Professional Documents
Culture Documents
VN Khảo Cổ Tập San 4
VN Khảo Cổ Tập San 4
VN Khảo Cổ Tập San 4
https://books.google.com
BACK BEN UNIVERSITY OF CA RIVERSIDE , LIBRARY
VIỆT - NAM
VIỆT - Ν
NAM
1
KHẢO - CỔ TẬP SAN
CONTA
D
AT
Libra 116
Bd. 18 inch
Vài lời nói đầu
Trong những bức thư của độc - giả bốn phương gửi về cho Viện
chúng tôi, ngoài những lời khen tặng nồng -nhiệt , còn ngỏ ý muốn đọc
được những bản dịch các sách về lịch sử Việt -nam nguyên văn bằng chữ
Hán đăng trong Khảo - Cổ Tập- San . Chúng tôi nghĩ rằng nếu trích đăng
các sách dịch vào một tập -san xuất bản vô định kỳ thì không được đẩy
đủ , cho nên chúng tôi đã ngưng xuất- bản tập -san nầy trong 2 năm đề
ấn -hành những sách dịch của Viện Khảo -cổ , ngõ hầu đáp-ứng ý muốn
chính -đảng của quý độc-giả.
Nay chúng tôi vừa nhận được nhiều thư ở trong nước cũng như
ngoài nước gửi về yêu cầu tiếp-tục xuất-bản Khảo-Cổ Tập - San . Để
đáp lại thịnh tình của các bạn đọc thân mến, chúng tôi cho ấn -hành tập
số 4 này , tuy thề-tài có cải-tiền nhưng tôn-chỉ vẫn không thay đổi .
V. K. C.
cm.
1
1
1
Lam - bản cuốn
BỬU . CẦM
LỜI NÓI ĐẦU . Cách đây 7 năm, tôi có viết bài « Thanh-tâm
tài-nhận là ai ? » đăng trong Văn - Hóa Nguyệt-San , số 41, tháng
- →
VI —- 1959 , trang 557-561, và số 42 , tháng VII – 1959 , trang 694-700 .
Sau đó, tôi lại đem bài ấy quay ronéo và giảng cho các sinh-viên theo
học Chứng-chỉ Văn- chương Quốc- âm tại Trường Đại- học Văn-khoa
Sài- gòn niên - khóa 1962-1963 . Nhưng tôi nhận thấy tài- liệu dùng để
viết bài ấy chưa được đổi- dào, nên bây giờ viết lại cho được đầy đủ
hơn và đồi nhan - đề là : Lam - bản cuốn “ Đoạn - Trường Tân -Thạnh ,
của Nguyễn Du .
Gần đây , hai ông Lý Văn - Hùng và Bùi Hữu - Sủng cũng có viết bài
« Thanh-tâm tài - nhân là ai ? , đăng trong tạp- chi Bách - Khoa số 209
( số đặc- biệt về kỷ -niệm 200 năm sinh Nguyễn Du ) , ra ngày 15-9-1965,
trang 47-53 . Nhan- đề , tài liệu và luận -điệu trong bài của hai ông cũng
giống hệt như trong bài của tôi đăng ở Văn - Hóa Nguyệt - San năm
1959. Đó phải chăng là một sự trùng hợp ngẫu-nhiên và kỳ thú trong
văn - học Việt-nam hiện đại ?
Trong nửa thế kỷ nay , người ta đã bàn cãi rất nhiều về
nguồn gốc Truyện Kiều . Các thuyết phân -vân , tựu- trung chỉ
có ba thuyết sau này đảng được đưa ra thảo luận lại :
( 1 ) Ngu - sơ tân-chi : tên một tuyển tập truyện ngắn của nhiều
tác - giả , trong ấy có truyện Vương Thúy - Kiểu của Dư Hoài . Ngu
Sơ nguyên là tên một tiểu-thuyết-gia kiêm phương -sĩ đời Hán Vũ
đề thi ( 140-87 trước Tây-lịch ) . Thiên Nghệ -văn chỉ xả
trong Hán -thư k chép về tiểu- thuyết có ghi Ngu Sơ Chu thuyết
Ai là vì gồm 943 thiên . Theo lời chú thích của Nhan Sư-Cố Bộ Bộ
* thì Ngu Sơ là thủy -tố của tiểu - thuyết gia . Ngu Sơ đã từ một
đặc- hữu danh-từ (tên riêng ) trở thành một phố - thông danh - từ
( tên chung ) đồng nghĩa với tiểu -thuyết , và Ngu -sơ tân-chí nghĩa là
một bộ tiểu-thuyết mới soạn . ( Xem chữ Ngu Sơ bản trong Từ
nguyên lề và Từ hải Ô A , tập *, bộ t , 7 nét ; tham khảo
Hán-thư Nghệ- văn chí ) .
ấn thư quán , Trung-hoa Dân quốc năm thứ Io [ 192 : ] , tr. 302 ) .
6 →
số 30 , tháng 12 năm 1919 , tr. 480-500 ; thuyết thứ hai thấy trong
lời chú- thích bốn chữ Phong tình cổ- lục ở câu thứ 8 trong
Truyện Thủy - Kiều , do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo
(bản của Việt - văn thư - xã , Hà - nội , 1925, và các bản mới in của
nhà xuất- bản Tàn - Việt , Sài -gòn) ; thuyết thứ ba thấy trong
Việt-nam văn -học sử - yếu của Dương Quảng- Hàm (in lần thứ hai
tại nhà in Vũ -Hùng , Hà-nội , 1951 , tr . 363 ) .
Tôi đã có dịp được xem các bản Kiều chữ nôm , thấy
phần nhiều chép hai chữ « cổ lục » như thế này : f ( 1 ) . Chữ
- 7 -
1
¡
chữ lục j cũng có khi đọc là lúc . Theo Cụ Quỷnh -hiên Hồng
Trú (con của Tuy -lý - vương ) mà cách đây trên 20 năm tôi đã có
dịp được thụ - giáo , thì hai chữ ấy có thể đọc là có lúc. Tôi
hiện còn giữ được một bản Kiều chữ nôm do ông tôi chép
để lại , trong đó không còn mượn chữ lục y của Hán văn
để đọc là lúc nữa , mà đã viết rõ chữ lúc theo phép hài- thanh
của chữ nôm : chữ nhật a chỉ nghĩa ( thời- gian ) ghép với chữ
lục 5 ghi âm , do đó đọc là lúc.
tục , không đáng lưu truyền , nhưng Truyện Kiều mặc đầu cũng
là chuyện phong hình , song có đủ đường hiểu nghĩa , cho nên
có lúc còn được lưu -truyền trong sức sách .
chứ không phải là danh từ của Tàu ; vả lại không có tên chuyện
nào gọi là Phong -tình cổ - lục .
8
་« cổ lục » mà chỉ thừa nhận một trong hai thuyết có lúc ( 1 )
hoặc có lục .
Sau khi đã phê -phán thuyết của Phạm Quỳnh , cũng như
thuyết của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim , bảy giờ ta thử bàn qua
thuyết của Dương Quảng -Hàm .
Dương tiên - sinh cho rằng lam -bản của Truyện Kiều chữ
nôm là quyển Kim - Van - Kiều truyện bằng Hán văn của Thanh
tâm tài nhân , và tiên -sinh đã viện những lý lẽ sau đây để
bênh - vực chủ -trương của mình :
= 9
« sách ấy làm vào khoảng cuối thế kỷ thứ XVI hoặc đầu thể
« kỷ thứ XVII . » ( 1 ) .
ra làm quan nữa . Ông cho rằng trong thiên hạ (Trung -quốc) có 6
tác- phẩm thật giá - trị gọi là « lục tài tử » : Nam -hoa kinh nghi của
Trang-tr 莊子 , Ly-tao 離騷 cùa Khuât Nguyên 屈原 , Sr-ký 史記
của Tư mã Thiên a y , Luật thi { Ề } của Đỗ Phủ } , Thủy
hử truyện -ki của Thi Nại - Am tên nổi đâu ( có thuyết cho là của
La Quán - Trung ) và Tây - sương ký Độ Hồ 3 của Vương Thực
Phủ Đi đi . Ông có soạn những bài phê bình Thủy hử truyện ,
Tam -quốc chi diễn nghĩa và Tây -sương kỷ ; do đó ông được nổi
tiếng . Sau ông bị xử trảm vì vụ án khốc miếu ( 3 ). Sách
Khốc miếu kỷ lược gia nghi và Liễu -nam tùy bút tip in Hi chép về
vụ án khốc miều như thề này : “ Sau khi Thanh Thề tồn t
băng , ai - chiều đến Tô - châu kh (nay thuộc tỉnh Giang-tô i ak ),
các quan -viên từ tuần phủ trở xuống đều tới họp tại phủ trị .
Nhân đó , hàng trăm sinh - viên trong hạt kéo nhau đến tố- cáo viên
tri-huyện Ngô -huyện H là Nhâm Duy-Sơ (± 3
+ ? đã làm điều
trái phép : mua lúa gạo của nhà nước trữ trong kho thường bình
( *) với giá rẻ , nên đã khiến dân chúng căm hờn đến cực độ .
Nhưng tuần -phủ Chu Quốc-Trị kia bênh -vực viên tri -huyện và 1
buộc tội chư sinh đã vu cáo quan trên , ra lệnh bắt 5 người giam T
vào ngục . Hôm sau , chư sinh tới khóc tại Văn- miêu , lại thêm 13
người nữa bị bắt , trong số đó có Kim Thánh thán . Sau đó , tất cả
8 người bị khép tội xưởng loạn và bị xử trảm , tịch biên gia -sản .
( r ) Dương Quảng - Hàm , sách đã dẫn, tr . 363 , chú 8 .
( 2 ) Pháp - quốc Viễn đông Học - viện có một bản Truyện Kiểu
chữ Hán chép tay , đánh số A.953 , trên tờ mặt có để : f
7 ... (Kim - Vân - Kiều Thanh tâm tài tử quyền ... ) Sách gồm có
4 quyển , chia làm 20 hồi Đầu quyền thứ nhất (tờ 5a) có để :
Hoa gối mà ( Quán -hoa -đường bình luận ), ± 4 – ( Kim Vân
Kiều truyện quyền chi nhất), g* -* (Thánh thán ngoại thư) ,
đi tính ( Thanh -tâm tài tử biên thứ) . Quán -hoa- đường là
tên thư viện của Kim Thánh -thán . Đầu quyền sau cũng để y
như thế , chỉ đổi số quyền mà thôi . Bản Kiểu chữ Hán này đã
10 -
Cuốn Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du đã phỏng
theo truyện Kim - Vân -Kiều của Thanh - tâm tài- nhân , đó là
điều không đáng nghi-ngờ gì nữa . Nhưng còn điều này vẫn
-
làm cho nhiều người thắc mắc : Thanh- tâm tài nhân tên thật
là gì ? Thân -thế ra sao ?
Thì đây , trong sách Kim Vân Kiều bình giảng Âu3 đây
của Lý Văn-Hùng *** (in tại Gia- hoa ẩn -loát công ty , Chợ
lớn , 1955) , trang 294, ở bài Vương Thủy- Kiều truyện giới- thiệu
王 翠翘 傳 介紹 , Triêu Thuóng 趙 賞 có dra ra mot giå-thuyët moi :
« · 嘉靖 卅 三年 , 詔命 胡宗憲 督 師 綏靖 , 屢 戰 不
利 , 乃 改行 誘降 計 , 海 誤 聽 遊說 , 解甲 歸 誠 , 竟遭 誅
戮 , 而 宗憲 食言 , 强迫 翠翘 配合 土 酋 處 此 絕 境 , 生
無可 戀 , 乃 湧 身 錢塘江 怒濤 , 還 我 清白 , 了 却 斷腸 .
後人 哀 之 , 為 續 金 王 再 會 , 破鏡重圓 , 青 心 才 人 編
次 ( 考證 即 徐文 長 ) 金 雲 翹 傅 , 貴 華堂 金聖嘆 氏 加
以 評述 , 而 余懷氏 也 作 王 翠翘 傳 , 刊 於 虞 初 新 誌 =
... Gia- tĩnh trấp ( tạp ) tam niên, chiếu mệnh Hồ Tông- Hiến
đốc sư tuy tĩnh , lũ chiến bất lợi , nãi cải hành dụ hàng
kể , Hải ngộ thính du thuyết , giải giáp quy thành , cảnh tạo
tru- lục ; nhi Tông - Hiển thực ngôn , cưỡng bách Thủy- Kiều
phối - hợp thổ -tù . Xử thử tuyệt cảnh , sinh vô khả luyến , nãi
dũng thân Tiền - đường giang nộ đào , hoàn ngã thanh bạch ,
-11-
liễu kiếp đoạn trường . Hậu nhân ai chi , vi tục Kim Vương tải
hội , phá kính trùng viên , Thanh tâm tài- nhân biên thử (khảo
chứng tức Từ Văn trường ) Kim -Văn -Kiều truyện , Quán hoa
đường Kim Thánh - thán thị gia dĩ bình thuật , nhi Dư Hoài thị
đã tác Vương Thúy- Kiều truyện , san ư Ngu -sơ tàn - chí = ... Năm
Gia -tĩnh thứ ba mươi ba ( 1 ) , vua sai Hồ Tong - Hiến đem binh
đi đánh dẹp Từ Hải , nhưng đánh mãi không thẳng- lợi, mới
đổi sang kế dụ hàng ; Từ Hải lầm nghe theo lời du thuyết,
cởi giáp quy - hàng , rồi bị tru -lục (2 ) . Tông - Hiến không giữ lời
hứa , ép Thủy - Kiều lấy viên thổ -tù . Gặp cảnh ngộ tuyệt- vọng
ấy , Thủy - Kiều không còn luyến tiếc đời sống nữa , đành gieo
mình trên ngọn sóng Tiền -đường dễ giữ sự thanh bạch và
-- 12
kết - liễu kiếp đoạn trường . Người sau thương xót cho nàng ,
mới nối theo đó mà đặt ra chuyện Kim Trọng và Thủy - Kiều
tái- hợp , gương vỡ lại lành : Thanh -tâm tài-nhân ( khảo chứng
tức Từ Văn - trường) soạn Kim -Vân - Kiều truyện , Quán -hoa
đường Kim Thánh - thán thêm lời bình thuật ; Dư Hoài cũng
viết truyện Vương Thủy Kiều , in vào Ngu -sơ tàn -chí, »
( 涂 渭 · 明 浙江 山陰 人, 字 文 長 ‧ 一 字 天池 ‧ 諸 生 ‧ 天 才
超逸. 詩文 書畫 皆 工. 客 總督 胡宗憲 幕, 以 草 獻 白鹿 表
負 盛名 . 知 兵· 好奇 計. 宗憲 擒 徐海 誘 王 直 皆 預 其 謀.
宗憲 下獄, 渭 懼禍 發狂, 自我 不死 , 遂 殺 其妻· 繫 獄 久
之 得 免 ‧ 晚 又 號 青藤 , 常 自 言 吾言 第一. 詩 二. 文 三• 肃
四. 識 者 題 之, 有 路 史 分 彩筆 元 要旨 . 徐文 長 集. 於 三 教
及
kỳ方 技
để 書• 多
ý 有 箋
* 注= Từ Vị , Minh Chiết- giang Sơn - âm nhân ,
tự Văn -trường , nhất tự Thiên -trì, chư sinh , thiên tài siêu dật , thị
văn thư họa giai công. Khách tổng -đốc Hồ Tong -Hiến mạc , dĩ
thảo hiến bạch lộc biểu phụ thịnh danh . Tri binh , hảo kỳ kế
Tông- Hiến cầm Từ Hải , dụ Vương Trực , giai dự kỳ mưu .
Tong- Hiến hạ ngục , Vị cụ họa phát cuồng , tự tường bất tử ,
toại sát kỳ thê , hệ ngục , cửa chi đắc miễn . Văn hựu hiệu
Thanh đẳng . Thường tự ngôn ngô thư đệ nhất, thi nhị, văn
tam , họa tử ; thức giả vĩ chi . Hữu Lộ sử phân thích , Bút nguyên
yếu chỉ , Từ Văn - trường tập . U tam giáo cập phương - kỹ thu
đa hữu tiên chủ = Từ Vị , người đời Minh , ở huyện Sơn- âm ,
tỉnh Chiết - giang , tên chữ là Văn - trường , lại cũng có tên chữ
là Thiên-trì , vốn là sinh - viên , có thiên -tài khác thường , sở
trường cả bốn món : thơ , văn , viết , vẽ . Làm mạc - khách cho
tổng-đốc Hồ Tông - Hiến , Vị thảo tờ biểu dâng hươu trắng lên
vua mà được nổi tiếng . Vị biết việc binh , có lắm kế lạ , đã
bàn mưu giúp Tông- Hiến bắt Từ Hải và dụ Vương Trực ( 1 )
Lúc Tông- Hiển bị hạ ngục vì có tội ( 2) , Vị sợ vạ đến mình
nên phát cuồng, tự giết mình nhưng không chết ; sau vì giết
vợ nên bị bắt bỏ tù , lâu rồi được tha . Lúc già , Vị lại có biệt
hiệu là Thanh đẳng . Vị thường nói rằng : « Thư - pháp của tôi
13 -
là thứ nhất , thơ thứ nhì , văn thứ ba , vẽ thứ tư ». Hạng thức
giả cho lời nói ấy là đúng . Vị có soạn những sách : Lọ sử
phân thích , Bút nguyên yếu chỉ, Từ Văn trường tập . Ngoài ra
Vị còn chú- giải các sách về tam - giáo và về phương -kỹ ( 1 ) . »
( Trung -quốc nhân- danh đại từ - điền ¢ & + # , Thượng
hải, Thương- vụ ẩn thư -quán , 1921 , tr. 791 ) .
《 徐渭 , 明 山陰 人 , 字 文 長 , 以 諸 生客 總督 胡宗憲 幕 ;
知 兵 , 好奇 計 , 擒 徐海 , 誘 王 直 , 皆 與其 謀 ; 善 古文 辭 , 書
畫 亦 超逸 ; 後 發狂 疾 , 殺妻 繫 獄 得 免 , 浪 遊 二 京 及 遼 塞 以 終
Từ Vị , Minh Sơn- âm nhân , tự Văn - trường , dĩ chư sinh
khách tổng đốc Hồ Tong - Hiến mạc ; tri binh, hảo kỷ kế , cầm
Từ Hải , dụ Vương Trực , giai dự kỳ mưa ; thiện cổ văn từ ,
thư họa diệc siêu dật ; hậu phát cuồng tật , sát thê hệ ngục
đắc miễn , lãng du nhị kinh cập liêu tái dĩ chung = Từ Vị ,
người đời Minh , ở huyện Sơn - âm , tên chữ là Văn trường , lấy
tư-cách sinh - viên làm mạc -khách của tổng-đốc Hồ Tông- Hiến
biết việc binh , lắm kế lạ , đã bày mưu giúp Tông- Hiển bắt
Từ Hải , dụ Vương Trực ; giỏi văn-từ, viết và vẽ cũng siêu
dật ; sau phát bệnh cuồng , giết vợ , bị giam vào ngục rồi được
tha ; từ đó đi du -lịch hai kinh và các cửa ải xa rồi chết . »
(Tir nguyên 辭 源 , dàn tap 寅 集 , xich b 彳 部 , thăt hoach 七 畫 ).
《 徐渭 , 明 山陰 人 , 字 文 長 , 一字 天池 , 晚 號 青藤 , 天
才 超拔 , 善 書畫 , 工 詩文 , 以 諸 生 居 總督 胡宗憲 暮 , 參與
兵 諜 , 出奇制勝 , 屢 佐 宗憲 立功 。 宗憲 敗 , 發狂 , 以 殺妻
下 獄 , 尋 得 釋 , 浪 遊 以 終 。 著 有 路 史 分 釋 , 筆 元 要旨 及 徐
文
* 長
* 集
* == Từ Vị , Minh Sơn -âm nhân , tự Văn trường , nhất tự
Thiên- trì , hiệu Thanh đẳng , thiên tài siêu bạt , thiện thư họa ,
công thi văn , dĩ chư sinh cư tổng-đốc Hồ Tông -Hiến mạc , tham
dự binh mưu , xuất kỳ chế thắng , lũ tá Tông - Hiến lập công.
Tong- Hiến bại , phát cuồng , dĩ sát thê hạ ngục , tầm đắc thích ,
lãng du dĩ chung . Trử hữu Lộ sử phân thích, Bút nguyên yếu
chỉ cập Từ Văn - trường tập – Từ Vị , người đời Minh , ở huyện
Sơn - âm , tên chữ là Văn- trường , lại có tên chữ là Thiên-trì ,
lúc già lấy hiệu Thanh - đẳng , có thiên tài hơn người , viết và
― 14 -
vẽ đẹp , thơ văn hay , lấy tư-cách sinh- viên làm mạc-khách của
tổng đốc Hồ Tông -Hiến , dự vào mưu-lược, bày kế lạ thắng
được quân địch , giúp Tông-Hiển lập nhiều công . Sau khi
Tông - Hiến thất-bại , Vị phát cuồng, phạm tội giết vợ nên bị
tù , rồi được tha , từ đó lãng- du rồi chết . Vị có soạn những
sách : Lộ sử phân thích , Bút nguyên yếu chỉ và Từ Văn -trường
tập . » ( Từ hải ấy , dần tập, xích { bộ , thất hoạch ) .
( i ) Đại -lược bài Từ Văn - trường truyện của Viên Hoành - Đạo
như sau : « Từ Vị, tự Văn trường , học trò ở huyện Sơn - âm , nối
tiếng về văn chương , đã được Tiết Công - Huệ mền tài , liệt vào
hàng quốc - sĩ . Nhưng số kiếp lao - đao , Văn-trường đi thi mấy lần
đều trượt . Trung - thừa Hổ Tông - Hiền nghe danh Văn trường, nên
mời làm mạc- khách . Văn trường đã dự vào những việc binh-mưu
và được Tông- Hiền tin dùng . Nhưng rốt cuộc vẫn ôm một nỗi
bất-đắc-chí, phải mượn rượu làm khuây , rồi dấn bước giang hồ ,
gửi tình vào non xanh nước biếc . Cuộc lãng- du ấy đã giúp cho
Văn-trường rất nhiều thi- liệu . Bởi vậy , thơ của Văn - trường như
giận hờn , như cười cợt , như nước réo gểnh , như hạt giống này
mầm trồi lên mặt đất , như người goá-bụa than khóc lúc đêm khuya ,
như khách xa nhà chợt tỉnh giấc hương - quan giữa cơn lạnh lẽo .
