiện giả đã ) .
Đòi mà lấy được chưa phải là cái giỏi của người giỏi.
Không đòi mà lấy lại được tất cả mới thật là cái giỏi của
người giỏi .
cho nhà cụ gấp . Thật là cái giỏi của kẻ giỏi. Thật đảng bội
phục , đáng khâm phục, đáng khiếp phục !
1 .
( 1.
NGUYỄN - THƯỢNG - HIỀN VỚI LỜI GỌI HỒN NƯỚC
Nhờ khi thiêng của non sông hun đúc , và do dòng -dõi
văn hào , lễ giáo của họ Nguyễn Liên - bạt kết tinh , cậu Hiền
bẩm tinh thông minh đĩnh ngộ khác thường ngay từ thuở
mới bắt đầu mang sách đến nhà trường với cuốn Tam -tự -kinh
(sách gồm những câu ba chữ ).
Học ít biết nhiều , học đâu nhớ đấy , mà lại nhớ lâu ngày,
vì thế cậu Hiền được nổi tiếng là vị thần - đồng khi ngoài
mười tuổi.
Năm lên 18 tuổi , vừa gặp khoa thi Hương (Ân khoa ) năm
Giáp - thân (1884 ) nhân dịp vua Kiến phúc lên ngôi , vị thần
đồng họ Nguyễn thi đỗ Cử nhân vào hạng cao , là người trẻ
tuổi nhứt trong hàng Hương giải khoa ấy. Mới 18 tuổi mà thi
đỗ Cử - nhân là trường hợp hiếm có trong việc khoa cử ngày
xưa vậy.
Sang năm sau là năm Ất-dậu ( 1885 ) , lại gặp Hội thi Ân
khoa bởi vua Hàm -nghi đăng quang, viên Cử-nhân họ Nguyễn
90 KHẢO- CỔ TẬP- SAN
qua mấy kỳ thi Hội , được liệt vào hàng Chánh trúng cách (1 ) .
Mãi đến tám năm sau là năm Nhâm -thìn ( 1892 ) niên hiệu
Thành thái năm thứ 4 , gặp chính khoa Hội thi , lúc bấy giờ
Nguyễn -thượng - Hiền Tiên -sinh đã được 26 tuổi , vào ứng thị
được đỗ đầu Hoàng giáp , đồng khoa với Tam nguyên Vũ
phạm -Hàm (đậu Thảm-hoa) .
Nguyên hàng ngày, hai bậc đại khoa Nguyễn -thượng -Hiền
và Vũ -phạm-Hàm thường tề danh nhau về văn tài cũng như
học lực , lắm lúc Nguyễn -thượng- Hiền còn tỏ ra xuất sắc hơn
Vũ-phạm-Hàm nữa là khác . Nhưng khoa thi Hội năm ấy , Vũ
phạm -Hàm lại đỗ cao hơn Nguyễn thượng - Hiền một bậc . Do
đó , Nguyễnthượng - Hiền mới mừng Vũ -phạm -Hàm một đòi
câu đối như sau :
《 攜手 登 龍門 , 深 絕 衆 流 高 絕 預
看 花到 瓊 苑 , 黄 為 秋菊 白 為 梅
( 1 ) Thi Hội mà được vào hạng Chánh -trung- cách , tức là sẽ được đổ
vào hàng Giáp- bảng . Chỉ còn đợi qua một kỳ thi Đình nữa để xếp thứ
bậc, như là :
-
Đệ nhứt giáp ( Trạng -nguyên , Bảng nhãn , Thám -hoa ).
- Đệ nhị giáp (Hoàng -giáp ).
« Nắm đôi tay lên chốn Long môn , sâu tuyệt mọi
dòng , cao tuyệt đỉnh .
Tương truyền rằng : Khoa thi Hội năm ấy , đại thần Tôn
thất Thuyết biết trước được đề mục bài thi . Ông Thuyết bèn
trao đề thi ấy cho rễ là Nguyễn - thượng Hiền Tiên sinh xem ,
nhưng Nguyễn -thượng -Hiền không đọc , lại trao tay cho Vũ
phạm-Hàm xem và có lẽ Vũ -phạm -Hàm đã làm sẵn bài trước
hoặc đã tìm tòi sách vở để đọc trước cho nhớ đến khi vào
thi mà làm bài . Do đó , lúc vào trường thi , Vũ -phạm -Hàm
mới giật được Thám-hoa . Cho nên trong đôi câu đối vừa
dẫn dịch ở trên bao hàm cái ý tự hào của Nguyễn -thượng
Hiền đối với Vũ - phạm -Hàm là ở chỗ đó . ( Câu chuyện truyền
văn này không hẳn là đúng sự thực) .
« Nắm đôi tay vào chốn Long môn » , tức là vào cửa vua ,
có nghĩa là cùng nhau vào thi Đình, kể cũng đã cao thâm
tuyệt bực , không chỗ nào hơn được. Nhưng nhìn vào vườn
Quỳnh uyển , thì màu nào hoa ấy : cúc vàng , mai trắng, lan
đỏ .... Như vậy có thể nói nôm- na rằng : “ Nhìn vào hàng
đại khoa thì người nào ra người ấy , tài học và bút lực của
anh đã hẳn hơn được gì tôi ?
Ý tứ thật là thâm -thủy , nhưng lời văn thì bởi con người
thanh cao lịch sự , nên rất nhẹ nhàng và đẹp đẽ vô cùng .
Mai -sơn Tiên sinh xuất thân con nhà đài các trâm -anh ,
triều đình lương đống , lại vinh đăng cao khoa hồi còn trẻ
tuổi , theo quan niệm thường tình thì đáng lẽ Tiên- sinh phải
tỏ ra đắc chí , nhìn đời bằng cặp mắt lạc - quan . Nhưng trái
lại , Tiên sinh khác hẳn người thường , càng học rộng tài cao ,
lại càng khiêm cung lễ độ , càng ở vào địa vị sang trọng lại
càng nhã nhặn nhún nhường , cho nên người đương thời
mới mượn hai câu cổ thi sau đây mà bình phẩm nhân cách
và tinh tình của Tiên sinh :
92 KHẢO CỔ TẬP - SAN
« 立身 直 欲 高 千 仞
- 層
處世 先 思 下
Nghĩa là :
Tiên sinh lại có lòng vị tha khắc kỷ, đãi sĩ chiêu hiền .
Nghiệm một chuyện Tiên sinh thiết tha đi tìm cho được Cụ
Phan-sào -Nam để kết thân làm bạn tri-kỷ sau khi được chấm
bài phú « Bải thạch vi huynh » của Cụ Sào - Nam thì đủ rõ ( 1 ) .
Lúc bấy giờ Cụ Sào Nam đương còn là kẻ thư sinh nghèo
khó , mà Tiên-sinh thời đã thành quan Hoàng-giáp tân khoa
trong chốn quyền môn thế phiệt .
※ 菊 松 薄 徑
天日 初 心
優渥 君恩
堅貞 臣節
望 尊 陵 之 松柏 , 淚洒 前朝
貼 午 關 之 星雲 , 心懷 故國
策杖 而 隨父 老 , 日 觀 聖德 之 成
>>>
著書 以 教 孫,世 守 忠良 子 之 訓 ...
( 1 ) Đọc báo Chính luận số 970 ngày 25, 26-6-67 về mục « Duyên
văn tự đưa tới sự nghiệp cách mạng ” .
(2 ) Biểu tạ là bài biểu dâng lên nhà vua đề tạ ơn tri ngộ . Buổi xưa
các quan đại thần đến ngày về hưu trí đều bị bắt buộc phải đưa lên
vua một bài Biểu tạ để tỏ nỗi lòng của mình đối với quân vương.
NGUYỄN -THƯỢNG HIỀN VỚI LỜI GỌI HỒN NƯỚC 93
Làm sách dạy đàn con cháu , đời đời giữ tấc dạ
trung lương ... )
Lời văn thật là thanh tạo lưu loát , tiếc thay tôi không
nhớ được toàn bài . Bài ấy , năm 1925 , tôi được đọc ở Thư.
viện Huế khi học trường Quốc tử giám .
Cách đây tám năm , Cụ Tiến- sĩ Nguyễn -huy- Nhu , (bút hiệu
Mặc-sy , quán làng Vạn-lộc , huyện Nghi- lộc , tỉnh Nghệ-an , lúc
bấy giờ làm giảng viên Hán văn tại trường Đại học Huế) có
nói với tôi rằng : « Ở nước ta , từ cận đại lại bấy giờ , chỉ có
Cụ Phan bội Châu và Cụ Nguyễn -thượng - Hiền là bậc hay chữ
tuyệt thế , song mỗi người hay mỗi cách . Văn Cụ Phan thì
hùng hồn tráng -liệt , về phương diện hô hào và cổ động nhân
dân thời không có ai theo kịp . Còn văn Cụ Nguyễn thì cao
siêu thanh lịch và thâm trầm , quả là người có tiên phong
94 KHẢO -CỒ TẬP - SAN
đạo cốt , cũng không một ai có thể sánh cùng » . Lời bình
phẩm ấy tưởng cũng xác đáng lắm vậy .
Còn về thơ, ngoài những bài giao tiếp với thân bằng cố
hữu , Cụ còn có một tập thi nhan đề « Nam chi ( 1 ) thi tập »
gồm những bài thơ chan chứa nỗi lòng ái quốc ưu thời mà
Cụ Tiến-sĩ Nguyễn-huy-Nhu cho là rất hay về văn chương
cũng như thi tử ,
bèn đường đột tới Phủ Toàn quyền Đông- dương ở Hà-nội
chất vấn lý- do và yêu cầu nhà đương cuộc Pháp phải khối
phục quyền vị cho nhà vua . Việc đòi hỏi ấy không có kết quả,
Cụ bèn treo ấn từ quan , rồi cải trang làm phụ nhân đi buôn
bán hàng vặt rong đường để trốn sang Trung -quốc hoạt động
( 1 ) Nam chi xuất từ câu cổ thi « Việt điều sào Nam chi » : Chim
Việt làm tổ ở cành phương Nam .
NGUYỄN THƯỢNG - HIỀN VỚI LỜI GỌI HỒN NƯỚC 95
cho cách mạng, và cùng Cụ Sào Nam Phan -bội- Châu sáng
lập ra Hội « Việt-nam Cống hiến ) rồi đến Hội « Việt- nam
Quang- phục »
Hai văn phẩm kể trên đã gây một ảnh hưởng rất lớn
lao trong nước , nên nhiều thanh niên đã hưởng ứng phong
trào Đông - du lúc bấy giờ .
Xuất ngoại được một thời gian khá lâu , Mai-sơn Tiên
sinh được ai tin phu nhân ( con gái ông Tôn-thất-Thuyết) đã
từ trần , nên Tiên sinh có làm một đôi câu đối « k ng »
« Điệu nội » nghĩa là khóc vợ như sau :
« 仰觀 天 , 天 則 雲 霾 四 塞, 俯 察 地, 地 則
荆棘 横生 , 二 十年 咽 雪 餐 霜 滄海 未
。
能 填, 誓 我 壯心 , 無 復 鄉 開 縈 旅 夢
少 事 父 , 父 為 君王 出奔 , 壯 從 夫 , 夫 為
國難 遠 適 , 四十 載 含辛茹苦 , 白頭 應
更甚 , 嘉 鄉 早 覺 , 忽 離 塵世 斷 愁 根 。 ”
« Ngưỡng quan thiên, thiên tắc vân mai tử tắc , phủ sát
địa , địa tắc kinh cức hoành sinh , nhị thập niên yết tuyết
xan sương , thương hải vị năng điền , thệ ngã tráng tâm , vô
phục hương quan oanh lữ mộng .
« Ngửng trông trời, trời đầy mây mù đen tối , củi nhìn
đất, đất đầy gai gốc ngỗn ngang . Hai mươi năm nếm tuyết
ăn sương , bề biếc chửa lấp xong , tác dạ tự thề , nào tưởng
quê nhà nuôi giấc mộng .
Lúc nhỏ thờ cha , cha vì nhà vua ra đi , khi lớn lấy chồng,
chồng vì nạn nước xa lánh . Bốn mươi tuổi nuốt cay ngậm
đắng , đầu bạc hẳn thêm buồn , khen ngươi sớm biết , vội lừa
trần thế dứt cơn sầu »
《 身 在 三 韓 名 萬 EX
生 非 百歲 死 千秋 》
Nghĩa là :
Sống tuy không đầy trăm tuổi, nhưng thác còn lưu mãi
tiếng đến ngàn thu » .
NGUYỄN -THƯỢNG -HIỀN VỚI LỜI GỌI HỒN NƯỚC 97
Câu đối này được người ngoại quốc cho là hay nhứt, vì
lẽ không tốn chữ mà đầy đủ ý nghĩa , lại dùng chữ một cách
dễ dàng không gò -bỏ , và đối rất cân từng chữ , không phải
tay hay chữ như Mai-sơn Tiên sinh , thời quyết không thể nào
làm được như thế .
Nguyên Y - Đắng - Báo- Văn là một nhà chính trị nổi tiếng
vào bậc nhứt ở nước Nhật-bản lúc bấy giờ, được phong
đến tước Công . Về thời kỳ Minh-trị duy tân, Ông được
phải qua Âu châu khảo sát chính hiến , rồi lúc về Nhật được
làm đến Thủ tướng Nội các , rồi lại làm Tổng- trưởng ba
lần . Sau lại được bỏ qua làm Toàn quyền ở Triều - tiên .
Nhân có công cản đi Cáp - nhĩ - Tân bị nhà liệt sĩ Triều
tiên là An -trọng- Căn đâm chết . Vì thế, mà vụ án mạng
ấy cũng như tên tuổi của nhà liệt sĩ Triều tiên vang dội
khắp thế giới lúc bấy giờ , cho nên câu đối và văn truy điệu
An -trọng -Căn liệt sĩ không biết mấy mà kể . Trong số các
câu đối hay, thời cầu của Mai-sơn Tiên sinh là một .
Năm 1912 , sau khi cách mạng Tân -hợi ( 1911 ) Trung-quốc
thành công , Maisơn Tiên sinh và Cụ Phan -sào-Nam cùng Ông
Cường-Đề thành lập Việt- nam Quang-phục Hội . Hội chủ trương
theo đường lối Tam dân chủ nghĩa của nhà cách mạng
Khí thế cách mạng Việt-nam lúc này lại có cơ phục hưng,
và Quang- phục Hội bành trưởng rất mau lẹ , tưởng chừng
như đã đến lúc dùng võ trang bạo động đánh Pháp được .
Sau khi xảy ra các vụ ném bom giết viên Tuần phủ tỉnh
Thái-bình và ở Hà nội hôtel năm 1913 , chính quyền Pháp
ở Đông - dương kêu án tử hình vắng mặt Phan -sào - Nam Tiên
sinh , và truy nã ráo -riết các đảng viên Quang -phục Hội ; đồng
thời ở trên đất Trung-hoa , Đô đốc Long -tế -Quang ra lệnh
98 KHẢO- CỔ TẬP- SAN
bắt Phan -sào.Nam Tiên sinh hạ ngục ở Quảng- châu đến bốn
năm , Mai -sơn Tiên sinh nhận thấy công cuộc vận động tự
do độc lập cho nước nhà gặp phải nhiều nỗi trở ngại lớn
lao vô phương cứu vãn . Trước tình thế thiên nan vạn nan ,
và trong cảnh cô thân chích ảnh , Tiên sinh bèn vào tu tại
chùa Thường-tich -Quang ở Hàng -châu thuộc tỉnh Triết- giang
Trung -quốc . Sau một thời gian , Tiên sinh từ trần ở chùa ấy .
Sau đây là câu đối của nhà chùa Thường-tich- Quang kính
điếu Tiên sinh :
-
為 國 忘 身 , 生 義
義 烈
出家
家 成佛 , 千古 精神
Nghĩa là :
oOo
Dưới đây là bài vận văn « Chiêu quốc hồn » của Mai sơn
Tiên sinh được phiên âm như sau :
Bất tri bang quốc điền diệt chi khả thống , đản trị thân
gia phì noãn chi kham ngu .
Đương quốc cừu chi nhiễu bại, thực hữu cơ chi khả đồ .
Qui tai ! Qui tai ! Niệm nhị Tiên Tổ , nhược Lê- Thuận
Thiên đế chi phá địch , nhược Trần Hưng - Đạo
vương chi cầm Hồ .
Qui tai ! Qui tai ! Thị nhị lân cảnh , nhược Trung - hoa
chi chấn hưng ư Vũ -vực , nhược Nhựt- bản chi
xưng hùng ư hải ngung .
Thiên nhân vạn nhân , các tề nãi tâm , nhứt nãi lực ,
khiến nãi tích , hoằng nãi mộ .
100 KHẢO -CỔ TẬP - SAN
Bỉ Việt -nam giả kim dĩ năng phẩn nhiên độc lập , bất
cam vi Pháp - lan -tây nhân vĩnh thế chi nô .
Bất tuẫn bỉ nhứt ban trư tâm cầu phế, nô nhan tì tất
dĩ câu tồ .
NGUYỄN - THƯỢNG -HIỀN
Than ôi ! Các nước trong trời đất , tuy lớn nhỏ có khác
nhau , nhưng hết thảy đều có quốc hồn , há lẽ nước
chúng ta lại không có hay sao ?
Lấy việc nịnh bợ làm tài giỏi lên mặt , thấy việc trung
nghĩa thì sợ hãi tránh xa .
Chẳng biết nước mất là cảnh đau thương , chỉ biết thân
mình và nhà no ấm là lòng vui sướng.
Chúng ta cần phải hợp quần mới có thể phục Sở, gắng
sức mới có thể chiêu Ngô .
Thế mà lại tối- tăm mù- mịt , hôm sớm chỉ biết vui chơi.
Thói tốt khí hùng hãy quay về với nòi giống chúng ta .
Ngàn người muôn kẻ, thề quyết một lòng, cùng nhau
góp sức , dựng nên công nghiệp , mở rộng tri
khôn .
Không chịu cam tâm làm nô lệ đời đời cho bọn người
Pháp .
Hậu học : HỒNG- LIÊN - LÊ- XUÂN -GIÁO phụng lược dịch
1 ) Tôi được đọc bài Biểu -Tạ của Cụ Nguyễn thượng - Phiên tại Tân
Thư viện Huế vào năm 1925–1926 khi tôi học ở trường Quốc-Tử- Giám .
Tương truyền rằng bài Biểu tạ ấy do Cụ Nguyễn - thượng Hiền làm thay
cho Thân phụ .
11-9-68
LÊ . XUÂN . GIÁO
PHẬT -HỌC GIAO - CHÂU VỚI SÁCH « LÝ- HOẶC -LUẬN »
các học giả Đông Tây gần đây đặc -biệt chú ý nghiên -cứu vì nó
quan -hệ mật thiết đến sự biến chuyển của Phật- giáo từ sau khi
rời đất Ấn-độ truyền -bá ra ngoài biên giới sang phía Đông ,
xuống phía Nam . Giao -châu đứng ở giữa Trung -hoa và Ấn độ
hẳn đã đón nhận ảnh hưởng văn hóa Ấnđộ trước Trung -hoa ,
bởi thế mà muốn tìm hiểu khuynh hướng Phật- giáo Việt-nam
cũng như Thiền-học phương Nam và tinh thần văn -hóa Việt
nam chúng ta phải tìm hiểu bước đầu của lịch -sử Phật- giáo
Đông du ở tại đất « Giao - chỉ » (* BL ) có nghĩa là các trào lưu
ngừng lại , hay là « Giao -châu » ( * H ) là châu ở giữa các trào
lưu giao dịch .
Vấn đề Phật- giáo Giao châu đã được học giả Trần văn
Giáp nghiên.cứu công phu khoa - học trong “ Le Bouddhisme
en Annam » ( BEFEO XXXII ) và chứng minh cho lời vấn đáp
giữa Hoàng hậu nhà Lý với nhà sư Thông -Biện trong « Thiền
Uyển Truyền-đăng Tập-lục » ¥ 3 h th h đi của tác-giả thời
Trần là có lý chính xác đáng tin cậy .
