Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 36

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

-------------------------------------

THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG, KINH NGHIỆM


QUẢN LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
NGANG HÀNG (P2P LENDING) TRÊN THẾ
GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

TIỂU LUẬN

MÔN: CÁC CHỦ ĐỀ ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

LỚP: CH24B2

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGÔ VĂN TUẤN

NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 1

TP. Hồ Chí Minh, năm 2023

i
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

-------------------------------------

THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG, KINH NGHIỆM


QUẢN LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
NGANG HÀNG (P2P LENDING) TRÊN THẾ
GIỚI VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM

TIỂU LUẬN

MÔN: CÁC CHỦ ĐỀ ĐẠI CƯƠNG VỀ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

LỚP: CH24B2

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. NGÔ VĂN TUẤN

NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 1

TP. Hồ Chí Minh, năm 2023

ii
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

..................................................................................................................................

Tp. Hồ Chí Minh, ngày … tháng … năm 2023


Giảng viên hướng dẫn

iii
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC

STT Họ tên Công việc Mức độ hoàn thành

1 Ngô Thị Nghiêm Lời mở đầu; Kinh nghiệm của các nước trong 100%
hoạt động P2P Lending
2 Lê Thị Nhật Vinh Tổng quan về P2P Lending 100%

3 Nguyễn Quốc Trung Thực trạng hoạt động P2P Lending trên thế giới; 100%
Trình bày PowerPoint
4 Đặng Văn Tú Kết luận; Thực trạng hoạt động P2P Lending 100%
trên thế giới
5 Nguyễn Thị Kim Chi Thực trạng hoạt động P2P Lending tại Việt Nam; 100%
Thuyết trình
6 Nguyễn Hà Thành Thực trạng hoạt động P2P Lending tại Việt Nam 100%

7 Nguyễn Thị Bội Giải pháp quản lý và phát triển hoạt động P2P 100%
Tuyền Lending tại Việt Nam; Thuyết trình

8 Nguyễn Văn Huy Giải pháp quản lý và phát triển hoạt động P2P 100%
Lending tại Việt Nam

iv
DANH MỤC HÌNH ẢNH

Hình 2-1. Vai trò của hoạt động P2P Lending tại Việt Nam.........................5

Hình 2-2. Xếp hạng rủi ro trong P2P Lending..............................................5

Hình 2-3. Mô hình cho vay ngang hàng truyền thống..................................8

Hình 2-4. Mô hình cho vay ngang hàng hợp tác với ngân hàng...................8

Hình 2-5. Mô hình cho vay ngang hàng cam kết lợi nhuận..........................8

Hình 2-6. Tăng trưởng cho vay ngang hàng toàn cầu giai đoạn 2018-2030..9

Hình 2-7. Cho vay ngang hàng theo mô hình năm 2021.............................11

Hình 2-8. Cho vay ngang hàng theo người dụng cuối năm 2021................12

Hình 2-9. Cho vay ngang hàng theo loại năm 2021....................................13

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2-1. Danh sách một số công ty P2P Lending hoạt động tại Việt Nam
hiện nay...............................................................................................................20

v
MỤC LỤC

1. Lời mở đầu...........................................................................................1
2. Nội dung...............................................................................................2
2.1 Tổng quan về P2P Lending............................................................2
2.1.1 Khái niệm..................................................................................2
2.1.2 Đặc điểm của P2P Lending.......................................................4
2.1.3 Vai trò của P2P Lending............................................................4
2.1.4 Rủi ro trong hoạt động P2P Lending.........................................5
2.1.5 Các mô hình P2P Lending.........................................................7
2.2 Thực trạng hoạt động P2P Lending trên thế giới...........................9
2.3 Kinh nghiệm tại một số quốc gia trên thế giới về quản lý hoạt
động P2P Lending...........................................................................................13
2.3.1 Anh..........................................................................................13
2.3.2 Mỹ...........................................................................................14
2.3.3 Thụy Sĩ....................................................................................16
2.3.4 Trung Quốc.............................................................................16
2.3.5 Singapore.................................................................................17
2.3.6 Malaysia..................................................................................18
2.4 Thực trạng hoạt động P2P Lending tại Việt Nam........................18
2.4.1 Quy mô hoạt động P2P lending tại Việt Nam..........................19
2.4.2 Hình thức hoạt động hoạt động P2P lending tại Việt Nam......20
2.4.3 Một số vấn đề hoạt động P2P lending tại Việt Nam................21
3. Giải pháp quản lý và phát triển hoạt động P2P Lending tại Việt Nam23
KẾT LUẬN................................................................................................26

vi
1. Lời mở đầu

Hiện nay, nhu cầu vay vốn tiêu dùng đối cá nhân và vay vốn sản xuất - kinh
doanh đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày một tăng cao. Tuy nhiên, chỉ 25%
doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được nguồn tài chính chính thống. Phần còn lại
sẽ tìm vay vốn từ các nguồn như bạn bè, gia đình, và các nguồn vay thông qua
các kênh tín dụng phi chính thức tăng cao (Bộ Kế hoạch & Đầu tư, 2022).

Trong các kênh tín dụng phi chính thức, P2P Lending được đánh giá là một
trong những kênh dẫn vốn hiệu quả nhất, khi “khơi thông được nguồn vốn nhàn
rỗi đến từ các nhà đầu tư nhỏ lẻ”, “gia tăng khả năng tiếp cận vốn vay của một số
đối tượng không thể hoặc gặp khó khăn tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng”,
“thủ tục, quy trình cho vay, giải ngân tối giản, nên thời gian cung cấp dịch vụ
nhanh chóng và hiệu quả hơn” qua đó góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện
(Haifang & nnk, 2015). Và như một lẽ tất yếu, mô hình P2P Lending đang chứng
kiến tốc độ phát triển rất nhanh và mang tính bùng nổ ở một số quốc gia. Theo
báo cáo của Report Ocean cho thấy: “thị trường P2P Lending toàn cầu có giá trị
là 67,93 tỷ USD vào năm 2019 và có cơ hội tăng trưởng lên đến 558,91 tỷ USD
vào năm 2027; tốc độ tăng trưởng lũy kế có thể đạt đến 29,7% trong giai đoạn
2020 - 2027”.

Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn gốc xuất xứ của P2P
Lending nhưng P2P Lending được hiểu là hoạt động giao dịch trực tuyến kết nối
trực tiếp giữa người đi vay và người cho vay mà không thông qua các trung gian
tài chính như tổ chức tín dụng dựa trên nền tảng công nghệ tài chính được thiết
kế và xây dựng. Toàn bộ hoạt động phê duyệt khoản vay, giải ngân, hay trả nợ
giữa người đi vay và người cho vay đều được thực hiện trên nền tảng giao dịch
trực tuyến của các công ty P2P Lending, được lưu trữ bằng các bảng ghi điện tử,
số hóa trên hệ thống cơ sở dữ liệu của công ty. Có thể thấy, các công ty P2P
Lending không sử dụng chênh lệch giữa lãi suất huy động vốn và cho vay thu lợi
nhuận như các ngân hàng, thay vào đó là phí quản lý từ việc xếp hạng tín dụng,
phân loại mức độ rủi ro, đăng ký tài khoản. Vì vậy, so với mô hình ngân hàng
truyền thống thì lãi suất của nhà đầu tư sẽ tăng lên, đồng thời lãi suất của người
1
đi vay và chi phí giao dịch sẽ giảm. Bên cạnh đó, P2P Lending cũng tăng khả
năng tiếp cận các dịch vụ tài chính của người dân và doanh nghiệp nhỏ và vừa,
thúc đẩy quá trình tài chính toàn diện.

Mặc dù có nhiều lợi thế hơn so với cho vay truyền thống, P2P Lending có
một số nhược điểm nhất định: (i) Người cho vay có thể không thu hồi được
khoản nợ khi người đi vay không có khả năng trả nợ; (ii) Công ty P2P Lending
quảng cáo lừa đảo, chiếm dụng vốn của khách hàng; (iii) Nguy cơ bị đánh cắp
các thông tin, tài khoản; (iv) Mô hình P2P Lending dễ dàng trở thành công cụ
cho một số đối tượng tiến hành trốn thuế, rửa tiền, tài trợ khủng bố hoặc cho các
hành vi bất hợp pháp. Những rủi ro trên đã thể hiện rất rõ trong thời gian đầu, khi
mô hình P2P Lending được xây dựng, vận hành và phát triển tại một số quốc gia
có tiềm năng phát triển mạnh mẽ các loại hình công nghệ tài chính (Fintech);
nhưng lại bỏ ngỏ khung pháp lý điều chỉnh hoạt động này như Trung Quốc và
Thụy Sĩ; qua đó dẫn đến rất nhiều hệ lụy gây ảnh hưởng đến sự an toàn và phát
triển bền vững của thị trường tài chính, xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên tham gia vào hoạt động trên.