Song Văn -trường không chịu hòa hợp với người đời , nên thanh
danh của tiên -sinh không ra khỏi vùng đất Việt ( Chiết-giang ) . Văn
trường viết đẹp , bút ý cũng bôn-phóng như lúc làm thơ . Nét vẽ
hoa và chim của Văn trường cũng thanh-cao siêu - dật . Lúc tuổi
già , Văn- trường lại càng phẫn - hận , ngông -cuồng , có khi cự tuyệt
cả những người quý -hiền tới viếng thăm . Người ta thường thấy
Văn-trường mang tiền ra quán rượu , gọi những kẻ ngang hàng
tôi tớ mình cùng ngồi đánh chén . Có khi Văn -trường cầm búa tự
bổ vào đầu , máu chảy đầy mặt, hoặc cầm dùi nhọn đâm thủng
hai tai, nhưng cũng không chết được . Một người có tài như thế
mà phải phải ôm mỗi uất-hận đền trọn đời , đáng thương thay ! »
15 -
của Từ Vị ( 1 ) , nhưng cũng không đề cập Kim - Vân -Kiều truyện .
nàng Mộc- Lan tùng quân thay cha , vở Thủy hương mộng
thuật việc Nguyệt-minh hòa thượng độ nàng Liễu - Thúy , là
hai biệt - hiệu Thanh - đằng đạo sĩ Tiki +, Thiên- trì sơn -nhân
16 A
: Hồ Hành- Chi 3f2 có bàn về Từ Vị và Tử thanh viên
nhr sau : 徐渭 為 中國 文人 最 奇特 之 一個 。 他 的 生平 的
言 動 , 有 許多 是 成為 極 有趣 的 民間 故事 的 。 他 所作 四個
雜劇 總 名為 四聲 猿 , 乃 他 生平 最 得意之作 。 分開 來說 ,
則為 漁陽 弄 , 翠 鄒 夢 , 雌 木蘭 > 女 狀元 。 漁陽 弄 乃是 叙 補
衡 在 冥 中 復 演 擊鼓駡曹 操 的 故事 ; 翠 鄉 夢 乃 是 叙 玉 通 禪
師 因 妓女 紅 運 而 破戒 事 ; 雌 木蘭 即 係 叔 木蘭 詞 的 故事
不過 添 一個 王郎 為 木蘭 之 夫 ; 女 狀元 乃 叔 女子 黄崇 嘏 换
男装 考中 狀元 事 。 後人 仿 此 體 而 作者 甚多 > 最 著 的 為 清
桂馥 的 後 四聲 猿 = Từ Vị vi Trung quốc văn nhân tối kỳ
đặc chi nhất cá . Tha đích sinh bình đích ngôn động , hữu
hứa đa thị thành vi cực hữu thú đích dân gian cố sự đích .
Tha sở tác tử cá tạp kịch , tổng danh vi Tử thanh viên , nãi
tha sinh bình tối đắc ý chi tác . Phân khai lại thuyết , tắc vi
-
Ngư - dương lộng , Thủy - hương mộng , Thư Mộc Lan , Nữ
trạng -nguyên . Ngư -dương lòng nãi thị tự Nỗ Hành tại minh
trung phục diễn kích cổ mạ Tào Tháo đích cố sự ; Thúy
hương mộng nãi thị tự Ngọc - Thông thiền sư nhân kỹ nữ
Hồng Liên nhi phá giới sự ; Thư Mộc - Lan tức hệ tự Mộc- Lan
từ đích cố sự, bất quá thiêm nhất cá Vương-lang vi Mộc-Lan
chi phu ; Nữ trạng -nguyên nổi tự nữ tử Hoàng Sùng- Giả (Cổ)
hoản nam trang khảo trúng trạng-nguyên sự . Hậu nhân phỏng
thử thể nhi tác giả thậm đa , tối trứ đích vi Thanh Quế Phúc
đích Hậu từ thanh viên – Từ Vị là một nhà văn rất kỳ dị
đặc biệt của Trung -quốc . Bình sinh ông có nhiều ngôn ngữ và
hành động đã trở nên những câu chuyện vô cùng thủ- vị trong
dân gian . Bốn vở kịch do ông soạn , gọi chung là Tứ thanh
viên , ấy là tác -phẩm mà ông lấy làm đắc ý hơn hết. Chia ra
mà nói , thì bốn vở kịch ấy là Ngư -dương lộng , Thủy hương
mộng , Thư Mộc- Lan và Nữ trạng nguyên . Ngư - dương lộng
thuật chuyện Nễ Hành trong chốn u- minh diễn lại việc đánh
trống chửi Tào Tháo ; Thủy -hương mộng thuật chuyện Ngọc
Thông thiền - sư vì nàng kỹ nữ Hồng- Liên mà phá giới ; Thứ
Mộc- Lan thuật chuyện trong Mộc-Lan từ, chẳng qua thêm một
nhân vật Vương- lang làm chồng của Mộc- Lan ; Nữ trạng
nguyên thuật chuyện nàng Hoàng Sùng- Giả (Cỗ) cải nam-trang
thi đỗ trạng nguyên . Người sau bắt- chước làm theo thẻ ấy rất
Chudan 17 WEL
nhiều , nổi tiếng hơn hết là tác phẩm Hậu từ thanh viên
của Quế Phúc đời Thanh » ( 1 ) .
《 或 謂 文 長 四 曲 , 俱 有 寄託 。 余 嘗 考 之 : 文長 佐 胡 梅
林宗憲 幕 , 時 山陰 某 寺僧 頗有 遗 行 , 文 長 曾 嗾 梅林 以 他
事 殺 之 [...] 又 文 長 之 繼 室 張 , 才 而 美 , 文 長 以 狂 疾 手 殺
之 。 又文 長 助 梅林平 徐海 之 亂 , 嘗 結 海 妾 翠翘 , 以為 內
援 ; 及 事 定 , 翠翘 失 志 死 , 吾 鄉 泰 膚 雨 曾 作 翠翘 歌 以 弔
之 [ .] 故 所作 四聲 猿 : 翠 鄉 夢 , 弔 寺僧 也 ; 木蘭 女 , 悼 翠
想 也 ; 女 狀元 , 悲 繼 室 張氏 也 = Hoặc vị Văn - trường tử
khúc, câu hữu ký thác . Dư thường khảo chi : Văn trường tá
Hồ Mai- lâm Tông -Hiến mạc , thời Sơn - âm mỗ tự tăng phả hữu
di hạnh , Văn -trường thốc Mai- lâm dĩ tha sự sát chi [... ] Hựu
Văn-trường chi kế thất Trương , tài nhi mỹ , Văn -trường dĩ
cuồng tật thủ sát chi . Hựu Văn trường trợ Mai- làm bình Từ
Hải chi loạn , thường kết Hải thiếp Thủy - Kiều , dĩ vi nội viện
cập sự định , Thúy- Kiều thất chí tử, ngô hương Tần Phu- vũ
tẳng tác Thủy- Kiều ca dĩ điều chi [ …. ] Cố sở tác Tứ thanh
viên : Thủy- hương mộng , điếu tự tăng dã ; Mộc -Lan nữ , điệu
1
Thủy- Kiều dã ; Nữ trạng- nguyên , bị kế- thất Trương-thị dã =
Có người nói rằng trong bốn vở kịch của Tử Văn - trường đều
có sự kỷ - thác . Tôi xét thì thấy : trong thời -gian Văn -trường
giúp Mai - lâm Hồ Tông -Hiến , ở Sơn -âm có một nhà sư nết
hạnh không tốt , Văn -trường xúi giục Mai-lâm mượn có mà
giết nhà sư ấy đi [ ... ] Vợ kế của Văn trường là Trương
thị, có tài và đẹp , Văn -trường vì phát cuồng nên đã tự tay
giết nàng . Văn -trường giúp Mai- lâm dẹp loạn Từ Hải , liên
lạc với vợ lẽ của Hải là Thủy - Kiều để nhờ nàng làm nội - viện ;
đến lúc việc yên , Thủy -Kiều thất chi mà chết ; người ở làng
tôi là Tần Phu- vũ có làm bài Thúy Kiều ca đề điếu nàng [ … ]
Bởi vậy , Văn-trường soạn tập kịch Tử thanh viên với chủ- ý
này : vở Thúy hương mọng đề điếu nhà sư, vở Mộc- Lan nữ
Bryden 18 ---
đề truy - điệu Thúy- Kiều , vở Nữ trạng nguyên đề xót thương
cho bà vợ kể họ Trương . » ( 1 )
(3 ) Tưởng Thụy -Tảo, sđd , tr. 532 , có thuật lời phê-bình của
tiên -nho đối với Tử thanh viên như : « Văn - chương hùng- mại hào
tuấn, đọc lên thật khoái chá nhân khẩu , nhất là những bài từ khúc
GSMA 19
Trong Quan-lüng dw trung ngàn tre bien 閻 龍與 中 偶 憶 編 ( 1 ) có
chép chuyện này và có dẫn hai câu thơ liên- quan đến Thủy
Kiều và Thanh đẳng ( hiệu của Từ Vị ) :
翠翘 己 死 青藤 老
恨 海 茫茫 又 - 聲
PHIÊN ÂM
DỊCH NGHĨA
của Văn trường có giá - trị rất lớn . ” Sau đây xin trích một đoạn
từ khúc trong vở Nữ trạng -nguyên đề quý độc- giả đồng lãm :
浣花溪 外 ·
茅舍 純 浣花溪 外 ·
是 詩人. 杜 老宅 ·
何處 野 人
. 扶杖 ·
敲響 扉 柴 。
况 久 相依 不是 纔 。
幸 梨 棗 熟 霜 薺
我 我 的 即 你 我
儘 取 長竿 袋
打撲 頻來 。
舖 餐 權 代 。
我 恨不得 填 滿 了 普 天 饑 債 。
PHIÊN ÂM
- 20
Sách Tiêu hạ nhân kỳ Kh cũng cho chúng ta biết
một tấn bị-hài kịch đã xảy ra tại đại-bản-doanh của Hồ Tông
Hiến mà nhân - vật chủ động là Từ Vị và Thủy - Kiều :
《 山陰 徐文 長 , 客 胡宗憲 中丞 幕 。 宗憲 平 倭寇 徐海 ,
遣 諜 厚 賂 海 所幸 妓 王 翠翘 , 使 說 海 降. 海 死 , 胡 納 翠翘 為
妾 , 時 翹 寫 僧舍 , 文 長 欲 窺 之 , 服 僧 衣帽 , 自 牆外 與之 戲 。
宗憲 知 之 怒 , 悉 集 僧 , 令 翠翹 諦觀 , 誤 指 貌似 者 , 遂 殺 之
後 文 長 歸 , 瞥見 繼 室 與 僧 共 卧 , 手刃 之 , 乃 繼 室 也 ; 下獄
論 死 , 張 太史 元 忭 力 解 得脫 = Sơn - âm Tử Văn - trường ,
khách Hồ Tong - Hiến trung thừa mạc . Tông -Hiển bình nụy ( oa)
khẩu Từ Hải , khiển điệp hậu lộ Hải sở hạnh kỹ Vương Thủy
Kiều , sử thuyết Hải hàng . Hải tử, Hồ nạp Thủy -Kiều vi thiếp .
Thời Kiều ngụ tăng xá , Văn -trưởng dục khuy chi , phục tăng
y mão , tự tường ngoại dữ chi hỷ . Tong -Hiến trí chi nộ , tất
tập tăng, linh Thủy- Kiều đế quan , ngộ chỉ mạo tự giả , toại sát
chi . Hậu Văn - trường quy, miết kiến kế- thất dữ tăng cộng ngọa ,
thủ nhận chi , nãi kể- thất dã ; hạ ngục luận tử , Trương thái- sử
Nguyên - Biện lực giải đắc thoát = Từ Văn - trường , người ở
TẠM DỊCH
21
Sơn - âm , làm mạc - khách của trung- thừa Hồ Tông - Hiển . Tông
Hiến đánh giặc lùn Từ Hải ( 1 ) , sai gián-điệp đút lót cho người
xướng- kỹ yêu dấu của Hải là Vương Thủy - Kiều , khiến nàng
khuyên Hải hàng. Sau khi Hải chết , Hồ nạp Thủy - Kiều làm
vợ lẽ . Lúc bấy giờ Kiều ngụ tại nhà chùa , Văn -trường muốn
dòm nàng , mới mặc áo đội mũ nhà sư, đứng ở ngoài tường,
đùa cợt với nàng. Tông Hiến biết việc ấy, giận lắm , cho
tập - hợp các sư trong chùa lại , rồi bảo Thủy -Kiều nhìn
mặt ; Kiều chỉ làm một ông sư giống với người đã trêu
ghẹo nàng , Hồ liền giết nhà sư ấy đi . Sau Văn -trường
trở về nhà , chợt thấy vợ kế của mình nằm chung với
một nhà sư , bèn đâm chết tình - địch , nhưng khi nhìn
kỹ nạnnhân lại là bà vợ kể. Vì thế nên Văn-trường bị bắt
giam và bị kết án tử hình , song nhờ có thái sử Trương
Nguyên- Biện hết sức cứu cho mà được khỏi tội » .
- 22 --
nàng còn làm vợ Từ Hải , hai người đã gặp nhau nhiều lần ,
lẽ nào Thủy-Kiều không biết mặt Văn-trường mà phải nhận
lầm ? Nhưng vì muốn gỡ tội cho Văn-trường , nàng đã bắt
một nhà sư vô tội phải chịu chết oan . Có lẽ Văn-trường và
Thúy- Kiều đã mến nhau từ buổi mới quen nhau . Đó cũng
là sự thông - cảm tự nhiên giữa giai - nhân và tài- tử . Văn
trường muốn cướp Thủy - Kiều trên tay Từ - Hải , nhưng
sau khi Hải chết, Hồ Tông-Hiến lấy Thủy Kiều làm vợ lẽ, ấy
là điều trái với lòng mong muốn của Văn trường . Đến lúc
Hồ Tong- Hiến chân Thúy- Kiều , hoặc là vì sợ thiên - hạ chê
cười , triều -đình khiểntrách , nên ép gả Thúy- Kiều cho
một viên thầ-tù , ấy lại là điều trái với ước vọng của
Thủy -Kiều . Cải hành động duy lý trí phản tình cảm của
nhà chính trị kiêm võ tướng Hồ Tông - Hiến đã làm cho
Thủy -Kiều phải tự tận , Văn -trường phải rối loạn thần
kinh rồi dấn bước giang hồ để tìm niềm an- ủi trong cuộc
lãng-du .
Đào Vọng- Linh xem , cả hai người cùng thưởng thức và cho
là hay, bèn đem khắc in đề lưu -hành ở đời . »
23 ---
có nói đến những tác- phẩm của Văn -trường làm trong lúc
vãn -niên ( 1 ) như sau :
« 周 望 言 晚 歲 詩文 益 奇 , 無 刻本 , 集藏 於 家 [...] 余 所
-
見 者 , 徐文 長 集 開 編 , 二 種 而 己 Chu Vọng ngôn vẫn tuế
thi văn ich kỳ , vô khắc bản , tập tàng ư gia […. ] Dư sở kiến
giả , Từ Văn -trường tập khuyết biên , nhị chủng nhi dĩ – Chu
Vọng nói rằng Văn trường lúc tuổi già làm thơ văn lại càng
lạ - lùng , nhưng không có khắc bản , chỉ soạn thành tập và cất
ở nhà [ …. ] Thi- văn -tập của Từ Văn trường mà tôi được xem
không đủ bộ , chỉ có hai loại thôi . »
Thế là có nhiều tác phẩm của Văn trường còn tiềm -tàng
trong bóng tối . Có lẽ Kim - Văn -Kiều truyện là một trong số
những tác phẩm của Văn trường làm vào buổi văn niên và
chưa được công bố trong lúc tác giả còn sống . Người sau dọc
cáo - bản tiểu -thuyết ấy , thấy hay , mới đem khắc và in ra đề
cống hiến cho đời
Cái biệt- hiệu Thanh tâm tài nhân của tác giả đề ngoài bia
quyển tiểuthuyết cũng cần đưa ra thảo luận lại . Như chúng
ta đã biết . Từ Văn trường lúc già lấy biệt- hiệu là Thanh đằng
T ; có lẽ khi soạn Kim -Vân - Kiều truyện , Văn trường đã dồi
hiệu Thanh đẳng ra Thanh -tâm tư . Hai chữ Thanh - tâm viết
như vậy hẳn có dụng ý : hai chữ ấy ghép lại với nhau và
đặt chữ tâm † trước chữ thanh . thì hóa thành chữ tình là ,
và Thanh -tâm tài nhân có nghĩa là « đa - tinh tài -tử » . Kim
Vân - Kiều truyện cho độc giả thấy trong đó tác giả đã kỷ- thác "
rất nhiều : tác - giả đã tự miêu- tả trạng - mạo và tâm- lý của
chính mình qua nhân - vật Kim Trọng , một khách chung tình
( chữ Kim £ và chữ Trọng * ghép lại thành chữ chung ) .
Thể thì Kim Trọng và Thanh làm , xét theo lối chiết-tự , có
nghĩa là chung tình . Nếu quả thật tác phẩm này do Từ
.. }
(r ) Theo sách Chiết -giang thông chí , quyền r8o , tờ 28b - 2ga , thì
Từ Vị lúc già rất nghèo , phải bán văn đề nuôi thân , và ngoài Từ
Văn -trường tập , Vị còn soạn Anh- đào quán tập từ PERE A cùng chú .
giải Trang-tử nội thiên đề 7 g ẩm , Tham đồng khi 4 3, Hoàng đế
tó-ván 黄帝 素 問 , Quách Phác táng thu 郭璞 葬書 , Tu thu 四 書 ,
Thủ - lăng - nghiêm kinh ¥ 13
-24 ―――
Văn trường soạn ra, thì nó là một vật kỷ -niệm bất-diệt về
mối tinh uẫn giữa Văn-trường và Thủy - Kiều , giữa một tài tử
đa- truân ( 1 ) và một giai -nhân bạc- mệnh .
( z ) Mặc dầu suốt đời gặp nhiều điều bất mãn , nhiều nỗi gian .
nan , nhưng Văn - trường lúc nào cũng tỏ ra là một con người kỳ dị
và có khi phách ngang tàng . Sau đây xin kể hai giai thoại về Từ
Văn trường được chép trong Minh sử, quyền 288 , tờ 2b :
(2) Truyện Nguyễn Du trong Đại Nam chính biên liệt truyện
sor tàp 大南正 編 列傳初 集 , quyên XX , tò ga chép : 《 清 使還 以北 行
***
THANHTH = Thanh sử hoàn , dĩ Bắc hành thi tập cập
Thúy -Kiều truyện hành thế = Sau lúc đi sứ sang nhà Thanh về ,
ông có Bắc hành thi tập và Thúy Kiều truyện lưu hành ở đời . »
- 25
Một điều đáng chúý là tên quyển tiểu thuyết bằng
văn vần của Nguyễn Du có mối tương-quan mật thiết
với nhan-đề tập kịch của Từ Văn-Trường : Tử thanh viên.
Như trên đã nói , Tử thanh viên nghĩa là « vượn kêu
bốn tiếng ↑
tiếng » . Sách Sưu thần hậu ký từ phá kể rằng : “ Có
người giết con vượn con , vượn mẹ kêu lên rất thê thảm
Tất cả những chứng-cứ tôi vừa nêu lên có thể cho phép
chúng ta vin vào đó dễ đưa ra giả -thuyết rằng Thanh - tâm tài
nhàn t^ là một biệt - hiệu của Từ Vị ở và sách
Kim Vân- Kiều truyện của Thanh tâm tài- nhân là làm bản
cuốn Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du .
BỬU CẨM
---- 26
Sources du'ĐOẠN - TRƯỜNG TÂN – THANH
de Nguyễn Du
→ 27
2 ) Le Kiều s'est inspire dua conte du Phong tình cổ lục
(Recueil d'anciennes histoires d'amour).
28
De ces trois thèses, laquelle nous semble la plus
convaincante ?
29
1
1
chinois le caractère co pour transcrire le mot vietnamien có,
et le caractère luc se prononce parfois lúc. D'après Quýnh I
hiện Hồng Trứ ( un des fils de Tuy-lý- vương) dont , il y a plus
de vingt ans , nous avons eu l'honneur de recevoir l'enseignement,
les deux caractères cố lục peuvent se prononcer có lúc . Nous
conservons de notre grand - père un exemplaire du Kiều en
nôm dans lequel on n'emprunte plus le caractère lục aux I
( r ) Cf. Nguyễn - văn -Tố , Tài -liệu đề đinh chính những bài văn
cổ (Documents destinés à rectifier les textes littéraires anciens),
Tri - tân , n ' 66 du 14-10-1942 , P 8 :
D'aucuns lisent :
― 30 skogs
Après avoir passé en revue la thèse de Phạm Quỳnh ,
ainsi que celle de Bùi Kỷ et Trần -trọng - Kim , examinons
maintenant la thèse de Durong- quảng- Hàm.
( I ) Cf. Dương - quảng -Hàm , Việt- nam văn- học sử yếu , (Précis
d'hitoire de la littérature du Việt- Nam) , 2e édition Vũ Hùng , Hanoi,
1951, p. 362 .
- - 31 -
l'ouvrage a été composé à la fin du XVIe ou au début du
XVIIe siècle. » (1 ) .
32 mage
Reste un point obscur qui préoccupe nombre de lettrés :
quel est le nom véritable de celui qui a pris le pseudonyme de
Thanh - tâm tài- nhân ? Quelle était sa vie ?
de la Belle maison natale ) , Kim -Vân - Kiều truyện , quyền chi nhất ,
( Kim-Vân- Kiều , roman , tome premier) , Thánh -thán ngoại thư ,
(Jugements de Thánh-thán sur des ouvrages non classiques) , Thanh
tâm tài-tử biên-thứ, Roman de Thanh - tâm tài-tử) . Quán -hoa - đường
est le nom de la bibliothèque de Thánh- thán. Les tomes suivants
portent en tête la même mention , au numéro du tome près. Cet
exemplaire du Kiểu en caractères chinois a été traduit en vietnamien
par M. Nguyễn- duy - Ngung ; la traduction qui porte le titre de
Kim -Vân -Kiều tiểu-thuyết (Kim - Vân - Kiều , roman ) a été éditée par
la librairie Tân-dân à Hanoi en 1928.