Những điều quan -hệ đến lịch - trình du -nhập Phật-giáo vào
Giao - châu trên đây đã được các học giả Đông Tây hiện - đại
khảo sát lại và công nhận sự xác thực của chúng . Gần đây
học giả Galen Eugene Sargent có tổng-kết các khảo sát từ
trước đến nay về vấn đề « không-khí trí thức đất Lĩnh -nam
thời Phật giáo mới du-nhập » (The intellectual atmosphere in
Ling-Nam at the time of the introduction of Buddhism) tại Đại
học Hồng -Kông . Tác -giả kết luận về Phật -giáo Giao - châu
như sau :
104 KHẢO- CỔ TẬP -SAN
« châu rất sớm , có thể từ 400 – 500 năm trước khi có sách của
« Mẫu tử 47 : « Lý - hoặc -luận » ( FE X - ) . Điều ấy chửng-tỏ rằng
« kinh Phật đã được nghiên - cứu và dịch-thuật ở đấy trước
« rồi , từ trước khi có kinh sách Phật của Tàu cho biết .
« Sách Mâu-tử là một trong 5 cột trụ để nghiên cứu về Phật
« pháp khi mới Đông-du , dùng để phê phán các tài- liệu khác
« mà không bị chúng phản-thuyết lại . Nếu có kinh Phật
« khác vào cuối thời Hán mà không được thấy , thì theo Hồ
« Thích là vì bước đầu Phật giáo chỉ có ở các dântộc chưa
« bị Hán-hóa , sự thực là khẩu truyền , cho nên không có chi
« lạ về sự ít sách vở được lưu truyền đời sau....
« Bước đầu lịch -sử Phật học ở An -nam chỉ bắt đầu từ thế
« kỷ III sau Công Nguyên , nhất là nếu chúng ta không kể sách
« Mâu-tử như là một tác phẩm Phật -giáo chân thật của thời
« kỷ 190-200 . Nhân vật lịch -sử đầu tiên chúng ta được biết it
« nhiều là nhà sư Khang -tăng -Hội sinh ở Giao -chỉ , cha mẹ người
« Sogdian , tiên-tô từng sống ở Ấn.độ. Thân sinh ra Tăng.Hội là
« một nhà buôn , hình như đã đến An-nam qua đường bộ của
« thế kỷ II (Phù nam , Lâm ấp , Nhật-nam) hay là qua đường
« biền từ Ấn.độ đến Luy- lâu đã * ( Thuận thành ). Rồi Tăng
« Hội đi lên phương Bắc tới kinh đô Kiến nghiệp (Nam.Kinh)
« năm 247 Công - nguyên . Các nhà sư khác được biết đã có mặt
« ở An.Nam khoảng thế.kỷ thứ III là nhà sư Nguyệt thị ( Indos
« cythe ) Kalasiva ( k b i 4 ) dịch nghĩa là Chính -vô - Ủy *
« 畏 , Kalyânaruci (疆 梁 樓 至 ) dich nghia là Chân- Hý ( 真 喜 ),
« người Ấn (Marajivaka ) : Ma -ha kỳ vực là để đi tu và người
« Ấn Ksūdra : Khâu-đà-la í lề xử . Điều ấy chứng nhận những
« cuộc hành hương Phật-giáo trong khoảng thế kỷ thứ III , tỏ
« rằng Phật học đã được biết đến ở An -nam it ra từ thế - kỷ
Những nhận xét trên đây phù hợp với tài liệu lịch sử
mà Trần -văn - Giáp đã trình bảy trong luận án của Ông ở
Ecole Pratique des Hautes Etudes - Paris 1931 , nhan đề : Le
106 KHẢO -CỒ TẬP - SAN
« đặc- ân của đạo pháp . Khi nào nó gặp một người đàn ông
« nó sẽ trở nên một vật trọng yếu của đạo - pháp . Con đã
« hiểu chưa ? Những ý - nguyện của con sẽ được ứng- nghiệm » .
« Nói rồi nhà sư nhận ở lại . Có khi đứng một chân , miệng
« đọc kinh hàng bảy ngày liền . Một hôm , sau khi đọc thần
« chú , nhà sư biến mất . Ngay lúc ấy cỏ thanh âm của nhà
« sư văng -vắng trên đỉnh núi phía Tây. Cách rừng rậm A
« man không theo kịp , bái vọng mà trở về .... Người ta đi
« tìm kiếm hoài không thấy nhà sư nữa, chỉ thấy vài câu
« kệ ghi lại trên thân cây cổ thụ trên núi . Có kẻ bảo nhà sư
tịch , có kẻ bảo nhà sư đi sang phương khác không biết
« về sau ra sao ... )
« Theo sách Tàu thì nhà sư Jivaka sang đất Lạc- dương
« năm 294 sau Công - nguyên .
PHẬT- HỌC GIAO CHÂU VỚI SÁCH LÝ.HOẶC- LUẬN 107
« Còn Khâu -đà -la « người gốc Ấn- độ » Tây Thiên -trúc quốc
« 5 Á * 3 dòng- dõi Bà -la -môn ( Brahmane ) . Sau khi có được
« phép - thuật ( Yoga ) , ông ta hay ở trong hang động hay dưới
« gốc cây lớn , hay đi đây đi đó , đi đến đâu làm phép ở đấy .
« Ông ta đến Bắc-Việt đồng thời với Jivaka » .
. : Chữ Phật-giáo ở phía Đông hay dùng lẫn lộn không phân
biệt với Ấn độ -giáo hay Bà-la- môn- giáo . Tất cả cái gì thuộc về
văn hóa Ấn độ thường được gọi là Phật- giáo cũng như Ấn-độ
với Tây-trúc cỏ khi hiểu là Tây - vực hay Tây tạng . Xem như
tác phong của hai nhà sư trên đây : Khâu-đà- la và Kỳ-vực là
tác phong của đạo-sĩ Yogi tối-cổ trong tôn giáo Ấn - độ hơn là
của Phật-giáo . Bởi thế mà chúng ta cho tới nay cũng vẫn chỉ
thấy kết luận được là đất Giao - châu hay Giao chỉ cũng như
toàn cõi Đông- Nam Á - Châu bây giờ chịu ảnh hưởng của văn
hóa Ấn -độ nhiều hơn và sớm hơn là văn - hóa Trung-hoa . Danh
từ Tu -Định của một Tu -sĩ Upasaka bản xứ Giao -châu nói trên
đây càng tỏ rõ ảnh-hưởng pháp- thuật Yoga ở thời cổ Việt-nam
đã phổ thông vì thích -hợp với tin-ngưỡng vật- linh ma -thuật
của đại - chúng phương Nam . Câu chuyện sự-tích thần - thoại
« Nhất -da - trạch » của An-Thiên khi kể trong « Đạo-giáo nguyên
lưu » để đc đây h ở chương « Đại Nam Thiền-học sơ - khởi » *
gặp là 40 # vốn là một câu chuyện cô -tích trong « Lĩnh - nam trích
quái , ghi nh Đây 3 tác-phẩm đời Trần , liên -quan đến « Chủ Đạo
Tổ », cho ta ngày nay mường-tượng không khi tin-ngưỡng trên
đất Giao- châu, đã sớm là điểm qui tụ các trào lưu văn hóa :
nào Bà- la-môn, Phật-giáo từ Ấn độ theo đường biển du-nhập
và khuynh -hưởng Nho - giáo , Bách - gia Chư -tử , từ phương Bắc
theo đường bộ xuống , cùng với khuynh hướng tín - ngưỡng cổ
xưa của thổ - dân như văn-hóa Đông-sơn với tín -ngưỡng Trống
đồng và văn hóa Lạch -trường với tin -ngưỡng Cổ mộ . Tất cả
đòi sống chung nên phải tìm thích -ủng với hoàn - cảnh nên dần
dần điều hòa thích-ứng với nhau trong một tinh -thần Việt -hóa ,
trở nên sau này là tinh -thần tôn giáo Việt -nam vậy .
Cái khuynh hướng điều hòa thích ứng các trào -lưu văn
108 KHẢO.CỒ TẬP- SAN
6 ( 1097) ; « Giáo lý Phật truyền vào Trung hoa đến Thiên -thái
tông là thịnh - vượng gọi là Giáo-tông ( Agama ) . Đến Tào-Khê
« Sĩ- Nhiếp chiêu nạp danh sĩ vốn không giới-hạn vào giới
Nho học . Bấy giờ có Mâu -tử đem mẹ lánh nạn xuống Giao -chỉ,
có làm ra sách
« Lý -hoặc - luận » ( 2 ) nỗi tiếng ở đời . Sách
- - Ở đây
Lý -hoặc - luận là tác phẩm Phật - giáo trọng yếu .
Mâu - tử bày -tỏ phương- diện Phật-pháp đại biểu cho tinh thần
Phật- giáo ở giai-đoạn quá- độ thời Hán - Tấn đang biến-chuyền,
Trong bài tựa Mâu-tử viết : « Sau khi vua Hoàn -Linh đế mất
PHẬT-HỌC GIAO CHÂU VỚI SÁCH LÝ-HOẶC-LUẬN 109
rồi , thiên hạ nhiễu loạn , chỉ có đất Giao - châu là tạm yên .
Người kỳ tài phương Bắc kéo đến phần lớn thuộc về cái học
phương thuật thần-tiên , tịch cốc , trường-sinh. Người đương
thời theo học rất nhiều , Mẫu tử thường lấy cái học Ngũ - kinh
của Nho-giáo để vặn họ , đạo - gia và thuật- sĩ chẳng ai dám
đối đáp » .
Mẫu-Bác thuở trẻ học sách Kinh , Truyện , Bách gia Chư
tử, Ngũ- Kinh , Binh - gia , Pháp-gia cùng sách Thần - tiên bất tử .
Căn-cứ vào chính lời của ông ta thì ông đã từng tin theo cái
học Phương - thuật , tịch-cốc trường - sinh . Về sau mới vỡ cái
nghĩa lớn mà qui đạo Phật. Mẫu tử sở dĩ tin theo Phật- giáo là
do lòng cầu tìm lý siêu -hình . Ông tự nhận :
覩 佛經 之 說 , 覽 老子 之 要 , 守 恬淡 之 性 , 觀 無為 之
行 , 還 視 世事 , 猶 臨 天井 而 闚 溪谷 , 登 嵩 岱 而 見 丘 垤 .
(理 惑 論)
« Đỗ Phật- kinh chi thuyết, lãm Lão-tử chi yếu , thủ điềm
đạm chi tinh , quan vô vi chi hành . Hoàn thị thế sự , do lâm
thiên tỉnh nhi khuy khê cốc , đăng tung đại nhi kiến khâu diệt » .
(Lý-hoặc-luận)
trời cao ngó xuống ngòi lạch , lên đỉnh non nhìn xuống
gò đống » .
Bởi thế ông mới nhiệt thành tin đạo Phật , lại tham-bác
nghiên - cứu 5.000 chữ Đạo đức Kinh , bỏ môn Pháp -thuật đề
thuyết lý về huyền -nhiệm .
Thời Hán , Phật- giáo phụ hội Phương thuật , Phật-tử đời
Ngụy Tần ham chuộng Lão Trang , dấu vết tư-tưởng của Mâu
tử thích - hợp cho nhânvật giao thời . Bình sinh học - vấn tin
ngưỡng của Mâu-tử bao hàm và xúc tích thường có chuyển
biến , thực là phản - chiếu đầy đủ sự biểu hiện tinh thần đất
Giao châu nơi gặp gỡ của nhiều phương qua lại vậy.
Tây-vực năm 255 thời Ngô -tôn-Lượng dịch kinh Pháp hoa
( * kê ) ở đất Giao -châu » .
Tác- phẩm Mâu- tử Lý- hoặc -luận là một tài liệu lịch -sử tư
tưởng quan trọng của đất Lĩnh -nam Giao -châu đầu Công
nguyên thứ nhất , nên chi đã được học giả Đông Tây đặc
biệt chú -ý .
... « Ông ... giải - thích bài tự tựa của Mẫu tử trong có câu
« em quan mục làm thải- thủ quận Dự chương bị trung-lang
tướng Trắc-Dung giết » , ông đoán định quan mục Giao -châu
là Chu -phù . Như thế thì thiên tự tựa của truyện đã thành áng
văn - chương có chứng cứ lịch -sử . Bài tựa ấy đã có thực chứng
lịch- sử , thì toàn bộ Lý -hoặc- luận thành ra một sử- liệu lịch
sử đảng tin -cậy vậy ) .
Bởi sách Mâu -tử có giá trị lịch- sử như thế rất hiếm nên
đã được học - giả Pháp P. Pelliot E.F.E.O. dịch ra tiếng Pháp
đăng trong Toung Pao v. XIX No 5 ngày 12-1918 – 1919
nhan-đề là « Meoutseu ou les doutes levés » . Và học- giả
H. Maspero E.F.E.O. dịch và bình - luận bài tựa trong tạp
chi năm 1910 nhan đề « Le songe et lambassade de lem
pereur Ming » .
牟子 理 惑 · 正 誣為 , 车子 理 惑 一 云 : 蒼梧 太守 牟子 傳
车子 旣 修 經 , 諸子 書 , 無 大小 靡 不好 之 , 雖不 樂 兵
法 , 然 猶 讀 焉 , 雖 讀 神仙 不死 之 書 , 抑 而不 信 , 以為 虚 誕 ,
是 時 靈 帝崩 後 , 天下 擾亂, 獨 交 州 差 安 , 北方 異 人 咸 來 在
焉 , 多 為 神仙 辟穀 長生 之 術 , 時 人 多 有 學者 , 车子 常 以 五
經 難 之 · 道家 , 術士 莫敢 對 焉 , 比 之 於 孟 軻 距 楊朱 墨翟 ·
先是 時 , 牟子 將 母 避世 交 阯 . 年 二 十六 歸 蒼梧 娶妻 · 太守
聞 其 守 學 , 謁 請 署 吏 . 時 年 方 盛志 精於 學 , 又見 世 亂 無 任
宵 意 , 竟 還不 就 . 是 時 詔 州郡 相 疑 隔 塞 不通 . 太守 以其 博
學 多 識 , 使 致敬 荆州 . 牟子 以為 榮 爵 易 讓 , 使命 難 辭 , 遂
嚴 當 行 · 會 被 州牧 優 文 處 士 薛 之 , 復 稱疾 不起 · 牧 弟 為 豫
章 太 守 , 為 太 中郎將 筆 融 所殺 · 時 牧 遣 騎都尉 劉彥 將兵
赴 之 , 恐 外界 相 疑 兵 , 不得 進 . 牧 乃 請 车子 曰 : 弟 為 逆賊
所 害 , 骨肉 之 痛 憤 發 肝 心 , 當 遣 劉都尉 行 , 恐 外界 疑難 ,
行人 不通 . 君 文武 兼備 , 有 専 對 才 . 今欲 相 屈 之 , 零陵 , 桂
陽 假 塗於 通路 , 何如 ?
车子 曰 : 披 秣 服 見 遇 日久 列 士 忘 身 , 期 必 聘 效 · 遂
嚴 當 發 , 會 其母 卒 亡 还不 果 行 . 久 之 退 念 , 以 辯 潼 之 故 輒
見 使命 · 方 世 擾攘 , 非 顯 己 之秋 也 , 乃 歎 曰 : 老子 絕 聖 藥
智 , 修身 保真 , 萬物 不干 其 志 , 天下 不易 其 樂 , 天子 不得
臣 , 諸侯 不得 友 , 故 可贵 也 。 於是 銳 志 於 佛道 , 兼 研 老子
五 千丈 , 含 玄妙 為 酒 漿 , 說 五 經 為 琴 簧 · 世俗 之 徒 多 非 之
者 , 以為 背 五 經 而 向 異 道 · 欲 爭 則 非 道 , 欲 默 則 不能 , 遂
以 筆墨 之間 畧 引 聖賢 之 言 證 解 之 , 名曰 : 牟 于 理 惑 云 ·
( 弘 明 集 , 卷 第一 梁 揚 都 建 初 寺 釋 僧 祐 撰 ).
( 大 藏經 第五 十二 册 ; 史 部 四 ).
ư Mạnh- Kha cự Dương- Chu Mặc - Dịch . Tiên thị thời , Mẫu tử
tương mẫu tị thế Giao-chỉ . Niên nhị thập lục qui Thương Ngô
thú thê . Thái thú văn kỳ thủ học yết thỉnh trí lại. Thời niên
phương thịnh chi tinh ư học ; hựu kiến thế loạn vô sĩ hoạn
ý , cảnh hoàn bất tựu . Thị thời chư châu quận tương nghi
cách tắc bất thông . Thái thủ dĩ kỳ bác học đa thức, sử trí
kinh Kinh-châu. Mâu -tử dĩ vi vinh tước dị nhượng, sử mệnh
nan từ, toại nghiêm đương hành . Hội bị châu mục ưu văn
xử sĩ tiết chi , phục xưng tật bất khởi . Mục đệ vi Dự-Chương
Thái- thủ , vi thái Trung -lang tưởng Trách-Dung sở sát. Thời
mục khiển kỵ đô -ủy Lưu - Ngạn tương binh phó khủng chi ,
ngoại giới tương nghi binh , bất đắc tiến . Mục nãi thỉnh Mâu
tử viết : « Đệ vi nghịch tặc sở hại, cốt nhục chi thống phẫn
phát can tâm, đương khiển Lưu Đôủy hành, khủng ngoại
giới nghi nan , hành nhân bất thông. Quân văn vũ kiêm bị ,
hữu chuyên đối tài . Kim dục tướng khuất chi , Linh -Lăng ,
Quế.Dương giả đồ ư thông lộ , hà như ?
« Mâu - tử viết : Bị mật phục lịch kiến ngộ nhật cửu , liệt
sĩ vong thân , kỷ tất sinh hiệu . Toại nghiêm đương phát .
Hội kỳ mẫu tốt vong tọa bất quả hành . Cửu-chi thoái niệm ,
dĩ biện đạt chi cố chiếp kiến sứ -mệnh . Phương thế nhiễu
nhương , phi hiển kỷ chi thu dã , nãi thán viết : « Lão-tử tuyệt
thánh khi trí , tu thân bảo chân , vạn vật bất can kỳ chí , thiên
hạ bất dịch kỳ lạc, Thiêntử bất đắc thần , chư - hầu bất đắc
hữu , cố khả quí dã » . U thị duệ chỉ ư Phật đạo , kiêm nghiên
Lão tử ngũ thiên văn , hàm huyền diệu vi tửu tương, ngoan
Ngũ- Kinh vi cầm hoàng . Thế tục chi đồ đa phi chi giả , dĩ vị
bội Ngũ-Kinh nhi hướng dị đạo . Dục tranh tắc phi đạo , dục
mạc tắc bất năng . Toại dĩ bút mặc chi gian lược dẫn Thánh
Hiền chi ngôn chứng giải chi, danh viết Mẫu tử Lý -hoặc vẫn » .
« Mâu -tử đã học Kinh truyện cùng sách của các nhà , không
sách lớn nhỏ nào không ham . Tuy không ưa binh-pháp , ông
cũng có đọc qua Binh -thư . Tuy có đọc sách về Thần - tiên bất
tử, nhưng ông không tin , cho là vu -khống lập- dị . Vào thời sau
khi vua Hán-Linh- đế mất rồi ( 189) , thiên-hạ loạn ly , chỉ có
đất Giao -châu (Bắc - Việt ), còn tạm yên . Các học - giả phi
thường xuất- chúng ở phương Bắc kéo nhau đến đấy . Có
nhiều người chuyên về học thuật thần -tiên , tịch- cốc , trường
sinh , bấy giờ có rất nhiều học-giả . Mâu -tử thường đem sách
Ngũ - Kinh hỏi vặn , các nhà đạo học và thuật sĩ không ai
đối phó được . Người ta ví ông ta với Mạnh -Kha chống với
Dương-Chu và Mặc-Dịch vậy .
« Trước đây Mâu -tử giắt mẹ lánh nạn xuống Giao - châu .