Việt Nam được đánh giá là quốc gia rất tiềm năng để hoạt động P2P
Lending phát triển rực rỡ. Tuy nhiên, kinh nghiệm về sự sụp đổ của hoạt động
này tại các quốc gia trên thế giới vẫn đang đặt ra bài toán về việc quản lý hoạt
động P2P Lending tại Việt Nam. Như vậy, làm sao để hoạt động P2P Lending
diễn ra hiệu quả, và quản lý như thế nào để hạn chế tối đa những rủi ro của hoạt
động này vẫn là câu hỏi để nghiên cứu.

2. Nội dung

2.1 Tổng quan về P2P Lending

2.1.1 Khái niệm

Hiện nay, chưa có công trình khoa học pháp lý chuyên sâu nào nghiên cứu
pháp luật về hoạt động P2P Lending tại Việt Nam. Các vấn đề lý luận về hoạt
động này chủ yếu được tiếp cận dưới góc độ kinh tế và thường được nghiên cứu
rải rác ở nhiều công trình khác nhau; được đúc kết từ thực tiễn khác nhau của

2
nhiều nước, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, đặc thù về thị trường tài
chính. Nhìn chung, P2P được hiểu là việc kết hợp giữa người vay và nhà đầu tư
thông qua một nền tảng trực tuyến và nhà điều hành P2P, với tư cách là đại lý
cho các nhà đầu tư và thu hồi nợ của người vay (Murphy, 2016)

Làm rõ hơn khái niệm trên, tại Dự thảo Quy định về Cơ chế thử nghiệm có
kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam đã đưa ra định nghĩa về P2P Lending như sau: “Cho vay
ngang hàng (Peer to peer Lending hay P2P Lending) là hoạt động cho vay trên
nền tảng công nghệ được thiết kế và thực hiện dựa trên ứng dụng công nghệ tài
chính do công ty cho vay ngang hàng thực hiện với vai trò trung gian kết nối
người đi vay với người cho vay.” (Chính phủ, 2021)

Theo Eugenia Omarini A (2018), nguồn gốc của cho vay ngang hàng cũng
giống như việc cho vay cộng đồng đã diễn ra trên thế giới trong suốt nhiều năm
từ những năm 1630 - 1640, tổ chức đầu tiên là Hội thân thiện - Friendly Societies
hoạt động tại Anh. Các tổ chức này có nhiều đặc điểm giống hoạt động cho vay
ngang hàng hiện tại, sau khi đăng ký, các tổ chức này đã cấp quyền cho các thành
viên thanh gia hỗ trợ tài chính lẫn nhau. Và cho đến ngày nay, lợi thế cộng đồng
đã tồn tại trong suốt bao nhiêu năm để các cá nhân tương trợ lẫn nhau về tài
chính, và đó là sự tái hiện của hoạt động cho vay ngang hàng hiện tại. Tuy nhiên,
với thế kỷ 21 và cuộc cách mạng 4.0, hoạt động cho vay ngang hàng được thực
hiện trên nền cảng của công nghệ Internet.

Theo Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước năm 2020, bản chất cho
vay ngang hàng được hiểu là sự trao đổi tài chính trực tuyến, giữa các cá nhân
hoặc tổ chức mà không thông qua trung gian trực tiếp như tổ chức tài chính
truyền thống. Các ngân hàng có thể vẫn đóng một vai trò nhất định tùy từng luật
pháp điều chỉnh ở mỗi quốc gia, các ngân hàng có thể hoạt động như các tổ chức
lưu ký, cung cấp cho nền tảng các tài khoản của khách hàng và được xử lý trong
nền tảng.

3
2.1.2 Đặc điểm của P2P Lending

 Kết nối trực tiếp giữa người đi vay và người cho vay: Các công ty P2P
lending là trung gian về công nghệ, cung cấp nền tảng để người đi vay và người
cho vay kết nối trực tiếp.
 Thông tin được công khai để các bên đưa ra quyết định giao dịch: Các
công ty P2P lending là trung gian cung cấp thông tin về người vay như nhu cầu
vay, đánh giá xếp hạng khách hàng, thẩm định khách hàng, tư vấn lãi suất, quyết
định có cho vay hay không hoàn toàn phụ thuộc vào người cho vay.
 Phần lớn các khoản vay theo hình thức không có tài sản bảo đảm: Các
công ty P2P hoạt động trên nền tảng công nghệ, thẩm định khách hàng dựa trên
thông tin thu thập được từ số điện thoại đăng ký, mạng xã hội, xét duyệt hồ sơ
vay cũng hoàn toàn trực tuyến, chỉ với những giao dịch có giá trị lớn mới cần yêu
cầu tài sản đảm bảo. Do đó, chủ yếu các khoản vay theo hình thức không có tài
sản bảo đảm hay còn gọi là tín chấp.
 Thời gian xử lý khoản vay nhanh chóng: Vì các khoản vay được xử lý
hoàn toàn trực tuyến, do đó, thời gian xử lý khoản vay từ tiếp nhận hồ sơ, thẩm
định, xét duyệt khoản vay đều rất nhanh chóng, thậm chí chỉ trong vòng 5 phút.

2.1.3 Vai trò của P2P Lending

Thứ nhất, P2P Lending đã đem lại những lợi ích to lớn đối với các tổ chức
tài chính - ngân hàng bằng cách cải tiến hoặc giải quyết tính thiếu hiệu quả trong
sản phẩm, dịch vụ tài chính hiện hành như giới hạn về thời gian, địa điểm giao
dịch, điểm tiếp xúc khách hàng theo kênh vật lý, nhận biết và xác thực khách
hàng (KYC), cũng như quy trình thủ tục giao dịch tương đối phức tạp như hiện
tại. 

Thứ hai, P2P Lending đóng vai trò quan trọng trong việc tạo thêm kênh tiếp
cận nguồn lực tài chính, cách thức cho vay đối với nền kinh tế, thúc đẩy tài chính
toàn diện quốc gia, góp phần hỗ trợ phổ cập tài chính thông qua tăng cường khả
năng tiếp cận dịch vụ tài chính đối với một bộ phận người dân chưa có tài khoản
ngân hàng hoặc khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính - ngân hàng
truyền thống. 
4
Thứ ba, P2P Lending có thể đóng vai trò quan trọng góp phần hiện thực hóa
mục tiêu Chính phủ số và nền kinh tế số trong cuộc CMCN 4.0 mà nhiều quốc
gia đang hướng tới trong đó có Việt Nam.

Hình 2-1. Vai trò của hoạt động P2P Lending tại Việt Nam
2.1.4 Rủi ro trong hoạt động P2P Lending

P2P Lending có thể dẫn đến nhiều loại rủi ro: Rủi ro tín dụng và rủi ro pháp
lý là hai rủi ro lớn nhất khi tham gia vào hoạt động P2P Lending vì hiện nay
khung pháp lý chưa được hoàn thiện. Tiếp theo đó là rủi ro liên quan đến vấn đề
bảo mật thông tin, về đạo đức cũng như rủi ro trong vận hành công nghệ và các
nền tảng.

5
Hình 2-2. Xếp hạng rủi ro trong P2P Lending

2.1.4.1 Rủi ro pháp lý

Hiện nay, Việt Nam chưa có khung khổ pháp lý điều chỉnh, thiếu sự quản
lý, giám sát của cơ quan quản lý dẫn đến tình trạng khách hàng không được bảo
vệ quyền lợi thỏa đáng, người cho vay trên hệ thống P2P Lending phải đối mặt
với rủi ro mất tiền do người đi vay không thực hiện đúng thỏa thuận, lừa đảo;
hoặc công ty vận hành P2P Lending thực hiện không đúng, không đủ các thủ tục
xác định thông tin khách hàng vay và phòng, chống rửa tiền (AML) và trên thực
tế hiện nay, đa số các sàn P2P Lending đều quy định việc thực hiện các nghĩa vụ
đối với người đầu tư thuộc trách nhiệm của người đi vay mà không có bất kỳ liên
đới trách nhiệm nào đến các công ty P2P. 