Dương -quảng- Hàm (Việt -Nam Văn- học sử -yếu , p 362 ) a parlé
d’un exemplaire du Kim Vân - Kiểu truyện en caractères chinois
imprimé sur des presses de bois. Cet exemplaire comprend
également 4 tomes divisés en 20 chapitres. En tête de chaque
tome , figure la mention : Quán - hoa - đường bình- luận , Kim -Vân -Kiều
truyện, quyền chi... ( Note et commentaires de la Belle maison natale,
Kim -Vân- Kiểu , roman , tome ... ) , Thánh -thản ngoại-thư (Jugements
de Thánh-thán sur les ouvrages non classiques ), Thanh - tâm tài nhân
biên thử (Roman écrit par Thanh-tâm tài -nhân ). Et Dương - quảng
Hàm a mis cette note : Une transcription erronée a changé, dans
de nombreux manuscrits, le caractère nhân (homme) en caractère
tử (garçon, maître).
33 -
d'éditions Gia-hoa et Compagnie, Cholon, 1955 , p 294 )
comporte un article intitulé Vương Thúy Kiều truyện giới
thiệu ( Présentation du Vương Thủy - Kiều , roman ) , Triệu
Thưởng a soutenu une thèse nouvelle :
( tạp ) tam niên , chiếu mệnh Hồ Tong -Hiến đốc sư tuy tĩnh ,
lũ chiến bất lợi , nãi cải hành du hàng kế , Hải ngô thính du
thuyết , giải giáp quy thành , cách tạo tru -lục ; nhi Tông Hiến
thực ngôn , cưỡng bách Thủy - Kiều phối- hợp thổ tù . Xử thử
tuyệt cảnh , sinh vô khả huyện , nãi dũng thân Tiền đường
giang nộ đào , hoàn ngã thanh bạch , liễu kiếp đoạn trường .
Hậu nhân ai chi, vi tục Kim Vương tái -ngộ , phá kính trùng
viên , Thanh - tâm tài nhân biên -thử (khảo - chứng tức Từ Văn
trường ) Kim -Vân -Kiều truyện, Quán- hoa -đường Kim Thánh
thán thị - gia dĩ bình thuật , nhi Dư Hoài thị dã tác Vương
Thúy -Kiều truyện , san ư Ngu - sợ tin - chi : ... « En la 33e année
de l'ère Gia- tĩnh (1 ) , l'Empereur de Chine donna l'ordre à Hồ
tông- Hiến de mater le soulèvement de Tur Hải , mais les combats
n'aboutirent à aucune victoire décisive des troupes impériales ;
on changea alors de tactique en essayant d'amadouer Từ Hải
et de l'amener à se rendre ; Từ Hải tomba dans le panneau,
(1) En 1554 .
thiếp thụ Tông Hiền lộ , diệc thuyết Hải [... ] Hải toại khắc nhật
thỉnh hàng [… ]. Hải tự trạch Trầm trang đồn kỳ chúng . Trẩm
trang giả , đông tây các nhất , dĩ hà vi tiện Tông Hiến cư Hải
Đông-trang , dĩ Tây-trang xử [ Trần] Đông đảng, linh Đông trí thư
kỳ đảng viết : “ Đốc-phủ hịch Hải tịch cầm nhược thuộc hỹ » .
Đông đảng cụ, thừa dạ tương công Hải , Hải hiệp lưỡng thiếp
tầu […. ]. Minh nhật quan quân vi chi , Hải đầu thủy tử = La
concubine de Tur- Hai ayant reçu des cadeaux de Ho Tông- Hiền
conseilla son mari de se rendre [...] Hải fixa donc le jour de la
reddition [...] Il choisit de concentrer ses troupes dans la localité
- 34
un chef de tribu . Déséspérée , celle- ci se jeta dans le fleuve
Tiền-đường pour garder sa pureté et mettre fin à son calvaire .
Plus tard , ému de pitié, on a imaginé la résurrection de la
suicidée, la nouvelle rencontre et l'union définitive de Kim
― 35
qui vivait sous les Minh était originaire de la circonscription
de Sơn- âm , province de Chiết -giang ; il prit le pseudonyme
littéraire de Văn-trường (Immortalité littéraire ) et aussi celui
de Thiên-tri (Mare céleste) . D'abord étudiant, il avait du
génie et excellait dans les quatre arts classiques : poésie, prose ,
calligraphie, dessin ; écrivain au service du Chef de province
Hồ Tông-Hiến , il rédigea un rapport à l'adresse de l'Empereur,
lui offrant un cerf blanc, ce qui le rendit célèbre . Versé dans
la stratégie et fertile en stratagèmes, il aida Hồ Tông-Hiến à
arrêter Từ Hải et à faire rallier Vương Trực ( 1 ) . Lorsque Tổng
Hiến était mis en prison pour crime politique (2) , Vị craignant
d'être compromis fut atteint d'aliénation mentale : il se suicida
mais ne mourut pas ; il tua sa femme et fut emprisonné long
temps avant d'être libéré . Au soir de sa vie , il prit un nouveau
pseudonyme, celui de Thanh -đằng (Pur osier). Il disait
souvent : « J'excelle le plus en calligraphie, puis en poésie ,
ensuite en prose , enfin en dessin. » Les clercs trouvèrent ce
jugement judicieux . Il a laissé les oeuvres suivantes : Lộ sử
phân thích ( Analyse explicative de 1’Histoire des Lộ) , Bút
nguyên yếu chỉ ( Principes foudamentaux de la calligraphie) ,
Từ Văn -trường tập ( Recueil de poésies de Từ Văn - Trường ) .
Par ailleurs, Vị a annoté des ouvrages sur les trois doctrines
(confucianisme , taoïsme , bouddhisme) , sur les sciences
-- 36
cấp liên tái dĩ chung « Từ Vị vivait sous les Minh, il était
originaire de la circonscription de Sơn-âm et avait pour
pseudonyme Văn-Trường. Etudiant, il se fit rédacteur au service
du chef de province Hồ Tông Hiến . Au courant des questions
militaires et riches en stratagèmes , il aida Tông Hiến à arrêter
Từ Hải et à convaincre Vương Trực . Il était versé dans la
littérature , la calligraphie et le dessin . Plus tard , atteint de
maladie mentale, il tua sa femme, fut jeté dans un cachot,
puis relâché. Depuis lors , il passa le reste de sa vie à faire
des voyages aux deux capitales de l'Empire et aux postes
lointains de la frontière avant de mourir » (Tir-Nguyên).
đẳng , thiên tài siêu bạt , thiện thư họa , công thi văn , dĩ chi
sinh cư Tổng Đốc Hồ Tong- Hiến mặc , tham dự binh mưu ,
xuất kỳ chế thắng , lữ tá Tông - Hiến lập công . Tông -Hiến bại
phát cuồng, dĩ sát thê hạ ngục , tầm đắc thích , lãng du dĩ
chung Trư hữu Lộ Xử phân thích , Bút nguyên yến chỉ cập
Từ Văn- Trường tập « Từ Vị vivait sous la dynastie des Minh,
il était originaire de la circonscription de Sơn -âm, il prit le
pseudonyme littéraire de Văn-truong, puis celui de Thiên-tri
et, au déclin de sa vie , celui de Thanh - đẳng . Génie exceptionnel ,
il était remarquablement doué pour la calligraphie comme
pour le dessin , pour la prose comme pour la poésie. Etudiant
et écrivain au service du gouverneur de province Hồ Tông
Hiến, il participa à l'élaboration des plans tactiques et
suggéra de stratagèmes ingénieux , ce qui permit à celui- ci de
- 37 -
Le Minh sử (Histoire des Minh, tome 288, p 2ab) et le
biographie analogue.
-— 38 G
l'oeuvre de Từ Vị ( 1 ) , sans parler cependant du Kim- Vân
Kiều truyện .
39 ―
3) Le Thu Mộc- Lan ( La Célèbre Fleur de magnolia) ou
le Dai-phụ tùng-quân (Elle remplace son père dans un
engagement volontaire) .
40
thị tự Nễ Hành tại minh trung phục diễn kịch cổ mạ Tào
Thảo đích cố sự ; Thủy -hương mộng nãi thị tự Ngọc-Thông
thiền-sư nhân kỹ- nữ Hồng -Liên nhi phá giới sự ; Thư Mộc
Lan tức hệ tự Mộc- Lan từ đích cố sự , bất quả thiêm nhất cả
Vương-lang vi Mộc - Lan chi phu ; Nữ trạng-nguyên nãi tự
nữ tử Hoàng Sùng-Giả ( Cổ) hoàn nam trang khảo trúng
trạng -nguyên sự . Hậu nhân phỏng thử thể nhi tác- giả thậm
đa , tối trử địch vi Thanh Quế Phức đích Hậu tử thanh viên =
« Từ Vị était un écrivain tout à fait extraordinaire, singulier de
la Chine . De son vivant, il eut des mots, des gestes qui
devinrent par la suite des sujets infiniment intéressants de
conversation que colportait le peuple , Les quatre pièces de
théâtre réunies sous le titre de Tứ thanh viên était l'oeuvre
qui lui procura le plus de satisfaction . En fait, ce sont quatre
pièces séparées : le Ngư - dương lộng raconte que Nỗ Hành ,
reproduisit, dans l'enfer, la scène où il ponctua, à coups de
tan -tam , ses insultes à l’adresse de Tào Tháo ; le Thủy hương
mộng est l'histoire du bonze Ngọc-Thông qui viola les règles
religieuses en faveur de la fille de joie Hồng- Liên ; le Thư
Moc-Lan est une histoire tirée du Mộc-Lan tir à laquelle
s'ajoute le personnage de Vurong-lang, époux de la jeune
Mộc - Lan ; le Nữ trạng - nguyên parle de la jeune Hoàng Sung
Giả déguisée en garçon et reçue Premier Docteur de l'Empire
Plus tard, beaucoup d'écrivains ont imité cette formė
-- 41
Văn - trường tá Hồ Mai - lâm Tông- Hiển mạc , thời Sơn - âm mỗ
tự tăng phả hữu di hạnh , Văn-trường thốc Mai - lâm dĩ tha
sự sát chi [… ] Hựu Văn- trường chi kế thất Trương , tài nhi
mỹ , Văn -trường dĩ cuồng tật thủ sát chi . Hựu Văn -trường
tự Mai-lâm bình Từ Hải chi loạn , thường kết Hải thiếp Thủy
Kiều, dĩ vi nội viện ; cập sự định , Thủy- Kiều thất chí tử,
ngô hương Tầu Phu - vũ tằng tác Thúy Kiều ca dĩ điếu chi [… ].
Cổ sở tác Tứ thanh viên : Thủy - hương mộng , điều tự tăng
dã ; Mộc Lan nữ , điệu Thủy - Kiều dã ; Nữ trạng- nguyên , bi
kế thất Trương - thị dã = On dit que toutes les quatre pièces
de Từ Văn-trường ont plus ou moins ce caractère biographique.
Après examen, j'ose faire cette remarque : Pendant la période
où Văn -trường était au service de Mai- Lâm Hồ Tông -Hiến a
Sơn-âm , il y eut un bonze d'une moralité douteuse ; Văn -trường
incita Mai -lâm à le tuer sous un
un prétexte
prétexte quelconque [...]
Trương -thị , la seconde femme de Văn - trường, était aussi
talentueuse que belle ; l'écrivain , dans un accès de folie , la
tua de ses propres mains . Văn-trường aida Mai-lâm à réprimer
la révolte de Từ Hải ; il se mit en rapport avec Thúy Kiều ,
concubine de celui - ci , pour recourir à ses offices ; l'ordre une
fois rétabli après la fin tragique du guerrier, Thúy- Kiều mourut
de désespoir ; Tần Phu-Vã , un habitant de mon village , a
composé le Thủy- Kiều ca ( Oraison funèbre de Thủy - Kiều ) .
A insi , Văn - trường a écrit la tétralogie Tử thanh viên dans
ce but la pièce Thúy- hương mộng est dédiée à la mémoire
du bonze tué ; la pièce Mộc-lan nữ est une oraison funèbre
de Thủy- Kiều ; la pièce Nữ trạng -nguyên exhalait la pitié
qu’inspira au dramaturge sa seconde femme Trương thị . » ( 1 )
-- 42
dans un accès de folie, le second par animosité personnelle ;
mais le fait d'avoir acculé Thúy - Kiều à une situation
désespérée , en sorte qu'elle se jeta dans les eaux du Tiền
la tunique . )
- 43 --
trung ngẫu ức biên ( 1 ) (Souvenirs qui s'éveillent par hasard
et notés au cours des excursions à Quan-lũng) a mentionné
Ngã hận bất đắc điển mãn liễu phổ thiên cơ trái . »
― 44 -
cet événement littéraire et a cité deux vers relatifs à Thúy
Thủy - Kiều đế quan , ngộ chỉ mạo tự giả, toại sát chi . Hậu Văn
1
trường quy, miết kiến kế-thất dữ tăng cộng ngoạ , thủ nhận
chi , nãi kế- thất dã ; hạ ngục luận tử , Trương Thái - sử Nguyên
Biện lực giải đắc thoát = Từ Văn trường , originaire de
Sơn-âm, était un lettré au service du Censeur d'Etat Hồ Tông
Hiến . Celui -ci eut à arrêter les incursions des nains de Từ
- - 45
qui se laissa influencer et conseilla son époux de se rendre .
Celui-ci tué, le censeur d'Etat prit Thúy Kiều comme concubine.
Kiều se réfugia dans une pagode ; Văn-trường, déguisé en
bonze, se tint debout près d'un mur et badina avec elle.
Au courant de ce badinage et furieux, Tông- Hiến fit rassembler
les bonzes de la pagode , ordonnant à Thúy-Kiều de recon
naître le coupable ; la chanteuse désigna par erreur volontaire
un bonze qui ressemblait plus ou moins à celui qui l'avait
taquinée ; le Censeur d'Etat le mit à mort. De retour chez
lui , Văn-trường vit , dans une hallucination , un bonze coucher
avec sa seconde femme et le poignarda ; mais, à bien regarder
la victime , il reconnut qu'elle était sa seconde femme elle
même . Il n'échappa à la peine capitale que grâce à
l'intervention de l'historiographe impérial qui fit l'impossible
pour le sauver.
―――- 46 --
n'y avait pas de raison à ce qu'elle ne reconnût pas Văn
truong du premier coup ; elle le connaissait trop pour
commettre l'erreur fatale. C'est parce qu'elle voulut disculper
l'écrivain qu'elle fit tuer un bonze innocent. Peut- être Văn
trường et Thúy-Kiều s'étaient- ils épris l'un de l'autre dès le
premier jour de leur rencontre affinités électives tout à fait
Ag 47
Hoành-Đạo rapporta d'un voyage dans le pays de Việt
(Chiết-giang) une oeuvre abîmée de Tur Vi et la remit au
- 48
Le pseudonyme de Thanh - tâm tài- nhân mentionné sur la
couverture du roman doit susciter de nouveaux débats. Au
49
Les documents précités nous révèlent que Hồ Tông- Hiến ,
(r) Cf Đại- Nam chính biên liệt truyện sơ tập (Histoire officielle
du Dai-Nam, Préliminaires), livre XX, feuille 9a : A son retour
d'ambassade en Chine , à la cour des Thanh, il a composé et
Thúy -Kiểu ).
- 50 ―――
on trouva ses entrailles déchirées en morceaux. » ( 1 ) Ainsi
les mots Tứ thanh viên pourraient être traduits , dans une
traduction plutôt littérale « Quatre cris d'entrailles déchirées » .
1:
- 51 -
Quốc hủy của triều Nguyễn
TẠ QUANG PHÁT
-
Huỷ * là gì ? Huỷ là cẩm, là tránh , là tên người chết.
Đỏ là ba nghĩa của chữ húy trong tự diễn Trung- hoa . Về
giải tự, chúng ta nhận thấy chữ hủy do chữ ầ ngôn ( là nói )
hợp với chữ * vi ( là trái nghịch ) , hội ý : huỷ là những tên ,
những chữ phải cấm , phải tránh , hễ ai không biết mà nói
đến là trái phép , nghịch lệ .
Thời Xuân- thu ( 722-481 trước T.L) bực tôn trọng , bực
ông bà cha mẹ , bực hiền tài đều được huỷ tên . (**
Đã lâu để đi đa Xuân -thu vi tôn giả huỷ , vi thân giả huỷ ,
huý.–
vi hiền giả huỷ . Khang- hy tự điển . )
Cho nên dân chúng phải huỷ tên các vì vua chúa , huỷ
tên của ông bà cha mẹ mình và của người khác nếu mình
biết giữ lịch sự và huỷ tên những bực hiền tài nữa . Ngày
xưa khi đến nhà người, trước hết mình phải hỏi tên huý của
- 52 -
ông bà cha mẹ nhà ấy đề khi nói chuyện khỏi phạm những
tên huỷ ấy mà khỏi mất lòng chủ nhà . Thiền Điền -lễ trong
kinh Lễ có chép rằng Ap9 % BH Nhập môn nhi vấn huý (Vào
cửa thì hỏi tên tổ tiên của chủ nhà để biết mà kiêng huỷ )
Hiểu biết đại khái như thể chúng ta cũng rõ được phần
nào tại sao Hằng -nga cũng được gọi là Thường -nga. Từ ngày
thay thế bằng tiếng thường , vì hằng ngày cũng như thường
ngày , và Hằng - nga được thay thế bằng Thường -nga . Và chúng
ta cũng không lấy làm lạ khi nghe đến bộ Dân k bị đổi ra
bộ Hộ † vì tên của Đường Thái- tông ( 627-650) là Thế-Dân ,
chữ dàn bị thay thế bằng chữ hộ . Chữ ý kiến trùng với tên
Tôn Kiên 3 vua Ngô thời Tam -quốc (220-280) được các nho
sĩ Đông Ngô kiêng tránh đọc ra chân .
gặp tên Không Khưu thì đọc tránh ra Không mỗ, rồi lấy bút
son khuyên vòng chữ khưu lại , và chữ khưu phải viết bớt nét
-
thành ra ý . 丘 字 聖人 諱 也 , 子孫 讀 經 史 凡 云 孔丘 者 則
讀 作 某 , 丘 字 以 朱筆 圈 之. 按 孔子 名 丘 , 後世 以 孔子 諱
Vua Minh- mệnh năm thứ 14 ( 1833) tôn sùng nho giáo ,
53 ―
Chữ g hôn xưa viết với k dân (là tối tăm) và a nhật
(là mặt trời ) hội ý : mặt trời lặn thì tối - tăm lúc chiều tối. Chữ
dân trùng tên với Đường Thể Dân phải huỷ, phải viết bớt
nét , cho nên chữ E hôn ngày xưa viết thiếu nét thành chữ
tôn , đáng kính , đáng sợ, đáng nễ đều được kỵ huỷ . Huỷ tên
vua tên chúa , huý tên ông bà cha mẹ , huý tên quan lớn quan
bé , huý luôn tên con cọp hung ác , tên chứng bịnh ngặt nghèo.
Con cọp được gọi là Ông Ba -mươi. Tên bịnh yết hầu , bịnh
đậy đã thay đổi ngôn ngữ , tên sông , tên núi , tên người , tên
quan chức . Thi dụ :
Cửa Ô -long ở đông - bắc Phú - lộc tỉnh Thừa - thiên đời Lý
gọi là Ô -long , đời Trần đồi gọi cửa Tư -dung , đời Mạc đồi
thay đổi nhau mà tránh tên Mạc Đăng Dung) , đời Lê phục
hưng gọi lại cửa Tư- dung , lại có tên là cửa Ông , cửa Biện,
thời nhà Nguyễn vua Thiệu - trị đồi gọi cửa Tư -hiền ( vì huỷ
tên vua Thiệu-trị là Dung) .– Đại- Nam nhất thống chi quyền
2, to 51a-52a.
tiếng lỵ .
54 -
Cha mẹ người miền Nam không bao giờ gọi đứa con
đầu lòng của mình là thẳng cả hay con cả, có lẽ vì kỵ huỷ
tên Cha Cả của Ông Bá- đa- lộc (Evêque d’Adran ) hay kỵ huỷ
cha vua Đồng- khánh là Hồng Cai , chức tham biện được đồi
ra chức tham tả vì huỷ tên vua Đồng - khánh là Biện , tức cha
vua Khải- định .
Đã nhận được tầm quan trọng của ảnh hưởng kiêng huỷ,
chúng ta cần biết qua thể phổ của triều nhà Nguyễn đề biết
đại khái các tên đã kỵ huỷ.
55 -
hoàng
Thế
phổ
các
đế
Nguyễn
nhà
CHA
MẸ TÊN
VUA
HAY
TỰ NIÊN
HIỆU TÊN
LÊN
NGÔI TÊN
THỤ Y
Cổn
Phúc
Ng. H
Ánh
Phúc
Nguyễn Gia-
long Noãn hoàng
Cao
đế
暖
Đảmn
Nguyễn
Phúc Minh-
mệnh Kiêu
胶 Nhân
hoàng
đế
Thật
-
Hoa
H Miền
Tông
Dung Thiệu
trị- Tuyền
Vi đế
hoàng
Chương
Hạo
và
Hằng
t Hồng
Nhậm đức
Tự- Thi
時 hoàng
Anh
đế
Thường
k Hồng
Duật Hiệp
hoà-
Phan
Thị
Hàn Ứng
Đăng Kiúc
ph ến- Нао
昊 để
hoàng
Nghi
Hồng
Cai
*
4 Hộ
b
Hồng
Cai* Ung
Lich
膺
壢 Hàm
nghi- Minh
明
Höng
Cai
洪
该 Ưng
Đường 3 khánh
Đồng
昇-
Biên Thuần
hoàng
đế
Ky
豉
đúc
Dục- Br
Lâ
嶙寶u
n Thành
thái- Chiề13
u 昭
Vĩnh
San Duy
tân- Hoän晃
g
Biện-,
khánh
Đồng Bửu
Đảo Khải
định- Suóng
昶
-
>
Vĩny
Thụ h Bảo
đại- Thiền
dấu
mũi
tên
chỉ
cha
mẹ
sinh
ra
con
Đọc đến phần Kinh tự huỷ tự trong hai bộ Khâm định
Đại-Nam hội điển sự lệ và Khâm định Đại - Nam hội điển sự
lệ tục biên , chúng tôi còn nhận được nhiều tên huỷ khác ,
nhưng không rõ mối huyết thống thế nào không thể xếp vào
bản thể phổ kể trên được . Chúng tôi rất tiếc không đặng dở
ngọc diệp để đọc mà hiểu rõ tường tận về hoàng gia . Việc
thiếu sót ấy hẳn là tất nhiên , vì năm Tự- đức thử 14 ( 1861 )
có lịnh sai sử quán sao chép những chữ quốc huỷ cho tất cả
quần thần được biết để khỏi phạm tội , nhưng vẫn không cho
ghi rõ là tên huỷ của vị nào , ở thời đại nào ( 1).