Năm 26 tuổi ông trở về Thương -Ngô lấy vợ. Quan Thái thủ
nghe tiếng ông về học lực , mời ông ra làm việc . Ông đang
tuổi trưởng thành , muốn chuyên về đường học vấn. Vả lại
thấy đời loạn ông không có ý về đường sĩ-hoạn và rồi không
đáp- ứng lời mời của Thái-thú . Bấy giờ các châu quận đang
nghi- kỵ , đường giao -thông cách -trở . Thái- thủ thấy Mâu-tử học
rộng biết nhiều , mời đi sứ sang quận Kinh châu . Ông nghĩ
rằng tước -lộc dễ từ - chối , còn sứ -mệnh thì khó lòng, ông mới
sửa-soạn đi . Nhưng quan mục châu ấy là Lưu -Biểu vốn trọng
tài văn-học nho - sĩ giữ ông lại . Ông bèn cáo bệnh không cử
động . Em của châu mục vốn là Thái-thủ hạt Dự- Chương bị
Trung -lang - tướng Trách-Dung giết . Quan mục sai Kỵ đô uy
là Lưu-Ngạn đem quân đi đánh . Sợ các quận láng-giềng nghi
ngờ cản đường tiến quân , quan mục mới mời Mâu-tử mà
nói : « Em tôi bị giặc ám -hại . Tình cốt nhục làm cho tôi
tâm can đau đớn . Tôi muốn sai Lưu Đô - úy đi, e biên-giới
nghi-kỵ , người đi không thông . Ông có tài văn võ đầy đủ,
nay muốn nhờ ông đi thuyết- phục , nếu bị quân Linh - Lăng ,
Quế- Dương cản đường không cho tiến quân » .
« Mẫu- tử đáp lại : « Tôi được quan mục tiếp đãi cho nhờ
vả lâu nay rồi . Người liệtsĩ quên thân mình , tôi phải vội
bắt chước ! »
« Ông vội sửa soạn lên đường, chẳng may mẹ chết , ông
lại không đi được. Ông suy nghĩ mãi về sau cái việc được
PHẬT -HỌC GIAO - CHÂU VỚI SÁCH LÝ -HOẶC- LUẬN 115
Qua lời tự tựa trên đây của Mẫu -Bác , chúng ta đã thấy
được đại-khái khuynh -hướng tư-tưởng chung của ông và đoán
biết được nội dung của tác-phẩm « Lý hoặc luận » là kết tinh
của tinh thần Tam - giáo : Nho , Lão , Phật đầu tiên của đất
Giao- châu vậy .
:
Tư- tưởng Trung - hoa cho tới Tần -Hán có thể nói chỉ
chuyên chú vào phương diện thực tế của sự sống nhân -sinh
xã hội nên tất cả đều thu vào hai khuynh hướng chính là
nhập thế và xuất- thế , cũng gọi là xuất hay xử. Khuynh hướng
nhập-thế chuyên vào con người xã hội tập thể , còn khuynh
huởng xuất thế chuyên vào con người cá nhân thiên nhiên .
Đấy là tất cả tinh thần học- hỏi của cải học gọi là « Bách - gia
chư -tử » mà đề -tài chưa từng rời khỏi bình- diện tương đối của
thời gian và không - gian . Khổng tử thì không giải quyết vấn
đề sống chết , Lão tử thì tìm trở về đời sống thiên nhiên
trường -sinh bất tử ở thế-gian. Không
tử thì xác-nhận thế -gian
có thật, Lão- tử thì phủ- nhận giá -trị xã hội . Hai khuynh
hướng đả -kích chống đối lẫn nhau, không chịu thỏa- hiệp .
Tuy thời Chiến quốc có Mạnh -Kha đã có thái độ chấp -trung
quyền biến giữa Dương - Chu
chủ trương « Vị ngã » ( ầy *)
-
« nhỏ một sợi lông lợi thiên-hạ cũng không làm » ( # – € *
ATK ) « Bạt nhất mao , lợi thiên -hạ bất vị dã » , đấy là
116 KHẢO -CỒ TẬP - SAN
萬物 皆 備 於 我 反 身 而 誠 樂 莫大 馬
PHẬT -HỌC GIAO - CHÂU VỚI SÁCH LÝ -HOẶC-LUẬN 117
« Vạn vật giai bị ư ngã , phản thân nhi thành lạc mạc
đại yên ».
Xem thế thì thấy tình thế của Mẫu -Bác khác với hoàn -cảnh
của Mạnh - Kha . Mạnh Kha quay về phục hồi Không Nho để
chống- đối với Dương - Chu và Mặc Dịch , còn Mẫu- Bác học rộng
các Kinh Truyện của Chư - tử thời tiên Tần , không có dụng ý
chống - đối với khuynh-hướng nào mà chỉ là để tìm một thái
độ thích ứng với thời-thế mới . Ông viết :
« Vả thời thế rối- loạn chẳng phải lúc tìm sự vinh -hiền cho
118 KHẢO - CỔ TẬP - SAN
mình . Bèn than rằng : Lão - tử chủ trương bỏ hết những giá
trị tiêu-biểu của xã -hội là Thánh và Tri, tu sửa thân mình đề
giữ lấy chân -tính hồn -nhiên . Sự vật bên ngoài thế -giới không
can - thiệp vào ý chí của mình , người đời không làm cho mình
đổi được lạc thú riêng , nhà vua cũng không bắt mình làm bầy
tôi , các chúa không đánh bạn được với mình , thế có thể gọi
được là qui vậy . Thế rồi ông bèn đem hết tinh thần vào đạo
Phật , lại gồm nghiên - cứu sách của Lão tử có năm ngàn
chữ , nuôi dưỡng trong lòng nguyên - lý siêu hình như người
ta ủ rượu , tập -luyện ý -nghĩa sách Ngũ Kinh của Không Nho
như tập gảy đàn thổi sáo » .
雖 誦 五 經 適 以為 華 , 未成 實 套 , 既 吾 覩 佛經 之 說 ,
覽 老子 之 要 , 守 恬 惨 之 性 , 觀 無為 之 行 , 還 視 世事 猶
臨 天井 而 闚 溪谷 , 登 嵩 岱 而 見 丘 垤 來 · 五 經 則 五味 ,
佛道 則 五穀 · 吾自 聞 道 以來 如 開 雲 見 白日 , 矩 火 入
冥 室 焉 ,
( 理 惑 論)
« Tuy đọc sách Ngũ - Kinh ưa thích coi như hoa , nhưng còn
thành quả nữa ! Đến khi tôi đã coi thuyết lý ở kinh Phật ,
xem đến yếu -lý của Lão - tử , sống giữ lấy cái đức tính điềm
đạm , nghiệm cái đức hạnh vô-vi . Bấy giờ lại quay nhìn sự
đời khác nào đứng giữa trời cao nom xuống ngòi lạch , trèo
lên đỉnh núi nhìn xuống gò đống vậy. Sách Nho Ngũ kinh
PHẬT- HỌC GIAO- CHÂU VỚI SÁCH LÝ - HOẶC - LUẬN 119
cũng vi như năm vị ăn , đạo Phật như năm thử thóc vậy.
Từ khi tôi được biết đạo Phật đến nay thực như vén mây
thấy mặt trời sáng , lửa đuốc soi vào nhà tối vậy ) .
Đấy là tinh thần tập - đại- thành của Mâu - Bác không bài
bác một tư-tưởng nào để độc tôn riêng cái nào . Mỗi tư
tưởng đều có chỗ sử -dụng của nó ví như ( H HHA là 17 BT H3 )
« nhật nguyệt câu minh các hữu sở chiếu ) nghĩa là “ mặt
trời , mặt trăng đều sáng mỗi cái có chỗ sáng chiếu của nó .
Đấy là cái tinh thần ( Kở nên đề - Để đi Đà lễ ) « Đồng qui
nhi thù đồ , nhất trí nhi bách lự » của « Dịch - truyện » » it
nghĩa là « Đường lối khác mà về cùng, trăm lối nghĩ mà
nhất trí » .
Phiên biệt truyện viết : Phiên sơ lập Dịch chủ , tấu Thượng
viết : thần văn Lục-kinh chi thủy mạc đại Âm -Dương , thị dĩ
Phục-Hy ngưỡng thiên huyền tượng nhi kiến Bát-quải , quan
biến động Lục -hảo vi lục thập tứ ( 64 ) (8 x8 ) dĩ thông thần
minh , dĩ loại vạn vật . Thần cao tổ phụ cố Linh -lăng Thái thú
Quang thiếu trị Mạnh -thị Dịch , Tăng tổ phụ có Bình- Du -Lệnh
Thành toán thuật kỳ nghiệp , chi thần tổ phụ Phượng vi chi tối
mật. Thần tiên khảo cố Nhật -nam Thái-thủ Hàm thụ bản ư
Phượng. Tối hữu cựu thư thế truyền kỳ nghiệp chí thân
ngũ thế ...
Phiên hựu tấu viết : kinh chi đại giả mạc quá ư Dịch ,
tự Hán sơ dĩ lai, hải nội anh tài kỳ độc Dịch giả giải chi
suất thiểu , chí Hiếu-linh chi tế Dĩnh-xuyên Tuân -tứ -hiệu vi
-
tri Dịch . Thần đắc kỳ chư hữu dũ tục Nho ... Khổng tử thán
Dịch viết : tri biến hóa chỉ đạo giả kỳ tri thần chi sở vi hồ » !
ngẫng lên xem trời , khám phá ra ý -nghĩa hiện -tượng cho nên
dựng nên Tám Quẻ . Ngắm sáu đường thay đổi vận động mới
tính ra được 64 Hào để cảm thông với thần -linh và xếp loại
muôn vật . Cụ kỵ tôi , là Ngu -Quang nguyên Thái- thủ quận
Linh - lăng , thuở nhỏ học Dịch theo bản chú thích của họ
Mạnh , một học giả thời Tiền -Hán . Đến Cụ tòi là Ngu - Thành
nguyên Lệnh -doãn thành Bình - du nối nghiệp của tiền - nhân ,
kịp đến ông tổ của tôi là Ngu - Phượng chuyên về điều bi-mật
của Dịch - học . Cha tôi là Ngu -Hàm vốn là nguyên Thái thủ
quận Nhật-nam tiếp nhận được Dịch học ở Ngu - phương .
Sách truyền xưa lắm , đời nọ đến đời kia đến tôi là năm
đời rồi ...
Ngu - phiền lại tâu lèn vua rằng : Bộ Kinh trọng - đại
nhất không bộ nào hơn được Kinh Dịch , từ đầu nhà Hán đến
nay anh tài trong nước , người đọc Kinh Dịch mà giải- thích ra
thì ít lắm . Mãi đến thời Hiếu - Linh đế Dĩnh - Xuyên Hiệu Tuân - Tử
mới gọi là có biết Dịch . Tôi nay nhận được lời chủ giải kinh
Dịch khác tục Nho ... Khổng tử khen về Kinh Dịch rằng : « Biết
đạo- lý biến -hóa thì biết hành vi của Thần-linh vậy » .
Mâu - tử muốn thể hiện trong thế -giới biến -dịch vô thường
cái bản -tinh tồn tồn , sinh - sinh , vừa hiện thực vừa siêu nhiên ,
cái đạo “ hợp ngoại nội » , cho nên có kẻ hỏi :
« Mâu - tử đáp :
――――― là đạo ngụ ý hướng -dẫn , dẫn dắt vậy . Dẫn dắt
« Gọi
người ta thành tựu ở chỗ vô vi , vô tâm . Đạo ấy buộc lấy
thì không có trước , dẫn tới thì không có sau , vươn lên
không có trên , ép xuống không có dưới. Nhìn thì không có
hình , nghe thì không có tiếng . Bốn phương rộng lớn , nó lan
tràn ra ngoài, tơ hào nhỏ nhất nó lọt vào bên trong . Bởi
thế nên gọi là đạo » .
PHẬT- HỌC GIAO - CHÂU VỚI SÁCH LÝ- HOẶC- LUẬN 121
何謂 之 為 道 ? 道 何 類 也 ?
牟 子曰 : 道 之 言 導 也 。 人 致 於 無為 。 牽 之 無
前, 引 之 無 後 , 舉 之 無上 , 抑 之 無 下 , 視 之 無形, 聽 無
聲 · 四 表 為 大 蜿蜒 其外 , 毫釐 為 細 , 間 間 其 內 · 故 謂 之 道
( 牟子 。 理 惑 論)
Màu -Bác quan - niệm đạo là đường lối dẫn-dắt đến cứu
cánh vô - vi. Hai chữ vô-vi vốn là danh -từ của đạo gia , với ý.
nghĩa tiêu- cực xuất thế . Ở đây Mâu - Bác quan niệm vô -vi bao
hàm cả nội và ngoại , tức là cái thực tại vừa thực- hiện vừa siêu
nhiên , không phải một vật hoàn toàn trừu tượng mà là một
lối sống trong sự sống , một trình độ hiện-sinh bao hàm tất cả
mâu thuẫn của trí thức hình danh sắc tướng vậy .
« Kìa mặt trăng , mặt trời đều soi sáng , mỗi đàng có chỗ
sáng chiếu riêng của nó . Hai mươi tám vì sao , mỗi ngôi có
chủ định của nó . Trăm vị thuốc cùng sinh ra, vị nào có chỗ
chữa bệnh của vị ấy . Lông chồn để chống lạnh , vải thưa để
che nóng . Xe thuyền khác đường đều làm việc đi lại . Khổng
tử không lấy Ngũ -kinh làm đủ , lại làm thêm sách Xuân -thu ,
Hiếu -kinh , muốn mở rộng đạo -thuật để giúp cho người phát
triển chí hướng vậy . Kinh nhà Phật tuy nhiều nhưng đều qui
về một mối , cũng như bảy kinh Nho tuy khác nhau mà chỗ
tôn trọng Đạo - đức , Nhân -nghĩa thì cũng giống nhau là một
122 KHẢO -CỒ TẬP -SAN
cả . Hiếu kinh tuy có nhiều lời mà tùy từng người ủng- dụng ,
như Tử - Trương , Tử -Du đều hỏi về một chữ Hiếu mà Trọng
Ni giải đáp cho mỗi người một khác , là vì Ngài cốt phá chỗ
chấp của họ vậy » .
夫 日 , 月 俱 明 , 各 有所 照 , 二十八宿 各 有所 主 , 百 藥 並
生 , 各 有所 愈 , 狐裘 備 寒 ; 絺 紘 御 暑 , 舟 輿 異 路 , 俱 致 行旅 .
孔子 不 以 五 經 之 備 , 復 作 春秋 , 孝經 者 , 欲 博 道 術 恣 人 意
耳 ・ 佛經 雖 多 其 歸 為 一 也 , 猶 七 典 雖 異 其 貴 道德 仁義 亦
一 . 孝 所以 說 多 者 , 隨 人 行 而 與之 , 若 千 張 , 子 游 俱 問
孝 , 而 仲尼 答 之 各異 , 攻 其 短 也 ,
« Phù nhật , nguyệt câu minh , các hữu sở chiếu , nhị thập
bát tú các hữu sở chủ , bách dược tịnh sinh , các hữu sở dũ ,
hồ cừu bị hàn ; hy khích ngự thử , châu dư dị lộ , câu trí
hành lữ. Khổng tử bất dĩ Ngũ - Kinh chi bị , phục tác Xuân
thu , Hiếu - kinh giả , dục bác đạo thuật tú nhân ý nhĩ. Phật
kinh tuy đa kỳ qui vi nhất dã , do thất điển tuy dị kỳ quá
Đạo đức Nhân - nghĩa diệc nhất dã . Hiếu sở dĩ thuyết đa giả ,
tùy nhân hành nhi dữ chi, nhược Tử - Trương , Tử-Du câu
vấn nhất hiếu , nhi Trong - ni đáp chi các dị , công kỳ đoản dã » .
Như thế là Mâu-tử tổng hợp dung hòa các trào -luu tư
tưởng mà không bài-bác một khuynh -hưởng nào « nhật nguyệt
câu minh , các hữu sở chiếu » khác với Mạnh -tử « sở ố chấp
nhät giå vi ky tǎc dao dà » ( 所 惡 執 一 者 為其 賊 道 也 ) « cr
nhất nhi phế bách dã » ( -- Hai ) 7 ) nghĩa là « ghét chỗ
chấp vào một chủ nghĩa , vì làm hại chân - lý , thấy có một
mặt mà bỏ trăm mặt » (Tận tâm ). Mâu-tử nhờ có biện- chứng
« Không » bắt đầu bằng phủ -định , hỷ -xả cái mình đi cho nên
không chấp mà cởi-mở để thu- nhận , « vô -vi nhi vô bất vi
( H ng nữ thổ ) « Không làm riêng mà làm chung cho tất
cả » . Cho nên ông lại nói : « Thấy rộng thì không mê- tin , nghe
được nhiều thì không nghi -hoặc . Vua Nghiêu , vua Thuấn ,
Chu- công , Khổng tử sửa trị việc đời, còn Phật , Lão chú ý
vào Vô- vi . Trọng - Ni bôn ba bảy mươi nước , Hứa Do nghe
tin được nhường ngôi thì vội xuống vực rửa tai . Đạo của
PHẬT- HỌC GIAO - CHÂU VỚI SÁCH LÝ- HOẶC- LUẬN 123
見 博 則不 迷 , 聽聽 則 不惑 , 堯 , 舜 , 周 , 孔 , 修 世事 也
佛 與 老 無為 志 也 · 仲尼 栖 栖 七十 餘 國 · 許 由 聞 禪 洗 耳
於 涓 , 君 子之道 , 或 出 或 處 , 或 默 或 語 , 不 溢 其 情 , 不 淫
其 性 , 故 其 道 為 貴 在乎 所 用 , 何 棄 之 有 乎 ?
« Kiến bác tắc bất mè , thính thông tắc bất hoặc , Nghiêu ,
Thuấn , Chu , Không tu thể sự dã , Phật dữ Lão vô vị chí dã .
Bởi vì muốn tổng - hợp tập -đại- thành các tư- tưởng khuynh
hướng khác nhau , trái nghịch xung-đột , Mẫu tử cần tìm đến
một nguyên -lý chung có thể làm cơ -sở cho hệ - thống nhất-tri
của mình . Các khuynh -hưởng tín -ngưỡng và tư-tưởng có khác
nhau thì nguyên -lý cơ -sở chung càng phải sâu rộng . Cái
nguyên-lý sâu rộng ấy Mâu- tử đã tìm thấy trên đất cổ xưa Việt
nam , tại kinh đô Sĩ -Nhiếp là Luy - lâu ( Bắc ninh ) bấy giờ cũng
là kinh-đô Phật-học đang phồn thịnh . Mâu-tử nói :
ba tấc để tìm hạt châu minh nguyệt , mò cái tổ gai bưởi để tìm
chim non phượng hoàng , ắt là khó mà thấy được . Tại sao ? Vì
nhỏ không thể bao trùm được lớn vậy .
« Kinh Phật nói sự việc hàng úc năm về trước , lại dạy điều
yếu -lý vạn đời về sau . Khi thái tổ chưa hiện lên , thái thủy
chưa sinh ra , trời đất chưa mở dựng . Cái nhỏ của nó không
124 KHẢO -CỒ TẬP - SAN
thẻ nắm được , cái nhọn không thể vào được. Đức Phật điều.
lý ngoài sự lớn rộng của vũ trụ , phân -tích vào trong sự huyền
diệu của nó , không có chi không đề cập ghi nhận . Cho nên
kinh điển mới có hàng vạn , lời nói mới có hàng ức, càng
nhiều càng đầy đủ , càng nhiều càng phong phú . Có chi là
không thiết- yếu . Tuy sức một người không sao kham nổi ,
vi như xuống sông uống nước, uống lấy đủ khát, còn hỏi
đến chỗ còn lại làm chi » ?