2.1.4.2 Rủi ro tín dụng

Thỏa thuận giữa các bên tham gia mô hình P2P Lending còn thiếu rõ ràng,
thiếu ràng buộc có tính pháp lý, cũng như chưa có cơ chế giám sát, hậu kiểm đối
với việc sử dụng, quản lý vốn vay đúng mục đích của người đi vay, nên người
cho vay có nguy cơ mất tài sản, dẫn đến rất nhiều tranh chấp, khiếu kiện kéo dài
giữa các bên đối với các thỏa thuận và giao dịch dân sự lỏng lẻo từ đó tạo áp lực
rất lớn cho các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan tư pháp trong việc xét xử
các vụ kiện, đặc biệt là các vụ khiếu kiện tập thể, đông người kéo dài.  

2.1.4.3 Rủi ro do liên quan đến hoạt động bất hợp pháp

6
Mô hình P2P Lending dễ trở thành công cụ cho một số đối tượng tiến hành
trốn thuế, rửa tiền, tài trợ khủng bố… vì các cơ quan chức năng khó kiểm soát
nguồn gốc luồng tiền, danh tính, mục đích.

2.1.4.4 Rủi ro bảo mật

Nhiều ứng dụng P2P Lending chưa được hoàn thiện, cũng như chưa đáp
ứng các tiêu chí về an toàn bảo mật dẫn tới nhiều lỗ hổng bảo mật còn tồn tại
trước nguy cơ bị tấn công mạng, đánh cắp thông tin, lộ, lọt, rò rỉ dữ liệu tài
khoản, có thể gây thiệt hại cho các bên tham gia. Trường hợp các nền tảng P2P
Lending bị mất dữ liệu hoặc các rủi ro công nghệ liên quan thì khả năng người
cho vay mất trắng các khoản đầu tư là rất cao, các hoạt động của các công ty P2P
Lending cũng ttiềm ẩn rủi ro dẫn tới thiệt hại, tổn thất cho khách hàng, gây mất
niềm tin của công chúng vào lĩnh vực non trẻ này. 

2.1.4.5 Các rủi ro khác như rủi ro đạo đức, vận hành

Nền tảng P2P Lending có thể bị tận dụng sự nhầm lẫn, thiếu thông tin, thiếu
hiểu biết của người dân để quảng cáo và đưa ra thông tin lập lờ, không rõ ràng
dẫn đến người cho vay hiểu nhầm các hoạt động đầu tư/cho vay qua các nền tảng
P2P Lending là một hình thức gửi tiền có sự quản lý và bảo hiểm của Nhà nước.
Khi người cho vay bị mất trắng các khoản đầu tư mà không được Nhà nước bảo
hiểm như các khoản tiền gửi thông thường của hệ thống ngân hàng đã để lại các
hệ lụy, bất ổn xã hội kéo dài rất nghiêm trọng.

2.1.5 Các mô hình P2P Lending

2.1.5.1 Mô hình cho vay ngang hàng truyền thống

Với mô hình cho vay ngang hàng truyền thống (Sơ đồ 1), công ty P2P
Lending chỉ cung cấp giao dịch nền tảng trực tuyến nhằm kết nối giữa người cho
vay (nhà đầu tư) và người đi vay là các cá nhân, hộ gia đình, những doanh nghiệp
nhỏ hoặc siêu nhỏ. Hợp đồng vay vốn sẽ được người đi vay và cho vay thỏa
thuận ký kết. Người cho vay chịu toàn bộ rủi ro nếu người đi vay chậm trả hoặc

7
không trả được nợ là rủi ro tín dụng, và cả rủi ro thanh khoản đặc biệt trong
trường hợp người cho vay là trung gian, huy động vốn từ nguồn khác để cho vay.

Như vậy, các công ty P2P Lending hoàn toàn không chịu rủi ro tín dụng, rủi
ro thanh khoản như các tổ chức tài chính truyền thống, chỉ là trung gian thu phí
của cả người đi vay và người cho vay.

Thực tế ở mỗi quốc gia sẽ có các mô hình cho vay ngang hàng biến đổi cho
phù hợp với điều kiện và luật pháp quy định.

Hình 2-3. Mô hình cho vay ngang hàng truyền thống


Nguồn: Committee on the Global Financial system (CGFS) and the
Financial Stability Board (FSB) - Fintech Credit (2017)

2.1.5.2 Mô hình P2P Lending hợp tác với ngân hàng

Công ty P2P Lending đóng vai trò như đại lý môi giới đối với người cho
vay và người đi vay. Trên cơ sở thỏa thuận của công ty P2P Lending và ngân
hàng, sau khi nhận thông tin từ Công ty P2P Lending, ngân hàng cấp các khoản
vay và sau đó, bán lại cho công ty P2P Lending. Với mô hình tổ chức này, vai trò
của công ty P2P Lending không chỉ còn là cung cấp công nghệ đơn thuần mà
tham gia trực tiếp vào quy trình tín dụng. Trong mô hình hợp tác này, với sự
tham gia của ngân hàng trong quá trình giải ngân, rủi ro đối với người đi vay

8
được giảm thiểu khi họ có đầy đủ điều kiện được vay và giấy tờ cần thiết sẽ được
giải ngân. Các bước trong mô hình này được cụ thể hóa.

Hình 2-4. Mô hình P2P Lending hợp tác với ngân hàng

2.1.5.3 Mô hình P2P Lending cam kết về lợi nhuận

Trong mô hình này, công ty P2P Lending cung cấp các khoản vay từ chính
nguồn vốn được đóng góp bởi người cho vay/nhà đầu tư. Công ty P2P Lending
đánh giá, lựa chọn đề xuất vay vốn và tự chủ động tiến hành cho vay trực tiếp đối
với người đi vay và hưởng lãi suất, phí (nếu có) từ khoản vay này. Nhà đầu tư
đóng góp nguồn vốn vào quỹ/vốn của công ty P2P Lending và nhận lợi nhuận
theo cam kết của công ty P2P Lending.

9
Hình 2-5. Mô hình P2P Lending cam kết lợi nhuận
2.2 Thực trạng hoạt động P2P Lending trên thế giới

Theo Acumen Research and Consulting, quy mô thị trường cho vay ngang
hàng (P2P) toàn cầu được định giá là 82,3 tỷ USD vào năm 2021 và dự kiến sẽ
đạt 804,3 tỷ USD vào năm 2030, với tốc độ tăng trưởng lũy kế là 29,1%.

Bắc Mỹ là khu vực lớn nhất chiếm thị phần lớn nhất trong thị trường cho
vay ngang hàng vào năm 2021 với giá trị khoảng 31,3 tỷ USD. Sự tăng trưởng
của thị trường P2P ở khu vực Bắc Mỹ là do việc áp dụng ngày càng nhiều các
nền tảng cho vay ngang hàng. Việc áp dụng các công nghệ tiên tiến cũng đang
thúc đẩy nhu cầu về các nền tảng cho vay ngang hàng trong khu vực.

10
Hình 2-6. Tăng trưởng cho vay ngang hàng toàn cầu giai đoạn 2018-2030
Châu Á-Thái Bình Dương dự kiến sẽ là khu vực phát triển P2P nhanh nhất
với tốc độ tăng trưởng lũy kế hơn 30% từ năm 2022 đến năm 2030. Thị trường
P2P phát triển mạnh ở khu vực này do số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày
càng tăng. Chính phủ của các quốc gia mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ không
ngừng nỗ lực thúc đẩy các công nghệ không dùng tiền mặt. Yếu tố này đang thúc
đẩy sự tăng trưởng của thị trường P2P trong khu vực.

Đại dịch Covid-19 đã có tác động đáng kể đến thị trường P2P. Nhiều người
vay đã không thể trả nợ và một số công ty đã phải tạm dừng hoạt động cho vay
của họ. Bên cạnh đó, cuộc chiến Nga-Ukraine đã làm gián đoạn cơ hội phục hồi
kinh tế toàn cầu sau đại dịch Covid-19, ít nhất là trong ngắn hạn. Cuộc chiến giữa
hai quốc gia này đã dẫn đến các lệnh trừng phạt kinh tế đối với nhiều quốc gia,
giá cả hàng hóa tăng vọt và sự gián đoạn chuỗi cung ứng, gây ra lạm phát đối với
hàng hóa và dịch vụ và ảnh hưởng đến nhiều thị trường trên toàn cầu.

 Triển vọng tăng trưởng

Các dịch vụ P2P về bản chất khá rẻ. Đồng thời, cho vay ngang hàng được
coi là hình thức dịch vụ tài chính không bảo đảm. Một trong những yếu tố chính
thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường P2P toàn cầu là nhu cầu và yêu cầu về tài
chính và tín dụng ngày càng tăng.