Theo tinh thần ấy chúng ta nhận thấy triều đình tuy cho
công bố những tên huỷ , nhưng còn cố ý dấu nhân dân , không
muốn cho nhân dân hiểu rõ lý lịch của hoàng gia .
Xem bảng thế phổ các chúa Nguyễn ở miền Nam, chúng
ta thấy 10 tên Chúa đều viết với bộ 7 thuỷ ( là nước) . Nhưng
khởi đầu từ Nguyễn Phúc Cồn ( Bảng thể phổ các hoàng đế
nhà Nguyễn) thì các tên đều viết với bộ # nhật (là mặt trời)
Chữ G Cồn tên cha của vua Gia - long viết với bộ a nhật ,
vô tình hay hữu ý chúng ta không thể xét được . Nhưng chữ
Hồ còn nghĩa là ánh sáng mặt trời hẳn là điềm báo trước
một thế hệ độc tôn , con cháu về sau đều làm hoàng đế , một
mình soi sáng cả san hà như cái mặt trời soi sáng cả vũ trụ .
Chữ là cần tên cha của vua Gia-long có phần chữ H nhật
viết 4 nét ăn vào số 4 chỉ bốn ông vua thời độc lập là Gia
long , Minh -mệnh , Thiệu -trị, Tự đức , và chữ âm lớn (làm hài
thanh theo thông lệ C K đồi ra L ) viết 8 nét ăn vào số 8
chỉ tám ông vua thời bảo hộ là Hiệp -hoà , Kiến - phúc , Hàm
nghi , Đồng- khánh , Thành- thái , Duy- tân , Khải- định , Bảo đại .
- 57
trùng hợp như thế dễ khiến chúng ta nhớ được rành mạch
triều nhà Nguyễn có 4 ông vua độc lập và 8 ông vua
bảo hộ.
:.
Lùi về dĩ vãng thời Duệ-tông Nguyễn Phúc Thuần chủng
ta thấy giang san miền Nam của chúa Nguyễn cơ hồ như
tan rã dưới sức mạnh của Tây- sơn . Nhưng Nguyễn Ánh với
chí kiên cường bao phen bốn ba hải ngoại, bao lần ngoại
viện cứu binh đã nhất thống nam bắc và lên ngôi hoàng đế .
綿 洪 膺 寶 永
Miên hồng ưng bữu vĩnh
保 贵 定 隆 長
Bảo quý định long trường .
賢 能 堪 繼 述
Hiền năng kham kể thuật
世 瑞 國 家 昌
Thế thuy quốc gia xương.
Tên của mỗi vị trong hoàng gia ( phải nam) đều có hai
chữ , chữ đầu phải là một chữ theo thứ tự trong bài thơ đề
phân biệt các đời ; chữ sau đều chọn bộ của chữ nho mà đặt
để phân biệt chi nhánh với nhau . Do đó , đọc qua các tên
Miền Tông, Hồng Cai , Ưng Đường, Bửu Đảo , Vĩnh Thuỵ có
đủ 5 chữ ( Miên Hồng Ưng Bửu Vĩnh ) trọn câu đầu của bài
thơ chúng ta nhận được mối liên hệ huyết thống .
Cho nên vua Thiệu -trị khi mới sinh ra , được thái-tử Đảm
( vua Minh -mệnh ) bồng đến vua Gia -long. Vua vui mừng được
WES 58
đứa cháu đích tôn đầu tiên , ngài cho phép được lấy bộ H
nhật mà đặt , chính tay ngài cầm bút phê chữ k dung ( nghĩa
là mặt trời soi thẳng) mà đặt tên cho . Về sau , thái tử Đảm
lên ngôi , lấy niên hiện là Minh -mệnh , ngài mới đặt ra bài
thơ trên , và lấy chữ đầu bài thơ là Miên đặt tên cho con là
Miền Tông ( vua Thiệu- trị ) .
Sau khi vua Minh- mệnh băng , thái tử Miên Tông lên ngôi ,
lấy niên hiệu là Thiệu -trị, các quan đại thần kinh cần mở
tráp vàng ra và tuân theo lời dạy lấy chữ thứ nhất là
Đc tuyền (nghĩa là sáng) đặt làm tên , đem cáo ở các tôn
miêu và tâu lên Bà Nhân nghi Từ Khánh Thái - hoàng Thái
hậu (vợ của vua Gia - long) được biết , và lấy tên Dung khi
bé làm tự .
Khi tự quân đã lên ngôi mở đầu một niên hiệu mới , các
đại thần ở bộ Lễ mới gom góp tất cả những chữ tên riêng,
tên khi bé , tên lên ngôi , tên hoàng hậu cùng tất cả những
chữ đồng âm có phần huỷ ghép ở bên , những chữ đồng
dạng nhưng khác âm , những chữ khác dạng nhưng đồng âm
lập thành một tập dâng lên tân để xin huỷ tất cả . Lại truy
niệm tiên đế , các cụ lại tâu xin huỷ những chữ tên thuy, tên
miếu , tên lăng . Các cụ lớn ở bộ Lễ rõ là quá câu nệ khi kê
khai những chữ tên sông, tên núi , tên hang ở tận bên Tầu đề
kỵ huý, có nhiều chữ vĩnh viễn không bao giờ dùng đến , và
cũng có nhiều chữ tra mải không tìm ra ở các tự điển . Các
cụ lại bày đồi chữ này chữ nọ nghe rất lạ lùng Thí dụ :
a) Vua Thiệu- trị đã phê tờ tấu nghị của bộ Lễ rằng : ...
lời tấu nghị trước của bộ Lễ đã kê khảo chưa được chu đáo
quá ư câu nệ , rất là chưa được thoả hợp ... ” (1)
( 1) Khâm - định Đại-Nam hội điền , mục Lễ bộ cấm điều cấm huý
tự , qu . I2I , tr . 7b .
( 3) Khâm định Đại- Nam hội điển sự lệ tục biên, Lễ bộ cầm điều
qu . 312 , tr. 42
59
c ) Các cụ lớn ở bộ Lễ lại đề nghị xin đổi Tồn nhân
phủ ( cơ quan lo việc trong hoàng tộc) ra Thân đài , thì đã
nghe quá cùng quẫn , huống chi Tồn - thất ( là hoàng tộc ) xin
đổi ra Kinh -thất thì lại càng bỉ lậu ( 1 ) .
Đã đành trong thời quân chủ , mọi việc đều do vua quyết
định , nhưng các đại thần lại nay bày mai vẽ thế này thế
khác khiến vua noi theo, chỉ khổ cho đảm nho sĩ thi sinh
càng ngày càng thấy bị vây hãm vào những luật lệ kỵ huỷ
nặng nề . Vì quá câu nệ về hình thức , tư tưởng và học thuật
của đương thời càng ngày càng suy bại đề lần đến cảnh nước
mất nhà tan .
Luật lệ kỵ huý cũng có nhiều cách tuỳ theo giá trị của
chữ : chữ đúng tên vua thì triệt để cấm đọc , cấm viết , còn
tên của hoàng hậu thì được viết bớt nét hay thêm nét .
Cách thứ I.– Bất luận một chữ nào bị huỷ đều phải
cấm đọc, nghĩa là không đặng đọc chính âm , phải đọc trại
ra cho khác mới được . Thí dụ :
Hồng . · • Hường
Nhậm • • Nhiệm
Hoàn . • · Huon
Ánh • · · Yếng
60 ww
Cách thứ 2.– Chữ huỷ của chính tên vua hay cha của
vua , lúc đọc phải tránh âm và lúc viết phải đổi dùng
chữ khác . Thí dụ :
Năm Gia -long thứ 6 ( 1807 ) có dạy 6 chữ sau đây phải
đồi dùng chữ khác khi viết đến
Năm Minh- mệnh thứ 6 có dạy đổi những chữ sau đây
ra chữ khác :
quan (Đăng là tên tự của vua Kiến - phúc , Ưng Đăng ) xin đồi
61 ―
ra cửa Tam -xuân quan tỉnh Nghệ-an có phủ Anh sơn
( Anh là tên thuy của vua Tự - đức, Dực tôn Anh hoàng đế )
-- tỉnh Nam-định có huyện Phụ-dục
xin đổi ra phủ Tiên - sơn
( Dực là tên miếu của vua Tự đức , Dực tôn ) xin đổi ra huyện
Phụ - phụng ( 1 ) .
Trong những năm Khải -định , Nam triều có xin chính phủ
Bảo hộ đổi tên chức hiệp biện (Biện là tên vua Đồng- khánh ,
cha của vua Khải- định ) ra hiệp -tá , chức sung-biện ra sung
lý, chức tham biện ra tham-tá , chức biện-lý ra tá-lý, chức
thương- biện ra thương-tá , chức bang- biện ra bang -tá , chức
kiềm -hiện ra kiểm-tả , chức thừa- biện ra thừa- phải , và chức
cai -cơ (Cai là tên Hồng Cai cha vua Đồng - khánh tức ông nội
vua Khải - định ) xin đổi ra chức quản -cơ, chức cai- đội ra
chính- đội ( 2 ).
Chẳng những chữ chính tên của vua và của cha , ông nội
của vua phải kiêng huý được đồi ra chữ khác , những chữ đồng
âm đồng dạng , có phần chữ huỷ ghép ở bên , những chữ đồng
dạng mà khác âm , những chữ đồng âm mà khác dạng đều
phải kỵ huỷ đổi dùng chữ khác tất cả. Thí dụ :
Năm Minh mệnh thứ 17 ( 1836) có dạy phải đồi ra chữ khác
những chữ : Hề cảo , k cảo, bây kiều , k đảm .
Năm đầu Thiệu - trị ( 1841 ) có dạy đổi ra chữ khác những
chữ : 3 tuyền , là tông , là dung , đã dung ....
Năm Thiệu - trị thứ 4 ( 1844 ) có dạy đồi tấm biển Sùng văn
đường * xử treo ở trước cửa Văn - miếu ra Hữu văn đường
右文堂 (3 ).
62
huỷ này phần nhiều là những chữ không phải chính huỷ ,
tên ông bà xa xưa , tên miếu , tên hoàng hậu ...
Cách thứ 4. Sau cách thêm nét thì đến cách bớt nét.
Chỉ xét vào thời nhà Nguyễn , chúng tôi nhận thấy cách bớt
nét này khởi đầu từ thời Minh -mệnh .
Một hôm vua Minh - mệnh bảo thái-tử Miên Tông đem
những thi văn của thái -tử đã làm dâng lên cho ngài xem .
Lúc ấy những chữ ả hoa trong các thi văn ấy được nhân
viên trong cung chép lại đều bớt nét . Ngài tận mặt dạy thái
tử Miên Tông rằng : « † hoa là chữ đồng âm , không phải
chính huỷ, chỉ nên tránh âm đọc khác mà thôi , bất tất phải
3
bớt nét . » Với tài liệu này chúng tôi nhận xét trong thời
Minh-mệnh đã có lệ huỷ những tên trong hoàng gia bằng cách
bớt nét một cách mặc nhiên , chớ chưa có chỉ dụ nào của vua
Cách bớt nét rất thịnh hành vào thời Thiệu- trị và Tự đúc
trở về sau .
Chính cái tên Miên Tông của vua Thiệu trị đã được hoàng
đệ tâu xin cho bớt nét ở chữ “ Miên thành ra tỷ để khỏi
phải đồi chữ khác mà dùng khi viết đến . ( 1 )
Trong năm Tự- đức lệ bớt nét được thay thế lệ đỗi dùng
chữ khác rất nhiều trường hợp . Thí dụ :
- 63 ――
Khi vua Kiến- phúc lên ngôi ( 1884) có lịnh cho bớt nét
Khi vua Đồng- khánh lên ngôi ( 1886 ) có lịnh cho bớt nét
chir 弁 biên, 拚 bién, 跂 ky.
Cách thứ 5.– Một trường hợp hỗn hợp được nhận thấy
vào thời Tự -đức năm thứ 4 ( 1851 ) , Triều đình chuẩn định
rằng luật lệ từ trước cho phép viết thêm phần “ trên những
chữ Y đang , âm thật, * hoa , lầy cồn thì e rằng chưa đủ đề
tỏ lòng tôn kính , cho nên định rằng lúc viết mà gặp bốn chữ
ấy thì phải vừa thêm phần “ và vùa bớt nét . ( 1 ) .
Cách thứ 7.– Những tên huỷ cần phải viết ra không thể
nào tránh được thì phải chia ra từng phần, bên tả là gì , bên
hữu là gì , giữa là gì , trên là gì , dưới là gì , đề người đọc
ghép lại mà nhận ra chữ. Thí dụ :
( 2) K.Đ.Đ.N.H.Đ.S , L . qu . 121 , tr . 8b và 9.
- 64 -
Đã bày những cách thức kỵ huỷ phiền phức , triều đình
cũng định những hình phạt nghiêm khắc để trừng trị những
ai đã phạm huỷ dù là vô tình .
1– Những chữ chính huỷ ( tên vua ) theo lệ phải đổi dùng
chữ khác , kẻ nào phạm đến thì bị đánh 100 trượng, nếu kẻ
ấy là bực cử nhân hay tú tài đều phải bị bôi tên ở số thi đỗ .
2– Những chữ quốc huỷ mà lệ dạy phải bớt nét lại quên
không bớt nét , cùng những chữ đồng âm mà lệ dạy phải đổi
dùng chữ khác lại quên cứ viết thẳng chữ ấy ra đều được
chiếu theo luật quên thêm phần 3 vào chữ huỷ , kẻ phạm phải
bị đánh 90 trượng .
-- 65 -
Vua Tự- đức phê son rằng : « Bày khoa thi đề lấy nhân
tài , nhưng quá câu nệ thì không phải là ý của Trẫm . Luật
thì nhẹ mà lệ thì nặng , bộ Lễ hãy châm chước một lần nữa
mà sửa đổi lại . »
I− Những chữ chính huý (tên vua ) lúc viết phải đối
dùng chữ khác , kẻ nào ngộ phạm xin chiếu luật vi chế mà trị .
a ) Bực thi đình thì đánh 100 trượng, dẫu là tôn -ấm ,
giảm sinh, cống sinh và cử nhân đều phải bôi tên ở sổ thi
đỗ, dẫu là kẻ có phẩm trật ( như những người ở chức Tư - vụ
·
huấn giáo kiềm thảo chờ được bồ đi làm quan và những kẻ
thi hội cũng đồng như thế) đều bị giáng xuống 4 cấp và đồi
đi nơi khác - những kẻ có cấp bực để có thể đổi đi nơi khác
Còn kẻ không có phẩm trật ( như tôn -ấm , cống sinh , giảm
sinh , tủ học , khoá sinh) đều được chiếu theo tư tội , lệ định
phải nộp tiền chuộc tội .
-- 66 .-
mộ dũng tráng , được thưởng thất , bát , cửu phẩm ) cho giáng 2
cấp và đồi đi .
b ) Bực thi hội thì đánh 60 trượng , cho phạt tiền lương
một năm .
Vây hãm giữa bao nhiêu luật lệ phạm huý khắt khe, sĩ
tử ngày xưa đánh liều ra đi thi đề mong xuất chính làm quan
cho trước là đẹp mặt sau là ấm thân , như đứng giữa một
thang mây và một vực thẩm .
― 67 #g
Văn hay chữ tốt mà không phạm huỷ thì đỗ tú tài cử
nhân tiến sĩ , leo lên thang mây vinh hiền rỡ ràng, thênh thang
bước lên hoạn lộ .
Còn dẫu cho văn hay chữ tốt và tư tưởng cao siêu đến
mấy đi nữa mà phạm huỷ thì nho sĩ ấy chẳng khỏi nát thịt
tan xương dưới trận đòn 100 trượng, còn bị bôi tên ở sở thi
đỗ trở lại hạng thầy đồ . Đó là vực thẩm trong khoa trường
chực đón các nho sinh không để ý .
Vượt khỏi khoa trường như vượt khỏi long môn cả biển
thành rồng , anh hàn nho lại trở về với võng lọng khi thi
đỗ được bổ làm quan . Thế mà luật kỵ huỷ của triều đình
lại càng được các cụ lớn giữ gìn hơn nữa , vì luật lệ kỵ huỷ
chẳng nề phẩm cấp và quyền cao chức trọng cho một ai . Vô ỷ
mà phạm huý lúc tâu bày hay viết sở sách đều bị trừng trị
bằng đòn bằng roi lập tức .
Năm Tự- đức thứ 16 ( 1863 ) có lịnh khiến Nội các truyền
cho các nhà phải bỏ lệ kỵ huỷ các tên của tổ tiên trong gia
tộc và các tên của trưởng quan , như tên Phan Thanh Giản .
Lúc phúc bạch trước vua , bầy tôi phải đọc thẳng âm những
tên ấy ra mới hợp lễ . (2 )
-- 68 -
Nhưng luật vua thua lệ làng. Lệ kiêng cử tên gia huỷ và
tên các đại thần hầu như thành thói tục trong dân chúng : cây
dao nói cây diều , trái đào nói trái điều , bộ hành nói bộ hiềng ,
cái kính nói cái kiếng , thị thành nói thị thiềng .
Triều đình ta bắc chước theo Tàu thi hành một cách
nghiêm khắc lệ kỵ huỷ là để bảo cho thần dân hiểu rằng
vua là Con trời ( Thiên- tử) có quyền uy tuyệt đối thiêng liêng,
phạm đến vua là phạm đến trời , ai động đến tên vua thì bị roi
đòn cách chức, còn ai phạm đến mình rồng thì ba họ bị
tru di.
Chánh sách ngu dân kỵ huỷ này thật có lợi cho chế độ
quân chủ đề giữ vững ngai vàng .
( 1) Khang hy tự điền .
69 -
INTERDITS CONCERNANT LES NOMS IMPÉRIAUX
1
Le caractère chinois húy a trois sens : interdit ou
interdire éviter - nom d'un défunt . Il se compose de la
-- 70 -
prendre était de s'enquérir des noms des grands- parents
et des parents , pour éviter de les prononcer et de
- 71 -
train de sévir dans la famille. C'est pour des motifs d'interdits
par son prénom , Khổng Khâu par Không- tử , Mạnh - Kha par
sous les Nguyễn (nom donné par Thiệu -trị lui- même, pour
n'appelle pas «< Cả » ( aîné, tout) l'aîné des enfants, pour éviter
le nom << Cha Cả » (Le Révérend Père Aîné ) de l'Evêque
72 www
revue des troupes , des boxeurs), mais « dợt binh, đợt võ » ,
73
Empereurs
des
Généalogie
Nguyễn
RÈGNE
DE
NOM D'AVÈNEMENT
NOM ET
CULTUEL
NOM 2 NOM
L'EMPEREUR
DE
NOM MAUSOLÉE
DU
NOM
POSTHUME
NOM
và
Ánh
Phúc
Nguyễn l- ong
»Gia No
暖 än Thế
Hoàn
-Cao
đtôế g Thiên
l họ
-tăng
)(1802-1820 皇
世祖
高帝
Đảm
Phúc
Nguyễn Minh
-mệnh Kiêu Thán
Nhân
Hoàng
đ
-tổế h Hiếu
l
- ăng
胶
1
() 820-1840 祖仁皇
帝
聖
Miên
t
--ông -trị
Thiệu
Ka Tuyền Hiến
Chươ
Hoàng
-đ
-tXươn
l ăng ng
-ôế g
)
D
( ung 1
)( 841-1847 皇
章帝
祖
憲
Hồng
Nhậm
( Tr
-drc
德
嗣 Thi 時 -đ ế
Hoàng
Anh
tông
Dực l
-Kh âm
ăng
)(1847-1883 英皇
宗
翼
前
Hồng
Duật Hiệp
-hòa
tha
Âm
1
)( 883
ẩ
Đăng
Ưng Kiến
p
- húc
*
f Нао 昊 Nghị
-tông
Giản
đế
Hoàng Bồi
l
- ăng
10K
1
() 883-1884 宋
簡 毅皇
帝
JOSITIONE
1
CULTUEL
NOM
&
L'EMPEREUR
DE
NOM RÈGNE
DE
NOM D'AVÈNEME
NOM NT MAUSOLÉE
NOM
DU
.5[ POSTHUME
NOM
Lich
Ung -nghi
Hàm Mi
明 nh
1
)( 884-1885
Ưng
Đường
33 a
khánh
Đồng Biện
H Thuần
-tông
Cảnh -Tư
l ăng
1
)( 885-1888 Hoàng
-d
皇純ě帝
景宗
Bru
Lân
嶙 Thành
thái
đ Chi
H êu
1
() 888-1907
San
Vĩnh 維新
t
- àn
Duy Hoän
晃 g
)(1907-1916
Đảo
Bửu Khải
k-định Ứng
l
- ăng
Sróng
昶
)(1916-1926
Vĩn
Thụhy Bão
-dai
保
大 Thiền
1
)( 926-1945
Il y a lieu de remarquer que le nom cultuel impérial, nom
inscrit sur les tablettes cultuelles rouge et or placées sur les
autels dans le « Thái- miểu » et le « Thế- miếu » , édifices cultuels
respectivement réservés aux Seigneurs et aux Empereurs Nguyễn
dans l'enceinte du Palais impérial à Huế - comporte plusieurs
éléments .
posthume).
76 mpida
Nguyễn Hoàng étant le « Thái -tổ », Gia -long fut appelé le
« Thế- to « (le Second ancêtre , l'ancêtre pour ainsi dire d'une
seconde lignée, celle des Empereurs) et reçut le nom cultuel
de « Thế-tô Cao Hoàng -đế » (Le Second ancêtre — le Grand –
Empereur. Cao : nom posthume) .
- 77 -
Nguyễn -bỉnh -Khiêm , le célèbre Nostra - Damus vietnamien .
Tout d'abord , il a été interprété comme un heureux présage
de la destinée magnifique (qui n'est autre que la destinée
impériale) des descendants de Nguyễn Phúc Luân (le soleil
étant le symbole de l'Empereur qui règne « puissant et
solitaire » comme le soleil éclaire seul l'univers) ou d'une
postérité prédestinée à l'Empire .
―――― 78 ―――
De plus, suivant l'exemple de l'Empereur de Chine Co
Phát Vũ - vương des Chu , il vaticinait en un quatrain
prophétique dont chaque caractère devait figurer en tête
dans le nom de tous ceux qui appartiendraient à une future
génération impériale :
綿 洪 膺 寶 永
Miên hồng ưng bửu vĩnh
保 贵 定 隆 長
Bảo quý định long trường .