《 江海 所以 異於 行 潦 者 , 以其 深廣 也 · 五岳 所以 別 於
丘陵 者 , 以其 高大 也 · 若 高 不 絕 山 阜 , 跛 羊 凌 其 顛 ; 深 不
絕 涓 流 , 儒 子 浴 其 淵 · 騏 驥 不 處 苑囿 之中 ‧ 吞 舟 之 魚 不 游
敷 仞 之 溪 ‧ 剖 三寸 之 蚌 , 求 明月 之 珠 ; 探 枳 棘 之 巢 , 求 鳳皇
之 雛 , 必 難 獲 也 , 何 者 ? 小 不能 容 大 也 · 佛經 前 說 億 載 之
事 , 却 道 萬世 之 要 ‧ 太 素 未 起 , 太 始 未 生 , 乾坤 肇興 , 其 微
不可 握 , 其 纖 不可 入 ; 佛 悉 彌 綸 其 廣大 之外 , 部 折 其 竊 妙
之 内 , 靡不 紀 之 故 · 其 經 卷 以 萬 計 , 言 以 億 敷 , 多多 益 具
象 象 益 富 ‧ 何 不要 之 有 ? 雖非 一 人 所 堪 , 譬若 臨河 飲水 ,
飽 而 自足 , 焉知 其餘 哉 ? »
được ở đạo Phật trên đất Luy - lâu ( Bắc - Việt ) thời Sĩ Nhiếp
cuối thế-kỷ II đầu thế- kỷ III làm cơ sở tinh-thần hợp- sáng cho
các trào-lưu tư- tưởng và tin -ngưỡng phức-tạp gặp nhau trên
mãnh đất giao điểm của các dân tộc và văn hóa là lãnh thổ
Việt- Nam xưa . Cái Nguyên-lý ấy không phải một khái-niệm trừu
tượng danh-lý , mà theo lời Mâu -tử là Đại- Đạo Vô -vi , một Tâm
linh nghiệm thực khai- phóng bao hàm tất cả các trình- độ , các
bình-diện của tinh thần , của ý - thức : Thục, Mộng và Thụy
miền ; Cá-nhân , Xã-hội và Vũ- trụ siêu nhiên mà Mâu-tử đã lấy
làm tin-ngưỡng thực-hiện : ( ỗ t ly YẾU K 9 Bà I K L
* ) « Hàm huyền diệu vi tửu tương , ngoạn Ngũ -kinh vi cầm
hoàng » nghĩa là “ ấp ủ nuôi dưỡng cái lý huyền -diệu vô hình
làm nước rượu , nghiền -ngẫm ý -nghĩa sách Ngũ -kinh Nho -giáo
làm đàn sáo » . Đấy không phải chỉ là thái độ tri- thức, đấy còn
là thái độ tín -ngưỡng theo truyền -thống tâm -linh Á - châu như
biểu- thị từ xưa ở pho tượng tại ngôi chùa cổ đất Bắc , chùa
Vạn-Phúc, ấy là pho tượng « Phật Thiên-Thủ Thiên-Nhãn »
(Phật Bà Quan - Âm )
G
= \ \ }
% \ ( Tam - quốc- chí – Ngô- chí) .
( ẤN – ĐỘ - HỌC )
Đứa trẻ ngây -ngô chưa hiểu biết tưởng rằng trong khắp thế
giới chỉ có con búp -bê của nó là đáng thèm muốn . Cũng
tương- tự như thế mà một dân tộc lớn mạnh vì giàu có quyền
năng vật- chất chỉ thấy có quyền năng vật chất là đáng thèm
muốn . Chỉ nhìn thấy ở đấy tất cả ý -nghĩa của tiến-bộ , ý
nghĩa độc - nhất của văn minh . Và có các dân-tộc khác không
cần tìm thu -hoạch quyền -năng vật chất , thì không đáng sống ,
tất cả sự sinh tồn của chúng ta là vô ích . Cũng có dân tộc
khác nữa có thể nghĩ rằng văn -minh chỉ có mặt vật chất thì
sung-sưởng trừ phi anh có năng lực về hạnh -phúc ở tại nơi
anh , chừng nào anh chinh -phục được chính anh . Nhân loại
sinh ra để chinh-phục Tạo hóa , điều ấy chính-xác , nhưng Tây.
phương hiểu Tạo-hóa chỉ là vật- lý hay là Tạo - hóa bên ngoài .
Sự thực Tạo hóa bên ngoài rất hùng -vĩ, với núi , biển , sông ,
ngòi , với quyền - năng vô hạn và khác nhau vô - cùng . Tuy nhiên
còn có Tạo hóa vĩ đại hơn ở bên trong con người , cao hơn là
là mặt trời , mặt trăng và tinh -tủ , cao hơn cả trái đất này của
chúng ta , cao hơn cả thế-giới vật-lý , siêu-việt hơn cả đời sống
nhỏ nhen của chúng ta ; và đấy là một khu - vực khác nữa để học
hỏi . Ở khu vực này thì người Đông phương sở trường , cũng
Tôi muốn trình bày với các ông đời sống của một người
đã từng khách -khởi lên một làn sóng năng-lực ở Ấn - Độ . Nhưng
trước khi đi vào sâu cuộc đời của người ấy , tôi hãy thử trình
bày cái bi- quyết về Ấn-Độ , ý-nghĩa Ấn Độ là gì . Nếu những
người nào đã bị mù-quảng về sự chói-lòa của vật-chất , người
nào mà tất cả ý-nghĩa của đời sống là ăn , uống và thích thú ,
người nào mà lý -tưởng chỉ là thu hoạch đất-cát và vàng-bạc ,
đối với họ Thượng - Đế là tiền , mục - đích tối cao là một cuộc
đời êm -đềm và sung-túc ở trần- gian rồi thì chết, tinh thần
không từng nhìn về tương -lai và ít khi nghĩ đến cái gì cao
hơn là sự - vật của giác quan trong đó họ sinh -sống , nếu
những người ấy đi sang Ấn-Độ họ sẽ thấy chi ? Nghèo -đói ,
cùng-khổ , nhơ -bản , mê -tin , ngu -tối , xấu-xa , ghê tởm khắp nơi .
Tại sao ? Bởi vì đối với họ , văn-minh nghĩa là quần - áo , giáo
dục , xã - giao . Trong khi các dân -tộc Tây-phương đem hết cố .
gắng đề canh-tân đời sống vật-chất thì Ấn-Độ lại hành động
đường khác . Ở đấy có hạng người độc nhất ở thế- giới , suốt
130 KHẢO -CỒ TẬP- SAN
lịch sử nhân loại chưa từng ra khỏi biên giới đề chinh -phục
một ai , không bao giờ tham -muốn cái gì của người khác , có
cái lối độc nhất này là đất- cát của họ phì nhiêu mà họ làm
giàu bằng mồ hôi nước-mắt , đã khêu -gợi lòng tham của các
dân tộc khác đến bóc lột . Họ chịu để bóc lột và đối đãi như
man -di, và để đáp -ứng lại , họ muốn gởi sang Tây - phương
cho thế -giới này những hình ảnh họ đã thấy , những quan
kiến về Tối- Cao . Họ muốn cởi-mở cho thế giới thấy những
bi-quyết về bản tính con người, kéo tấm màn che lấp con
người chân -thật bởi vì họ biết mộng ảo là thế nào , bởi vì
họ biết rõ rằng đàng sau chủ -nghĩa duy - vật có bản -tinh chân
thật , thần - linh của nhân- loại mà không tội lỗi gì có thể làm
lu-mờ đi được , không một tội ác nào có thể làm cho vẫn
đục , không một dâm dục nào có thể nhiếm ố . Cái bản tính
ấy thì lửa không đốt cháy được , nước không làm ướt được,
nóng nhiệt không làm khô héo , hay là sự chết có thể tiêu
diệt được . Và đối với họ thì cái chân tính của nhân loại
ấy cũng thật như bất cứ một vật- thể gì đối với giác quan
của một người Tây-phương .
Cũng như quí ông có dũng - cảm nhảy vào miệng súng
thần- công với tiếng reo hoan hô , cũng như quí- ông ở Tây
phương vì chủ-nghĩa ái-quốc đã có can - đảm đồng lòng đứng
lên để hy-sinh tính -mệnh cho tổ quốc , cũng thế mà người
Ấn kia có can-đảm khi nào quan -hệ đến Tối -cao . Chính ở
Ấn-Độ mà một người khi nó tuyên bố thế giới này là do tư
tưởng dựng nên , tất cả chỉ là mộng- ảo, nó cởi bỏ áo - quần ,
bỏ tất cả của cải để chứng-minh điều nó tin nó nghĩ là thật.
Chinh ở tại đấy mà một người ngồi trên bờ sông , một khi
nó đã biết rằng đời sống thì vĩnh cửu , từ bỏ thân thể như
không cũng như các ông vứt bỏ một gốc rơm . Sự anh dũng
của họ cốt ở tại sự họ sẵn-sàng đón nhận lấy sự chết như
một người chị em bởi vì họ tin rằng đối với họ không còn
sống chết nữa . Chính ở đấy là sức mạnh làm cho họ vô địch
trải qua hàng thế kỷ bị ách ngoại lai áp -chế và xâm - lăng .
Dân tộc ấy còn sống đến ngày nay , và dân tộc ấy ngay trong
những ngày thất bại đen tối cũng vẫn còn có những tinh thần
vĩ đại xuất-hiện không ngừng. Á-Châu sản xuất vĩ nhân về
TƯ - TƯỞNG ẤN-ĐỘ HIỆN-ĐẠI 131
tâm-linh học đúng như Âu-Tây sản xuất vĩ nhân về chính- trị ,
khoa học vậy. Vào đầu thế - kỷ XIX , khi ảnh hưởng của Tây
.
phương bắt đầu dồn dập du -nhập vào Ấn- Độ , khi các nhà chinh
phục Tây-phương kiếm cầm tay đến chứng minh cho con cháu
các nhà hiền -triết xưa rằng họ chỉ là những người mọi , một
Thứ đến anh còn phải tự hỏi xem anh đã tìm thấy thuốc
gì đề chữa cho thời- thế . Các tư -tưởng xưa có thể đều là mê .
tin , nhưng ở bên trong và chung quanh những mở mê- tin ấy
có những hạt bụi vàng ròng và chân lý . Anh đã phát-minh
ra phương tiện gì để lọc riêng lấy vàng ròng không chút
quặng vẫn ? Nếu anh đã có được phương -tiện ấy , thì đấy mới
chỉ là bước thứ hai .
Như tôi đã nói trên đây , ý tưởng cải cách đã du - nhập vào
đất Ấn , trong khi làn sóng duy-vật hình như đã tràn - ngập cả
bờ biển của nó , quét sạch hết các giáo huấn của hiền triết đi .
Nhưng dân tộc Ấn đã từng chịu đựng sự va chạm của một ngàn
làn sóng biến đổi. Làn sóng lần này có vẻ êm đềm so với
những làn sóng trước . Hết làn sóng nọ đến làn sóng kia
TƯ - TƯỞNG ẤN-ĐỘ HIỆN ĐẠI 133
kế-tiếp nhau tràn - ngập lãnh thổ , tàn- phá hủy-hoại tất cả hàng
thế- kỷ , đao kiếm đã sáng lòe và tiếng reo- hò « Allah chiến
thẳng » ! đã xé bầu trời Ấn -Độ, nhưng các làn sóng ấy cũng
tan chim để lại những lý -tưởng của dân tộc tồn -tại bất biến .
Dân tộc Ấn không thể bị tiêu diệt . Nó sống còn , bất diệt .
Và nó sẽ còn tồn tại chùng nào cải tinh thần của nó tiếp -tục
làm cơ bản cho nó , chừng nào nhân dân Ấn không bỏ mất
tinh thần của nó . Có thể chúng còn là hành khất, nghèo -đói
Chắc hẳn qui-ông nhiều người đã đọc bài báo của Giáo
Sư Max -Muller trên tạp - chi « Thế - kỷ Mười chín , mới xuất
bản , nhan đề « Một Thánh nhân chân chính » . Cuộc đời của
Thánh Ramakrishna rất ý nghĩa như là một chứng -minh linh
động cho những tư tưởng Thánh truyền dạy . Cuộc đời ấy
có lẽ hơi lãng -mạn đối với quí ông qu bà vốn sinh trưởng
ở Tây phương trong một hoàn cảnh khác hẳn với hoàn - cảnh
Ấn -Độ , bởi vì phương pháp và cách thức sống dồn dập vội
vàng ở Tây - phương hoàn toàn khác với Đông -phương . Tuy
vậy , cuộc đời của Thánh Ramakrishha có lẽ lại sẽ càng thích
thủ cho các người vì nó rọi chiếu một tia sáng mới mẻ vào
sự vật mà nhiều người ở đây đã được nghe nói .
Chính trong các phong -trào cải cách đang xướng xuất ở
Ấn -Độ thì có một đứa trẻ ra đời trong gia -đình một vợ chồng
Bà -La -Môn thanh - bạch , ngày 18 tháng 2 năm 1336 ở tại một
làng hẻo -lánh xứ Bengale . Cha mẹ đều là tin -đồ đạo gốc .
Đời sống của một tin - đồ chính thống Bà - la -Môn chân -chính
134 KHẢO - CỒ TẬP- SAN
là một đời xả-kỷ liên -tiếp . Rất ít điều y có quyền làm, ngoài
ra người Bà -la -Môn chính thống không được tham -gia vào
công việc tục thế . Đồng thời y không được nhận một của biếu
nào của một ai cả. Các người có thể tưởng tượng được đời
sống ấy đã khổ hạnh là nhường nào . Các người thường được
nghe nói về những người Bà -la -môn và hàng giáo - phẩm của
họ , nhưng ít vị từng hỏi xem cái chị đã làm cho nhóm
người lạ lùng ấy là giới lãnh đạo đồng-bào họ . Họ là giai
cấp nghèo nhất trong nước và cái bi - quyết về quyền- thế của
họ ở tại tỉnh -thần xả kỷ . Họ không từng tham vọng của cải .
Hàng giáo phẩm của họ nghèo nhất thế-giới và do đấy mà
thế lực nhất . Vả trong cảnh nghèo ấy , vợ người Bà -la -môn
không đề cho một người nghèo nào đi qua làng họ mà
không tiếp đãi . Ở Ấn -Độ , người ta coi đấy là bổn phận cao
cả nhất của người mẹ ; và bởi vì bà là mẹ nên bổn - phận
của bà là phải ăn sau hết mọi người ; bà phải săn- sóc để
cho ai nấy được tiếp đãi trước mình . Bởi thế mà ở Ấn-Độ
người mẹ được coi như Chúa . Người phụ nữ tôi nói đây,
người mẹ của đứa trẻ kia thực là kiểu mẫu của người mẹ
Ấn-Độ . Giai-cấp càng cao , giới luật càng nghiêm -khắc . Người
thuộc hạ-cấp nhất xã hội có quyền ăn uống bất cứ chi y
thích , nhưng khi người ta càng leo lên bậc thang xã - hội thì
càng có nhiều điều hạn-chế, cho đến khi nào lên đến giai
cấp cao nhất là giai-cấp Bà -la -môn , hàng giáo -phẩm truyền
thống của Ấn-Độ, thì cuộc đời của họ như tôi đã nói trên
kia càng bị hạn - chế . So với tập-tục Tây-phương thì cuộc
đời của họ là một tràng khổ hạnh không ngừng. Dân Ấn
Độ có lẽ là một dân-tộc biệt-lập nhất thế giới. Họ cũng có
tính cố định như dân Anh nhưng còn ở trình độ cao hơn
nữa . Khi nào họ nắm được một ý-tưởng thì họ theo đuổi
kỳ cùng cho đến kết-luận hợp-lý và họ bảo thủ ý tưởng ấy
trải thế hệ nọ sang thế hệ kia , cho đến chừng nào họ tạo
nên được cái chi với cái ý -tưởng ấy . Khi nào người ta đem
lại cho họ một ý-tưởng gì thì không dễ gì mà lấy lại được
của họ , nhưng cũng rất khó làm cho họ công nhận được
một ý - tưởng mới .
Khi còn niên thiếu , thì thân phụ qua đời và đứa trẻ
được gởi đến trường học. Một đứa con trai dòng Bà-la-môn
phải đi học , giai-cấp bắt buộc nó chỉ phải làm nghề học
thức . Hệ - thống giáo-dục thời xưa ở Ấn -Độ, đến nay còn lưu
hành ở nhiều nơi trong nước nhất là quan -hệ với tu -sĩ tự
đến nổi không một ai được đem bán rong. Tri thức phải
được cho không và rộng rãi tự do . Nhà giáo thường thâu
nhận học sinh không có thù - lao , và không những thế mà thôi ,
phần nhiều họ còn cho sinh viên ăn mặc nữa . Đề đài thọ
các nhà mô- phạm ấy , có những gia - đình giàu có trong các
trường hợp như một tiệc cưới hay một đám chay cúng - dường
họ lễ vật . Người ta coi họ có quyền ưu - tiên đòi một số tặng
phẩm , và họ có bổn phận giáo dục học trò của họ . Vậy nên
khi nào có đám cưới xin , nhất là của một nhà giàu thì các
thầy đồ ấy được mời đến . Họ đến dự vào thảo luận các vấn
đề phức tạp .
Cậu thiếu -niên của chúng ta dự một đám hội họp ấy của
các thầy đồ . Các thầy bàn - cãi nhiều vấn đề lắm , nào là luận
lý nhân -minh , nào thiên văn địa -lý , toàn là những vấn đề vượt
ngoài tầm hiểu biết đối với tuổi trẻ . Người thiếu niên kia rất
đặc biệt , như tôi đã nói , và y rút được ở đấy một bài học
luan - lý .
Từ khi người cha mất rồi, gia- đình nghèo túng quá , và
cậu nhỏ phải tìm cách sống tựlực . Cậu đến Calcutta rồi trở
nên thủ từ cho một ngôi đền . Song làm thủ từ cho một ngôi
đền thì người ta coi như là hèn hạ đối với dòng Bà-la- môn .
Các đền của chúng tôi không phải là những nhà thờ như
ở Tây - phương quan - niệm . Đền không phải là những nơi thờ
củng công cộng, bởi vì sự-thực mà nói thì ở Ấn-Độ không có
cái chi để có thể gọi được là thờ củng công - cộng cả . Các đền
TƯ TƯỞNG ẤN ĐỘ HIỆN ĐẠI 137
chùa phần nhiều của nhà giàu cất lên để mong như thế là làm
một hành - vi tín-ngưỡng công-quả . Nếu một người có nhiều
tiền nhiều của thì y nghĩ đến xây cất một ngôi đền , ngôi chùa .
:Ở trong ngôi đền ấy , y đặt một tượng - trưng hay một hình ảnh
4
Mỗi người thường có ở tại nhà mình hoặc một ngôi
điện , hoặc một bàn thờ để hàng ngày sớm chiều y đến tại
một xỏ và tự mình sùng bái . Và sự sùng bái ấy thì hoàn
toàn tại trong tâm , bởi vì người ngoài không nghe hay biết
được y đang làm gì . Người ta chỉ thấy y ngồi đấy , có lẽ
ngôn tay có động đậy theo cách thức đặc biệt nào hay là
bịt lỗ mũi và thở một cách đặc biệt . Ngoài ra người ta
không còn biết y đang làm gì nữa . Cả đến vợ y có
lẽ cũng không biết chi hết . Cứ như thế mà người Ấn sùng
bái một cách kín đảo ở nhà tư . Người nào không thể
có được điện riêng trong nhà thì đến bờ sông hay bờ hồ
nào hay là ra ngồi ở bờ biển nếu ở gần biển , và người ta
có khi đến chiêm bái ở một ngôi đền trước hình ảnh Thàn
linh . Đấy là hết phận sự đối với đền chùa . Bởi vậy mà ở Ấn
Độ kể từ thời tối cổ , còn ghi tại bộ luật Manou là làm nghề
thầy cúng cho một ngôi đền là công việc không chính đáng .
Có kinh sách còn nói rằng công việc ấy đè tiện không xứng
đảng với dòng Bà- la-môn . Bởi vì cái quan niệm ấy còn ngụ
bên trong cái ý tưởng đối với tôn -giáo còn mạnh hơn là đối
với giáo - dục là giáo sĩ của đền chùa vì nhận thù lao về công
138 KHẢO - CỔ TẬP -SAN
làm lễ buổi sớm buổi chiều , và dần dần tinh - thần y bị một ý
niệm tràn ngập : « Có cái chi đàng sau hình tượng kia không ?
Có thật có một Đức-Mẹ hoan hỷ trong vũtrụ này không ? Có
thật là Mẹ sống và điều động vũ trụnày hay đấy chỉ là một
mộng ảo ? Trong tôn giáo có cái chi thật không ? » Cái loại
nghi ngờ ấy hiện ra trong tinh thần của các trẻ em Ấn-Độ .