11
Phí hoạt động của các nền tảng P2P thấp hơn khá nhiều so với các dịch vụ
tài chính truyền thống. Ngoài ra, khoản vay trên các nền tảng P2P có thể được
phê duyệt trong một khoảng thời gian ngắn hơn so với các quy trình cấp tín dụng
truyền thống. Tất cả những lợi ích này đang mở đường cho sự phát triển của thị
trường cho vay ngang hàng toàn cầu.

Thị trường cho vay ngang hàng cũng đang phát triển do việc áp dụng số hóa
trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng tăng. Do các nền tảng P2P, các giao dịch đã
trở nên minh bạch hơn về bản chất. Mặt khác, vì sự phát triển và mở rộng quá
nhanh của thị trường P2P đã thúc đẩy các Chính phủ xây dựng hành lang pháp lý
nhằm kiểm soát nghiêm ngặt việc phê duyệt các khoản vay - rào cản cho sự phát
triển của thị trường P2P toàn cầu. Ngoài ra, sự thiếu nhận thức của người dân về
hoạt động P2P cũng đang hạn chế việc mở rộng thị trường P2P toàn cầu.

 Một số tiêu chí phân loại thị trường cho vay ngang hàng trên thế giới
Mô hình kinh doanh

Trong số hai mô hình cho vay P2P chủ yếu là mô hình truyền thống và mô
hình thị trường thay thế, mô hình truyền thống thu về doanh thu khoảng 59,3 tỷ
USD vào năm 2021. Một trong những lợi ích chính của cho vay P2P truyền
thống là nó có thể cung cấp cho người vay tín dụng với lãi suất có thể thấp hơn
mức họ có thể nhận được từ một tổ chức tài chính truyền thống. Nó cũng có thể
mang lại cho người cho vay lợi tức đầu tư cao hơn so với các loại công cụ tài
chính khác, chẳng hạn như tài khoản tiết kiệm hoặc chứng chỉ tiền gửi.

12
Hình 2-7. Cho vay ngang hàng theo mô hình năm 2021
Người dùng cuối

Các loại cho vay chính trong cho vay ngang hàng là cho vay tín dụng tiêu
dùng, cho vay doanh nghiệp nhỏ, cho vay sinh viên và cho vay bất động sản.
Phân khúc cho vay doanh nghiệp nhỏ đạt 34% thị phần vào năm 2021. Nhu cầu
cho vay doanh nghiệp nhỏ ngày càng tăng và dự kiến sẽ tiếp tục duy trì trong
những năm tới. Nguyên chủ yếu của như cầu trên là do tính khả dụng của tín
dụng cao là động lực chính của thị trường cho vay ngang hàng. Cụ thể, các nền
tảng cho vay P2P thường có các tiêu chí cho vay nhẹ nhàng hơn so với các tổ
chức tài chính truyền thống, cung cấp tín dụng cho những cá nhân có thể không
đủ điều kiện. Ngoài ra, cho vay P2P có thể cung cấp cho các nhà đầu tư một giải
pháp thay thế cho các công cụ tài chính truyền thống như cổ phiếu và trái phiếu,
cũng như khả năng thu được lợi tức đầu tư cao hơn. Mặt khác, các khoản vay
dành cho sinh viên dự kiến sẽ tăng với tốc độ tăng trưởng lũy kế nhanh nhất từ
năm 2022 đến năm 2030, do số lượng sinh viên đi du học ngày càng tăng.

13
Hình 2-8. Cho vay ngang hàng theo người dụng cuối năm 2021
Loại hình vay
Phân khúc cho vay tiêu dùng thống trị thị trường P2P vào năm 2021. Cho
vay tiêu dùng trong thị trường P2P diễn ra giữa hai cá nhân. Các yếu tố như thu
nhập khả dụng tăng và đô thị hóa nhanh chóng đang thúc đẩy sự tăng trưởng của
phân khúc trong thị trường P2P trong giai đoạn dự báo.

Bên cạnh đó, phân khúc cho vay kinh doanh là phân khúc phát triển nhanh
nhất của thị trường cho vay ngang hàng (P2P) vào năm 2021. Cho vay kinh
doanh đang đạt được sức hút trong thị trường cho vay ngang hàng (P2P). Với số
lượng ngày càng tăng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các công ty
mới thành lập đang thúc đẩy nhu cầu cho vay ngang hàng (P2P) trên thị trường
toàn cầu.

14
Hình 2-9. Cho vay ngang hàng theo loại năm 2021
2.3 Kinh nghiệm tại một số quốc gia trên thế giới về quản lý hoạt động
P2P Lending

2.3.1 Anh

Nước Anh được biết đến như là cái nôi của hoạt động P2P Lending với sự
xuất hiện của nền tảng P2P Lending đầu tiên trên thế giới - Zopa vào năm 2005.
Với sự ra đời của Zopa, nước Anh trở thành nước đầu tiên xuất hiện hoạt động
P2P Lending và bắt đầu với việc tài trợ các khoản vay tín chấp cá nhân. Sau một
thời gian dài hình thành và phát triển, tính đến cuối năm 2017, tại thị trường Anh
có hơn 50 nền tảng P2P Lending, trong đó có 03 nền tảng lớn nhất là RateSetter,
Zopa và The Funding Circle với tổng dư nợ cho vay lần lượt là 2,2; 2,9 và 3 tỷ
bảng Anh. Ba ông lớn này chiếm tổng cộng 69% thị phần và còn lại 31% chia
cho hơn 47 nền tảng P2P Lending khác (Nguyen, Luong and Vo, 2019).

Thị trường P2P Lending tại Anh ban đầu chỉ nhắm đến đối tượng khách
hàng cá nhân. Tuy nhiên, càng về sau, các nền tảng đã phát triển thành các tổ
chức kiêm luôn việc cho vay và mở rộng đối tượng tham gia cả đối với các tổ
chức là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy tỷ trọng P2P Lending đối với khu vực
này còn thấp so với các hình thức truyền thống, song vẫn giữ được xu hướng
tăng trưởng qua các năm xét về mức độ cạnh tranh. Năm 2014, nước Anh một
lần nữa trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới xây dựng hệ thống các quy định
15
luật pháp về hoạt động P2P Lending. Cơ quan Kiểm soát ngành tài chính (FCA)
hiện là cơ quan quản lý chính cho ngành công nghiệp P2P Lending. Cơ quan này
cùng với Cơ quan Luật lệ an toàn (PRA) là hai đơn vị được tách ra từ Cơ quan
Giám sát tài chính Anh Quốc (FSA). Theo đó, các nền tảng P2P Lending phải
được cấp phép hoạt động thông qua FCA mới có thể cấp tín dụng và trở thành
thành viên của Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia (Nguyen, Luong and Vo,
2019).

Các quy định nổi bật về P2P Lending ở Anh được FCA đặt ra bao gồm quy
định về vốn, quy trình cấp phép hoạt động, quy định giám sát thị trường, quy
định bảo vệ người đi vay:

 Quy định về vốn: Công ty P2P Lending phải có số vốn tối thiểu lớn hơn
tổng số vốn tối thiểu cố định và vốn tính trên giá trị còn lại của vốn vay trên sàn.
Theo quy định, từ ngày 01/4/2017, vốn tối thiểu cố định là 50.000 bảng Anh.
 Quy trình cấp phép hoạt động: Các công ty muốn thành lập và vận hành
nền tảng giao dịch trực tuyến P2P Lending cần thỏa mãn các điều kiện sau: Có kế
hoạch kinh doanh chi tiết và phù hợp, trong đó nêu rõ hoạt động dự kiến, rủi ro,
ngân sách và nguồn lực về con người, hệ thống vốn…
 Giám sát thị trường: FCA theo dõi và giám sát hoạt động của các công ty
P2P Lending thông qua trang web và báo cáo điều hành quản lý định kỳ hàng
tháng của các công ty P2P Lending.
 Bảo vệ người đi vay: FCA quy định công ty P2P Lending phải tuân thủ
quy định về tiền của khách hàng trong việc nhận tiền của bên cho vay, nhận tiền
trả nợ của bên đi vay và chuyển tiền trả cho bên cho vay.
2.3.2 Mỹ

Tại Mỹ, mô hình P2P Lending đã bắt đầu xuất hiện với sự ra đời của hai
công ty P2P Lending đầu tiên tại Mỹ là Prosper và Lending Club lần lượt vào
năm 2006 và 2007. Tính đến nay, thị trường P2P Lending tại Mỹ bước vào thời
kỳ phát triển mạnh mẽ với sự tăng trưởng vượt bậc cả về khối lượng và chất
lượng cho vay.