腎 能 堪 繼 述
Hiền năng kham kể thuật
世 瑞 國 家 昌 。
Thế thuy quốc gia xương.
79 -
informèrent les mânes des ancêtres impériaux dans les édifices
cultuels et la grand’mère impériale Nhân - nghị Từ-khánh Thái
hoàng Thái - hậu , épouse de Gia -long , tandis que le nom Miên
tông devint désormais le « tự » de Thiệu -trị.
Ainsi , le « tự » impérial est plutôt le nom réel , le nom
d'enfance de l'Empereur ; il ne doit pas être confondu avec
le « tur » des lettrés ( 1 ) .
-
Règle 1. N'importe quel nom interdit doit être prononcé
d'une manière différente de sa prononciation normale.
Exemples :
Hoàng Huỳnh
80 -
Long .» Luồng
Miên >>>> Mân
Khâu Kỳ
&
Tur To
Hồng Hường
Nhậm **
Nhiệm
Hoàn Huon
Ánh Yếng
--
Règle 2. Le nom interdit de l'Empereur ou du père de
l'Empereur doit être prononcé différemment de sa prononcia
tion ordinaire et remplacé dans l'écriture par un autre
caractère . Exemples :
- - 81 -
Sous le règne de Hàm-nghi, sur la proposition du Ministère
des Rites, des noms de lieux furent également changés.
Exemples :
- 82 --
interdits de seconde importance , tels des noms d'ancêtres
impériaux lointains, des noms d'édifices cultuels . Exemples :
k Khoát (Large)
* Thuần ( Pur )
Règle -
4.- Elle consiste à effectuer une opération
* Đăng (Monter)
--- 83 ―
Règle 5.- Elle est double. Sous le règne de Tu-đức
(1851 ) , la Cour , trouvant que l'adjonction des traits <
<<< aux
«
caractères dây Luân , â Thực ( un nom de Minh -mạng ) , * Hoa
4
(épouse de Minh-mang , mère de Thiệu-tri ) n'est pas un
témoignage suffisant de respect, décida que cette augmentation
84 -
Nous ne voudrions pas nous étendre sur ces pénalités .
Qu'il nous suffise de signaler qu'elles consistaient en sanctions
corporelles dégradantes pour la dignité humaine , applicables
mème à des candidats âgés qui étaient parfois de véritables
lettrés, aux mandarins en exercice et aux lauréats aux
concours régionaux .
- 85 -
La Station érigée
- 86 -
aurait comme le gorille, enregistré un échec dans sa tentative
d'ascension , ... le cerveau et le reste du crâne apportè
rent beaucoup moins de précipitations à effectuer leur
perfectionnement », a écrit W.Howells (Wisconsin).
- 87
quand il reste debout longtemps , en plus de l'effort déployé
par les muscles de ses membres pelviens , les masses
88 -
Nous voyons bien que le mode de station bipède
propre au genre humain a soulevé un vif intérêt non
*
* *
Articles à consulter
Piveteau , J. 1962.
L'Origine de l'Homme . Edit . Hachette.
G 89 -
Un site archéologique
à Dầu Giây
par E. SAURIN
Le Site
90
• qui le relie à la petite vallée du Suổi Dầu Giây qui coule à
10 m. en contre-bas. Mais nous avons noté que le gisement se
continue au N. de la route où il est recouvert par des hévéas ;
d'autre part, sur l'autre rive du Suổi Dầu Giây, au S. de la
route, nous avons recueilli quelques tessons dégagés par un
chemin d'exploitation qui borde le plateau et ce secteur de
la plantation de Suzannah , de sorte que le site se prolonge
très vraisemblablement , là encore sous les hévéas, sur la rive
opposée à celle du tombeau . J
#
La coupe que l'on peut relever, soit dans les trous de
La Poterie
91
Des assiettes , à pâte analogue , fond plan dans sa partie
médiane, sont plus rares.
92 -
obliques encadrés par deux lignes parallèles (Pl . I , 12) . Sur des
tessons <<au panier » des lignes droites ou légèrement ondulées
limitent et interrompent les empreintes de sparterie (Pl .
I, 16 ) . Un autre motif est formé de points combinés avec
les lignes incisées droites ou courbes (Pl . I, 14,15). Une
gorge de marmite est ornée de traits verticaux comparables
au premier abord aux décors précédents , mais qui relèvent
d'une autre technique et ont été obtenus par impression
d'une batte cordée ( Pl. I, 11 ) . Enfin , la base des pièces que
nous rapprochons des « lampes» de Sa Huỳnh porte des
empreintes à éléments larges et irréguliers paraissant provenir
d'une vannerie ou d'une batte ou tampon sculptés ( Pl.
Le Matériel lithique
31
Un morceau d'augite , de 3 cm. , rappelle ceux que nous
avons trouvés à Hang Gon ( 1 ) , ce minéral, d'origine basaltique,
dont des nodules doivent se trouver dans la région , pouvait
fournir des éclats tranchants et acérés ; il peut aussi avoir
servi de burin pour le marquage des pierres .
- 93
Une plaquette polie sur ses deux faces, en grès fin (8 x 7cm ),
nous rappelle celle que nous avons mentionnée } à Poulo
Condore, dont les bords sont toutefois chanfreinés ( 1 ), cette
particularité nous amené à comparer celle- ci aux « tablettes »
d'Oc Eo, bien que ces dernières soient généralement décorées
ou munies de cupules (2) . Le moule ci-dessous qui a des
dimensions sensiblement analogues, nous suggère pour la
plaquette de Dầu Giây, qui ne porte pas trace de décor, ni
d'usage comme molette, une utilisation possible : elle a pu
servir de valve lisse au moule en question .
-94 ―
Le matériel lithique de Dầu Giây comprend enfin des
pierres marquées. Des morceaux de basalte local présentent
des traits et des sillons : Une plaquette de basalte massif
montre trois sillons parallèles, dont deux incomplets, le
troisième court et Đả semblable aux << marques spaculées » de
Hang Gon (1 ), (Pl. II , 15) . Des cailloux de basalte vacuolaire,
à cavités cnpuliformes naturelles, sont marqués d'un sillon
étroit à bords irréguliers dus à la dureté et à l'hétérogénéité
de la roche (Pl . II, 16) . Un petit bloc du même basalte
vacuolaire est couvert, sur une face , d'un réseau serré de
traits minces, subperpendiculaires .
Affinités et Âge
95 -
qui ont motivé ces marques sont probablement similaires dans
les deux gisements, on note cependant des différences dans
leur facture les sillons de Hang Gon sont tracés sur des grès
importés, parfois préparés et polis ; nous n'en avons point
trouvé sur basalte local. A Dầu Giây , les quatre exemplaires
récoltés (si l'on excepte les marques sur objets usuels) sont
sur basalte brut ramassé sur place. Les marques elles- mêmes
sont, à Dầu Giây, plus simples et moins profondes. On retrouve
toutefois à Dầu Giây les marques spatulées de Hang Gon, et
les lignes perpendiculaires du petit bloc de basalte de Dầu
Giây (Pl . II, f. 14) peuvent s'apparenter à un dessin en damier
régulier de Hang Gon (1 ).
96
Le décor prédominant à Dầu Giây est la série de triangles
en dents de loup hachurées . Ce décor est représenté à Samron
Sen ( 1 ) , rare dans la région de Mlu Prei (2), fréquent et
typique à Sa Huỳnh (3) ; il persiste à Oc Eo (4) et se retrouve
sur des tambours de bronze dongsoniens , notamment sur celui
du musée de Phnom Penh .
- - 97
Louis Finot attribuait les champs de jarres de Sa Huỳnh
<<à des établissements indonésiens antérieurs à la période
hindoue » ( 1 ) , et au début de notre ère. Ces vues restent
valables pour les vestiges de Dầu Giây auxquels on peut
assigner la même date approximative . Ils sont antérieurs à la
culture d'Oc Eo où les influences hindoues sont bien marquées
dès le Ie siècle. Peut- être les rouleaux de « pesani » indiquent
ils à Dầu Giây une influence de cette origine et un milieu de
transition où règnent cependant encore des techniques et des
traditions plus anciennes .
98 ―
Planches
Planche |
Planche II
-
1 , 2, 3 Fragments décorés de « lampes » ( : 1 , 6 ) ( 1 et 2
même fragment sous éclairage différent ) .
---
6,7 Tessons de vases à cordon en relief ( : 1 , 6)
13 - Plaquette en grès ( 8 x 7 cm . )
- 99
PL
.I O
te
ne
Mond
Be
201
2 3
me19
S
5.
8
10
14
11
•
17
M
16
100 -
PL.II
0602 JAN
mi ay mübalnim smi
nady Ind
10
13
C 101
Một di - tích khảo cổ tại Dầu giây
Các mảnh nhỏ thuộc về nhiều kiểu đồ gốm khác nhau như :
chụm , nồi bụng lồi , đĩa , bình nhỏ . Tất cả các thứ này đều có
tráng một nước men nhưng đã bị soi mòn đi ít nhiều .
Các mảnh đồ gốm này được trang trí khác nhau bằng
những vạch song song , những vạch thẳng đứng như răng lược .
những vành hay ngấn tròn , những điểm phối hợp với các
đường rạch thẳng hay cong , v.v ...
-
– 1 miếng đá màu xanh đen giống như thứ đã tìm được
ở Hang Gon , loại khoáng chất này có thể cho những mãnh vỡ
sắc bén .
――
- Đá cuội sa thạch hình ống ,
102
– 1 tấm sa thạch loại mặt nhẵn không có trang trí , có thể
dùng làm van cho một cái khuôn đúc cũng tìm được ở đây
và có thể so sánh với khuôn ở Hàng Gon .
Các tương quan của hai nơi cổ tích được xác định bằng
sự dùng những mảnh đá xanh đen và những tấm khuôn 2 mặt
mỏng . Ở Dầu - giây một mặt khuôn đúc một hoa tai có thể nhắc
nhở đến những khuôn cho đồ vật bằng thiếc thấy ở Úc- eo ,
nhưng sự hiện diện của cái rìu ở mặt kia của một khuôn
thì không thích hợp với thử kim khí này ; vậy nó chỉ dùng
đề đúc đồng hay đồng đỏ như những khuôn ở Hang Gon .
G 104 -
Khâm định Đại - Nam Hội điển Sự Lệ
đình thần lựa chọn rồi mới tâu xin chỉ-dụ đề sung bổ.
Khi tới ngày : Sáng sớm các viên hữu- ty (giữ phần việc )
thiết lập triều nghi tại điện Cần-chánh , gian giữa đặt một án
thư màu vàng , có đủ nhạc - khí , loan - nghi , một cỗ kiệu long
đình, tàn vàng tán vàng mỗi thứ 4 chiếc, trường kiếm IO
cây , trượng sơn son 20 cây , túc trực sẵn ở ngoài cửa đại cung .
- 105
Còn bên Quốc sử quán , thì gian chính giữa cũng đặt một chiếc
hương án , có đủ hương nến ; gian bên tả đặt một chiếc án sơn son,
trên bầy cỗ yến . Biển -binh có đủ 50 cây trường thương ( giáo
dài) bẩy hàng hai bên tả hữu tại sân Sử quán .
Nội -các kính cần đem tờ dụ -chỉ đóng bửu ấn xong nạp vào
trong ông Kim - phụng (ống giấy có in con chim phụng hoàng ) rồi
đặt lên chiếc hoàng án .
Thị -vệ đại thần và Lễ - bộ gởi lời tâu « Trung nghiêm ngoại
biện » ( Trong nghiêm ngoài bày biện )
Lúc ấy Hoàng thượng đầu đội Đường cân ( mũ bình thiên tròn ,
văn nhân hay dùng ) , mình mặc hoàng bào , lưng thắt đai ngọc , ngự
ra điện Cần - chánh , ngồi trên bửu toạ.
Phía ngoài Hoàng -thân bá quan đứng bày hàng làm lễ năm bái
các viên tán xướng đúng như nghi tiết . Bái xong một viên của
Lễ-bộ - đường tiến ra giữa sân, tới chỗ dũng đạo ( lối giữa ) qui
gồi ở phía tả , tàu xin cho phép Sử thần làm lễ bái mạng , tàu
xong viên ấy khấu đầu bái , đứng lên rồi lui ra . Sử thần xếp hàng
làm lễ năm bái , rồi Lại -bộ - thần quì gối tâu cho Khâm - mạng Tuyên
chỉ quan vào lễ , tâu xong thì khấu đầu đứng lên rồi lui ra . Khâm
mạng - quan lại tiền ra sân lễ năm bái . Lễ xong thì một viên quan Lễ
bộ quì tâu : « Lễ thành » rồi rước Hoàng -thượng lui vào trong điện .
Sau lúc ấy thì từ Hoàng thân trở xuống văn võ bá quan đều
lui ra ngoài , riêng có các viên Sử-thần thì đến đợi trước tại
Quốc -sử -quán , còn đội loan-nghi thì rước kiệu long đình đến
đặt tại giữa sân ngay chỗ đầu lối ra vào .
Quan Khâm -mạng tuyên -chỉ rảo bước ra chỗ hoàng án, nâng
lấy chiếc ống kim- phụng đi từ thềm giữa xuống sân , đặt ống
w 106 -
kim-phụng vào kiệu long -đình , rồi đội loan - nghi ghé vai rước đi,
có tàn quạt hộ vệ , đi từ cửa giữa đại cung tiền ra , có đội bát âm
cờ quạt dẫn trước , theo sau có Tuyên chỉ quan , theo lối cửa giữa
Ngọ -môn ra Quốc- sử quán .
Lúc ấy các Sử thần đều đã đứng sẵn ngoài cửa , đợi khi long
đình rước tới , thì đặt gối xuống hai bên đề đón chào , rồi theo cả vào
trong sân . Khi đền trước thềm , quan Tuyên chỉ nâng lấy dụ chỉ và
ông kim -phụng đặt lên hương án , đoạn rồi rước kiệu ra ngoài ,
chỉ để tàn quạt kiểm trượng , bài trí ở hai bên sân .
Giữa lúc ấy các viên Lễ-ty cất tiếng xướng , thì Sử-thần ra sân
làm lễ năm bái , rồi Khâm - mạng quan tiền ra đứng ở gian giữa
tuyên bố : « Hữu chỉ » (có chỉ dụ) , Sử-thần đều quì gối quay mặt
hướng bắc.
Khâm-mạng quan bèn mở chiếc ống kim - phụng , hai tay nâng
tờ dụ chỉ , đứng quay về hướng nam , tuyên đọc xong lại nạp vào
ống đề trên hương án rồi lui .
Lễ -ty lại xướng “ phủ phục, hưng ». Sử- thần lễ năm bái và thêm
năm bái lãnh cỗ yến , lễ xong thì chia ra các ban , rồi lãnh lấy tờ
dụ- chỉ sao lục vào tờ giấy vàng để treo lên, còn bản chính thì lưu
trong kho của Quốc-sử quán . Xong rồi Sử thần đều thay thường
phục, ở lại sử - quán để làm việc , còn nhân viên khác và biển -binh
thì rút lui .
- 107
Lễ cung tiến bộ Thực lục
Phàm khâm tu bộ Thực lục đến khi hoàn thành chọn ngày
tốt đề cung tiền , thì ngày hôm trước , Lễ - bộ ty đặt ba hoàng án
( án thư màu vàng ) ở gian chính giữa Sử- quán , Sử-thần bầy 6 chiếc
tráp (hộp gỗ ) , trong đựng 6 bộ Thực-lục cả chánh phó bồn lên ba
chiếc án .
Bên Cẩn -chánh điện , ở gian chính giữa , cũng đặt hai chiếc
hoàng án đều quay hướng nam , còn những gian ở phía trước điện
thì đều trải chiếu, và đặt một cỗ hương- đình , hai cỗ long - đình ở
gian chính giữa trong Thực- lục quán , đều quay hướng nam .
Khi tới ngày cung tiền , bắt đầu canh năm sau khi nghe tiếng
đại pháo , hữu ty phải thiết nghi lễ thường triều tại điện Cẩn chánh ,
thị vệ đại thần , Nội- các ấn -quan , mỗi cơ quan có 2 nhân viên triều
phục chỉnh tề đứng tại trên điện chờ đợi . Còn các thân-phiên văn
võ cùng các tôn tước , kể từ tam phẩm trở lên , và tứ phẩm ấn
quan đều vận triều phục đứng đợi ở hai bên thềm và trước sân
để sau chia ban đứng hầu . Thân - binh, cầm binh quản vệ mười người
đều vận nhung phục, tay cầm bửu kiếm. Đội loan -nghi có đủ tàn
lọng . Đội cảnh -tất có đủ 12 thanh kiếm dài . Thân -binh cầm
binh có đủ 60 cây trượng sơn son . Đội hoà thanh có đủ nhạc khí .
― 108
nhã nhạc dẫn trước , rồi đến các vị Tổng tài trở xuống theo đi
hộ vệ tiến ra cửa giữa , rồi chuyển sang bên hữu ra ngoài hoàng
thành , theo đường lát gạch đi về hướng nam đền cửa Ngọ - môn ,
vào thẳng cửa giữa đi qua chiếc cầu trên ao Thái - dịch , đến
điện Thái-hoà , vòng qua đan bệ , rẽ sang thểm phía bắc tiến vào
cửa giữa đại cung . Lúc ấy những người cầm kiếm khênh kiệu
đều phải đứng ở ngoài cửa ( rồi rước hương -đình ra ngoài , trượng
kiếm ở lại đứng xếp hàng hai bên) , các quan văn võ và tôn tước
từ tam phẩm trở lên , văn từ tứ phẩm ấn quan , đều phải chia ban
quì ở trước sân , đợi khi rước kiệu long-đình đi qua thì khấu đầu
bái . Khi đến dưới thêm điện Cần chánh , nhã nhạc ngừng tiếng, các
viên Tổng-tài Toàn - tu chia nhau nâng bốn hộp « Chánh Phó Thực lục »
đi từ thềm giữa tiến lên , các thân phiên Hoàng thân quì gối đón
rước, đợi khi đặt lên hoàng án tại gian chính giữa ( 2 bộ chánh
phó cung tiền vào điện Càn thành thì đặt tại hoàng án gian giữa
còn 2 bộ cung tiền vào Đông- các thì đặt tại án ngoài ) .
Sau khi đặt các hộp lên án , các vị Thân - phiên khấu hưng
rồi đứng ra hai bên , kiệu long - đình triệt thối , còn tàn kiểm
thì bày hàng ở sân , âm nhạc nổi dậy , các vị Tổng - tài , v.v.
rảo bước xuống sân lễ năm bái rồi lui ra ngoài đứng đợi , nhạc
cũng im tiềng , bấy giờ Thái-giám mới chuyển tầu vào đề đón
Vua ra.
viên thái- giám lại tiền đền trước hoàng- án kính cần xếp các
bộ Thực-lục vào hộp , rồi bỏ vào trong chiếc kim- quĩ khóa
lại cẩn thận , xong rồi mới rước Hoàng - thượng vào nội cung .
109 --
Nguyên trước khi hai viên thị- vệ đại-thần bưng hai bộ Thực
lục ở án trong tiến vào, thì hai viên Nội-các cũng bưng
hai bộ (chánh phó) ở án ngoài vào điện Cẩn - chánh , xuống đền
thêm giữa thì các Cầm -y-suất- đội dương 2 chiếc tàn che lên
và hộ tống ra đền trước sân thì rẽ sang bên tả , đi qua
tả- vu vào cửa Đông- các , đi qua thềm giữa tiền lên trên lầu ,
đặt vào ngăn thứ nhất của hộp kim - quĩ phía đông , khóa xong
thì các Thân - phiên văn võ và biển binh đều lui ra hết .
Bấy giờ các quan Lễ -bộ và Nội - các cùng tiền đền trước
hoàng án mở hộp lấy hai bộ Thực - lục đặt vào chiếc kim- qui
mới chế tạo , khóa lại rồi giao cho viên Thu-chưởng và biển
binh coi giữ . Ngày hôm sau lại đón Hoàng -thượng ra điện
Thái hòa để bá quan làm lễ khánh hạ , theo nghi lễ đã
định sẵn .
110 ――――
Gia-long năm thứ 10 , nghị định toàn tu bộ
« Quốc- triều Thực-lục »
Nghị định cho đặt một chức Giám -tu , lấy trong hàng Hoàng
tử hay là Hoàng - đệ kiêm lãnh , và hai chức Tổng tài , Toản-tu,
mười Khảo -hiệu , 2o Đằng -lục , 2o Thu-chưởng .
Lại có nghị chuẩn cho trước hôm khai trương một ngày ,
sẽ rước Hoàng thượng ngự ra Cần - chánh điện , để cho Sử
thần và Khâm -mạng Tuyên-chỉ quan làm lễ bái mạng . Tới ngày
thì Khâm- mạng quan phải vận triều phục , tới điện Cần- chánh
cung lãnh dụchỉ đem đến Quốc sử quán tuyên đọc. Sử thần
hành lễ , theo đúng nghi tiết đã định .
Lại tâu xin chuẩn định về việc cung cấp vật liệu cho Sử .
quán như dầu thắp đèn mỗi
đêm 20 đĩa, sẽ lãnh cả tháng ,
•
bút mực tùy theo sự cần dùng rồi sẽ phát tiền , các hạng giấy
tùy dụng khi hết lại lãnh , chiếu vuông hạng lớn 30 đôi , hạng
dài ro đôi , mỗi năm đều lãnh 2 lượt .
Lại tâu xin chuẩn cho : từ chức Chánh, Phó Tổng -tài
trở xuống , mỗi ngày được hưởng một bữa cơm chiều còn
- 111 -
từ tứ phẩm Toản - tu trở xuống thì bữa cơm đó sẽ được
tính thêm vào số lương trong Sử quán , tùy theo phẩm chức
trên dưới .
Năm thứ 14, đặt thêm 2 viên Tổng - tài , 6 viên Toàn -tu
2 Thu -chưởng , 2 Khảo - hiệu, 6 Đằng-lục . Nhưng các viên
Tổng - tài , Toản -tu , thì vẫn giữ chức cũ rồi kiêm nhiệm .
thời gian Minh -mạng đã từng tuyên các đại thần khâm tu bộ « Thực
lục » của Liệt- thánh , tới đức Hoàng - tồ Thế - tố Cao hoàng- đề. và
bộ « Minh -mạng chính yếu thư » của đức Hoàng-khảo Thánh tổ
Nhân hoàng- đề , nay đã tập hợp thành biên , dõi lại hơn 200 năm
về trước , cho được thấy rõ công trình xây dựng oanh liệt, và
những qui mô lớn lao xán lạn của các tiền vương . Trong đó về
phần lễ nhạc hình chính , dẫu phải tùy thời thêm bớt , nhưng vẫn đủ
làm khuôn phép cho đời . Bởi thế công việc toản tu , cần phải gia
công khảo cứu , đính chính rõ ràng , tức là phải tốn rất nhiều thì
giờ mới mong hoàn tất được vậy .