Đấy là điều nghi ngờ của nước tôi : điều chúng ta đang làm
có gì thật không ? Và những lý -thuyết không thỏa -mãn được
chúng tôi , tuy rằng chúng tôi có trong tay hầu hết các lý
thuyết người ta đã lập nên về Thần - linh và linh hồn . Sách
vở hay lý thuyết không có thể làm cho chúng tôi thỏa-mãn ,
hết hoài- nghi . Ý-niệm , ý - niệm duy nhất chi-phối hàng triệu
nhân dân trong nước tôi là ý - niệm thực hiện . Có thật là có
một Thần - linh , một Thượng -Đế không ? Nếu thật có thì tôi có
thể thấy được không ? Tôi có thể thực hiện được chân -lý hay
không ?
sống ở Tây phương , tôi vẫn còn tin - tưởng cái ý-niệm ấy là
điều hết sức thực -tế ở đời.
Mỗi một phút tôi nghĩ về điều gì khác , cả đến điều kỳ.
diệu của khoa -học thực nghiệm cận đại là một phút uổng phi
mất đi cho tôi . Tất cả đều hão -huyền nếu nó làm cho tôi dời
xa mất cái ý -niệm ấy đi . Đời người chỉ nháy mắt dù ta có cái
biết của thần tiên hay ngu si của thủ vật . Đời người chỉ nhảy
mắt dù ta có nghèo đói tả -tơi hay giàu có địch quốc. Đời người
chỉ chớp mắt dù ta có bị đàn áp sống trong một phố lớn
của một đại đô thị Tây- phương hay là một ông Hoàng - đế
ngự trị hàng triệu nhân dân . Đời người chỉ chớp nhoáng dù
ta có khỏe mạnh hay ốm đau . Đời người chỉ chớp nhoáng
dù ta có tính tình thi sĩ nhất hay là độc - ác nhất . Chỉ có một
giải -pháp cho cuộc đời , như Ấn - Độ giáo nói , giải- pháp ấy họ
gọi là tôn-giáo và Tối - cao . Nếu thực có tôn-giáo và Tối-cao thì
cuộc đời trở nên có ý - nghĩa , trở nên có thể sống được , trở
nên thich -thú . Bằng không thì cuộc đời chỉ là một gánh nặng
vô -tích-sự. Đấy là quan -niệm của chúng tôi ở Ấn -Độ , nhưng
tất cả suy -luận đều không thể chứng -minh được , luận-lý chỉ
có thể làm cho nó có thể thật nhưng đến đấy là hết . Sự chứng
minh bằng suy luận có hoàn hảo đến mấy bất- cứ ở khu vực
tri- thức nào của ta cũng chỉ có thể làm cho vấn đề có lẽ thật ,
và không hơn được nữa . Những thực- kiện ở khoa học vật- lý
có thể chứng -minh được nhất cũng chỉ là những điều cái
nhiên , có thể thật chứ chưa phải là sựthật xác- nhiên . Sự- thật
chỉ thấy ở tại giác quan . Sự thật phải được tri -giác thấy , và
chúng ta phải tri-giác tôn giáo để chứng -minh cho chính chúng
ta . Chúng ta phải cảm thấy Thượng Đế với giác -quan thì mới
thực tin có Thượng- Đế . Chúng ta phải cảm giác với giác - quan
của chúng ta những sự thật tôn - giáo thì mới biết được rằng
đấy là những sự - thật . Không có cách chi khác , và bao nhiêu
lý -luận không- thề chứng -minh được mà chỉ có chính trị- giác
của chúng ta mới làm được cho những sự - thực tôn-giáo thành
TƯ TƯỞNG ẤN ĐỘ HIỆNĐẠI 141
sự thật cho chúng ta , mới có thể tạo cho tin - ngưỡng của chúng
ta trở nên bàn -thạch sắt đá . Đấy là quan -niệm của tôi mà
cũng chính là quan -niệm của Ấn-Độ .
Cái ý - niệm ấy choán lấy tâm- hồn chàng thanh -niên nói
trên và tất cả cuộc đời chàng tập-trung vào đấy . Ngày ấy sang
ngày khác nước mắt ròng ròng chàng gọi : « Mẹ ơi, có phải
thật là Mẹ có thật hay chỉ là thơ mộng ? Phải chăng Đức-Mẹ
hân - hoan là một tưởng -tượng của thi nhân và người mê vọng ,
hay là cái Thực -tại ấy có thật ? »
trở nên mạnh đến nỗi Ông không còn nghĩ được gì khác .
Ông không còn hành lễ được đứng đắn nữa , không thể làm
đầy đủ chi tiết của nghi-lễ . Thường ông quên cả dâng lễ-vật
lên trước mặt hình ảnh , có khi Ông quên không lắc qua lắc
lại ngọn đèn , khi khác thì Ông đưa đi đưa lại ngọn đèn hàng
giờ, quên cả việc khác .
như một thứ trí thức ru ngủ như nha phiến mà chúng ta
thỉnh thoảng cần đến , thiếu nó thì chết . Trong sự mệt-mỏi
như thế thì tự đáy lòng nổi lên một tiếng thở dài : “ Có ái
trong vũ trụ này có thể cho ta thấy được ảnh-sáng không ?
Nếu Ngài có thật , hãy cho tôi thấy ánh sáng . Tại sao Ngài
không lên tiếng ? Tại sao Ngài dè-sẻn biểu hiện ? Tại sao sai
nhiều Thiên-sử xuống mà tự Ngài không hiện ra trước mắt
tôi ? Trong cái thế - giới tranh đấu và bè - phái này , tôi phải
theo ai và tin cậy vào ai ? Nếu Ngài là Thượng -Đế Thần linh
Tối - cao của tất cả nam nữ không phân - biệt tại sao Ngài
Sau cùng chàng thanh niên thủ tự trên đây không sao
có thể phụng-sự trong đền được nữa . Ông ra ngoài đền và
tìm vào trong khu rừng cây nhỏ gần đấy và sống ở trong
ấy . Cuộc đời của ông từ đấy về sau ông thường kể lại cho
tôi nhiều lần , rằng ông không còn biết mặt trời mọc hay lặn
lúc nào , hay là ông đã sống như thế nào . Ông quên mất
mình đi và quên cả ăn uống . May nhờ khi ấy có người
TƯ - TƯỞNG ẤN-ĐỘ HIỆN -ĐẠI 143
bà con săn -sóc Ông rất âu - yếm và đút cơm cho Ông nuốt
như máy .
Còn một ý tưởng khác nữa hiện trong tinh -thần Ông là
ý -tưởng dâm -dục , một kẻ thù khác nữa . Con người là một
linh hồn , và linh hồn không có chủng-loại , chẳng phải nam ,
chẳng phải nữ. Cái ý tưởng nam nữ và cái ý tưởng tiền -bạc
như ông nghĩ là hai vật cản - trở ông không cho nhìn thấy
Đức -Mẹ . Cái vũ-trụ đại đồng này là biểu hiệu của Đức- Mẹ .
Đức-Mẹ sinh -sống ở mỗi thân thề người phụ-nữ. « Mỗi một
phụ - nữ đại- biểu cho Đức-Mẹ, làm sao ta có thể nghĩ về phụ
144 KHẢO CỔ TẬP- SAN
Vậy nên , sự phấn đấu của linh hồn đề đạt tới Chân - lý
đã diễn ra liên tiếp hàng ngày , hàng tuần , hàng tháng không
ngừng. Chàng thanh -niên bắt đầu nhìn thấy hiền-hiện , thấy
những vật kỳ-lạ , những bí quyết của bản -tính bắt đầu khai
triển . Hình như hết màn ấy đến màn khác được kéo đi . Chính
Đức -Mẹ hiện lên làm thầy-giáo và mở cửa cho anh chàng
vào Chân-lý anh ta cầu tìm . Vào thời ấy có một phụ nữ vẻ
người tuyệt đẹp học thức hơn người đã xuất hiện ở nơi đây .
TƯ - TƯỞNG ẤN-ĐỘ HIỆNĐẠI 145
Sau đấy có một nam đạo sĩ cũng tới cái bụi cây kia,
một tu- sĩ hành-khất của Ấn- Độ , một học giả , một triết gia .
Đây là một người đặc -biệt, một nhà lý -tưởng thuần -túy . Ông
không tin thế -giới này có thực , và để chứng minh điều ấy ,
không bao giờ ông muốn bước vào một mái nhà , luôn luôn
sống ngoài trời mưa bão cũng như nắng . Người này bắt đầu
dạy cho chàng thanh - niên cái triết- học Vedas, và ông rất sớm
kinh ngạc vì thấy học trò còn hiền triết hơn thầy về một vài
phương -diện . Ông đề ra mấy tháng ở bèn cạnh chàng , và sau
khi nhập -môn cho chàng vào dòng đạo sĩ (Sannyâsin) thì
từbiệt.
Người thiếu nữ, ở tại quê nhà hẻo lánh xa- xăm nghe được
tin chồng mình trở nên một nhà tin-ngưỡng sùng bái , và bị
nhiều người còn coi như mất trí lần -thần . Nàng bèn quyết- chí
tìm biết sự thật , cho nên nàng bỏ nhà ra đi và đi bộ đến tận
nơi chồng nàng ở. Sau cùng nàng đến trước mặt chồng nàng,
tức thì chàng công-nhận nàng có quyền về cuộc đời của mình ,
tuy rằng ở Ấn-Độ bất cứ ai , đàn ông hay đàn bà, một khi đã
chọn đời sống tinngưỡng thì do đấy được giải phóng hết
trách nhiệm khác. Chàng thanh -niên của chúng ta đây sụp
xuống chân nàng thiếu-nữ kia là vợ của chàng mà nói : « Đối với
tôi ; Đức -Mẹ đã bảo cho tôi biết rằng hình ảnh Mẹ ở tại tất cả
TƯ -TƯỞNG ẤN-ĐỘ HIỆN -ĐẠI 147
mọi người phụ nữ , bởi thế mà tôi được dạy nhìn tất cả phụ
nữ đều là hình ảnh Đức- Mẹ cả . Đấy là một ý - niệm của tôi có
thề có đối với nàng , nhưng nếu nàng muốn kéo tôi xuống đời
trần tục vì tôi đã kết- hôn với nàng , thì tôi cũng xin sẵn
sàng tuân theo » .
luôn luôn tôn-kinh chàng như một vị Thánh sống . Vậy là với
sự đồng tình của vợ chàng, sự trở ngại cuối cùng đã được dẹp
và chàng được tự -do sống cuộc đời xuất-gia chàng đã chọn .
Nguyện vọng
thứ hai đã chi-phối tâm -hồn con người ấy
-
là muốn biết chân lý về các tôn giáo khác nhau . Cho tới lúc
ấy ông ta chỉ biết có tôn-giáo của mình , ngoài ra chưa biết có
một tôn- giáo nào khác . Ông cần muốn biết xem sự thực các
tôn -giáo khác ra sao . Do đấy ông tìm kiếm giáo sư về các tôn
giáo khác . Nói giáo-sư ở đây , chúng ta phải luôn-luôn nhớ
rằng ở Ấn - Độ xưa người ta hiểu là một người thực hiện , ai
thực đạt hiểu chân-lý trực- tiếp chứ không phải một con mọt
sách biết chân -lý qua môi giới . Ông ta thấy được một tin đồ
Hồi- giáo , một bậc Thánh và liền đến ở bên . Ông chịu đựng
kỷ - luật giới điều của y chỉ định và ông ngạc nhiên thấy rằng
các phép sùng bái khi thực -hành với lòng thành- tin đã đưa
đến cùng một mục- đích như ông ta đã đạt được . Ông cũng
thu hoạch kinh-nghiệm tương tự như thế khi tuân theo tôn
giáo chânchính của Jesus-Christ , tức Cơ -Đốc - giáo . Ông đi vào
tất cả các giáo - phải ông có thể gặp thấy và con đường nào
ông đã theo thì ông theo với tất cả tâm -hồn . Ông thực hành
đúng như người ta đã chỉ bảo , và ở mỗi cuộc thực-nghiệm
ông đều đạt đến kết- quả tương-tự. Như thế qua thực- nghiệm
thực-tế, ông ta mới biết được rằng mục đích của tất cả các
tôn- giáo giống nhau , mỗi tôn-giáo cố -gắng truyền dạy cùng
một điều , sự khác nhau phần lớn chỉ là về phương pháp và
148 KHẢO -CỔ TẬP -SẠN
hơn nữa về ngôn ngữ . Ở tại trọng- tâm tất cả các môn phái và
tất cả tôn giáo đều cùng một mục -đích , và chúng chỉ cãi nhau
vì mục -tiêu vị -kỷ riêng tư . Chúng không lo lắng đến chân -lý
mà chỉ lo cho « danh tiếng của tôi » và « danh tiếng của anh » .
Cả hai đàng đều truyền dạy cùng một chân lý , nhưng đàng
này bảo : « điều ấy không có thể xác thật bởi vì tôi chưa đánh
dấu tên tuổi của tôi vào đấy . Bởi vậy không ai nên tin y » .
Và đàng kia nói : « Đừng nên nghe hắn , dù hắn có truyền
dạy điều hết sức tương tự nhưng không thật vì hắn không
nhân danh tôi đề dạy » .
Ở gần đấy có một gia-đình người dân hạ- cấp . Dân hạ cấp
chừng mấy triệu ở tất cả Ấn- Độ , là hạng người hèn thấp đến
nỗi có kinh- điển dạy rằng : nếu một người giới Bà -la -môn đi
ra ngoài thấy mặt một người hạ- cấp (Pariah ) thì cả ngày hôm
ấy y phải nhịn ăn và đọc kinh cầu nguyện đề lại được tinh
khiết như trước . Ở một số đô-thị Ấn , khi có một người hạ cấp
vào thành thì y phải cắm một cái lòng cảnh con quạ trên đầu
đề làm hiệu cho người ta biết mình là hạ - cấp và vừa đi vừa
kêu rao : « Hãy tránh đi , kẻ hạ -cấp đang đi qua đường » và
dân chúng chạy mau xa y như có một ma - thuật gì , bởi vì nếu
TƯ -TƯỞNG ẤN-ĐỘ HIỆN -ĐẠI 149
chẳng may chúng va phải y , thì chúng phải thay quần áo , tắm
gội và không được làm việc chi khác nữa vì ô uế . Và dân hạn
cấp hàng ngàn năm đã tin-tưởng như thế là hoàn -toàn phải ,
rằng sự va chạm của y làm cho mọi người ô - uế . Nhưng sư
phụ tôi lại muốn đến thăm nhà một người hạ- cấp và xin phép
quét nhà cho y . Công việc của người hạ-cấp là phải quét đường
trong thành phố và gìn-giữ nhà cửa cho được sạch . Y không
được vào nhà người ta bằng công trước mà phải luồn cổng
sau . Và khi nào y đi khỏi rồi thì tất cả những nơi nào y đã đi
qua phải được vẫy ít nước sông Hằng - Hà đề trở lại tinh khiết .
Người ở giới Bà-la-môn thì sinh ra đã sẵn tinh -khiết , còn
người Hạ - cấp Pariah thì trái lại . Vậy mà một người Bà - la -môn
như sư phụ tôi lại xin được làm cái việc hèn hạ trong nhà của
người Hạ- cấp . Lẽ dĩ nhiên là người Hạ- cấp kia không dám
nhận lời cho phép như thế , vì họ tin nếu họ cho phép một
người Bà - la -môn làm cái việc hèn-hạ kia thì họ sẽ phạm tội
ghê gớm và sẽ bị tuyệt-diệt. Người Hạ cấp nhất định không
cho Sư - phụ tôi làm , bởi vậy chờ đêm khuya , ai nấy ngủ say,
Ramakrishna mới vào trong nhà người Hạ -cấp . Ông có tóc
dài , ông lấy tóc làm chổi quét sạch nhà cho người Hạ-cấp
miệng nói : « Đức-Mẹ tôi ơi , hãy biến tôi thành người làm cho
người Hạ- cấp , hãy làm cho tôi tự cảm thấy tôi còn hèn hạ
hơn cả người Hạ-cấp » . Kinh thánh Ấn - Độ dạy : “ Kẻ nào
phụng- sự Ta hơn hết là kẻ biết phụng -sự những tín - đồ phụng .
sự Ta . Chúng tất cả đều là con Ta và quyền ưu -tiên của các
con là được hầu-hạ chúng » .
Phải nhiều thì giờ mới kể hết được các cách tụ - tập khác ,
và ở đây tôi chỉ phác qua câu truyện về cách sống của Sư
phụ tôi . Hàng năm trường Ông tự huấn- luyện lấy . Một trong
phép tu -luyện là nhổ hết gốc rễ về ý- niệm nam- nữ. Linh- hồn
không có chủng tính , nó chẳng phải trống hay mái. Chỉ ở tại
thân thể mới có chủng - tính và ai mong cầu đạt tinh thần thì
đồng thời không thể chấp vào sự phân-biệt chủng-tinh . Đã
sinh vào thân thể một kẻ nam- nhi , Sư phụ tôi muốn thể
hiện ỷ -niệm nữ tính vào tất cả . Ông bắt đầu nghĩ mình là
phụ-nữ, mặc quần áo như một phụ nữ, bỏ công việc của
nam nhi và sống trong nhà với các phụ nữ con nhà tử tế ,
150 KHẢO - CỒ TẬP- SAN
cho đến khi sau nhiều năm kỷ -luật ấy , tinh thần ông biến
hóa và ông quên hẳn ý -niệm nam -nữ ; thế là cả quan điểm
nhân sinh của ông đã biến đổi .
đây chính là một bậc Sưphụ như thế , nhưng Sư phụ tôi
không có chút ý -nghĩ nào về sự mình được tôn -kinh hay
không . Người không có đến một ý- niệm nhỏ nào rằng mình
là một Đại-sư , người nghĩ rằng tất cả đều do Đức Thánh Mẫu
làm ra cả chứ không phải mình . Người thường nói : « Nếu có
được điều gì tốt lành ở miệng tôi thốt ra đấy là Đức-Mẹ nói ,
tôi có công gì đâu » ? Đấy là thái độ của Người đối với sự
nghiệp của mình , và cho đến giờ phút cuối cùng Người vẫn
trung -thành với ý -nghĩ ấy. Người không đi tìm một ai . Nguyên
tắc của Người là : « Trước hết rèn-luyện tính -cách , trước hết
thu -hoạch đức- tính tâm -linh , rồi thì kết- quả sẽ theo đến sau .
Lời minh- chứng lý-thủ nhất của Người là : « Khi nào bông sen
nở đàn ong tự đến để kiếm mật ; cũng thế mà bông sen nhân
cách người ta hãy để nở hoa đầy-đủ thì rồi kết-quả sẽ theo sau » .
Đấy là bài học vĩ đại cho chúng ta phải học . Sư - phụ tôi dạy
tôi bài học ấy hàng trăm lần vậy mà tôi vẫn thường quên đi .
Ít người hiểu được năng -lực của tư-tưởng. Nếu có một ai vào
trong một cái hang đóng chặt cửa lại , ở đấy y thật nghĩ có một
ý-tưởng vĩ đại cho đến lúc chết, cái ý-nghĩ ấy sẽ truyền thông
qua vách đá , bay trong không- khi để rồi sau cùng thấm -nhuần
vào tất cả nhân loại . Năng lực của tư-tưởng như thế đấy ,
cho nên không vội- vàng truyền tư -tưởng mình cho người ta .