16
Theo IBISWorld, từ năm 2012 đến nay, quy mô thị trường P2P Lending tại
Mỹ đã phát triển đáng kể, đặc biệt trong giai đoạn 2017 - 2019. Năm 2020, do
ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 nên quy mô Thị trường này có sự sụt giảm duy
trì ở mức tổng quy mô trao đổi 819 triệu USD, với 17 doanh nghiệp và đã tạo ra
2.255 việc làm trên khắp đất nước. Mặc dù quy mô thị trường giảm, nhưng trong
năm 2020, các nền tảng P2P Lending vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong
việc cấp vốn cho các chủ doanh nghiệp nhỏ với việc Quốc hội Mỹ mở rộng gói
Chương trình Bảo vệ Tiền lương.

Do thị trường P2P Lending ở Mỹ phát triển với tốc độ nhanh, có sự liên kết
chéo giữa nhà cung cấp dịch vụ P2P Lending và ngân hàng cho vay (gọi là notary
model - mô hình trong đó khoản vay sẽ được cấp từ ngân hàng đối tác thay vì
bản thân công ty P2P Lending), nên việc dự thảo các quy định quản lý trải qua
những giai đoạn phức tạp. Từ cuối năm 2015, Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch
(SEC) quyết định áp dụng các quy tắc quản lý với hoạt động huy động và tài trợ
vốn cộng đồng cho hoạt động P2P Lending. Vì vậy, tại Mỹ, quản lý P2P Lending
tập trung vào bốn mục chính như sau:

Thứ nhất, quy định về giới hạn vốn huy động. Công ty P2P Lending chỉ
được huy động tối đa 1,07 triệu USD trong mỗi năm từ nhà đầu tư, trừ trường
hợp đặc biệt phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép.

Thứ hai, quy định về giới hạn đầu tư cá nhân. Giới hạn đầu tư của một cá
nhân được tính bằng tổng các khoản đầu tư được thực hiện bởi nhà đầu tư đó
trong vòng 12 tháng và không có trường hợp ngoại lệ. Giới hạn đầu tư được xác
định tùy vào thu nhập hoặc tài sản ròng hàng năm của nhà đầu tư.

Thứ ba, các tiêu chuẩn cấp phép và hoạt động đối với công ty P2P Lending
- tương tự như điều kiện cấp phép hoạt động đối với công ty quản lý đầu tư tại
Mỹ.

Thứ tư, các tiêu chuẩn, yêu cầu về công khai thông tin đối với các công ty
P2P Lending. Để được cấp phép hoạt động, các công ty P2P Lending cần cung
cấp “32 loại thông tin” ngoài các chứng từ kế toán trong 3 năm tài chính liên tiếp

17
cho SEC và hàng năm, các công ty có trách nhiệm báo cáo tình hình hoạt động,
giống như các tổ chức tín dụng khác. Ngoài ra, các công ty P2P Lending bắt buộc
phát hành chứng chỉ vay nợ phải thông qua một tổ chức trung gian (platform), để
đảm bảo công chúng có thể tiếp cận thông qua cổng Internet hoặc các phương
tiện điện tử và tự do trao đổi thông tin về khoản vay.

2.3.3 Thụy Sĩ

Giống với Trung Quốc, P2P Lending xuất hiện từ rất sớm vào năm 2009
với nền tảng Trust Buddy, có trụ sở tại Stockholm, Thụy Điển. Tại thời điểm đó,
cũng với chính sách thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hướng đến phổ cập tài chính toàn
diện, nên Chính phủ Thụy sĩ đã để các công ty P2P Lending tự do lựa chọn mô
hình hoạt động, phạm vi hoạt động, cũng như các sản phẩm tài chính. Do đó,
Trust Buddy đã vận hành nền tảng P2P Lending theo mô hình cam kết về lợi
nhuận, trong đó cam kết với nhà đầu tư về mức lãi suất 12%, cho phép nhà đầu tư
thông báo trước 2 ngày nếu muốn rút 90% số dư đầu tư hiện có.

Trust Buddy đã sử dụng nguồn vốn cho vay của nhà đầu tư mới để trang
trải các khoản nợ xấu và không chuyển tiền cho người cho vay như cam kết với
nhà đầu tư; gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn tài chính, trật tự xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư. Vì lẽ đó, cơ quan Dịch vụ Tài
chính Thụy Điển yêu cầu Trust Buddy ngừng hoạt động. Giao dịch cổ phiếu
Trust Buddy cũng bị đình chỉ và công ty đã nộp đơn xin phá sản trong năm 2016.

2.3.4 Trung Quốc

Có thể nhận định rằng, không có một quốc gia nào trên thế giới có thể sánh
với Trung Quốc về tốc độ phát triển và mức độ sử dụng các nền tảng P2P
Lending. Các nền tảng cho vay trực tuyến ngày càng được sử dụng rộng rãi và
phổ biến kể từ khi nền tảng đầu tiên được ra mắt vào năm 2007 - nền tảng PPdai.
Ban đầu, ngành công nghiệp này đã được các nhà chức trách buông lỏng quản lý,
không bị ràng buộc hoặc giám sát bởi bất kỳ một quy định nào. Vì vậy, một
lượng lớn tiền nóng đã được bơm vào các sàn P2P Lending, thúc đẩy hoạt động
này phát triển mạnh mẽ. Báo cáo hàng năm của ngành cho vay trực tuyến của

18
Trung Quốc năm 2016 cho biết, tổng doanh thu toàn ngành đạt 2,063 nghìn tỷ
RMB (tương đương 311,73 tỷ USD), tăng 110% so với năm 2015. Bên cạnh đó,
dư nợ tín dụng của ngành cho vay trực tuyến năm 2016 đạt 816,22 tỷ RMB
(123,29 tỷ USD), tăng 100,99% so với cùng kỳ năm 2015 và gấp 125 lần so với
năm 2012. Bên cạnh những nền tảng thành công như Yiren Digital (được thành
lập năm 2012 là một công ty con của Creditease), có thể kể đến những trường
hợp phá sản lớn của sàn P2P Lending tại Trung Quốc như Ezubao, Tairan.
Những vụ việc vỡ nợ, phá sản hay lừa đảo tại các sàn P2P Lending đã ít nhiều
ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín hoạt động P2P Lending cũng như việc tổ chức
quản lý hoạt động này đối với các cơ quan quản lý Trung Quốc.

Mặc dù nền tảng P2P Lending đầu tiên xuất hiện tại Trung Quốc vào năm
2007 nhưng phải tới năm 2010, mới có quy định đầu tiên tác động đến lĩnh vực
P2P Lending. Quy định đầu tiên là các biện pháp quản lý tạm thời đối với các
công ty bảo lãnh tài chính. Các biện pháp này quy định các công ty P2P Lending
phải được chấp thuận khi thành lập và không được tham gia vào hoạt động nhận
tiền gửi và cho vay trực tiếp. Bộ máy quản lý hoạt động P2P Lending ở Trung
Quốc gồm hai cấp: Trung ương và địa phương.

 Cấp Trung ương: Cấu trúc quản lý tài chính hiện tại ở Trung Quốc là phân
quyền quản lý dựa trên lĩnh vực. Năm 2016, sau gần 10 năm kể từ khi sàn P2P
Lending đầu tiên xuất hiện tại Trung Quốc, P2P Lending chính thức được coi
như là kinh doanh ngân hàng theo hình thức cho vay trực tuyến, do đó thuộc
thẩm quyền của Ủy ban Quản lý Ngân hàng Trung Quốc (CBRC).
 Cấp địa phương: Cơ quan quản lý địa phương thường là văn phòng hoặc
phòng tài chính do chính quyền địa phương thành lập. Cơ quan quản lý địa
phương chịu trách nhiệm giám sát các nền tảng P2P Lending tại địa bàn của mình
về các vấn đề như thành lập, thay đổi và giải thể.
2.3.5 Singapore

Tại Singapore, cơ quan chịu trách nhiệm đảm bảo lợi thế cạnh tranh và
năng động của ngành tài chính là Ngân hàng trung ương Singapore (Monetary
Authority of Singapore – MAS), theo đó MAS đã đưa ra một loạt các yêu cầu đối

19
với các bên tham gia mô hình tài chính ngang hàng. Theo quy định của
Singapore, các công ty tham gia P2P Lending đều phải được kiểm định và cấp
giấy phép dịch vụ thị trường vốn từ MAS mới được phép hoạt động; các công ty
này không được tự quản lý tiền của nhà đầu tư mà phải gửi một đơn vị ký quỹ
độc lập nhằm đề phòng trường hợp chính công ty cung cấp dịch vụ P2P Lending
gặp rủi ro về tài chính.  Số tiền đi vay cá nhân theo quy định tối đa là 100.000
USD, người đi vay phải viết giấy xác nhận nợ cho nhà đầu tư, đây là căn cứ pháp
lý để xác định người đi vay phải trả nợ cho nhà đầu tư vào một ngày cụ thể trong
tương lai; bên cạnh đó, các công ty P2P Lending phải đảm bảo rằng người đi vay
phải nắm rõ quy định này.