Trầm nay mới lên kế vị, nhận thấy những sự tốt đẹp thời
xưa , phải làm thế nào lưu truyền lại cho hậu thế , nên phải làm
ngay công việc toàn tu , đề thành một tín - sử của triều thịnh -trị
ngõ hầu nối dõi được chí tiên - vương , và được mắt thầy những
sự huy hoàng thuở trước .
Vậy nay chuẩn cho được dùng Quốc - sử - quán làm sở toàn tu
còn các nhân viên sung bổ , kể từ Chánh Phó Tổng-tài xuống đến
Toản tu , Khảo -hiệu , Đằng-lục, thì trao quyển cho đình-thần , hội
đồng lựa chọn , và đem hết thấy những sự cần thiết, bàn định kỹ
càng , rồi sẽ tâu lên đề đợi chỉ dụ, v.v ...
Vả lại lần này đặt ra rất nhiều viên chức , thì chẳng cứ gì
các quan chức ngoài , nêu ai thực có sử tài sử -bút, có thể sung
――――――― 112 -
tuyền , thì cho phép lựa chọn , tâu xin phái bồ, đề cho công việc
đặng sớm hoàn thành. Khâm thử.
Nay thần đẳng kinh vâng chỉ dụ vậy xin chuẩn cho được
lập các chức sau nầy ; I Tổng - tài , I Phó Tổng-tài , 4 Toản
tu , 8 Biên-tu, 4 Khảo-hiệu , 6 Đằng-lục, 4 Thu-chưởng . Và
hôm bắt đầu khai trương Sử - quán , đều chiều đẳng hạng , ban
bạc thay vào cỗ yến , còn về sau thì sẽ chiều ngạch cao hạ
đề cấp lương .
Giờ làm việc : Các viên Toản-tu , Biên- tu mỗi ngày 2 buổi :
buổi sáng giờ mão tới , giờ tị lui ; buổi chiều giờ mùi tới ,
giờ dậu ra về . Ban đêm thì r viên Toản-tu và i viên Biên-tu
phải luân phiên ở lại làm việc . Còn các viên Khóa-hiệu ,
Đằng- lục thì phải ứng trực suốt cả đêm ngày , không được
bỏ thiếu .
Kiểm soát : Đô- sát- viện mỗi tháng một lần phải đến I viên
Khoa đạo xem xét công việc tiến hành thể nào. Nếu thấy có
sự trễ nải thì chỉ cho viên ấy được quyền tham hặc .
Còn các Sử-thần : cũng cứ mỗi tháng chia làm hai (2) kỳ
soạn xong được bao nhiêu tập , thì phải viết đằng tả lại để
tiến trình , còn số bút giấy dùng hết bao nhiêu sẽ do hữu-ty
cung cấp , dầu thắp mỗi đêm cấp I2 dĩa , chiếu vuông chiều dài ,
đều I2 đôi, mỗi năm hai lần thay đổi thứ mới .
Trẫm xét thầy việc mở Sử-quán rất là quan trọng , Tập nghi lễ
trên đây dẫu rằng châm chước lệ cũ, tỏ ra ý kiến thận trọng , nhưng
việc mở Sử quán trong thời Minh- mạng nhị niên, lúc ấy đã sau
ngày lễ Tiểu tường (tang vua Gia - long đã sau I năm ) , tình lễ
như vậy rất hợp.
--- 113 -
Còn như ngày nay , Trầm đương ở chốn lượng -âm (chỗ
cư tang của vua) , thiết tha thương xót , ví bằng thản nhiên
theo như cát lễ thì Trầm chẳng được an lòng .
Vậy nay việc thiết triều nghi tại Cần- chánh điện , đề các
Sử-thần tham bái hãy cho tỉnh giảm , còn khi tới giờ , thì
Tuyên- dụ quan sẽ mang dụ -chỉ ban cấp ; rồi đến buổi chiều,
爱
..
― 114
Khâmđịnh Đại - Nam Hội - điền Sự lệ
Quốc- Dụng . Toản -tu là Lễ bộ Hữu Tham -tri , kiêm quản Hàn
lâm viện ấn triện Phạm- Hữu Nghi .
Coi xong bốn tấu , Trầm rất hài lòng . Và lại : Quốc gia có
sử là để ghi chép và thuật lại những công nghiệp sáng tốt, lưu
truyền mãi mãi về sau , cũng như nhà Hán suy tôn vua Nghiêu,
cho nên những sách « Thánh chính Nhật - lịch được coi là một
chính điền vĩ đại của một đời vậy .
Còn như quốc gia ta : các bậc Thần Thánh truyền thụ,
- 115 -
trải đã hơn 200 năm , so với công xây dựng của nhà Thương
và sự hưng thịnh của nhà Chu nguồn thiêng liêng ấy thực
là tràng cửu .
miêu triều đình , thân cận thì nơi cung thất , tử tinh , Tự , Viện ,
Bộ , Các, và các tỉnh phủ huyện châu , cũng được phân chia
chức vụ , lễ nhạc tu định rõ ràng , phẩm thức sắm sửa đầy đủ .
Ngoài ra lại còn sáng tác Quan - châm để răn người có chức
vụ , ngăn bọn quyền quí , tẩy sạch vết xấu quan trường , định
luật Đại-kề đề thăng giáng bá quan , ban bố huấn điều đề
chính phong tục , cầm dị - đoan đề tôn thánh học , cấp sách vở
ra ơn cho học trò, mở khoa thi để thu nhân tài , cày ruộng
Tịch - điền đề khuyến khích nông dân . Cùng là trong lúc hai
Nay dõi lại năm Minh - mạng nhị niên, vâng lệnh đặt ra
Sử quán , để khâm tu bộ « Liệt- thánh thực-lục », chia làm tiền
biên , chánh -biên , về phần thề tài cũng như nghĩa- lệ, quyết
định tự lòng Thánh vương , bàn về lễ khảo về văn , thực đã
- 116 ---
hoàn bị . Nhận thấy chế tác của đại thánh nhân , thực đủ chiết
trung muôn thuở và nêu rõ điều tin lớn cho thiên hạ vậy .
Bởi thế nên năm Thiệu -trị nguyên niên , tiếp tục mở ra
Sử quán , kế tiếp tu bộ « Thánh -tổ Nhân -hoàng - đề thực- lục
chánh - biên » , đền năm thứ tư ( 4 ) , thì bộ « Thực-lục tiền -biên » , kề
từ Thái-tổ Gia - dụ hoàng - đế đến Liệt-thánh hoàng đế đã được
soạn xong , trao cho khắc in , trang hoàng thành tập , đề trong
sách-phủ.
Thứ hai đền bộ « Thề-tồ Cao hoàng- đề thực- lục chánh -biên »
và bộ Thánh- tồ Nhân hoàng-đề thực-lục chảnh-biên , hiện đương
biên soạn , thì Ngài định cho chương trình , ân cần dạy bảo,
và lại rộng hạn cho thêm ngày tháng , đặng kịp hoàn thành .
Đủ biết thánh nhân lưu ý về sự toản thuật, và đã thận trọng
như thế nào .
Trẫm nay lấy tư cách một người con nhỏ , gánh lấy cơ nghiệp
lớn lao, thầy công sáng thủ gian nan , nhớ lại oai phong lẫm liệt .
Giữa năm Tự- đức nguyên niên , hoàn thành được bộ « Thể-tố Cao
hoàng đế thực - lục chánh - biên » hiện đã khắc in , tàng trong
Sử quán .
Nhớ xưa đức Thánh tổ Nhân hoàng , kính trọng đạo trời , noi
theo phép tổ, hòa thuận với tôn thân , thể tất với thần thứ , yêu kẻ
- 117
sĩ , thương nhân dân , chuộng văn duyệt võ, thành tích tác dụng,
thực đã sáng tựa nhật kinh , đầy dẫy vũ trụ , thì công nghiệp đó
cần phải thọ cùng sử sách đề treo gương sáng ngàn thâu , họa
chăng Trẫm mới tỏ được tấm lòng kể tự vậy . Tiếp đến bộ « Thực
lục chánh -biên , của Đức Hiền -tổ Chương hoàng đế cũng biên
soạn xong , lần lượt khắc in , tàng trong sử quán để thêm sáng tỏ
công nghiệp thịnh vượng của các thần thánh nước Đại- Nam nhà , và
làm qui giám cho ngàn muôn đời đề vương về sau ( qui giám :
qui là rùa biết lành dữ www giám là gương để soi xấu tốt ) .
phải chọn ngày tốt bắt đầu khởi công ngay ở trong quán , các viên
toản tu cũng phải kiểm điểm kỹ càng , và thề cách chữ cũng phải
chu đáo . Các viên toản tu đại thần cũng phải luôn luôn xem
xét, đề cho công cuộc sớm đặng hoàn thành . Còn như vật liệu cần
dùng , thì các hữu-ty phải ứng biện đủ .
Phụng chiếu đến ngày mồng 6 tháng này , đúng giờ tân
mão khai trương , sẽ xin sửa lễ bằng I con bò và xôi nếp , tới ngày
sẽ do I: viên sử thần vận triều phục , tế cáo vị thần Ty - công
(ông tổ ngành thợ) để tỏ ý thận trọng .
Phụng chiếu về việc sao tả các thứ cần dùng như bút , giấy
mực , v.v. , cứ sử quán thần tư rằng : Các thứ ấy đã có nghị chuẩn
cho hữu - ty chiều cấp tùy theo nhu dụng .
- 118 ―――――
hạng giấy nguyên giáp (tốt nhất) . Đợi khi ấn loát thành sách
thì mới dùng đến hạng mực hảo hạng , giấy kỳ- lân , bìa dùng
gầm đoạn mẫu vàng v.v.
Thần đẳng trộm nghĩ chiếu theo các khoản ở trên thì
sự ứng biện vật liệu thực không giới hạn , e rằng phung phí
quá nhiều , vậy xin cấp cho hạng viết chữ và niêm khắc, mỗi
người một tháng 2 ngọn bút tốt, I thoi
thoi mực hạng lớn và
tốt, còn giấy nguyên giáp thì mỗi trương rọc làm 6, khi
ấn loát mới dùng đến giấy kỳ-lân, giấy nẩy mỗi trương rọc
ra làm 2 , còn thừa hai bên sẽ nộp vào kho lưu trữ , đợi khi
gặp việc sẽ lại dùng đến . Còn về mực in thì cứ tính theo 200
tờ giấy , hết I thoi mực hạng lớn , như thế mới có hạn định,
rồi sau mỗi thứ dùng hết bao nhiêu , đợi khi công việc ấn
loát hoàn thành, sẽ do Sử thần cứ thực khai tiêu , đề tỏ ý
kiến coi trọng của công , còn bìa lót thì theo mẫu cũ chế tạo .
Phụng chiếu về việc dùng thợ khắc chữ. Nay cứ lời tư của Sử
quán thì công trình san khắc nên tham chiều cả lệ cũ . Tỷ như
bộ « Đệ nhất- kỷ , 62 quyền , trước kia phải dùng 50 tên thợ
thể thì lần nẩy bộ « Đệ-nhị- kỷ » I22 quyền, tất nhiên phải dùng
đền xoo thợ .
Nhưng hiện thời chưa mua đủ gỗ thị , vậy hãy tạm lấy
5o tên đề thừa hành công việc , và cứ ro tên thợ khắc , thì
cho dùng thêm 1 tên thợ bạn cùng 3 chiếc thùng gỗ đựng
nước . Còn từ đây về sau nếu cẩn lấy thêm thợ khắc , hay là
cần thiết những vật dụng gì sẽ lại tư xin v.v.
C 119 -
Thần đẳng hiện đã chuyển tư sang Công-bộ để tư Bắc- kỳ
tuyển lấy 50 tên thợ khắc-chữ thực tinh xảo , và xin đợi
đến khi nào mua được đủ số gỗ thị , Thần - bộ sẽ lại tư sang
Công -bộ vát thêm 50 tên nữa . Còn việc ro tên thợ khắc được
dùng I tên thợ bạn , và 3 chiếc thùng gỗ đựng nước cũng
do Bộ ấy chiêu khoản cung cấp .
Phụng chiếu những vật liệu cần dùng tại Sử-quán : Nay cử
quán thần tư rằng : Tại quán hiện cần chế tạo thêm : hộp
kim- quĩ (hộp thép vàng ) để đựng sách , trường khoát cao rộng
đểu theo như kiểu mẫu trước , rồi sơn son thếp vàng trên vẽ
rồng mây , có đủ ổ khóa , 4 góc đều bịt bằng thau mạ vàng .
Tủ để sách cũng nên theo đúng kiểu trước chề tạo ro chiếc
chu vi đều có con song để thoáng hơi , mỗi phần chia làm 3
ngăn , ngăn thứ I chia làm 2 cửa , ngăn 2 chia làm 3 cửa ,
ngăn 3 chia 2 cửa , cánh cửa cũng nên làm con song, cửa
nào cũng có ổ khóa . Về rộng hẹp cao thấp theo mực thước
cũ và đều sơn son .
Tràng -kỷ (ghế dài ) 15 chiếc, mỗi chiếc chiều dài phỏng 7
thước , bề mặt I thước , chiều dẩy I tấc rưỡi , cao I thước.
- 120 .
Tự -đức năm thứ 30
Nay quốc gia ta : gây dựng tự cõi trời nam , thần truyển
thánh nổi hơn 200 năm , đức sáng dõi lại từ xa, nguồn thiêng
thực là sâu rộng . Vận báu huy hoàng sánh cùng hai vua Văn
Võ , thịnh trị hơn cả hai vua Thành Khang , công đức sáng
tỏ khác nào đôi vừng nhật nguyệt .
Ngày nay các bộ « Thực – lục tiền - biên » của Liệt thánh ,
và bộ Chánh - biên đệ nhất kỷ của đức Thế - tổ Cao hoàng , cùng
bộ « Chánh-biên đệ-nhị-kỷ » của đức Thánh-tổ Nhân hoàng , đều
biên soạn xong , và lần lượt khắc in , kính tàng nơi Sử - quán,
coi như vàng đá không chuyền di vậy .
Nhớ lại thời ấy chính trị công bình , văn hóa thấm khắp ,
mùa màng được bội , dân số tăng nhiều , hình phạt ít dùng , võ
công hoàn tất, biên cảnh trở lại an ninh , trong khoảng 7 năm
đức trạch thấm nhuẩn hầu khắp , sĩ dân ca khúc thái bình
mãi đền ngày nay vẫn còn như trước . Thế thì việc làm tăng
về xán lạn , chính là phận sự chúng ta sau nầy .
Trẫm nay nhờ có anh linh Tam - hậu (ba vị Tiên đề ) cho
giữ muôn dân , mỗi ngày mỗi thêm thận trọng , vì lòng tưởng
nhớ, lúc nào cũng cảm thấy đức Tiên để giáng lâm .
- 121 ――
Nhân nay bộ Thực lục chánh-biên đệ tam kỷ của Đức
Nay cứ như Sử quán thẩn các viên Tổng -tài , Toản-tu v.v.
tâu rằng : Hiện nay dạng- bồn ( bốn thảo ) đã hoàn thành , xin
cho khắc chữ v.v. Coi xong bổn tấu , Trẫm rất hài lòng , nên
đề bốn ấy thọ cùng với gỗ lê táo ( hai thứ gỗ dùng đề khắc
bản in) , đặng làm sáng tỏ công đức lớn lao cùng với các bộ
Thực- lục tiền - biên và chánh - biên của Liệt-tổ , lưu truyền tới
Vậy thì chuyến này : bộ Thực - lục chánh- biên cộng bao
nhiêu quyền , lập tức ra lệnh cho Thái -sử phải chọn ngày ,
khai trương công việc ngay trong Sử quán . Các viên Toàn -tu
vẫn phải kiểm điểm thể thức tự hoạch (nét chữ ) cho thực chu
đáo ; Tổng- tài đại thần cũng phải gia tâm kiểm đốc , để cho
đại điền sớm được hoàn thành , nếu cần sự gì thì các Ty Sở
phải nên kính cần ứng cấp .
122
Kiến - phúc nguyên niên
Sử-quán thẩn tập tâu rằng : Cung chiếu vào thời Minh .
mạng nguyên niên , bắt đầu đặt ra Sử quán và năm thứ hai
mới ra lệnh cho Sử- thần khâm tu bộ Thực lục của Liệt
thánh .
Nay nhớ lại đức Dực - tôn Anh hoàng- đề , ngự trị 36 năm ,
công đức hậu trọng , không đủ danh - từ đề xưng tụng vậy xin
tham chiếu lệ cũ cũng đặt các chức Sử quan sau này :
― 123 -
Gần đây các nhân viên hiện được cấp lương hàng tháng ,
Toản-tu mỗi viên 8 quan , Biên- tu 5 quan , Khảo -hiệu 3 quan
Đằng- lục Thu - chưởng đều 2 quan vậy nay xin cho được
hưởng gấp đôi , tức là : Toàn - tu mỗi tháng 24 quan , Biên
Nay khâm tu bộ Thực- lục ghi chép công việc trong 36 năm ,
thì chức Biên - tu 12 nhân viên , mỗi viên chuyên biện 3 năm ;
Khảo-hiệu , Thừa-biện , Phân - phái , Tùy -biện . Các nhân viên này
đều phải kiểm soát bao biện tất cả trọn bộ . Toản-tu 6 viên
mỗi viên chuyên biện 6 năm , Thề thì trong vòng 3 năm sẽ
hoàn thành bốn thảo . Nều đúng hạn thì Biên-tu sẽ tâu lên đề
xin tưởng thưởng theo lệ như sau :
phẩm tâu xin thăng thưởng hai ( 2 ) trật. Còn những viên chánh
hay tòng ngũ ( 5 ) trở xuống , cùng là các viên Khảo -hiệu , Đằng
lục, Thu-chưởng Thừa-biện , đều thăng thưởng 3 trật . ( Nhưng
nếu viên nào trong hạn năm ấy mà đã đến lệ thăng rồi , thì
sau chỉ xin thăng thêm 2 trật) .
Nếu . viên nào chưa làm thanh thỏa được phần việc của
mình , hoặc giả chỉ làm lạo thảo tắc trách ( làm dồi cho xong
chuyện ) nhiều chỗ thiếu sót , thì Biên-tu xin giáng 3 cấp và
điệu (điệu = điều khiển đi nơi xa) . Còn từ Khảo - hiệu trở
xuống , đều xin cách bãi. Toản-tu sẽ phải đợi lệnh thi hành
để cảnh cáo kẻ lười biếng , và đôn đốc cho mau hoàn thành .
Vậy nay xin kính cẩn tâu lên , được chỉ dụ cho “ y tẩu » .
124 ―
Khâm định Đại - Nam Hội - điển Sự lệ
Tục biên
Tự- đức năm thứ 19 ( 1866 ) tâu xin chuẩn định : Nay
kinh tu bộ « Thực -lục chánh -biên đệ nhị kỷ » , hiện đã hoàn
thành , do tòa Khâm- thiên-giám đã chọn ngày mồng 4 tháng
sau đệ lên ngự lãm , rồi tàng trữ vào thư khố , ngày mồng
8 sẽ thiết triều nghi làm lễ khánh hạ ; nhận thấy hai ngày
đều hiệp ngày tốt , vậy thần bộ xin tham chiếu nghi lễ lần
trước để tiến trình .
Kê khai
2) Trước 3 ngày Thái -giám sẽ tâu xin tới điện Càn -thành
là nơi hiện đặt tủ thép vàng , mở cửa lau bao sạch sẽ, rồi
lại đóng cửa niêm chí như cũ, đợi khi đem sách vào tàng trữ.
Đông các nơi hiện đặt tủ thếp vàng mở ra để bao lau cần
thận , rồi niêm phong lại như củ , đợi ngày đem sách đền
tàng trữ .
125 ➡
Thực - lục chánh-biên đệ nhị kỷ chính bon I bộ , đựng
trong I tráp . ( Do phó bồn II tráp khi cung tiến vào cung
rồi sẽ trao ra để cùng tàng trữ ) . Thần bộ sẽ hội đồng với
Nội các , Sử quán thần phải tới quán đề mở tủ kim- quĩ ra
bao lau cẩn thận rồi khóa kín niêm phong đợi ngày tàng trữ.
Thực - lục chánh biên đệ nhị kỷ , một bộ chánh và một bộ
phó , đựng trong 22 tráp . Và sức quét giọn sách vở sạch sẽ
tể chỉnh .
Ngày hôm ấy đầu trồng canh năm (5), sau khi nổ pháo
trên kỳ - đài sẽ treo cờ vàng và các thứ cờ khánh hi ( mừng ) ,
hữu - ty đặt triều nghi (nghi lễ phiên chẩu) tại trước sân điện
Cần - chánh , các quan thị-vệ từ tam tứ phẩm trở lên , đường
quan của thần bộ (bộ Lễ ) cùng các thuộc viên từ lục phẩm
trở lên , bên Nội - các thì Ấn quan cùng thuộc ty từ thất phẩm
trở lên , đều mặc triều phục ( áo chầu ) , Thái -giám 22 viên
chỉnh đốn áo mũ đứng đợi ở trên điện ; còn các vị hoàng
thân , vương công và bá quan văn võ từ tam phẩm trở lên ,
văn thì tứ phẩm ấn quan đều mặt triều phục theo thứ tự
đứng trên thêm điện và hai bên dưới sân ; ty loan - nghi
trương 4 chiếc tàn vàng , 50 chiếc lọng vàng ; các quản vệ
cơ Cấm binh vận nhưng phục tề chỉnh ; các thị-vệ hộ -vệ Cảnh
tất đều cầm kiếm dài , thân-cấm binh vác trượng sơn son , ban
hòa-thanh có đủ các thứ âm nhạc , các viên Tổng - tài , Toàn- tu ,
Biên -tu đều vận áo mũ họp tại quán sở , tới giờ sẽ đến
hoàng án nâng 2 bộ Thực lục bồn chính , 1 bộ bồn phó , và
-
--- 126.