Điều thứ nhất hãy lo cho cái gì để truyền đã , chỉ người nào
có cái gì đề truyền cho người ta mới là đáng dạy người ,
vì dạy học không phải là nói làm -nhàm , dạy học không phải
là giảng giải học thuyết mà là truyền -cảm . Tâm-linh có thể
được truyền -cảm một cách cũng hết sức xác thực như là
tôi có thể đưa cho anh một bông hoa . Điều ấy xác thực từng
chữ. Cái ý -niệm ấy tối xưa ở Ấn-Độ , và nó được chứng-minh
bằng cái thuyết nối nghiệp sử -đồ , bằng sự tin-tưởng vào lý
thuyết ấy. Bởi vậy mà trước-tiên hãy tạo nên đúc-tinh, đấy là
bổn-phận tối-cao người ta có thể thành tựu . Hãy tự mình biết
Chân-lý cho mình và sẽ có nhiều người đề mình dạy có thể
dạy bảo sau ; chúng sẽ đến tất cả . Đấy là thái-độ của Sư phụ
tôi . Người không phê-bình một ai hết . Trải bao nhiêu năm
tôi sống bên con người ấy mà không bao giờ từng nghe thấy
một lời bài bác ở miệng Người thốt ra đối với một môn - phải
nào. Người có cảm-tình với tất cả giáo phái . Người đã thấy
được hào điệu của chúng với nhau . Một người có thể là tri
152 KHẢO- CỔ TẬP - SAN
thức , hay sùng bái , hay tâm linh thần bí hay hành động
phụng sự trong các mô -thức ấy , các tôn - giáo khác nhau đại
diện cho mô thức này hay mô thức kia . Vậy mà có thể hòa
hợp tất cả bốn mô- thức ấy ở một người , và đấy là con đường
của nhân loại tương - lai đang đeo đuổi . Đấy là ỷ -niệm của
Su- phụ tôi , người không công - kích một người nào mà nhìn
thấy điều hay ở tất cả .
Dân chủng hàng ngàn đến thăm và nghe nhân vật phi
thường ấy , nói tiếng nói quê mùa mà mỗi lời nói là năng lực
và ảnh sáng . Bởi không phải những điều nói ra , càng không
phải ngôn -ngữ để diễn -tả mà chính là bản lĩnh của người
sống linh - động ở tất cả điều người nói mới mang trọng - lượng .
Có nhiều lúc , mỗi người chúng ta đều cảm thấy thế . Chúng
ta được nghe những bài thuyết-pháp hết sức hay , những bài
diễn -văn hết sức mạch -lạc lạ lùng rồi về nhà chúng ta quên
hết . Khi khác chúng ta chỉ được nghe một ít lời nói hết sức
giản-dị , thế mà chúng thâm nhập vào đời sống của chúng ta ,
trở nên phân- tử huyết -mạch của chúng ta và nảy sinh kết
quả lâu dài . Những lời nói của một người có thể đề cả tâm
hồn vào đấy mới có hiệu quả , nhưng y phải có tâm hồn đặc
biệt . Tất cả giáo huấn ngụ có sự đem cho và tiếp thụ , nhà
giáo đem cho và người thụ giáo tiếp nhận , những người này
phải có cái chi để đem cho và người kia phải cởi mở đề
tiếp-thụ .
- Có chử !
Tức thời tôi lấy làm lạ câu trả lời . Lần đầu tiên tôi thấy
được một người dám quả -quyết đã thấy Thượng -Đế , rằng tôn .
giáo là một sự thật , có thể cảm thấy được , có thể tiếp xúc
một cách vô cùng linh động hơn là chúng ta cảm-giác thế-giới
trước mắt này . Tôi bắt đầu đến con người ấy , ngày ấy sang
ngày khác , và đến nay thực thấy rằng tôn-giáo có thể truyền
cho được . Một cái chạm vào người , một cái nhìn của Người
có thể biến đổi cả một cuộc đời . Tôi đã từng đọc về Đức
Phật , Cơ -Đốc và Mô -Ha -Mết , về tất cả những ảnh - sáng hiện
thân khác nhau thời cổ-điền , các Ngài đã từng dạy như thế
nào , và tuyên - bố : « Hãy là toàn- chân » và người kia trở nên
toàn -chân . Bây giờ tôi mới thấy điều ấy là thật từ khi chính
mắt tôi đã thấy Người ấy , tất cả nghi hoặc trong lòng tôi đã
tiêu -tan đi hết sạch . Điều ấy có thể thực -hiện được và Sư phụ
tôi thường hay nói : « Tôn giáo có thể truyền cho được và
thu nhận -
được một cách cụ thể hơn , chânthật hơn là các
điều khác ở đời » .
ngay tại đây . Từng bước , từng bước chúng ta phải tiến tới đấy .
Ý-tưởng thứ hai trọng đại tôi lĩnh - hội được ở Thầy tôi
và có lẽ là ý -tưởng cốt yếu nhất ấy là cái Chân -lý lạ lùng
cho tất cả các tôn - giáo ở thế - giới không mâu thuẫn hay trái
nghịch nhau . Tất cả chỉ là những giai-đoạn khác nhau của
một Tôn giáo duy nhất Vĩnh -cửu , cùng một Tôn- giáo Duy
nhất Vĩnh -cửu ứng dụng cho các bình diện khác nhau của
sinh -tồn , ứng - dụng cho quan-niệm của tinh thần và chủng
tộc khác nhau . Không bao giờ có tôn giáo của tôi hay của
anh , quốc giáo của tôi hay quốc- giáo của anh , không làm chi
từng có nhiều tôn-giáo , trước sau chỉ có một mà thôi . Một
tòn - giáo vô - biên , vò thủy vô chung và cái Tôn - giáo ấy tự
biểu thị ra ở các địa-phương khác nhau ở hình thức khác
nhau , bằng đường lối khác nhau . Bởi vậy chúng ta phải tôn
trọng tất cả các Tôn- giáo và chúng ta phải cố công nhận chúng
hết cả càng nhiều càng được . Các tôn - giáo tự biểu -hiện không
phải tùy theo chủng -tộc và vị - tri địa - lý mà thôi , chúng còn
biểu - hiện tùy theo năng lực cá nhân nữa . Ở một người này
tôn-giáo biểu hiện là nhiệt-thành phụng sự , là hành động . Ở
một người khác nó biểu - hiện là sùng - bái nhiệt- liệt , lại ở
người khác là tâm-linh thần -bi, ở những người khác nữa là
triết-học , vân vân ... Thực rất lầm mà bảo người ta rằng :
« phương pháp của ông không đúng » . Có khi một người mà
bản -tính thiên trọng về tình yêu nghĩ rằng người làm điều
thiện cho kẻ khác không phải chính đạo bởi vì người này
không theo đúng con đường của mình cho nên sai lầm . Nếu
TƯ -TƯỞNG ẤN- ĐỘ HIỆN ĐẠI 155
nhà triết- gia nghĩ rằng : « Thương thay kẻ bình dân ngu si
làm sao chúng có thể biết gì về Thượng-Đế của Tình - yêu và
yêu Ngài , chúng không tự biết chúng muốn làm chi nữa ) .
Nhà triết- gia nói thế là lầm , bởi vì dân-chúng có thể cũng
phải và y cũng có thể phải được . Phải biết cái bi-quyết trọng
tâm này là Chân-lý có thể đồng-thời vừa một vừa nhiều , đồng
qui thù -đồ , tùy theo quan - điểm khác nhau chúng ta có thể
khẩn -thiết nhất. Sinh-trưởng ở một nước vốn là cái đất ương
cây của bao nhiều là giáo-phái — và vì may hay rủi ở đấy tất
cả người nào có được một ý - niệm tôn - giáo đều muốn gửi
sứ - giả đi tiên - phong cả — tôi đã được biết từ thủa thơ ấu các
giáo - phái khác nhau vô kể của thế - giới . Cả đến đạo Mormon
cũng đến truyền - giáo ở Ấn- Độ . Hãy hoan nghênh tất cả . Đấy
là đất để cho người ta truyền-giáo . Ở đấy tôn- giáo dễ bắt rễ
hơn ở các nơi khác . Nếu các người đến tuyên - truyền chính -trị
cho dân Ấn- Độ thì họ không hiểu , nhưng nếu người ta đến
truyền -giáo , bất cứ tôn-giáo ấy lạ kỳ nhường nào , chẳng mấy
chốc mà các người cũng sẽ có hàng trăm hàng ngàn tín- đồ đi
theo . Và các người có nhiều cơ -hội đề trở nên một vị Thánh
sống ngay đời này. Tôi rất vui lòng được thấy thế , đấy là
điều độc nhất mà chúng tôi ở Ấn - Độ mong mỏi .
nhau và có những giáo phái bề ngoài còn mâu thuẫn với nhau
đến tuyệt- vọng nữa . Vậy mà chúng đều nói rằng chúng chỉ là
những biểu -hiện khác nhau của một tôn -giáo . « Ví như các
dòng sông khác nhau , đều bắt nguồn từ những dặng núi khác
nhau , dòng chảy quanh quất , dòng chảy thẳng , kết cục hết
thảy đều chảy vào biển mà dung hòa trộn lẫn các nước với
nhau . Các giáo phái khác nhau với các quan điểm khác nhau
cũng như thế , chung - cục đều vươn lên tới đấng Thiêng -liêng » .
Đấy không phải là lý thuyết , nên nhận biết điều ấy , không
phải với cái dáng - điệu tựcao tự- đại như chúng ta thấy ở một
số tin đồ tôn giáo : « Phải , ở chúng cũng có được một vài
điều thực tốt . Chúng là những tôn - giáo dân tộc , và những tôn
giáo dân -tộc cũng có điều hay » . Cũng có một vài tư tưởng
rộng- rãi lại cho rằng tất cả những tôn giáo khác là những
mảnh vụn của một cuộc tiến -hóa tiền -sử , nhưng « tôn - giáo của
chúng ta là sự thành tựu cuối cùng » . Kẻ này bảo tôn - giáo
của mình chân chính hơn vì nó cỏ nhất , kẻ kia cũng bênh
vực tôn - giáo của mình cách tương- tự cho rằng nó tối tân nhất .
Chúng ta phải công - nhận rằng mỗi tôn -giáo ấy đều có khả
năng như nhau để cứu - vớt cả . Tất cả điều các người nghe
thấy thuyết về sự sai khác của chúng hoặc ở trong đền chùa
hay ở trong nhà - thờ đều là một mở mê- tin . Cùng một Thiêng
liêng đáp ứng cho tất cả , và chẳng phải ông , hay tôi , hay
một đoàn - thẻ người có trách nhiệm cứu - vớt và tế- độ cho một
mẫu nhỏ của linh - hồn nào cả . Cùng một Đấng Toàn -Năng có
sử -mệnh đối với tất cả và cho tất cả chúng - sinh . Tôi không thể
hiểu được làm sao người ta lại tự tuyên bố là lin - ngưỡng vào
Thượng - Đế mà đồng thời nghĩ rằng Thượng -Đế đã trao cho
một tiểu -đoàn -thể người tất cả chân - lý , và họ là người hộ- vệ
cho tất cả nhân -loại . Làm sao người ta có thể gọi như thế là
tôn giáo được ? Tôn giáo là thực hiện , còn như chỉ nói suông ,
chỉ thử tin , chỉ sờ soạng trong đêm tối , nhắc đi nhắc lại như
vẹt những lời nói của tiền - nhân , và nghĩ rằng như thế là tôn
giáo, tự -mãn làm chính trị với những chân -lý của tôn -giáo ,
thực không phải tôn -giáo chút nào hết . Ở mỗi giáo -phái cả
đến trong tín- đồ Hồi- giáo mà chúng tôi vẫn coi như biệt-phải
nhất , cả đến ở họ chúng ta cũng thấy rằng ở đâu có người
nào thử gắng thực hiện tôn giáo , ở miệng người ấy sẽ thốt
ra những lời như : « Ngài là Chúa -tể muôn loài , Ngài ở tại
TƯ - TƯỞNG ẤN-ĐỘ HIỆN-ĐẠI 157
trong tâm -hồn của tất cả , Ngài là chỉ đạo cho tất cả , Ngài là
sư -phụ của tất cả , và Ngài săn sóc vô cùng đến đất nước của
các con Ngài , hơn cả chúng ta lo lắng » .
Trước sự hiện diện của Sư phụ tôi , tôi khám phá thấy
người ta có thể trở nên hoàn thành ngay tại nơi thân thể này .
Miệng Người không từng bao giờ thỏa -mạ một ai , không từng
phê -bình một ai. Mắt Người không còn có thể nhìn thấy điều
ác , tinh thần Người đã mất khả - năng suy nghĩ ác . Người chỉ
nhìn thấy điều thiện . Cái sự tinh khiết lạ lùng ấy , sự hỷ xả kỳ
lạ ấy là một bí quyết của tâm linh . Kinh Vedas nói : « Chẳng
phải vì của cải , chẳng phải nhờ dòng dõi mà nhờ hỷ - xả và chỉ
hỷ xả người ta mới đạt tới vĩnh cửu bất- tử » . Đức Cơ - Đốc
nói : « Bản tất cả vật ngươi có đi và phân phát cho kẻ khó , và
hãy đi theo ta ! »
Vậy tất cả các đại Thánh nhân và tiền -tri đã phát- biểu
điều ấy và thực hành trong cuộc đời các Ngài . Không có sự
hỷ- xả ấy làm sao cho đại tâm - linh xuất- hiện ? Hỷ - xả là nền
tảng của tất cả tư tưởng tôn giáo bất cứ ở đâu . Và người ta
luôn luôn thấy rằng chừng nào cái ý tưởng hỷ- xả suy - vi thì
vật dục càng lẫn vào địa - hạt tôn -giáo chừng ấy và tâm-linh
sẽ suy đồi đi bấy nhiêu .
2
Con Người ấy thực là hiện thân của hỷ xả . Ở nước tôi
điều thiết yếu cho một người muốn thành Đạo - sĩ Sannysin là
từ bỏ tất cả phủ -quí trần -thế , và Sư -phụ tôi đã thực hiện
158 KHẢO- CỔ TẬP- SAN
Một ý - tưởng trọng yếu nữa trong cuộc đời Sư- phụ tôi
là tình yêu tha -nhân tha thiết. Phần nửa đầu cuộc đời ấy là
đề vào công phu tu -luyện tâm -linh , và phần còn lại là để
phân -phát cho tất cả . Dân Ấn - Độ có cái tục đến thăm một
Sư-phụ tôn-giáo hay một Đạo-sĩ Sannyasin khác với dân
chúng các nước ở Tây - phương . Có người đến hỏi han Đạo
sĩ về một vài điều , có người đi từ ngàn dặm bộ hành dòng
dã chỉ để đến hỏi một câu , được nghe một lời : « Thầy cho
con một lời chung thân tế -độ » . Họ đến như thế. Họ đến rất
đông , giản dị không kiểu - cách , ở chỗ mà Sư-phụ thường có
mặt . Họ có thể thấy Sư -phụ dưới gốc một cây to và hỏi han
Sư-phụ . Và cứ như thế hết lớp ấy đến lớp khác . Bởi vậy mà
nếu một người thực được tôn - kính hâm -mộ thì có khi không
còn thì-giờ để nghỉ- ngơi , hết ngày đến đêm y sẽ phải nói
không ngừng. Hàng giờ dân -chúng đỏ đến hỏi han và người
ấy sẽ luôn luôn giảng dạy chúng.
một kẻ nhỏ mọn nhất trong số hàng ngàn tìm đến cầu sự giúp
đỡ của Người . Dần dà cổ họng bị thương đau , vậy mà người
ta cũng không ngăn- cản được thầy tôi tiếp -tục công việc truyền
dạy . Hễ nghe thấy người ta đến hỏi thăm xin được vào gặp là
Người liền khẩn- khoản để cho người ta được vào gặp và giải
đáp tất cả những câu hỏi của họ thắc-mắc . Đến khi chúng tôi
trách thầy tôi đã quá độ , thầy tôi đáp : “ Ta không quan -tâm
nữa , ta sẽ hy-sinh hai mươi ngàn cái thân -thể như thế này đề
giúp - đỡ một người . Thực là vẻ -vang được giúp -đỡ dù chỉ được
một người » . Không có một phút nghỉ- ngơi cho thầy tôi !
Có một lần người ta hỏi thầy tôi rằng : “ Thưa Ngài , ngài là
một vị Đạo- Sĩ cao , tại sao ngài không để chút tinh-thần vào
thân thể của ngài và chữa khỏi bệnh đi ? » Lần đầu thầy tôi
không muốn trả lời, nhưng khi câu hỏi được nhắc lại , thầy tôi
hòa-nhã đáp : « Ông bạn ơi , tôi tưởng ông là một người hiền
trí , nhưng ông cũng nói như các người khác ở đời . Cái tinh
thần này đã dâng lên cho Chúa , ông lại muốn bảo tôi lấy lại để
đặt lại vào thân thể này nó chỉ là một cái cũi của linh hồn
hay sao » ?
Cứ như thế thầy tôi tiếp tục giảng - đạo cho dân - chúng , và
đến khi có tin đồn ra rằng thân - thề của Người sắp sửa qua đời
thì dân- chúng càng ùn -ùn kéo đến hơn bao giờ hết . Qui -vi
không thể tưởng tượng được dân-chúng kéo đến các Đại- tôn
sư ở Ấn - Độ như thế nào , họ bao -quanh đông -nghịt lấy Tôn -sư
và sùng -bái như các vị Thánh -sống . Hàng ngàn người đợi chờ
chỉ để được sờ tay vào gấu áo của Tôn-sư. Chỉ nhờ sự tham
thức tâm -linh ở người khác như thế mà người ta phát- triển
được tâm-linh ở mình . Tất cả cái chi con người ước-muốn ,
tất cả cái gì họ thưởng - thức nó sẽ có , và đối với các dân- tộc
cũng thế . Nếu qui- vị đến Ấn - Độ đề đọc một bài diễn -thuyết
chính-trị , dù bài diễn- thuyết có hay đến mấy đi nữa , quí- v
khó lòng thấy được nhân dân đến nghe , nhưng nếu quí vị
đến để giảng tôn-giáo , sống đời tôn-giáo ấy , chứ không
phải chỉ thuyết thòi , thì có hàng trăm người quây quần chỉ
đề nhìn quí- vị , đề được sờ chân quí vị .
giảng -đạo cho chúng không còn thèm đoái hoài đến sức khỏe
của mình chút nào . Chúng tôi không làm sao ngăn - cản được
nữa . Có nhiều người từ phương -xa -tit tìm đến và thầy tôi
không được yên tâm nếu chưa giải đáp những câu hỏi của họ .
Thầy tôi nói rằng : “ Chùng nào ta còn nói được thì ta phải
giảng dạy họ » . Và thầy tôi đã nói là làm theo đúng như lời
nói. Một bữa kia , thầy tôi bảo : « Nội ngày hôm nay thầy bỏ
lại thể- xác ! » rồi đọc lời kinh Vedas thiêng- liêng nhất thầy
tôi vào tam -muội và đi hẳn .
cái ấy không nghĩa -lý gì so với bản tính sinh-tồn ở mỗi người
là tâm -linh . Và tâm -linh càng phát -triển ở mỗi người thì khả
năng làm điều thiện ở y càng cao . Trước tiên hãy khao khát
đạt được tâm linh , và không phê bình chỉ-trích một ai bởi
vì tất cả học thuyết hay tin -ngưỡng đều có điểm hay bên
trong . Hãy chứng -minh bằng đời sống rằng tôn-giáo không
có nghĩa là lời nói hay danh hiệu suông hay là môn - phải , mà
nó có nghĩa là thực hiện tâm -linh . Chỉ ai đã cảm thấy mới
hiểu được mà thôi. Chỉ những ai đạt tới tâm-linh mới có
thể truyền được cho người khác, mới có thể là đại sư của
nhân loại. Chỉ những bậc ấy mới là sức mạnh của đức sáng .
Nói về cuộc Nam tiến của dân tộc Việt-nam trên bản
đảo Đông dương Ấn độ Chi -na là cả một vận mệnh lịch -sử
của dân tộc sống còn theo cái định luật tiến-hóa khắt khe,
lạnh lùng vô tình như tất cả định -luật thiên -nhiên mà Dawin
cũng như Trang- Tử đã đề cập :
d’Extrême- Orient ) suy đoán dàn -tộc Việt nam nguyên xuất
phát từ nhóm Bách - Việt, thuyết ấy rất có giá trị . Gần đây , sự
Nhân -loại-học , Ngữ-học , Dân -tộc -học đủ chứng -minh cho suy
đoán của L. Rousseau vậy .