2.3.6 Malaysia

Năm 2016, Ủy ban Chứng khoán Quốc gia Malaysia (SC) ban hành các quy
định và đưa Malaysia trở thành quốc gia ASEAN đầu tiên luật hóa mô hình tín
dụng ngang hàng, theo quy định các công ty P2P Lending phải được SC chấp
thuận mới được hoạt động, mô hình này chỉ được phép phục vụ đối tượng doanh
nghiệp và không dành cho các cá nhân có mục đích tài chính cá nhân, nguyên
nhân chính là do tỷ lệ nợ của các hộ gia đình tại Malaysia đang ở mức cao, lên
đến 84,6% trên tổng thu nhập. Các công ty cung cấp nền tảng P2P phải có nghĩa
vụ tuân thủ đạo luật Companies Act 1965 với số vốn thanh toán tối thiểu là 5
triệu ringgit, người điều hành của công ty phải chứng minh mình có năng lực và
kiến thức phù hợp để vận hành doanh nghiệp; các công ty cũng phải xây dựng
được một hệ thống chấm điểm rủi ro tín dụng minh bạch và hiệu quả, có tránh
nhiệm thẩm định người đi vay và có kế hoạch theo dõi, bảo đảm người vay phải
tuân thủ đúng các quy định của hợp đồng và số tiền gửi của nhà đầu tư và người
đi vay phải được gửi tại tài khoản ủy thác của bên thứ 3 trước khi thực hiện bất
kỳ giao dịch nào, lãi suất cho vay không vượt mức 18%/năm. Ở Malaysia, không
quy định giới hạn số tiền mà doanh nghiệp có thể huy động qua hình thức P2P
Lending, tuy nhiên doanh nghiệp chỉ có thể được giải ngân khi huy động được
trên 80% số vốn họ mong muốn; về phía nhà đầu tư, SC khuyến cáo số tiền đầu
tư nên ở mức tối đa 50.000 ringgit để hạn chế rủi ro.

20
2.4 Thực trạng hoạt động P2P Lending tại Việt Nam

Với sự phát triển hoạt động cho vay ngang hàng (P2P lending) trên thế giới,
hiện nay, tại Việt Nam hoạt động P2P lending cũng đã thâm nhập và đã thu hút
sự quan tâm của rất nhiều người dân cũng như các nhà đầu tư. Mô hình hoạt
động đơn giản và tiện lợi, P2P lending đang được xem là một trong những
phương thức tài chính tiên tiến nhất hiện nay. Tuy nhiên, hoạt động này cũng
đang đối mặt với nhiều thách thức và vấn đề cần được giải quyết.

2.4.1 Quy mô hoạt động P2P lending tại Việt Nam

Theo Báo cáo tài chính khu vực châu Á - Thái Bình Dương lần 3, quy mô
của thị trường P2P Lending Việt Nam khá nhỏ so với các nước trong khu vực
Đông Nam Á, chiếm 1,6% khối lượng giao dịch của khu vực, chỉ xếp trên Nepal
và Kazakhstan (University of Cambridge JBS, 2018). Điều này cũng phù hợp với
tuổi đời còn non trẻ của mô hình P2P Lending tại Việt Nam. Tuy nhiên, Việt
Nam có nhiều tiềm năng thích hợp cho sự phát triển của mô hình này dựa trên sự
phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, Internet, thiết bị di dộng và đặc
biệt là dữ liệu lớn (Big Data). Bên cạnh đó, sự thay đổi về cơ cấu dân số học, đặc
biệt là thế hệ trẻ sẵn sàng thích ứng với công nghệ mới và mong muốn được cung
cấp các dịch vụ tài chính thuận lợi và nhanh chóng hơn nên dễ dàng chấp nhận
các sản phẩm dịch vụ mới như P2P Lending.

P2P Lending là một trong những dịch vụ tài chính mới có mặt ở Việt Nam
từ năm 2017 với sự tham gia của 3 công ty là Loanvi (Huy Dong), Tima, Trust
Circle, nhưng sau đó lại có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng mặt và đến thời điểm
này đã có gần 100 công ty P2P Lending. Các công ty này đã, đang và dự tính sẽ
thu hút nguồn vốn giao dịch rất lớn với sự tham gia đông đảo của các nhà đầu tư,
người đi vay như Tima chỉ hoạt động mới được 4 năm nhưng tổng số tiền cho
vay, tính đến thời điểm tháng 5 năm 2020 là 93,402,452,000,000 đồng với
4,687,984 người đi vay và 44,057 người cho vay. Phải nhìn nhận rằng, đây là
một xu thế bắt buộc không thể đảo ngược và hoạt động cho vay ngang hàng trong
thời gian qua đã đặt ra nhiều câu hỏi cho cơ quan quản lý, các ngân hàng thương
mại (NHTM), Fintech… Theo thống kê sơ bộ của Ngân hàng Nhà nước, Việt
21
Nam hiện có khoảng 100 công ty P2P Lending (bao gồm cả công ty đã đi vào
hoạt động chính thức và một số công ty đang trong giai đoạn thử nghiệm) như
Tima, Trust Circle, Vay mượn, Lendmo, Wecash, InterLoan…

Bảng 2-1. Danh sách một số công ty P2P Lending hoạt động tại Việt Nam
hiện nay

Nền tảng
Hình thức hoạt Đối tượng khách Số tiền
STT vay ngang Trụ sở
động hàng đầu tư
hàng

P2P lending 700


1 Fiin Vay tiêu dùng Hà Nội
truyền thống nghìn
P2P lending Hộ kinh doanh,
2 Eloan 1 triệu TPHCM
truyền thống doanh nghiệp SME
Vay tiêu dùng, Hộ
P2P lending
3 Vaymuon kinh doanh, doanh 10 triệu Hà Nội
truyền thống
nghiệp SME
P2P lending Doanh nghiệp có 500
4 Vmon TPHCM
truyền thống vốn tối đa 2 tỷ nghìn
P2P lending
5 Huydong Vay tiêu dùng TPHCM
truyền thống
Money P2P lending
6 Vay tiêu dùng 1 triệu Hà Nội
Bank truyền thống
P2P lending
7 MoFin Vay tiêu dùng 1 triệu TPHCM
truyền thống
P2P lending Vay tiêu dùng ứng
8 Interloan 1 triệu TPHCM
truyền thống lương
Tina P2P lending
9 Vay tiêu dùng 5 triệu Hà Nội
Lender truyền thống
P2P lending Hộ kinh doanh,
10 LenBiz 2 triệu Hà Nội
truyền thống doanh nghiệp SME
Hộ kinh doanh, cá
Kết nối P2P lending
11 nhân, doanh TPHCM
Ngân hàng truyền thống
nghiệp SME

Nguồn: Lender.vn tổng hợp ngày 19/03/2020

22
2.4.2 Hình thức hoạt động hoạt động P2P lending tại Việt Nam

Hiện nay, các công ty P2P Việt Nam chủ yếu hoạt động theo các mô hình
sau:

Mô hình 1: Các công ty cung cấp công nghệ đơn thuần. Đây là các công ty
chỉ cung cấp nền tảng công nghệ, chỉ hưởng phí, làm trung gian kết nối giữa
người cho vay và người đi vay. Các công ty công nghệ này cũng có thể hợp tác
với các ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán, quản lý tài khoản của khách hàng
tại ngân hàng như: Công ty cổ phần Interloan hợp tác với 3 ngân hàng
Sacombank, Nam Á bank và Vietcapital Bank; Công ty cổ phần Tima và ngân
hàng NCB, Nam Á Bank; Công ty cổ phần Lendbiz hợp tác với Ngân hàng
PGbank, VIB để triển khai dịch vụ tài khoản cho khách hàng đầu tư tại Lendbiz.