33 chiếc tráp đặt vào 12 cỗ long -đình ; nhã nhạc bắt đầu nổi
dậy , thì các viên Tổng - tài trở xuống rảo bước ra sân , bái 5
lễ xong chia đứng hai bên , ty loan- nghi rước kiệu hương - đình
( trong có đốt hương sáp ) và long đình ( đều có che tàn quạt )
ra đi, tàn lọng kiếm kích bát âm dần trước , ra ngoài hoàng
thành , theo con đường lát gạch , đi về hướng đông - nam, khi
tới Ngọ môn sẽ từ đường giữa tiến chuyển sang bên trái , khi
tới ngoài cửa Đại-cung thì những người cầm trượng kiềm và
kiệu hương - đình dừng lại , còn kiệu long- đình sẽ do cửa giữa
tiến vào, tàn lọng bát âm dẫn trước, các viên Tổng tài trở
xuống theo sau , các văn võ cùng các tôn - tước , kể từ tam phẩm
trở lên , bên văn thì tứ phẩm ẩn quan , đều theo thứ tự qui ở
trước sân , đợi khi rước kiệu long -đình đi qua thì khấu đầu ;
rước vào đền dưới thêm điện Cẩn- chánh (âm nhạc ngừng ) ,
thì đặt kiệu tại lồi giữa , tàn lọng và kiềm dàn ra hai bên
sân , các viên Tổng- tài và Toản -tu chia nhau nâng Thực lục
chính bổn 2 bộ , phó bốn I bộ và 33 chiếc tráp theo lối giữa
tiến lên , hoàng thân và vương công xếp hàng quì ở trên điện ,
đợi khi đặt các bộ Thực lục lên hoàng án xong , (tàng trữ tại
điện Càn -thành chánh phỏ đều n bộ , thì đặt tại hoàng án trong ,
tàng trữ tại Đông các : bộ chánh bốn , thì đặt tại hoàng án
bên ngoài) , xếp đặt xong , các vị khấu đầu đứng lên , rồi đứng
xếp hàng hai bên , kiệu long đình cũng ruớc ra ngoài , các viên
Tổng-tài Toản-tu Biên-tu rảo bước ra sân lễ 5 bái , âm nhạc
nổi dậy , lễ xong lui ra đứng xếp hàng, âm nhạc ngừng , Thái
giám chuyển lời tâu vào , Hoàng thượng đội mũ cửu -long (9
con rồng ) , mặc hoàng bào, lưng thắt đai ngọc , tay cầm ngọc
khuê, ngự ra điện Càn thành tới chỗ đứng đã định sẵn , trông
về hướng tây . Thần bộ (bộ Lễ) cùng các viên thị-vệ kính cẩn
bưng 22 hộp chánh phó Thực-lục do điện Cần -chánh rẽ sang
bên tả , khi đến cửa ngoài (lúc này các vị hoàng thân và vương
công vẫn đứng đợi ở hai gian bên điện Cẩn- chánh , còn văn võ
ăn quan cùng các viên Tổng -tài , Toản -tu , Biên - tu thì đợi ở
hai bên nhà giải vũ) . Các viên Thái -giám đỡ lấy đưa vào điện
Càn thành đặt lên hoàng án , rồi mở hộp để xếp các bộ Thực
lục ở trên mặt án , lúc ấy mới rước Hoàng thượng ngự lại trước
án , quì gối trông về hướng bắc , thị-vệ đỡ lấy ngọc khuê, Hoàng
thượng trịnh trọng duyệt qua các bộ xong , Thái giám trà lại
― 127 --
ngọc khuê , rước Hoàng- thượng về chỗ đứng cũ , rồi trở lại
hoàng án xếp các bộ Thực-lục vào hộp , tàng trữ trong kim quĩ
(tủ thếp vàng ) , niềm khóa cần thận , xong rồi lại rước Hoàng
thượng vô nội .
I
1
I
1
(
128 GWYD
Ngày thiết triều để bá quan làm lể khánh hạ
Ngày hôm trước các hữu -ty đặt 1 hoàng án tại phía nam
bửu tọa (chỗ đề vua ngự ) của điện Cần- chánh , 1 án sơn son
ở gian thứ hai bên tả , trông hướng tây và các gian hai bên
đều trái chiều . Tới ngày hôm ấy vào trống canh 5 , sau khi
tiếng súng báo hiệu , thì trên kỳ đài kéo cờ vàng cùng các mầu
cờ khánh hỉ, hửu- ty thiết triều nghi tại điện Cần-chánh , các vị
hoàng thân vương công thì ở trên điện ; các văn quan hàng ngũ
phẩm , võ tứ phẩm trở lên cùng các tôn tước và các ban mãng
bạc , nhạc huyền , nhạc khí , ca xướng đều ở trước sân điện , Còn
văn lục phẩm , võ ngũ phẩm trở xuống và cờ trống đại nhạc
thì ở bên ngoài Đại- cung , đều chia ban đứng đợi . Ban nghi-tượng
nghi-mã lỗ bộ cờ quạt thì đứng ở trong cửa Ngọ-môn . xếp hàng
hai bên tả hữu cung Nhật-tinh Nguyệt anh .
Thần bộ (bộ lễ) kính đệ biểu mừng đặt lên án son tại gian
thứ hai bên tả. Nội - các đường quan cắt sẵn I viên tuyên -chỉ ,
I viên tấn biểu đều vận triều phục đứng đợi tại gian phía đông
ở trên điện .
Tới giờ, thẩn bộ cùng văn võ gửi lời tấu , tức là xưởng câu
« Trung nghiêm ngoại biện ». Hoàng thượng sẽ mặc thịnh phục
(áo đẹp ) hay quan phục , ngự ra điện Cần -chánh âm nhạc nổi dậy
đồng thời nổ 9 phát ông lệnh , trên Ngọ môn cũng nổi hiệu chuông,
Hoàng-thượng ngự lên bửu tọa, viên Ti-hương đốt nhang xong ,
âm nhạc ngừng, viên tán lễ xướng : Tấu « Lý bình chi chương » .
Tấu xong , lại xướng “ bài ban », âm nhạc nổi dậy ; xướng « ban - tể » ,
âm nhạc ngừng ; xướng “ hành khánh hạ lễ » , nhạc nổi ; xưởng :
« bá quan giai quì » ; xướng « Tiên hạ biểu » . Một viên trong Nội các
rảo bước tới án son ở gian thứ hai bên tả , bưng hộp hạ biểu đệ
vào gian giữa đặt lên hoàng án , xong rồi lui ra.
- 129 -
« Nay khâm tu bộ Thánh - tổ Nhân hoàng- đề thực-lục chánh biên
đệ nhị kỷ đã xong . Thánh thần công đức sáng tỏ muôn đời, Trầm
cùng các khanh đều nên khánh hạ, vậy nay sẽ ban I bữa yến tiệc » .
Tuyên đọc xong trở về ban cũ . Tán xướng : “ phủ phục » , (âm
nhạc nổi ) , xướng “ hưng » , bình thân ( nhạc ngừng ) , xưởng : hành
tạ ân lễ ». Xướng : « Tấu di bình chi chương » , (nhạc nổi ) , xướng :
« các cung bái » ( 5 lạy ) . Xướng chưng » « bình thân » (nhạc ngừng ) .
Bộ đường quan I viên tiền ra khỏi ban quì tấu « Khánh - hạ lễ
thành » . Tâu xong khấu đầu , đứng lên rồi lui ra ban của mình .
Tán xưởng : « Tấu hòa bình chi chương » , nhạc xong khúc thì
ngừng , bấy giờ đại nhạc nổi , để rước Hoàng - thượng tiền vô nội ,
rồi đại nhạc ngừng .
Lúc ấy các thân phiên hoàng thân , văn từ ngũ phẩm chánh
giai , võ từ tứ phẩm hiệp quản trở lên đều vận thịnh phục
(áo sang ) đợi giờ dự yến , còn thì rút lui ra ngoài .
Năm thứ 33 ( 1881 ) tâu chuẩn rằng : Nay phụng mạng khâm
tu bộ Thực- lục chánh - biên đệ tam kỷ đã xong , và đã do Khâm
thiên-giám chọn ngày mồng 6 tháng sau đệ trình để tàng trữ .
Ngày mồng 7 phụng thiết triều nghi làm lễ khánh hạ , hai ngày
đều hợp ngày tốt, còn các nghi tiết xin theo như năm Tự đức
thứ 19 .
- 130
KHẢO CỨU VĂN - HÓA VIỆT - NAM CÓ QUAN HỆ
TOÁT YẾU ,
I.− Đặc -sắc của các nền văn - hóa Đông - Nam - Á .
Giai đoạn thứ nhất đã biểu lộ những đặc điểm của giống
người Úc-đại-lợi tối cổ .
*
Giai- đoạn thứ hai vào khoảng giữa
cuối thời đại Cô
..
thạch - khí và đầu thời đại Trung Cổ thạch khi có đặc sắc là
Những hài cốt khai quật được ở Hòa- Bình và ở Bắc Sơn
có những đặc điểm của giống người lai các giống papu
mê - la -nê- diêng và Úc đại lợi.
- 131 www.c
Vào khoảng ngàn năm trước Công - Nguyên đã manh - nha
nền văn hóa Tàn-thạch - khí có liên quan tới một giống người
có thể là giống Anh -đô -nê- diêng . Đặc sắc của nền văn hóa này
là những chiếc rìu đá có mộng lắp cán (hache à tenon) . Nền
Nam -Á -loại , nếu là của giống người sinh hoạt trên lục địa và
mệnh danh là văn hóa Nam- dương quần- đảo , nếu là của giống
người sinh- hoạt trên các hải đảo có những đặc sắc như tục
dẫn thủy nhập điền đề làm ruộng , địa vị cao qui dành cho
người đàn bà , sự tin theo tâm -linh chủ nghĩa phối hợp với
tục thờ cúng tổ tiên cùng sự sùng- bái thần linh đặc biệt là
thuy- thần .
cơ -sở văn-hóa ngoại lai đầu tiên chung cho hầu hết các dân
tộc ở Đông- Nam Á - Châu
Kế tới , các dân tộc Đông- Nam - Á lại tiếp nhận ảnh- hưởng
văn- hóa Ấn- Độ và văn hóa Trung- Hoa .
Văn-hóa Ấn -Độ đã từng ảnh -hưởng hai lần tới các văn
hóa Đông- Nam -Á , lần thử nhất từ thế kỷ II cho tới giữa thế
kỷ IV sau Công- Nguyên , lần thứ hai từ giữa thế kỷ IV cho
tới giữa thế kỷ VI sau Công - Nguyên . Quá-trình Ấn- Độ - Hóa
― 132 ――
dân tộc cổ Ấn -Độ cùng sự bột- phát của Phật - giáo vốn không
tán thành quan- niệm của Bà -la- môn giáo cho việc tiếp-xúc với
ngoại nhân có tác-dụng làm ô-uế linh-hồn của tín đồ bà -la
môn giáo .
Trong khi văn hóa Ấn- Độ ảnh- hưởng một cách hòa-bình
nhưng lẻ tẻ không theo một chính sách nhất định nào, thời
trái lại , văn hóa Trung- Hoa đã được truyền bá với những mục
tiêu chính - trị , bằng võ lực hay bằng phương tiện di dân. Cả
hai văn -hóa này đều còn để lại di- tích ở Đông- Sơn .
Ngoài những ảnh hưởng văn -hóa ngoại lai chủ yếu bên
trên lại phải kể tới ảnh hưởng của các nền văn-hóa Kơ -Me ,
văn -hóa các dân tộc tại Đông -Nam -Á . Mặc dầu là những nền
văn - hóa đa -nguyền , các nền văn hóa Đông- Nam - Á vẫn bảo
toàn được dân tộc tính bằng cách biết đem những yếu -tố
văn-hóa ngoại lai như văn hóa Nam-Á loại , văn -hóa Ấn-Độ
và văn hóa Trung -Hoa , văn-hóa Hồi giáo thích ứng với nhu
cầu văn hóa cùng nhu cầu bản ngã của mỗi dân tộc .
Bình, văn- hóa thạch - khi Bắc-Sơn , văn- hóa đồng- khi Đông-Sơn .
Kể tới, lại tiếp nạp ảnh hưởng văn- hóa Trung-Hoa (Không
giáo , Lão-giáo) văn -hóa Ấn -Độ (Phật- giáo ) và từ thời cận đại
133
A) Văn - hóa Việt - Nam và Văn - hóa Trung - Hoa .
đã không tránh khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung -Hoa
trong nhiều địa hạt như ngôn -ngữ , văn tự, văn học , nghệ
thuật tin -ngưỡng và đời sống xã - hội . Tuy nhiên , mặc dầu
ảnh hưởng văn hóa Trung hóa rất lớn mạnh , dân tộc Việt
Nam đã biết châm - chước mọi yếu tố vay mượn của các nền
văn - hóa ngoại lai để tự sáng tạo nên một nền văn hóa riêng
Có một sự kiện các nhà khảo cứu văn hóa thường hốt
lược là văn- hóa Ấn Độ đã ảnh hưởng tới văn - hóa Việt - Nam
tự lâu đời , trước cả văn -hóa Trung- Hoa . Ảnh -hưởng của văn
·
hóa Ấn - Độ vừa là trực tiếp vừa là gián tiếp ; trực tiếp trên
những địa- hạt như điêu khắc , âm - nhạc , ngôn -ngữ , giản-tiếp
như về phương -diện danh từ Phật giáo chẳng hạn .
III.– Khảo cứu văn hóa Việt - Nam có quan - hệ với khảo
cứu văn hóa Á - Châu như thế nào và đóng góp được những
gì vào công cuộc khảo cứu văn -hóa Á - Châu .
giữa văn - hóa Việt - Nam và các văn hóa khác như văn hóa
Ấn - Độ , vănhóa Trung Hoa , văn - hóa Nam- Á-loại , v.v ... Do
những mối quan- hệ chặt- chẽ đó , khảo cứu về một trong bấy
nhiều văn- hóa có thể đồng thời giúp ích cho công cuộc khảo
cứu về các văn hóa khác qui hồ cần phải khảo cửu trong
134
phạm- vi quốc - gia lẫn phạm - vi Á - Châu . Một mặt , khảo cứu
văn -hóa Á-Châu đã và sẽ soi sáng cho các công- trình khảo
cứu văn -hóa Việt -Nam như ngôn - ngữ , phong - tục và tín
ngưỡng . Mặt khác , khảo cứu văn -hóa Việt- Nam cũng tỏ ra bố
ích cho các ngành khảo cứu văn hóa Á - Châu bằng phương
pháp so sánh . Tỉ dụ về Hán - học , các công- trình khảo - cứu về
lịch- sử, phong tục và ngôn ngữ Việt-Nam đã đem lại được
khá nhiều đóng góp đáng kể .
KẾT LUẬN
lan tràn khắp cõi Á - Châu : đó là văn - hóa Nam- Á- loại , văn hóa
văn - hóa nào khả dĩ gọi là một văn hóa tuyệt -đối thuần túy
quốc-gia kể cả văn - hóa Ấn - Độ lẫn văn hóa Trung - Hoa . Xem
Riêng nước Việt- Nam có thể cống hiến cho chúng ta một
quá - trình diễn tiến văn hóa đầy rẫy thức-thủ
Lần lượt tiếp - xúc với nhiều nền văn hóa ngoại lai như
- 135
nền văn hóa cổ hữu này đã đóng một vai trọng yếu trong sự
lựa chọn các yếu tố văn- hóa ngoại lai khả dĩ phong - phủ hóa
được cho văn-hóa Việt-Nam .
Đặc sắc hiển nhiên nhất của nền văn-hóa Việt- Nam là
tính cách vô cùng độc-đáo của nó mặc dầu trải qua lịch-sử,
nó đã từng vay mượn khá nhiều yếu- tố ở nhiều nền văn hóa
khác . Đặc sắc này có thể làm thêm sáng tỏ cơ-cấu truyền thụ
văn-hóa cũng như cơ cấu canh -tân văn - hóa , do đó rất bổ ích
số những văn- hóa này lại có vài thứ văn -hóa , xét ra , vốn
trái ngược hẳn với tinh thần truyền thống của các văn -hóa
Á - Châu .
Đứng trước hiểm tượng đương đe dọa các văn - hóa quốc
gia chúng ta đó , chúng ta phải làm gì đây đề đối phó lại
được ? Hy vọng duy nhất của chúng ta , theo thiền ý là ở
các nhà khảo cứu văn hóa Đồng - phương cùng những sự cống
hiển bồ ích của khoa học nhân văn vậy .
-- 136 C
VIETNAMESE STUDIES AND THEIR RELATIONSHIPS
TO ASIAN STUDIES
137 -
Hòa- Bình's stone- implements have been often found
together with other tools made of polished stone .
<
«
<< This culture to which the names Austro- Asiatic (for the
Wh
mainland) and Austronesian (for the islands) have been
Pp . 45-46.
138 --
rudimentary scale and possessed excellent stone tools of
their peoples .
people.
139 -
recent excavations western Han and Scythian elements mixed
with basic Southeast -Asian cultural traits »
> (1).
1645-1670.
- 140 ---
Most of these peoples had more or less undergone Austro
Asiatic cultural influence which may be considered as a common
exogeneous cultural substratum for them.
of art, which have been found at P'ong Tuk and Korat ( Siam ) ,
142 -
frequent embassies and the records of them right into the
Ming period are of special value to historians » (1) .
date from the earliest days of the junk trade with the
Nanyang. Only bits and pieces of the story are known as
yet » ( 2) . As for Chinese expansion by force , it took place
Asia and the Hong Kong region, held in Hong Kong - during
September 11-16 , 1961 .
-- 143
Such are the essential component parts of most of
V
↓"
4
- 144 -
II.- RELATIONSHIPS OF VIETNAMESE CULTURE TO
SOUTHEAST-ASIAN CULTURES
145
Though diversified in origin , it emerges as basically
homogeneous , because its various component elements, far
―――― 146 -
national culture by making a creative synthesis of Chinese
culture elements with such other exogeneous cultures elements
as Indian culture and Austro-Asiatic culture (1 ) .
― 147 -
(Giao -Châu) it began only from the second century to the
sixth century of the Christian era to be open to Indian
civilization through the expansion of Buddhism .
148 --
more easily than ourselves. While Buddhism has not yet
From the end of the 2nd century to the year 544 and
- 149 -
at Pháp -Vân Pagoda ( Văn- Giáp village , Thượng - Phúc, Hà
Đông Province) and founded the Buddhist sect of Dhyana ( 1 ) .
had trade with Indians during the early Han Dynasty . Modern
research has discovered vestiges of Indian art all along the
Central Asia route. In all the chief cultural outposts of China ,
six- tiered stupas with figures of Buddha carved on each tier and
with slightly curved roofs that suggest the architecture of houses
carved of Bông- son bronze drums . The most representative archi
tecture of this period is that of the Bình-Son Pagoda near Việt-Trì ,
and it is also during this period that appeared such sculptures
150 -
as the Lokapâla , the Kinnarî and the Vajirapâni known as
yet in Centre-Vietnam .
instrument used during the Han and the T'ang dynasty was
called the Pi- Pa, a guitar which came from Egypt , Arabia
Asia such ones as the P’o (Phách) the Pi - Pa (Tỳ- bà), the Fan
―― 151
today's Trống cơm which seems to derive from the damaru
of Ancient India ( 1).
152 -
translation . As we know, during the eight hundred years.
all phenomena .
its original sound for instance Sam Mwse coming from Skt.
directly from Sanskrit such are among the most probable ones :
• 153
Tamil , beut, bet (steadfast, motionless, very quiet) Viet
Saigon, 1952 .
1962 .
G 154 -
C) VIETNAMESE CULTURE AND INDONESIAN OR AUSTRO
ASIATIC CULTURE .
a) Linguistic data .
155 wing
of T'ai origin , and Father Souvignet ( 1), traced it to the
156
generally surrounded by languages of other families , can be
considered adequate, until the results of lexico-statistics or
glotto-chronology bring us more definitive conclusion » ( 1 ) .
b) Mythological data .
<
«
< Among the Palaungs (a Mon-Khmer people) for instance ,
the story is told of a serpent maiden who fell in love with
the son of the solar King and loved him, and eventualy was
Naga Princess took two of the eggs and threw them into the
Irrawaddy River. One of the eggs moved upstream to Man
Maw (Bhamo) , where it was taken out of the river by a
- 157 -
of the Palaungs. The second egg also drifted down the
bank of Lake Nawng Put, and they had a son, who fell in
one day in human form and talked with him . The Princess
also loved the lad --- and took him to the country of the
roof of the palace and was very much dismayed to find the
whole of the country and the lakes round about filled with
Princess ; but , when she came to her husband she found him
•
dejected and wanting to go back to his own father and
his own country , but told him that she could not stay there .
- 158 --
she was to feed the child with the milk which would ooze
was born a son named Sùng Lãm . Sùng- Lãm succeeded his
father under the royal title of Lac-Long- Quân.
- 159
Later on, he withdrew to his former Palace of the Seas.
But, as the Xích - Quỷ kingdom was invaded by the army of
Đế-Lai , a Chinese Emperor, her inhabitants invoked Lac- Long
Quân who came back his Palace under the Sea an saved the
country from De-Lai's oppression .
c) Ethnological data.
- 160 -
a ) The wearing apparel and ornaments .
for women. The cái khố consisting of one piece of cloth was
wrapped once and a bit around the wait and the intermediate
(1 ) NGHIÊM-THẨM , op . cit .
- 161
customs as the custom of blackening the teeth and the use of
the betel-nut (1).
Being not very fortunate and having not vital space enough
they are reduced to building their dwelling from the
materials they can find around. Since wood and bamboo are
162
roofs leaning on an wooden frame system which is in turn
― 163
which give precedence to men. That is why, as early as the
and of Lady Triệu-Âu against Chinese yoke (in the year 248)
and Ly- Công- Uần , the first King of Lý dynasty. Both of them
- 164 -
Vietnamese family, having always been the main force behind
Lệnh ông không bằng công bà (The man’s orders are not
worth the woman's jobs).
165G
mention such other important research matters on the Austro
Asiatic and Vietnamese ethnological affinities as questions
D 166 G
III. RELATIONSHIPS AND CONTRIBUTIONS OF VIET
NAMESE STUDIES TO ASIAN STUDIES .
- 167
himself ( 1 ) among other Orientalists has emphasized the role of
sino -vietnamese in sinology . « Far more important, however,
he pointed out, is the reflection of Ancient Chinese in actual
168 --
it is hard to decide which phenomena in Sino - Annamese go
back to the period when they were borrowed and which have
X, 339, 664.