Trong nhóm Bách - Việt , một ngành thiên -di xuống phương
Nam , khiến cho dân tộc ấy trở nên một dân tộc có thể bảo .
tồn được chủng tộc- tinh nguyên thủy , chưa thành di dân bị
Hán - tộc đồng-hóa dung hòa , do điều- kiện thuận lợi của tình
thế địa -lý .
Cho nên trong khoảng bốn năm , từ 221 đến 214 trước
Tây - nguyên nó có thể chống cự với quân nhà Tần . Mà từ
khi Hán Vũ-Để diệt triều nhà Triệu ( 111 trước Tây-lịch) về
sau , Việt-nam tuy lệ thuộc vào Trung hoa hơn một ngàn năm ,
thấm nhuần vănhóa Hán -tộc , nhưng không bị Hán - tộc đồng
hóa và thu hút , kết cục vào thế kỷ X nó thoát-ly Trung- quốc
đứng độc-lập . Còn như Âu-Việt phía Đông , Mân - Việt Triệu
Đà các chi Việt- tộc ấy từ thời nhà Hán đến nay đã hướng
vào trung- tâm Hán- tộc để đồng -hóa , kết cục đến dung-hòa
thành dân Tàu ngày nay ở các tỉnh Triết , Man , Việt , Quế vậy » .
·
Lời nhận định khách quan trên đây của một học-giả Tàu
cho chúng ta thấy ý -nghĩa sâu xa của câu thơ ngẫu hứng tự
nhiên trên kia của vua Trần-Nhân -Tông , giữa lúc quân Mông cổ
ba mặt xâm -lăng vào Việt-nam , Ngài đã ứng khẩu để khich
lệ tướng sĩ mình bằng sự nhắc nhở đến thời oanh liệt ở
kinh -đô Cối-kê của Việt -tộc do Câu -Tiễn lãnh đạo . Kế đến bây
giờ , thế kỷ XIII sau kỷ -nguyên , thì hai ngàn năm về trước
Việt tộc đã một thời bá chủ miền Nam sông Dương tử , suốt
Hoa -nam , trung-tâm ở Chiết - giang , nhưng thế lực bành
trướng phía Bắc đến tận Sơn đông , phía Tây đến Ba thục
( Tử - xuyên ) và Vân-nam . Theo sử sách Tàu đáng tin cậy như
sử- ký Tư -Mã- Thiên , Hán - Thư , Việt tuyệt Thư , Ngô Việt xuân
thu , cùng là những khảo - chứng của các nhà bác-cổ học Pháp
như E. Chavannes , Cl . Madrolle ... chúng ta biết được rằng
hơn trăm năm sau Câu - Tiễn (333 trước kỷ- nguyên ) , nước Việt
ở Chiết-giang, bị quân Sở diệt , từ đó lìa tan xuống Giang
nam , rải rác theo miền bờ biển và lục địa như Phúc- kiến ,
Quảng đông , Quảng -tây , Lĩnh -nam . Ở đấy họ hỗn hợp với
164 KHẢO -CỒ TẬP -SAN
dân thỏ trước bản xử mà lập thành các bộ lạc lớn , thôn tính
số bộ -lạc linh - tinh ( Bách - Việt ) một ngày một thu lại , chỉ còn
lại năm nhóm Việt- tộc có hình thức quốc gia là Đông - Việt ở
Ôn - châu hay Đông- Âu - Việt , Mân- Việt ở Phúc- châu , Nam -Việt
ở Quảng -châu , Tây -âu và Lạc -Việt ở phía Nam Quảng tây và
Bắc phần Đông dương ngày nay .
hậu » di -thực đến , dựng nên nước Việt đầu tiên là Âu -Lạc hay
Lạc Hùng , đóng đô ở dưới chân núi Tản -viên , Tổ-sơn của
Việt -nam .
Khi Tần bắt đầu ở phía Bắc thống nhất các chư hầu
tiểu quốc nhà Chu , tiêu diệt các nước Việt miền Nam sông
Dương tử , lập thành quận huyện Trung - quốc , diệt nước
Thục ở Tứ xuyên vào năm 316 trước Tây -nguyên , các nước
di- dân Bách -Việt , không chịu chính - sách bạo ngược nhà Tần
bèn tìm xuống Giao -chỉ . Trong số ấy có dòng dõi vua Thục
là Thục- Phán đem tập -đoàn chống cự quân Tần chạy xuống
Văn -lang của Lạc- Vương kết cục đã hạ được vua Lạc xuống
làm Tù trưởng giữ miền đất Mêlinh làm Thái ấp , lại thân
phục được cả các bộ - lạc Tây - âu phía nam Quảng -tây , lập ra
nước Âu -lạc , và đóng đò xây thành trên ốc tại Cô - loa , xung
hiệu là An Dương Vương để nhớ lại cố hương Hoa dương
và đặt tên đất nước là Thục ở Tử - xuyên (Ba- Thục ) đã mất
với Tần .
Đây là cuộc Nam -tiến lần thứ hai của hệ thống Bách
Việt. Lần này Thục - Phán đã rút kinh -nghiệm tranh đấu với
Tần , nên đã xây dựng nước Âu lạc thành một nước vững
vàng hơn bằng cách đem chế- độ quy -mô của nước Thục cũ để
đoàn - kết các bộ lạc Việt-tộc , đem văn hóa Hoa -dương sử
trường dạy cho dân Âu - lạc như xây thành tròn ốc Co -loa ,
chế-tạo binh - khí mới như nó bằng tre , may dệt quần áo , nuôi
ngựa , tinh -thần độc lập dân tộc.
« Tần - Thủy- Hoàng tham lợi tè- giác , ngà voi , chim trĩ ,
166 KHẢO -CỔ TẬP - SAN
ngọc thạch của người Việt , phái Đô -Thư chỉ huy 50 vạn quân,
chia làm 5 cánh , một đóng ở đèo Đàm - thành , một đóng ở trại
Cửu -nghi (Hồ -nam ), một đóng ở Phiên -ngung (Quảng-đông) ,
một giữ đất Nam dã (Dự chương ), một tập -trung ở sông Dư
can ( Quảng tây ) . Suốt ba năm quân -lính không rời áo giáp ,
buông chùng giày cung . Quan Giám Sử-lộc phái xuống, thấy
không có đường vận lương mới cho đào một đường thủy để
làm vận -hà ngõ hầu chống nhau với người Việt . Chúa Tây-Âu
là Dịch -Du -Tống bị giết . Tất cả người Việt vào rừng rậm ở với
cầm thủ chứ không chịu làm nô -lệ cho quan Tần . Chúng chọn
lấy người tài tôn lên làm Tướng thống -lĩnh quân đánh quân
Tần ban đêm . Quân Tần đại bại , Đô ủy Đô -Thư bị giết , thây
chết máu chảy nhiều vô kể .
Bấy giờ Tần - Thủy - Hoàng mới cho đầy các tội nhân xuống
cư -trú đề bỏ - túc quân linh mà cầm cự với người Việt » .
Cái tinh thần Việt- tộc của Âu -lạc ấy , có vẻ quyết liệt đối
với Hán -tộc nhưng đối với Nam -việt của Triệu - Đà lại tỏ ra
sẵn -sàng nhân -nhượng , có lẽ họ coi đất Nam-việt như thuộc về
cùng một nòi Việt -tộc cho nên Âu- lạc của họ Thục với Nam
Đây là cái tinh thần dân -tộc sau này của « Bình -Ngô
đại cáo » :
« Duy ngã Đại- Việt chi quốc , thực vi văn -hiến chi bang .
« Sơn xuyên chi phong vực ký thù , Nam Bắc chi phong tục
diệc dị .
Từ Triệu , Đinh ,Lý , Trần gây nền độc lập , cùng với Hán ,
Đường , Tống , Nguyên , mỗi nhà làm chủ một phương.
( Bình- Ngô đại cáo )
Nhưng đây là kết quả sau khi Hán- tộc đã chiến -thắng
Việt- tộc ở Giao -chỉ mặc dầu bao phen nổi dậy với tiếng gọi
giống nòi của họ Trung , họ Triệu , họ Mai , họ Phùng mãi
đến họ Ngô thế kỷ thứ X mới thoát -ly khỏi ách đô hộ của
Hán tộc đề thực trưởng thành là một quốc - gia độc lập như ý
muốn của dân tộc , tự do khai- phóng theo tinh thần vănhóa
Đông -Nam -Á . Nhưng muốn được sinh -tồn với dân tộc- tinh ,
Lạc - Việt không chịu đồng- hóa vào Hán tộc thì phải mở đường
Nam -tiến xa nữa , xuống phía Nam bán đảo Ấn độ Chi-na ,
theo bờ biển và dãy núi Trường -sơn , như lời khuyên của
Trạng-Trình : « Hoành sơn nhất đái , vạn đại dung thân » . Đấy
là điều kiện sống còn của dân tộc muốn bảo tồn dân tộc
168 KHẢO - CỒ TẬP- SAN
Trung thảm bại , thì miền Nam Trung phần ngày nay ở quận
Nhật-nam , Chiêm - tộc quật khởi , xây dựng quốc-gia hiệu là
Lâm ấp , thoát ly ảnh hưởng Hán - tộc , hoàn -toàn theo văn
hóa xã hội, chính trị pháp- chế của Ấn độ . Cuộc vận động
độc lập ấy trải qua bốn thời kỳ từ 100 đến 192. Khu-Liên
lãnh đạo dân Chiêm giết huyện lệnh Hán mà tự lập . Theo An
khê thảo lịch sử Trung - kỳ : « Nước Chiêm - thành trước kia
thuộc về đời Hán thì chỉ là một huyện Tượng -Châu ( * * )
đến đời Tấn đời Đường thì gọi là Lâm ấp , ở từ quận Nhật
nam ( Bin ) vào cho đến Chân - lạp , nghĩa là về khoảng Quảng
bình , Quảng trị cho đến Bình thuận bây giờ . Nước ấy không
biết rõ lập quốc từ đời nào , trong sử chép rằng năm Nhâm
dần ( 102 ) đời vua Hòa đế nhà Đông -Hán ( * * ) vì phía Nam
quận Nhật nam có người Tượng - làm ( * ) hay đến cướp
phá quận Nhật- nam , nên vua Hán mới lập ra làm huyện
Tượng-lâm , sai quan cai trị . Khi ấy thì xử Tượng làm cũng
bị nhà Hán lấy làm quận huyện » .
(Nam -Phong số 99 )
Từ khi Chiêm -tộc lập -quốc độc lập , vì đất nước eo-hẹp
một bên là núi, một bên là bẻ , thiếu đất phì nhiêu để cày cấy,
cho nên luôn luôn ngỏ lên các Trung -châu phương Bắc như
Nhật-nam , Cửu -đức , Giao - châu và không ngớt đòi phen đem
quân lên xâm - chiếm .
Giao -châu và Làm -ấp đánh nhau ở Cô - chiều -loan mất đất
HAI TRÀO- LƯU DI- DÂN NAM-TIẾN 169
Khu -túc , lại tiến vào xâm chiếm lấy huyện Thọlinh , nay là
Thừa thiên
Năm 347 vua Lâm ấp là Phạm -Văn đem quân vây đánh
Nhật-nam , giết 5 , 6 ngàn người , chiếm-cử Nhật-nam .
Năm 348 lại đánh Cửu - chân , giết hại nhân - dân 8 , 9 phần
10. Đô-hộ Tàu đem quân Giao - Quảng đi đánh , bị thua ở
Lô - dung .
Năm 399 Phạm -Hồ Đạt via Lâm -ấp , tuy triều cống Trung .
hoa , mà vẫn đem quân vào xâm chiếm đất bảo hộ của Tàu là
Nhật- nam , bắt Thái -thủ , lại tiến quân vào Cửu - đức .
Đến khi Phạm -Dương -Mại đời thứ hai vua Lâm ấp chết ,
nước Phù -nam , tức Chân - lạp phía nam Lâm - ấp chiếm nước
Lâm ấp , người Phù -nam là Cưu - Phù -La tự xưng làm vua, bị
con cháu chắt Phạm -Dương- Mại là Phạm -Chủ -Nông đánh đuổi .
Nhưng rồi Tề -Vũ - Đế năm 492 phong cho Phạm- Chủ -Nông làm
An- nam Tướng quân Lâm -ấp Vương , và Lương-Vũ-Đế 503
cũng phong cho Kiền-Trần-Như vua Phù - nam làm An - nam
Tưởng- quân Phù -nam - Vương . Ý hẳn chính-sách các vua Tàu
bấy giờ đã thay đổi , muốn chia để trị , đề phòng sự liên -kết
giữa Phù -nam , Lâm ấp với các phong trào độc lập ở Giao
châu , như sách Tàu ghi chép về Mai- Thúc -Loan khởi nghĩa
ở Hoan - châu sau này :
(722 T. T.)
170 KHẢO - CỒ TẬP- SAN
Vào thời nhà Lương bên Tàu , nhân dân Giao -châu cũng
vẫn quật khởi , Triệu - Quang - Phục phá quân Lương , Lý - Phật
Tử xưng đế , dựng nên triều Tiền - Lý độc lập hơn 60 năm .
Trong khoảng thời gian ấy quân Lâm -ấp đánh vào Nhật-nam
năm 543 , bị Tướng của Lý - Nam -Đế vào đánh ở Cửu - đức (Hà
tĩnh ) , quân Lâm - ấp bỏ chạy về nước . Sau khi nhà Tiền Lý
mất về nhà Tùy bên Tàu , vua Tùy sai tướng Lưu -Phương đánh
xuống Lâm -ấp vào đến quốc -đô , đoạt cướp của cải rồi mới
thu quân về .
Bị Lưu -Phương đánh phá , vua Lâm -ấp là Phạm -Chi dâng
biểu xin triều - cống , đến năm 640 Phạm -Đầu Lê nối ngôi , vẫn
-
giữ triều cống nhà Đường . Cho đến 749 , vua Lâm ấp là Chư
Cát-Địa đổi quốc hiệu là Hoàn Vương quốc . Người nước
Hoàn vương lại sang quấy nhiễu giao châu , chiếm lấy Châu
hoan Châuái. Mãi đến năm 808 , vua Đường sai Đô-Hộ Trương
Châu đem binh thuyền vào đánh quân Hoàn Vương , giết hại
rất nhiều , vua nước ấy phải lui về phương nam vào Quảng
nam , Quảng -nghĩa bây giờ , và đổi quốc hiệu là Chiêm -thành
từ đấy .
Nhưng chúng ta cũng thấy trước khi Việt-tộc thoát -ly khỏi
HAI TRÀO -LƯU DI- DÂN NAM - TIẾN 171
ách đô hộ của người Tàu , thì Chiêm -tộc cũng đã kiệt quệ
trong một cuộc chiến tranh một mất một còn với Hán tộc .
Chẳng qua khi Việt- tộc thiết - lập thành một nước độc lập ở
Giao châu thì cũng chỉ đến thay thế Hán - tộc trên đường Nam
tiến , khiến cho Chiêm-tộc bị hoàn toàn Việt-hóa hơn là Hán
hóa vậy .
Việt- tộc lập quốc trong điều kiện khó khăn nguy hiểm
bội phần , so với Chiêm -tộc . Phía Bắc phải đương đầu với
đối phương chính là Hán-tộc , phía Tây phải tranh thủ với
một đối phương chẳng kém hùng -mạnh là Thái Tộc mà đại
biểu bấy giờ là Nam -Chiếu , Đại-Lịch từ Vân -nam tràn xuống ,
liên -kết với dân Mán , Mường miền sơn-động , từng chiếm cứ
Bắc- việt hàng mười năm .
Vận mạng của Việttộc chỉ bắt đầu củng - cố vững vàng
là kể từ thời nhà Lý với võ công oanh liệt của Lý - Thường
Kiệt , phía Bắc tấn công lên đất nhà Tống , phía Tây chinh
phục được họ Nùng của nước Đại-nguyên -Lịch , đồng -hóa dân
sơn -động , phía Nam uy phục được Chiêm thành . Nhưng với
cái ý -chí Đại- việt của vua Lý - Thánh - Tông , muốn giữ thế
quân bình chia ba chân vạc trên bán đảo Đông Nam Á này
mà đóng cửa vào Trung -châu Bắc- Việt thì sớm chầy cũng sẽ
mất với thế-lực của Bắc phương . Ngược lên phương Bắc lấy
lại bờ cõi Nam - Việt xưa của Triệu thì rất khó-khăn , tuy
nhất- thời có thắng được Tống ở Châu -khâm . Châu -liêm , Nhìn
sang phía Tây thì rừng núi hiểm trở , lại vướng thế -lực của
Đại -Nguyên -Lịch cũng đang nhòm xuống phương Nam , nhất
là đồng bằng Bắc-Việt .
chăng oai đức của Trẫm chưa đến được nước ấy hay là chúng
cậy có núi sông hiềm -trở đó chăng ? « Quần -thần thưa : « Đức
tuy đã đến mà oai chưa được rộng » . Vua cho là phải mới cất
quân đi đánh Chiêm thành đề thị-uy vậy. Đánh được quân
Chiêm chỉ bắt tù -binh đem về , chứ không chiếm đất . Có chiếm
172 KHẢO CỔ TẬP - SAN
Năm 1075 vua Lý -nhân - Tông sai Lý - Thưởng -Kiệt vào kinh
ý , vẽ địa -đồ hình thế , đổi tên châu Địa lý làm Lâm Bình , Ma
Linh làm Minh - Linh . Đến năm 1103 Chiêm thành lại khôi
phục lại ba châu đã mất , Lý - Thường -Kiệt lại phải đem quân
vào lấy lại .
Năm 1132 Chiêm thành , liên - minh với Chân-lạp đem quân
nhưng đều thất bại , lại chịu triều- cống . Tuy triều cống
nhưng vẫn muốn đòi lại ba châu đã mất nên đến năm 1252 ,
Chiêm - thành lại đem chiến -thuyền vào cướp biên giới và sai
sứ cầu xin lại đất đã dâng . Vua Trần -Thái - Tông lại phải thân
chinh đi đánh , bắt được Vương - Phi là Bố -Gia - La rồi trở về .
Năm 1301 , vua Trần-Nhân- Tông sau khi xuất- gia đầu Phật ,
có sang giao hảo với vua Chiêm bấy giờ là Chế Mân , hứa
gả Công chúa Huyền - Trân để liên kết thân tình . Chế.Mân dâng
sinh lễ hai châu Ô , Lý . Nước Chiêm lại trở về biên - giới Hoàn
vương thời nhà Đường nghĩa là từ Hoành - sơn trở vào . Đến năm
1307 vua Trần- Nhân - Tông thân nhận châu Ô , châu Lý đổi tên
là Thuận - Châu và Hóa Châu sai Đoàn -Nhữ -Hài vào kinh -Lý ,
đặt nền cai- trị , chiều -dụ cư -dân , chia ruộng đất cho cày cấy.
Cái dây thân - tình giữa Chiêm -Việt không được bền lâu,
mà sớm đoạn tuyệt sau khi Chế- Mân chết , Huyền - Trân bị
cướp trở về . Từ thân - gia đổi thành oan - gia , bởi vì vua Chiêm
kế vị là Chế -Chí bị vua Trần - Anh - Tông lừa bắt đem về nước
rồi chết ở Gia - làm , từ đây Chiêm -Việt lại có điều thù oán mãi .
tập trận , luyện binh nhằm đánh Việt- nam để trả thù rửa
hận . Cho nên vào năm 1367 vua Trần -Dụ -Tông sai Thế Hưng
và Tử -Bình đi đánh Chiêm thành , bị quân Chiêm phục - kích
bắt được Thế-Hưng , Tử -Bình bỏ chạy . Năm sau , vua Chiêm
cho sứ sang đòi đất Hóa - châu . Năm 1376 quân Chiêm sang
đánh phá ở Hóa - châu , vua Duệ - Tông phải thân -chinh đi đánh ,
mặc dầu đình thần hèn nhát cố can . Vua vào đóng quân ở
Năm 1378 Chiêm - thành lại sang đánh Nghệ -an vào sông
Đại- hoàng lên đánh kinh đô Thăng-long .
Năm 1380 quân Chiêm lại sang phá Thanh hóa , Nghệ - an ,
bị Quý - Ly đánh đuổi được .