Mô hình 2: Các công ty bên cạnh cung cấp nền tảng công nghệ còn hợp tác
với ngân hàng, tổ chức tín dụng. Theo đó, một số ngân hàng kết hợp với công ty
công nghệ để cho vay khách hàng cá nhân, doanh nghiệp siêu nhỏ như Dragon
Bank, Thebank, Gobear là 3 công ty cổ phần hợp tác và kết nối với ngân hàng
trong việc tìm kiếm khách hàng. Các ngân hàng hợp tác rất đa dạng. Công ty cổ
phần Dragonbank hợp tác với các ngân hàng OCB, Shinhan, HDBank, ACB,
UOB, VPbank, TPBank, MSB. Công ty cổ phần Gobear kết nối với người đi vay
và các ngân hàng BIDV, BaovietBank, Citibank, DongA bank, Eximbank, HD
Bank. The Bank có các đối tác tài chích là: Fecredit, Techcombank, Manulife,
VPBank, UOB, Shinhan Bank, BIDV, ABBank, Sacombank, BIDV,… Nhìn
chung, các công ty P2P kết nối với ngân hàng sẽ hp tác với rất nhiều các tổ chức
tài chính.

Mô hình 3: Các công ty P2P lending tự huy động vốn, rồi cho vay, về bản
chất thì đây là một hoạt động ngân hàng và phải được cấp phép nên hành vi này
cần phải được kiểm soát, ngăn chặn.

Mô hình 4: Là các công ty cầm đồ xây dựng app và website riêng để cho
vay dưới hình thức cho vay nặng lãi, hoặc có thể liên kết với công ty công nghệ
để ứng dụng trong cho vay cầm đồ. Đây cũng là hình thức cần ngăn chặn vì gây

23
nên hệ lụy xã hội xấu và đặc biệt dễ bị người dân hiểu sai và đánh giá sai về các
công ty P2P Lending.

2.4.3 Một số vấn đề hoạt động P2P lending tại Việt Nam.

Từ các mô hình hoạt động P2P Lending tại thị trường được xem còn non trẻ
như Việt Nam, hiện vẫn còn tồn tại rất nhiều thách thức, rủi ro và đi kèm cũng có
nhiều lợi ích vai trò cho sự phát triển kinh tế, tài chính Việt Nam.

2.4.3.1 Về thách thức

Về pháp lý: Hiện nay, P2P lending vẫn chưa được pháp luật Việt Nam công
nhận và quy định rõ ràng. Vấn đề này đặt ra nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư cũng
như người vay, khiến cho hoạt động P2P lending trở nên khó khăn hơn trong việc
tạo sự tin tưởng và thu hút người tham gia.

Rủi ro tín dụng: Hiện nay, P2P lending vẫn chưa được pháp luật Việt Nam
công nhận và quy định rõ ràng. Vấn đề này đặt ra nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư
cũng như người vay, khiến cho hoạt động P2P lending trở nên khó khăn hơn
trong việc tạo sự tin tưởng và thu hút người tham gia.

Về bảo mật: Mô hình P2P Lending mới được hình thành và phát triển gần
đây tại Việt Nam, nên nhiều ứng dụng P2P Lending chưa được hoàn thiện, cũng
như chưa đáp ứng các tiêu chí về an toàn bảo mật dẫn tới nhiều lỗ hổng bảo mật
còn tồn tại trước nguy cơ bị tấn công mạng, đánh cắp thông tin, lộ, lọt, rò rỉ dữ
liệu tài khoản, có thể gây thiệt hại cho các bên tham gia. Trường hợp các nền
tảng P2P Lending bị mất dữ liệu hoặc các rủi ro công nghệ liên quan thì khả năng
người cho vay mất trắng các khoản đầu tư là rất cao (vì không có cơ sở, bằng
chứng ghi nhận lại các khoản cho vay mà người cho vay đã tiến hành cho vay).
Bên cạnh đó, các công ty Fintech hầu hết khởi nguồn là các công ty khởi nghiệp
non trẻ, không có hoặc chưa thiết lập bộ phận kiểm soát tuân thủ, thiếu sự kiểm
soát, giám sát về mặt quy trình hoạt động (như yêu cầu kỹ thuật, yêu cầu về vốn
và khung khổ kiểm soát các rủi ro trong hoạt động...) nên hoạt động của các công

24
ty tiềm ẩn rủi ro dẫn tới thiệt hại, tổn thất cho khách hàng, gây mất niềm tin của
công chúng vào lĩnh vực non trẻ này.

Rủi ro do liên quan đến hoạt động bất hợp pháp: Mô hình P2P Lending dễ
trở thành công cụ cho một số đối tượng tiến hành trốn thuế, rửa tiền, tài trợ
khủng bố… vì các cơ quan chức năng khó kiểm soát nguồn gốc luồng tiền, danh
tính, mục đích.

2.4.3.2 Về vai trò, lợi ích

Sự đổi mới, sáng tạo trong lĩnh vực P2P Lending đã đem lại những lợi ích
to lớn đối với các tổ chức tài chính - ngân hàng bằng cách bổ khuyết, cải tiến
hoặc giải quyết tính thiếu hiệu quả trong sản phẩm, dịch vụ tài chính hiện hành
như giới hạn về thời gian, địa điểm giao dịch, điểm tiếp xúc khách hàng theo
kênh vật lý, nhận biết và xác thực khách hàng (KYC), cũng như quy trình thủ tục
giao dịch tương đối phức tạp như hiện tại.

P2P Lending cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo thêm kênh tiếp
cận nguồn lực tài chính, cách thức cho vay đối với nền kinh tế, thúc đẩy tài chính
toàn diện quốc gia, góp phần hỗ trợ phổ cập tài chính thông qua tăng cường khả
năng tiếp cận dịch vụ tài chính đối với một bộ phận người dân chưa có tài khoản
ngân hàng (unbanked) hoặc khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính -
ngân hàng truyền thống (underbanked), người dân vùng sâu, vùng xa ít có điều
kiện tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng truyền thống.

Đặc biệt, P2P Lending có thể đóng vai trò quan trọng góp phần hiện thực
hóa mục tiêu Chính phủ số và nền kinh tế số trong cuộc CMCN 4.0 mà nhiều
quốc gia đang hướng tới trong đó có Việt Nam.

25
3. Giải pháp quản lý và phát triển hoạt động P2P Lending tại Việt
Nam

Tại Việt Nam, hiện nay, có khoảng hơn 40 công ty đang tham gia hoạt động
P2P Lending như Tima, Trust Circle, Vay mượn, Lendmo, Wecash, InterLoan...
Ngân hàng Nhà nước (2019) đã nhận định, hoạt động P2P Lending có thể góp
phần hỗ trợ phổ cập tài chính, mở rộng khả năng và tạo thêm kênh tiếp cận
nguồn lực tài chính, cách thức cho vay đối với nền kinh tế, nhất là đối với các đối
tượng yếu thế trong xã hội (có khả năng tiếp cận Internet); qua đó, góp phần đẩy
lùi tình trạng “tín dụng đen”. Tuy nhiên, hoạt động P2P Lending cũng tiềm ẩn
nhiều rủi ro (rủi ro cho vay, rủi ro thông tin, rủi ro phòng, chống rửa tiền, rủi ro
an ninh mạng...) có thể tác động bất lợi, bất ổn đến hệ thống tài chính nói chung,
hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các kinh nghiệm
quốc tế về hoạt động P2P Lending trở nên cực kỳ quan trọng trong bối cảnh hiện
nay.

Thông qua kinh nghiệm quản lý hoạt động P2P Lending tại Mỹ, Anh và
Trung Quốc, Việt Nam có thể rút ra được những bài học hữu ích như sau:

Thứ nhất, cần công nhận hoạt động P2P Lending và cho phép hoạt động của
các công ty P2P Lending vì kinh nghiệm của các quốc gia đều chuyển từ quan
điểm không cấp phép hoạt động P2P Lending sang cấp phép cho hoạt động này.
Việc chưa có một quy định hướng dẫn cụ thể đối với việc thành lập cũng như tổ
chức hoạt động P2P Lending đã khiến tổ chức cho vay gặp nhiều khó khăn. Các
quy định P2P Lending nhìn chung được đánh giá là khá phức tạp và rắc rối, đặc
biệt là đối với những đối tượng mới tham gia thị trường này. Vì vậy, cần sớm có
sự cụ thể hóa trong việc cấp phép hoạt động. Các văn bản quy phạm pháp luật
này phải quy định rõ các điều kiện cấp phép hoạt động P2P Lending như yêu cầu
mức vốn tối thiểu, hạn mức cho vay tối đa, đáp ứng các tiêu chuẩn về công nghệ
cũng như cần phải đảm bảo an toàn hoạt động đối với công ty; cụ thể hóa các quy
định về kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp P2P Lending; quy
định rõ ràng, chặt chẽ về quyền truy cập thông tin của người cho vay và người đi
vay, làm rõ trách nhiệm của các doanh nghiệp P2P Lending đối với nhà đầu tư

26
trong trường hợp xảy ra đổ vỡ. Tại Việt Nam, hiện nay, khi các công ty hoạt
động P2P Lending chưa chịu sự quản lý của Luật Các tổ chức tín dụng mà chỉ
chịu quản lý của Bộ luật Dân sự, cần sớm ban hành hành lang pháp lý quy định
đối với hình thức P2P Lending và các đơn vị cung cấp sản phẩm này.