+
« La géographie politique de l'Empire d'Annam sous les Lý,
les Trấn et les Hổ ( IXè - XVè siècle) », BE F.E.O. , XVI , 1 , 27 .
169 Goog
of Indochinese Studies, the France-Asia, the Institute of
Historical Research (Viện Khảo-Cổ) and the Directorate of
Cultural Affairs (Nha Văn- Hóa ) .
Vol. II : Le Taoisme.
- 170 --
( 1 ) not including such other important works as those of
de France , 1952) .
- 171 ―
Georges Condominas ( 1 ) , J. Cuisinier (2), Dambo (3), Lavallée
(4) , Maurice Durand (5) , etc ...
172 ----
minority languages of Vietnam : (T'ai family) Tho , white
T’ai , Nung ; ( Việt- Mường) family Mường ; ( Malayo- Polynesian
family) Cham, Rõglai ; (Mon -Khmer family) Brou, Pacoh , Katu ,
Yet, Sedang, Halang, Bahnar , Muong RoLom, Chrau, Stieng.
- Vietnam Bibliography :
( 1 ) S.I.L's-
BARKER ( Milton),
< Proto-Vietnamuong
- « Initial Labial Consonants >> ,
―――
BLOOD (David ) , « A Problem in Cham Sonorants » ,
Zeitschrift für Phonetik 15 : 111-114 (1962).
BLOOD (Doris).
―― 173
Finally, let us come now to another field of Vietnamese
studies which has brought a three-fold contribution to Chinese ,
― DAY ( Colin ).
―
LEE (Ernest), « Non-syllabic High Vocoids in Maguin
danao », Studies in Linguistics 16 : 65-72 (1962) .
―――
MILLER (John) , « Word Tone Recognition in Viet
namese Whispered Speech » , Word 17 : 58-60 ( 1961 ) .
―― PITTMAN ( Richard),
- 174 -
Indian and Austro-Asiatic Studies together, we mean the field
201 ( 1959) .
II : 519-523 (1962).
777 ( 1962) .
175 ----
to such pioneer -- Scholars as Miss Colani ( 1), Henri G
Parmentier (2 ) , Dr. Olov Janse (3) , Victor Goloubew (4), Heine
--
THOMAS (David), and Alan HEALEY , « Some Philip
pine Language Subgroupings », Anthropological Linguistics 4.9 :
21-33 ( 1962) .
-
WILSON (Ruth) , « A Comparison of Muong with some
Mon- Khmer Languages » , to appear ( 1964) in N. Zide, ed . , Studies
in Comparative Austroasiatic Linguistics.
-- 176 --
Geldern (1) , Stein-Callenfelds (2) , Bernhard Karlgren (3) , Louis
Bezacier (4).
40 (1940) .
ww 177 ---
All those archaeological researches on the territory of
Vietnam have featured eloquently so many relationships
between Vietnamese culture on the one hand and Chinese ,
Indian as well as Austro-Asiatic cultures on the orther one
localities like Hòa - Bình , Bắc -Sơn , Đông- Sơn for instances.
C
- 178 -
1
CONCLUSION
peoples.
The result was that there has not been so far any pure
― 179
of its cultural borrowings in the course of its history, may
throw much light on the mechanism of transculturation as
well of neoculturation . At the same time, it proves to be very
- 180
Les musées du sud - vietnam
(Tourane) et de Saigon.
- 181 -
a été perdu mais les collections s'augmentent toujours par de
nouvelles acquisitions , parmi lesquelles prédominent des oeuvres
d'art vietnamiennes A ce point de vue, le Musée de Hué reste
le plus riche.
― 182 -
Depuis sa création, le musée est considéré comme un des
mois. Les pièces du musée ont été étudiées dans une belle
série du Bulletin des Amis du Vieux Hué, parue de 1914 à 1944
-
Le Musée de Danang, établi dans uue région riche en
vestiges d'art cham, est réservé exclusivement à l'exposition
des sculptures de cet art .
. 183 --
transition unissant les influences khmère , javanaise , même
sino-vietnamienne. La salle de Trà-kiệu (VIe-IXe siècle), dans
le corps principal « offre, d'après J.Y. Claeys, ancien conserva
8
Derrière elle , est la grande salle de Đồng dương, nom
Dong-
dégagements.
- 184 -
limitrophes et des autres pays extrême- orientaux. En outre, le
musée est destiné à recueillir des documents locaux : sculptures
― 185
plus, l'extension du musée s'avère nécessaire . Pareil problème
-- 186 -
En 1960, l'Institut des Recherches Archéologiques, chargé
à la fois de la direction des musées et de la conservation des
- 187 -
$21.
Điềm sách
các nơi khác bởi ô . Khoa -Trưởng Văn - Khoa hay các ô . giáo
sư trường ấy .
được dịch . Vì vậy chúng ta khó tìm hiểu được quan điểm của
những người phụ trách niên- san .
mà tập - san chúng tôi thấy cần phải bình - phẩm vì trực- tiếp
thuộc phạm-vi của tập- san .
―――
-188
Việt- Nam với các nước thuộc miền nhiệt-đời. Cuộc so - sánh
đó đưa tác- giả đến một kết - quả : « không có một xử nào ở
đồng bằng nhiệt đới vừa cổ vừa văn minh và vừa thống nhứt
như dân tộc Việt- Nam » (tr . 51 ).
Phần thứ nhì tác- giả phân -tách một vài hiện-tượng lịch sử
của Việt-Nam đề chứng minh rằng tuy là Việt-Nam đã chịu
ảnh hưởng rất nhiều của Trung - Hoa nhưng «ở Việt- Nam
cho rằng nước Việt - Nam « nhìn về hướng Nam và đặc biệt
thuộc về miền Nam » (tr . 53 ) . Để chứng- minh điều ấy , tác- giả
dựa trên văn- tự và ... « nước mắm » « từ- ngữ Việt- Nam cũng
như thứ nước mắm ấy , trước mắt nhà ngôn- ngữ- học cận -đại ,
·
có một nền tảng thuộc Môn Khờ- Me và Nam - Dương dưới âm
điệu Thái và ảnh hưởng Trung - Quốc » (tr . 54 ).
Chúng ta đến phần thứ ba bàn về Tác giả của Việt- Nam .
Tác-giả của Việt-Nam không phải là Tạo-Hóa , nghĩa là không
phải địa- thế , không phải khí - hậu, mà cũng không phải là
Nói tóm đọc bài của giáo sư Dufeil, thay vì thấy mình
hãnh- diện là một phần tử của một quốc-gia duy- nhất có một
nền văn- minh vững chắc trong số các xứ nhiệt -đới , trái lại
tôi thấy hơi ái- ngại vì trong những lý do nêu ra bởi tác- giả ,
tôi không thấy một lý do nào có nền- tảng chắc-chắn cả , một
nền- tảng có thể chinh - phục được lòng đa - nghi của mình . Nói
như thế không phải tôi muốn phủ - nhận sự kiện dân-tộc Việt
Nam là một « dân * tộc thực- sự » đâu . Tôi chỉ muốn nói là nếu
mình nhân- danh một học-giả để tuyên-bố một điều gì thì điều
đỏ phải có căn bản vững vàng . Không có quyền nói vu vơ,
thế thôi.
vidente
189 -
Bài thứ nhì chúng ta cần phải lưu ý tới là bài của
Ô. NGUYỄN- HUY-BẢO, nhan-đề Relations économiques , sociales
lại , tác giả trong một bức họa đại-quy- mô, đã vẽ lại tất cả
những cuộc bang-giao giữa các nước trên thế- giới từ thời
·
tiền sử đến ngày nay. Bức họa đó đưa đến vài kết - luận :
không có Châu-Âu cũng không có Châu -Á mà có một châu
tổng - hợp . Chúng ta vừa cố gắng tóm-tắt một vài điểm chánh
của bài diễn-văn đọc trước Tổng - hội Quốc tế các nghiệp-đoàn
Công-giáo . Phê- bình bài này rất khó khăn , vì đây chỉ có một
vài điểm rất tổng- quát , mà có lẽ mọi người đều phải
nhìn nhận .
tài-liệu hay và trình bày một cách rất linh-động . Tiếc rằng
bài này không được dịch ra một ngoại ngữ đề người ngoại
quốc có dịp khám- phá một khía cạnh vô cùng phong phủ của
Việt - ngữ . Nhưng cũng nên đặt câu hỏi : bài này có thể dịch
T. B. L.
1964
Trong tập niên- san của Văn- khoa Đại- Học , khóa 1959-1960 ,
--- 190 -
chúng tôi thấy cần giới thiệu cùng độc - giả những bài thuộc
phạm vi của tập - san .
Cũng như trong niên - san khóa trước , niên - san này đã
thu-thập lại những bài diễn- văn của các giáo-sư Văn-Khoa ,
đọc tại trường hay một vài nơi khác , trừ bài Việt- Nam vong
cùng quí giá và chúng tôi hết sức cám ơn ổ . Khoa Trưởng
đã cho phổ biến , cũng như dịch - giả đã dày công dịch tài
liệu ấy .
T. B. L.
1964
biên- khảo, Saigon , nhà in Văn- Khoa , 1962, 681 tr. [ Étude
sur les chants à cliquettes du Vietnam ].
Hình như quyền sách này là bản in của luận -án mà tác
giả đã đệ trình vài năm trước đây tại Đại học Văn -khoa Paris
để lấy bằng Tiến - sĩ Đại- học . Nghe nói tại Saigon , có một vài
học- giả nhận được bản luận án đó, nhưng chúng tôi không
được diễm- phúc tham- khảo nên không thể so sánh luận án và
bản in này đề nhận định những điềm dị- đồng. Dầu sao , đó
cũng chỉ là một chi- tiết không quan-trọng lắm .
- 191 -
Trong quyền sách này , tác giả đề cập đến ba vấn đề khá
khác- biệt nhưng cũng có thể liệt- kê dưới nhan-đề của tác-phẩm
Âm -nhạc Việt- Nam cô -truyền . Ba vấn-đề đó là : Tiểu luận về
phần ấy , tác giả cũng cho in kèm theo những phụ-lục sau đây :
1 biều - nhất-lãm lịch - sử âm - nhạc cổ- truyền Việt- Nam , bảng dịch
ra Pháp - văn những nhan - đề các bài hát và bài nhạc , một biểu
nhất- lãm lịch - trình diễn- tiến của âm nhạc cổ truyền , một bài
đính chính của tác-giả sau khi đọc bài Étude sur la musique
sino-vietnamienne et les chants populaires du Viêt-Nam của ông
Nguyễn - đình - Lai đăng trong Bulletin de la Sociétés des Etudes
thử ngôn - ngữ ), bảng kê các đĩa hát âm- nhạc Việt-Nam gồm có
-
những đĩa mà tác giả đã nghe được tại những Viện Bảo tàng
Nhân- chủng ( Musée de l’Homme , Guimet ) , tại đài vô tuyến
truyền thanh Pháp, một vài sưu tập tư của người Việt (cả thảy
118 đĩa ), một bảng kê những danh-từ Hán và Hán-Việt , có
chua chữ Hán và sau cùng một mục- lục phân tách .
Khỏi nói chắc độc-giả cũng hiểu rằng trong tác- phẩm trình
bày nơi đây , chỉ có phần thứ nhất là thuộc phạm- vi của tập - san :
đó là phần bàn về lịch- sử âm - nhạc cổ truyền Việt- Nam , từ
trang 5 đến trang 111. Hai phần sau , nhất là phần thứ ba từ
trang 113 đến trang 295 đã không thuộc phạm- vi của tập - san
mà cũng vượt khỏi thẩm quyền của chúng tôi , vậy nên đề ra
ngoài chờ đợi những nhân- vật chuyên-môn hơn .
và có thể xem như là nông cạn . Có thể nói là chỉ có một công
192 GRAD
trình khảo cứu khá tổng -hợp đó là bài của G.KNOSP, Histoire
de la musique de l'Indochine đăng trong Encyclopédie de la
musique et Dictionnaire du Conservatoire, Paris, 1922 , t . V,
trang 3,100 G 3.146.
một phần nào lỗi-thời . Trong tình trạng ấy, quyền sách của
Ông TRẦN -VĂN-KHÊ chắc chắn sẽ giúp ít nhiều cho các giới
học-giả quan- tâm đến vấn đề âm - nhạc cổ truyền Việt- Nam
hay đến các vấn- đề khác liên quan đến nền âmnhạc cổ
truyền ấy . Có lẽ chúng tôi không cần giới-thiệu tác giả cùng
độc-giả Việt- Nam vì trong chúng ta còn ai mà không quen
với tên của tác-giả nữa . Mỗi người chúng ta , trên các
báo-chí nước nhà nhất là trong tạp -chí Bách -khoa , đã có bao
nhiều cơ -hội để làm quen với tác-giả và cũng nhờ các bài
khảo- cứu hay « tùy- bút » ấy mà được biết rằng Ông KHÊ đã
tham -dự bao nhiêu hội -nghị quốc tế và Ông đã thừa những
cơ- hội đó để làm cho các giới ngoại quốc phải để ý tới nền
âm-nhạc nước nhà mà từ trước đến nay ít người biết đến .
Như vậy , với tác- phẩm này , chắc chắn là Ông KHÊ đã « đặt
tảng đá thứ nhất cho tòa nhà lịch sử âm nhạc Việt-Nam »
( trang 111 ) .
là thời - đại mà ảnh hưởng của yếu -tố Ấn- độ và yếu - tố Trung
hoa đồng đều ; thời-kỳ thứ nhì (từ thể- kỷ thứ XV đến XVIII)
quốc gia và bắt đầu chịu nhận ảnh hưởng âm- nhạc Tây
phương. Trước ba thời-kỳ ấy có một thời-đại « đen tối », từ
- 193 -
những nhạc cụ và những nhạc hội và trong phần thứ nhì ,
đến những tài liệu có thể gọi là đầu tay hay ít lắm cũng
hết sức mới-mẽ , chẳng hạn như tài-liệu vật- chất tìm được tại
chùa Vạn- phúc ở làng Phật-tích , tỉnh Bắc-ninh . Tài liệu này
có một giá- trị rất lớn vì cho ta thấy rằng trong thời-đại hết
sức xa xưa , từ thế- kỷ thứ X đến XV , âm- nhạc Việt Nam
hay nói đúng hơn là các nhạc cụ đã chịu ảnh hưởng của các
nước khác nhiều hơn là của Trung- hoa , nếu chúng ta căn cứ
trên xuất - xứ của các nhạc cụ ấy . Trong số 8 nhạc - cụ được
Sau đây là vài nhận-xét chung về một vài chi -tiết của
tác phẩm . Thời - đại u - tối ( periode obscure ) nghĩa là thời -gian
trước thế- kỷ thứ X không đem yếu -tố nào thêm vào tác- phẩm ,
trái lại, những trang ấy đã bắt- buộc tác giả phải bàn đến
nhiều vấn - đề hiện nay chưa được giải -quyết một cách chắc
chắn và cho ta thấy rõ ràng tác giả đã căn -cứ vào những
tài-liệu hơi xưa và những giả thuyết hơi lỗi thời : vấn-đề
nguồn-gốc dân - tộc Việt- Nam và vấn đề văn- minh Đông -sơn
chẳng hạn . Rất nhiều nơi tác- giả có một vài phán- đoán quan
trọng nhưng không thấy căn cứ trên tài-liệu vững chắc nào .
Chúng tôi có cảmtưởng là những nhận -xét đó bắt nguồn từ
một vài « cảm -tưởng chủ- quan » của tác -giả. Trang 17 , tác-giả
- 194 -
nghĩ rằng hồ cầm từ Ấn-độ sang Việt -Nam , tuy vậy Ông cũng
có nói thêm rằng theo một tác-giả khác thì thử đàn ấy
« hiện -diện lần thứ nhất trên những bức họa Ấn -độ vào năm
quan đến một thử ống tiêu (flute droite ) . Tác giả nói rằng
loại ống tiêu này không phải ở Trung hoa đến . « Trong thời
đại đang nghiên - cứu (từ thế-kỷ IX đều XI ), loại ống tiêu này
chỉ có thể từ Ấn - độ đến nơi mà người ta không thấy ống
tiêu đó trước thế-kỷ XI » . Vậy, thì ống tiêu ấy làm thế nào
mà đi nhanh đến thể từ Ấn độ sang Việt- nam và khi sang
ổng tiêu cũng như hình nhạc-sĩ đều được chạm trên đá !
cùng thì chúng tôi xin nói thêm cùng tác -giả rằng trong một
kỳ tái- bản nên duyệt lại phương- pháp phiên- âm những chữ
Hán . Cùng trong một trang , phiên âm của chữ Cung được viết
theo hai cách (trang 47 ) và chữ Hán chắc không có chữ hoàng
như tác-giả ghi cũng tại trang ấy . Đó là những chi- tiết nhỏ
nhen , nhưng cũng có tầm quan-trọng . Và cuối cùng chúng tôi
cũng chưa muốn tha độc-giả trước khi thủ thật cùng độc-giả
rằng sau khi đọc hết tác phẩm và nhất là phần lịch sử chúng
tôi nhận thấy rằng tác- giả biết nhiều lắm , đọc rất nhiều sách ,
Sau cùng , chúng tôi xin mách cùng tác giả là trong quyền
Hải -ngoại kỷ sự của THÍCH -ĐẠI -SÁN ( xem bài điểm trong số
này ) do Viện Đại học Huế vừa xuất- bản , tại trang 40, có
-- 195 ―――
đoạn sau đây về âm nhạc và vũ -khúc « Kể khiến gọi ra bổn ,
nằm mươi cung -nữ , người nào cũng thoa son đánh phấn ,
bận áo hoa màu lục dài phết đất, đội mão vàng giống mão
« Thất phật », hoặc tay cầm nhạc khi , quá nữa giống nhục -khi
Trung - hoa , chỉ có yêu cổ (trống eo lưng) [sic] dài độ hai
thước , giữa eo nhỏ , hai đầu bằng phẳng lớn hơn , dùng tay
về có tiếng vang hùng - tráng như tiếng trống đồng ; lại có
thứ đàn giống đàn tranh hình vuông dài, giữa trống -bỗng ,
giăng bốn giây có tua , ôm trên gối đề khảy . âm - vận nghe
rất thanh- tao . Bọn cung-nữ nhịp nhàng sắp thành hàng ngũ,
âm -nhạc hòa tấu ; ca-nhi hát khúc « Thái -liên » ( hái sen),
ngân giọng chậm rãi cho ăn nhịp với trống đàn , vũ - nữ tay
múa bộ như đương hải hoa sen vậy ... » ( 1) .
Chúng tôi cũng xin mách cùng Ông KHÊ một vài tài liệu
về âm - nhạc mà Ông chưa đề ý đến như là quyền sách của
NGUYỄN-VĂN-NGỌC , Đào nương ca , hay quyền Ca-trù bị
khảo của VŨ - NGỌC- PHÁC , hay bài báo của giáo- sư E. GAS
PARDONE , Le théâtre des Yuan en Annam đăng trong tập
san Sinologica , t. VI, 1 ( 1959), tr . 1-15, v.v.
cho rằng trong hơn 100 trang , tác - giả không thể nào đề cập
hay giải quyết được tất cả mọi vấn- đề liên- quan đến lịch sử
của âm nhạc và kịch - nghệ . Cũng vì thế nên những thiên
chuyên-khảo vẫn còn có ích lợi cho những vấn -đề chi- tiết.
Trong viễn tượng đó, chúng tôi thừa cơ-hội này để giới thiệu
luôn quyền Việt- Nam ca - trù biên -khảo của hai Ông Đỗ
BẰNG - ĐOÀN và ĐỖ TRỌNG HUỀ . Đây có lẽ cũng là lần thứ
nhất một bộ - môn ca- vũ được đem ra khảo cứu trong một
tác- phẩm riêng- biệt và khả quan - trọng, hơn 600 trang. Chính
theo giới - thiệu của tác - giả , quyền sách này chia làm hai
196 -
lược - khảo ( tr. 21-140 ) trong đó tác-giả đề cập đến Lược sử
ca -trù , Những danh -từ chuyên -môn trong nghề ca-trù , Giáo
ca- nhi và trong những vị tiền bối hay nghe hát , chúng ta
chia ra : Những bài hát ở cửa đền, Những bài hát nói, Những
áng danh- văn Trung -quốc ngày xưa cô đầu thường hát .
Chương hai : Tiều -truyện tác- giả ; chữ tác- giả đây chỉ những
của quyền sách có thể làm cho chúng ta lầm lẫn. Nếu cần
phải đặt một nhan đề cho một quyền sách như thể này có lẽ
chúng tôi sẽ đề nghị như sau : Tài- liệu về ca - trù Việt- Nam .
Thật vậy vấn - đề biên-khảo trong quyển sách này được giới
hạn một cách triệt-đề . Nếu xét rộng thì vấn đề biên- khảo chỉ
« quật- khởi tầm - diệt » trong một trăm trang đầu . Còn những nơi
khác hoặc là văn- tuyển hoặc là những tiểu-sử không thuộc
vào đề tài khảo cứu , hơn 450 trang , hoặc là những chuyện
khảo cổ đỡ mất công tìm -tòi kê- cứu » , như nguyện - vọng của
hai tác- giả .
T. B. L.
1964
197 .
―― CONTENTS
MỤC LỤC
LỤC – SOMMAIRE
322535
( Traduit par TRỊNH HUY TIẾN , Sources
- 198 GEND
NGUYỄN KHẮC KHAM , Khảo cứu văn hoá Việt
-
-id Vietnamese Studies and their relationships
to Asian Studies 137
D 199
2
La PKMAT-RA
52, Bd. Im SAICON
TỦ SÁCH VIỆN KHẢO - CỒ
Đã phát - hành :
-
1 LÊ -VĂN - LÝ, Le parler vietnamien.– Saigon , 1960 .
VI– LÊ- KIM- NGÂN, Tổ chức chính-quyền trung ương dưới triều
Lê Thánh-tông 1460-1497 (Lorganisation du pouvoir central
sous le régne de Lê Thánh - tông 1460-1497 ). Saigon , 1963.
Saigon, 1964.
IX - Khôm -định Việt-sử Thông - giám Cương - mục Tiền - biên ( Texte
et commentaire de l'Histoire du Việt, Vol . 2 ) .— Saigon, 1965.
Nhu-viễn tập II trong Khâm - định Đạt- nam Hội- điền Sự -lệ .
t
ne
Nhà in Hoàng văn Lộc so
Kiềm -duyệt số B.T.T./B.C3/XB Sài-gòn ngày 1966
Libraže!~ YHAT-TRI
62. Bd. Le Lei, MGON