Năm 1384 Chế - Bồng - Nga với tướng La - Khải đem quân đi
đường núi vào đóng tận Quảng- Oai . Nghe tin , Thượng hoàng
Trần -Nghệ - Tông cùng với vua bỏ kinh Đô chạy sang Đông
ngạn . Nhưng rồi Chế Bồng Nga bị tưởng nhà Trần là Khát
Chân phục - kích giết ở địa hạt Hungyên . Từ đấy về sau
Chiêm -thành mới nhụt bớt nhuệ khí, trong nước lục đục , hai
con Chế- Bồng -Nga sang hàng Việt-nam đều được phong hầu .
Sự thực chính - sách thực dân của Việt-nam chỉ bắt đầu
với họ Hồ . Năm 1402 Hồ -Hán - Thương cho làm con đường
Thiên lý từ Tây đô Thanh - hóa chạy đến Hóa- châu , lấy
đất Chiêm - động , Cổ - lũy phân ra bốn châu đặt chức
An- Phủ- Sử lộ Thăng-Hoa để cai trị , dời dân xứ Bắc người có
tưbản mà thiếu ruộng vào ở đấy . Những dân ấy tuy vào lập
nghiệp khẩn hoang nhưng cũng thúc vào quân ngũ , hễ khi có
việc thì đi đánh giặc, khi không việc quân thì về làm ruộng .
Lại sức cho dân ai nộp được trâu bò thì phong tước , trâu bò ấy
HAI TRÀO - LƯU DI- DÂN NAM TIẾN 175
Qua những lời nói ấy của các đại-tướng nhà Minh , chúng
ta có thể suy - đoán mà biết mất Hóa - châu , Chiêm thành khổ
lòng giữ được nước , mà việc Nam -tiến của dân Việt cũng là
cái kế bảo tồn dân tộc đối với Bắc phương đế quốc hùng
cường vậy .
Nhân -dân Phú - yên có lập miếu thờ vua Lê- Thánh Tông
tại thôn Long -uyên , quận Tuy -an , hiện còn đôi câu đối :
« Trở đậu hình hương thủ địa , thanh linh trường đối
« Thạch -bi cao ) .
Dich :
« Giang san khai thác năm nào , phụ lão còn truyền công
« Hồng - đức .
Năm Chính -trị thử nhất triều Lê- Anh - Tông ( 1558) , Nguyễn
Hoàng vào trấn Thuận hóa , những người làng Tống sơn với
quân nghĩa dũng Thanh Nghệ đem cả gia - đình đi theo . Về
sau mỗi khi ra đánh phương Bắc thì dân Nghệ Tĩnh lại theo
vào khai-khẩn đất ở phương Nam , sinh tụ ở đất Chiêm -thành .
Từ đó về sau nhân đinh thêm trù phú , điền địa mở mang ,
chả mấy chốc mà đất Thuận -quảng trở nên một cõi cường
thịnh . Trước khi mất , Nguyễn Hoàng năm 1613 có trối lại
hoàng -tử Nguyễn - Phúc-Nguyên rằng : « Đất Thuận -quảng phía
Bắc có núi Hoành-sơn và sông Linh -giang hiểm trở , phía Nam
có núi Hải- vân và Thạch-bi vững bền . Núi sẵn vàng sắt, biển
cỏ cả muối , thật là đất dụng võ của người anh hùng . Nếu
HAI TRÀO- "U DI- DÂN NAM- TIẾN 177
biết dạy dân chúng luyện binh đề chống chọi với họ Trịnh
thì đủ xây dựng cơ-nghiệp muôn đời. Vi bằng thế lực không
địch được , thì cố giữ vững đất đai đề chờ cơ hội , chứ đừng
bỏ qua lời dặn của ta ) .
(Thục- lục tiền-biên)
thành , đặt quan cai-trị . Rồi lại đồi làm Bình - thuận , cho thân
thuộc của Ba - Tranh làm chức Khám-lý, ba người con là Đề
đốc, lại bắt thay đổi y-phục theo Việt-nam để phủ dụ dân
Chiêm . Đến năm 1697 chúa lại đặt phủ Bình thuận , lấy nốt
Phanri , Phan rang của Chiêm -thành làm huyện Yên-phúc và
Hòa-đa . Từ đấy nước Chiêm thành mất hẳn , tuy vẫn còn vua
Chiêm , nhưng vô quyền .
Lấy xong nước Chiêm thành công việc Nam tiến của Việt
nam chưa xong , vì xử Trung không có đất phì nhiêu đủ cho
một nước nông nghiệp thịnh vượng đề đương đầu với chúa
Trịnh ở Trung - châu Bắc - phần . Cho nên đồng -bằng lưu - vực
Cửu - long mới chính là mục-tiêu cho chúa Nguyễn bấy giờ
dựng nước .
Nam phương đây là đất Thủy -Chân -lạp với Lục - Chân
lạp là một nước thịnh - vượng văn -hiến , từ thời Lý đã từng
cho sử thần ra cống hiến ở Thăng - long . Đất rộng , phì nhiêu ,
thuần đồng bằng sông Cửu long , người thưa , chính là đất
thực -dân cho dân nông -nghiệp miền Trung - Việt núi non , it
đất cấy cày . Bởi thế nên khoảng thế kỷ XVII , chúa Sãi ( Nguyễn
Phúc - Nguyên 1613–1635 ) đã kết thân với vua Chân -lạp
bằng mối tình giàu gia , công chúa Ngọc- Vạn lấy vua Chân .
lap là Chey-Chetta II (1618–1626) .
công -chúa cho vua Chân lạp . Truyền rằng nàng công chúa
Việt này rất đẹp , biết chiều chồng , được chồng yêu quí, lập
làm Hoàng -hậu . Người Việt bấy giờ đã thành thân hữu và
đồng -minh của người Chân.lạp . Nhờ có sự giúp đỡ của những
đồng -minh mới ấy , vua Chân -lạp đã hai lần chiến -thắng những
cuộc tấn - công của quân Xiêm ( Thái- lan ) vào năm 1621 và 1623 .
chúa Nguyễn xin phép cho dân Việt làm ruộng và buôn bán
được định cư ở trên đất mà ngày nay là Saigon , và bấy giờ
là miền cực Nam nước Cam -bốt. Bà Hoàng-hậu can - thiệp với
vua chồng để sự thỉnh cầu ấy của đồng bào bà được nhà vua
ung - thuận , và vua Chey -Chetta kết cục đã ưng - thuận ) .
thêm phía Tây bị quân Xiêm luôn luôn đe dọa muốn thôn
tinh , khiến cho phải cầu viện sự bảo trợ của Việt-nam . Sinh
lực dân - tộc Cam -bốt vì thế mà suy - nhược so với sinh- lực
dân tộc Việt- nam đang còn dẻo dai phấn khởi trên đường
Nam -tiến mới lạ .
Hơn nữa, nhà Minh bên Tàu cũng đang mất nước cho
Mãn Thanh , các chiến -sĩ Minh ưu- tủ phẫn -uất bỏ đi tìm tự do
độc- lập ngoài thế -lực kẻ thù . Bấy giờ ( 1679 ) có Trấn-thủ Quảng
đông là Dương -Ngạn -Địch với Phó Tổng binh Hoàng-Tiến ,
Tổng- binh Cao -Châu , Lôi- Châu , Liêm -Châu là Trần - Thượng
Xuyên , Phó Tổng- binh là Trần-An-Bình đem 3.000 quân và 50
chiến -thuyền chạy thẳng vào của Tư -hiền và Đà nẵng muốn
đến xin làm thần dân chúa Nguyễn . Đúng lúc chúa Nguyễn
Phúc-Tần đang đề tâm vào việc khai khẩn đất Chân -lạp mới
dung - nạp bọn họ, cho bọn Dương-Ngạn- Địch ở Mỹ-tho , Trần
Thượng -Xuyên ở Biên -hòa , khai khẩn và thiết-lập phố - phường
buôn bán , thuyền buôn của người Thanh và các nước phương
Tây , Nhật- bản , Java đi lại thông -thương phồn thịnh. Do đấy
mà phong -hóa Hán thấm- nhuần vào đất Đông- phố thay thế hay
cạnh tranh với văn-hóa Ấn , mà đất Chân-lạp càng sớm biến
thành Việt-nam . Người Tàu , người Khmer , người Chiêm hợp
hóa cả vào dân Việt .
Đồng thời với tướng Minh Dương -Ngạn Địch chạy sang
Quảng - nam thần phục , lại cũng có dị-dân nhà Minh là Mạc
Cửu , không chịu làm tôi nhà Thanh , tránh sang ở Chân-lạp
làm chức Óc- nha ở đất Sài-mạt trên bờ vịnh Xiêm -la , nơi giao
thông tấp - nập . Ông chiêu mộ dân xiêu -bạt đến Phủ -quốc , Cần
bột , Gia-khè , Luống-cày , Cà -mau lập thành 7 xã thuộc tỉnh Hà
tiên . Năm 1708 Mạc -Cửu xin qui-phụ , chúa Nguyễn phong cho
chức Tổng-binh Hà-tiên. Đến khi Mạc Cửu mất , con là Mạc
Thiên - Tích trấn thủ Hà- tiên , đắp thành lũy chống giữ quân
Xiêm , mở đạo lộ , đặt thị trường , khuếch trương Hán-học ,
giáo hóa nhân dân , làm cho Hà - tiên trở nên nổi tiếng văn
vật ở góc trời Nam hẻo lánh trong vịnh Xiêm-la vậy.
Hà -tiên phồn- thịnh đã trở nên vật thèm muốn của Xiêm
la và Cam -bốt , một đàng muốn cướp lấy , một đàng muốn
180 KHẢO- CỒ TẬP - SAN
đòi lại . Nhưng họ Mạc đã lựa chọn sát nhập vào triều đình
Việt -Nam bấy giờ, như thần dân , cho nên năm 1739 Chân
lạp ( Cam -bốt ) định chiếm lại Hà -tiền , chúa Võ - Vương sai
Nguyễn - Cư - Trinh sang đánh vua Chân -lạp , Nặc Nguyên bỏ
chạy , xin nộp đất cầu hòa . Đất ấy là miền Nam Gia - định
Gò - công và Tân - an bây giờ .
Năm 1756 Nặc Tôn (Ang -Tông ) chạy sang Hàtiên nhờ
Mạc - Thiên - Tích nói với chúa Nguyễn xin giúp đỡ. Võ -Vương
sai Thiên - Tích đưa Nặc Tôn về Chân -lạp làm vua . Nặc - Tôn
dâng đất phía Bắc sông Bassac tức là Vĩnh -long , Sa - đéc , Tân
châu , Châu đốc ngày nay . Nặc.Tôn đền ơn Thiên - Tích 5 phủ ,
Thiên - Tích đều đem dâng cho chúa Nguyễn , chúa cho sát
nhập vào Hà-tiên ; dưới quyền họ Mạc bấy giờ gồm từ Kampot
cho đến Cà -mau .
Đến đây dân tộc Việt đã mở rộng lãnh thổ từ Nam quan
phương Bắc cho đến vịnh Xiêm -la phương Nam . Nhung chiếm
được đất là một việc , còn giữ được đất và có dân lại là một
việc . Đấy là cả một chính -sách thuộc về khả năng của dân
tộc. Jules Sion, trong sách « L'Asie des moussons — Géogra
Mục đích của người Việt lại khác . Họ không cần bắt nô
lệ , họ làm lấy . Đối với họ thắng trận không phải là để có
người làm , mà là để có đất cày .
Nhiều khi chiến tranh chỉ là để xác nhận một tình thế đã
rồi . Dân Việt bành trướng một cách ôn hòa , sinh cơ lập
nghiệp rồi sau binh lính mới tới . Trước khi Việt nam sát
nhập đất Nam kỳ về minh , người Việt đã lập ở đấy những
tổ chức , những đámdi-dân đã xây dựng làng xóm hay là tới
•
ở chung với người Mèn , rồi lần lần nắm lấy quyền chính .
TAP- SA HAI TRÀO -LƯU DI - DÂN NAM TIẾN 181
ieu-link
Cuộc bành trướng thực hành bằng cách đưa đến những
39 Chir
đảm người liên tiếp , đủ các hạng : dân cày không có ruộng ,
rong sa tù tội , kẻ chống đối chế độ hay là quân cướp muốn chuộc
uven tội . Cũng có khi chính phủ thu thập những người đó rồi đưa
Tia-dink xuống những miền mới chiếm lãnh , hay là lập đồn điền nơi
biên -thùy để phòng bị lân bang tới đánh . Những đám người
5-Virong
Cuộc bành trưởng của các đám bình dân Việt đã là sức
Vac-Ton
mạnh của Việt- nam . Cuộc di-dân đã biến hóa đất Nam kỳ
c, Tan
thành một xử hoàn toàn Việt-nam cũng như đất Bắc kỳ . Ngay
5ph
dưới mắt ta trong cảnh thái-bình , cuộc bành trướng ấy vẫn
cho gi
tiếp tục khắp đất Cam -bốt và đất Lào » .
Kampe
Và nhà cổ học Aurousseau cũng kết luận bài khảo - cứu
công-phu của ông về cuộc di dân vĩ đại của Việt- tộc từ sông
N-gust
Dương -tử xuống vịnh Xiêm -la :
lem
« Những yếu tố , những sức mạnh có thể tiêu -diệt được
một nước mới thành -lập đều vô - hiệu trước sức sống mãnh liệt
T của người Việt .
Dân tộc Việt chiếm cứ các đồng bằng Bắc -Việt ngay từ
Thi trở nên
cuối thế-kỷ thứ III trước Tày -nguyên . Xã-hội Việt -nam
Tron thịnh vượng tại đây . Lần lần các làn sóng di- dân tiếp tục tràn
danh
lan mãi xuống phía Nam , để tới một điểm xa nhất trên đường
e,la thế -kỷ thứ IV trước
bành trướng mà người Bách - Việt khởi từ
di Tây nguyên .
Người Việt tới Trung -Việt ngay cuối thế kỷ sau , ở đây
t no
dân -tộc Chiêm -thành chặn họ lại một thời-gian khá lâu . Nhưng
दिल
người Việt vẫn giữ được cái đà bành - trướng như một sức
mạnh âm ỷ , và sau một cuộc tiến triển , sau nhiều năm chinh
12
chiến , họ đã thắng được đối phương Chiêm -tộc vào năm 1471
để tiến mãi về phía Nam , tới Qui -nhơn cuối thế kỷ XV , tới
Sông - cầu 1611 , tới Phan -rang 1653 , tới Phan -thiết 1697 , tới
Saigon 1698 , tới Hà -tiên 1714. Cuối cùng trong nửa đầu thế kỷ
XVII, người Việt đã hoàn thành cuộc bành trướng của dân
Một đặc tính trọng yếu nhất trong cuộc bành trưởng ấy là
Việt - tộc trước sau vẫn giữ được dân tộc-tinh thuần nhất Việt
nam đến nỗi người Lào , người Chiêm , người Tàu Minh -hương ,
người Mèn thảy đều Việt -hóa . Đại-ủy Gosselin , trong sách
« L’Empire d’Amnam » đứng trước thực trạng ấy cũng phải
kinh - ngạc « Hết thảy các sửgia có nhiệt- tâm tìm tòi sự thật
đều phải công nhận rằng : khi đặt chân lên đất Việt - nam ,
người Pháp đã phải đụng chạm với một dân - tộc thống nhất ,
thống -nhất một cách không thể ngờ tới được , từ miền Cao
nguyên thượng -du Bắc - việt cho tới biên -giới Cam -bốt, thống
nhất về đủ mọi phương diện nhân chủng cũng như chính trị
và xã hội » .
Cái dân tộc- tinh đặc sắc Việt- nam mà các học giả Pháp
quan-sát tại chỗ đã nhận thấy là thành quả của chính sách
di -dân khôn-khéo có phương -pháp đường lối mà Nguyễn - Cư
Trinh ( 1715–1767) đã trình bày lên chúa Nguyễn -Phúc- Khoát
trong một bài sở rằng :
thần xem xét hình -thế , đặt thành đóng quân , chia cấp ruộng
đất cho quân kinh và nhân dân , vạch rõ biên - giới, cho lệ vào
châu Định -viễn để thu lấy toàn khu » .
—
Saigon étant avant tout un port, une plaque tournante
l'Asie du Sud-Est, ce Musée a été conçu pour remplir le rôle
d'un musée de port d'escale . Ainsi , le musée de Saigon n'est
pas un musée d'art exclusivement Vietnamien . Ses collections
visent surtout à donner au visiteur un aperçu général sur les
divers arts ayant fleuri sur cette péninsule , très justement
qualifiée de « carrefour de peuples et de civilisations » .
-
Les collections de ce musée proviennent notamment
de versements d'anciens dépôts archéologiques de l'ancienne
Indochine , de missions d'études et de fouilles , de dons d'asso
ciations et de particuliers mécènes , et d'acquisitions .
HÀ - VĂN - LIÊN
I. - TỔ - CHỨC
Thư viện đã thâu hút một số khá đông độc-giả đến mượn
tài- liệu nghiên -cứu tại chỗ , gồm Sinh - viên , Học - giả Việt -Nam
và ngoại quốc .
Thẻ theo lời thỉnh - nguyện của độc giả , nhằm cung cấp
tài liệu và hướng dẫn công cuộc nghiên -cứu , Viện Khảo Cổ
bắt đầu thực hiện các công việc sau đây :
2 ) Phiên dịch :
a ) Những văn - hiện có giá -trị đề làm tài liệu khảo - cứu :
Những bản viết bằng Hán -Văn của Phan - Thanh- Giản .
5.– Thu Thập Cổ-Vật để trưng bày tại các Viện Bảo tàng :
Saigon , Huế và Đà - Nẵng .
VIỆN KHẢO CỔ SAU 14 NĂM HOẠT ĐỘNG 191
Chụp hình các cổ vật trưng bày , soạn các cuốn Chỉ Nam
Bảo tàng Viện .
Tổ -chức Triển lãm Văn Hóa Việt- Nam , lưu động qua
các tỉnh lớn ở Hoa- Kỳ với sự cộng tác của Viện Bảo tàng
SMITH -SONIAN Hoa -Thịnh - Đến (năm 1960 – 1961 ) .
―
Tổ - chức kỷ -niệm Đệ Tam bách chu -niên giáo sĩ Alexan
dre de RHODES năm 1962 do Viện Khảo -Cổ hợp tác với một
nhóm Cơ - quan văn hóa công và tư , tổ -chức tại Saigon một
chương trình hoạt động văn -hóa gồm 1 cuộc Triển - lãm và 3
buổi thuyết- trình về sự nghiệp của Giáo -sĩ Đắc lộ trong công
cuộc truyền giáo tại V.N. hồi thế kỷ thứ XVII và nhất là công .
trình của Ông trong sự phiên âm tiếng Việt bằng vần La -tinh ,
trong một thứ chữ mà nay ta gọi là Chữ Quốc- Ngữ .
Trang
Pages
NGUYỄN - ĐĂNG - THỤC
I – Nguyên - Lý và Mục - tiêu của ASPAC 3 -- 8
8888
Principles and purposes of ASPAC
2 – Thế quân - bình văn hóa Việt- Nam 9- 27
11
3 – Bản phúc trình về Khóa Hội - thảo ASPAC tại Séoul 45――― 49
Bang giao .
Cước - chú : Những sách trên đây có bày bản tại Viện
Bảo tàng Quốc-gia Saigon ( Sở thủ ) và tại Văn phòng Quốc
Vụ Khanh đặc- trách Văn-Hóa số 8 đường Nguyễn - Trung - Trực.
In tại nhà in
NGUYỄN - VĂN - HUẤN
11
RN
LI
IF
OF IA
OR
R
VE
AR
NI
Berkely
OFY
OF
R
UN E
LI
IV
BR
TH F
ER
AR
OY
S
D
PERIO O EAN
S AS
Berkele
RETURN CIRCULATION DEPARTMENT
TO 202 Main Library
LOAN PERIOD 1 2 3
HOME USE
4 5 6
BY
UC
10
N
OF
K.
Y:
F.,
JUL 5 1984
૮તે
મ
1991
JUL 26 1985
13 1993
CCT 3 1993
B000814336