Thứ hai, cần có chế tài cụ thể trong việc quản lý thị trường P2P Lending.
Bài học từ Trung Quốc đã cho thấy, việc không sớm có chế tài quản lý đã khiến
quốc gia này chịu nhiều thiệt hại to lớn từ những vụ việc vỡ nợ hay lừa đảo từ cả
phía cho vay và bên đi vay. Trong thời gian xây dựng và hoàn thiện các biện
pháp quản lý phù hợp cho thị trường P2P Lending, Ngân hàng Nhà nước cần ban
hành các quy định rõ ràng, chỉ đạo các tổ chức tín dụng cải cách thủ tục hành
chính, minh bạch và công bố công khai thông tin về hoạt động cho vay của mình
cùng với tăng cường triển khai nhiều chính sách ưu đãi vay vốn để tạo điều kiện
thuận lợi cho mọi chủ thể trong nền kinh tế có thể tiếp cận được với vốn ngân
hàng.

Thứ ba, việc quản lý hoạt động P2P Lending cần được thực hiện chặt chẽ ở
cả cấp Trung ương và địa phương. Từ đó, Việt Nam cần xây dựng cơ chế giám
sát chặt chẽ, cụ thể cho hoạt động P2P Lending. Hoạt động giám sát P2P Lending
nên được trao thẩm quyền cho Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước có
trách nhiệm nghiên cứu mô hình hoạt động phù hợp với bối cảnh quốc gia và luật
hóa trong quy định cấp phép thành lập. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cần cho
phép các nền tảng P2P Lending truy cập thông tin tín dụng từ cổng thông tin kết
nối khách hàng vay của Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC).
Phương pháp này sẽ vừa đảm bảo cho các nền tảng cho vay biết được các khoản
nợ tín dụng hiện có của khách hàng.

Thứ tư, để hoạt động P2P Lending phát triển an toàn, hiệu quả, Chính phủ
và các bộ, ngành liên quan cần chú trọng nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin
quốc gia, nhất là cơ sở dữ liệu định danh cá nhân, chính quyền điện tử… cũng
như chú trọng yêu cầu về quản lý rủi ro công nghệ thông tin của hệ thống tài
chính - ngân hàng, từ đó không chỉ tạo nền tảng quản lý P2P Lending mà còn hỗ
trợ cho cả thị trường tài chính - ngân hàng số nói chung.

27
Thứ năm, Chính phủ cũng nên tham gia quản lý và điều hành trực tiếp các
nền tảng P2P Lending này để đầu tư cho các doanh nghiệp nhỏ cũng như thực
hiện ưu đãi thuế cho các cá nhân cần vốn để đầu tư thông qua các bên cho vay.
Việc được nhận các khoản đầu tư hàng năm để sử dụng vào hoạt động P2P
Lending kết hợp với các ưu đãi về thuế sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tham
gia tích cực hơn vào hoạt động P2P Lending, từ đó phát triển thị trường P2P
Lending cả về số lượng lẫn chất lượng.

Thứ sáu, cần tăng cường vai trò của Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng (trong
đó có bảo vệ người tiêu dùng tài chính), nhằm ngăn ngừa rủi ro, hỗ trợ và bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của người dân khi tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính, đảm
bảo an toàn, tránh các hệ lụy cho xã hội.

Như vậy, việc có những quy định cụ thể và định hướng chiến lược rõ ràng
là những yêu cầu cấp thiết để xây dựng một hệ thống P2P Lending hoạt động
hiệu quả và lành mạnh ở thị trường Việt Nam hiện nay.

KẾT LUẬN

Với quy mô dân số và nhu cầu tiếp cận các khoản vay tiêu dùng cá nhân
hoặc phục vụ vốn kinh doanh nhỏ ngày càng tăng, xu hướng phát triển cho vay
ngang hàng tại Việt Nam là tất yếu.

Công văn số 5228/NHNN-CSTT, ngày 8 tháng 7 năm 2019 của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam đã khẳng định: "Hoạt động P2P Lending có thể góp phần hỗ
trợ phổ cập tài chính, mở rộng khả năng và tạo thêm kênh tiếp cận nguồn lực tài
chính, cách thức cho vay đối với nền kinh tế, nhất là với các đối tượng yếu thế
trong xã hội (có khả năng tiếp cận Internet), qua đó có thể góp phần đẩy lùi tình
trạng “tín dụng đen”. Tuy nhiên, hoạt động P2P Lending cũng tiềm ẩn nhiều rủi
ro (rủi ro cho vay, rủi ro thông tin, rủi ro phòng, chống rửa tiền, rủi ro an ninh
mạng...) có thể tác động bất lợi, bất ổn đến hệ thống tài chính nói chung, hệ
thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các kinh nghiệm quốc
tế về hoạt động P2P Lending trở nên cực kỳ quan trọng trong bối cảnh hiện nay.

28
Việt Nam hiện chưa có bất kỳ quy định pháp luật nào điều chỉnh cụ thể về
hoạt động của P2P Lending. Trong hệ thống các ngành nghề kinh tế Việt Nam
được ban hành theo Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ngày 6 tháng 7 năm 2018
của Thủ tướng Chính phủ, P2P Lending chưa được thừa nhận là một ngành nghề
kinh doanh riêng biệt, do đó cũng không có cơ sở để ràng buộc tổ chức vận hành
P2P Lending. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng khung pháp lý đối với hoạt động
P2P Lending, để thiết lập một “không gian an toàn”; một “cơ chế hữu hiệu” để
quản lý, kiểm soát hiệu quả các rủi ro tiềm ẩn, nhằm đảm bảo an toàn tài chính,
sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế, trật tự an toàn xã hội và đảm
bảo sự phù hợp, thống nhất trong hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động tín
dụng.

29
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Acumen Research and Consulting (2023). P2P Lending Market Size -


Global Industry, Share, Analysis, Trends and Forecast 2022 – 2030.
2. Caroline Stern, Mikko Makinen and Zong xin Quian. (2017). Fintechs in
Chian - with a special focus on peer to peer lending. BOFIT Policy Brief, 8.
3. Chính phủ. (2021). Dự thảo Nghị định Quy định về Cơ chế thử nghiệm có
kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng.

4. Hoàng Thị Duyên và Đỗ Thị Tuyết Mai. (2019). Cho vay ngang hàng trên
thế giới và thực tiễn tại Việt Nam. Tạp chí Tài chính.
5. IBISWorld. (2020). Peer-to-Peer Lending Platforms in the US - Market
Size 2005–2026. Truy cập ngày 17/02/2023 từ
https://www.ibisworld.com/industry-statistics/market-size/peer-to-lending-
platforms-united-states/
6. Leixiao. (2016). Improving China's P2P Lending regulation system: an
examination of regulatory experience. US-China Law Review, 13:460.
7. Murphy. J. (2016). P2P Lending: Assessing sources of competitive
advantage. Melbourne Money and Finance Conferene, June 2016

8. Nguyễn Trần Minh Trí. (2019). Kinh nghiệm quản lý cho vay ngang hàng
tại một số nước. Tạp chí doanh nghiệp và Hội nhập.
9. Nguyễn Nam Trung (2020). Sự cần thiết xây dựng khung pháp lý đối với
hoạt động cho vay ngang hàng (Peer to Peer Lending) tại Việt Nam, Tạp chí
Công thương, truy cập tại <https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/su-can-thiet-xay-
dung-khung-phap-ly-doi-voi-hoat-dong-cho-vay-ngang-hang-peer-to-peer-
lending-tai-viet-nam-72706.htm>, [truy cập ngày 18/02/2023].
10. Ngân hàng nhà nước. (2019). Công văn số 5228/NHNN-CSTT ngày
08/07/2019 v/v hoạt động cho vay ngang hàng.
11. Nguyễn Văn Hiệu (2018). Cho vay ngang hàng - Kinh nghiệm thế giới và
hàm ý cho Việt Nam, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng số 22, tháng 11 năm 2018.
12. Report Ocean (2022). Peer to Peer (P2P) Lending Market 2022 Industry
Analysis, Trends, Size, Top Key Players, Growth, and Forecast to 2030.
13. Nguyễn Mạnh Hùng và Tạ Thị Hồng Nhung. (2020). Thực trạng hoạt
động cho vay ngang hàng tại Việt Nam, Tạp chí Công thương số 25, tháng 10
năm 2020.

You might also like