Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 1

Dầu sao, những hình ảnh sống động của một thế giới có thể cảm nhận hoàn

toàn trực quan chỉ thực sự mở ra với những câu đầu:


“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Có lẽ cái chất thơ của sông nước đã nhập vào những câu thế này để phô bày vẻ đẹp của nó. Câu thứ nhất tả sóng, câu thứ hai tả những dòng trôi, những
luồng nước trên mặt sông. Nếu câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang loang ra, lan xa, gối lên nhau, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai
lại vẽ ra những luồng nước cứ song song, rong ruổi mãi về cuối trời. Không gian vừa mở ra bề rộng, vừa vươn theo chiều dài.
Suốt dọc bài thơ, Huy Cận còn dày công khắc hoạ vẻ mênh mông vô biên bằng biết bao chi tiết giàu tính nghệ thuật nữa. Vừa dùng cái lớn lao để gợi sự
mênh mông, vừa dùng cái hữu hạn để gợi sự vô cùng. ấy là hàng trăm ngả sông, bao cồn đất, bao bờ xanh, bãi vàng, lớp lớp mây cao đùn núi bạc, ấy là một
cành củi khô, một bóng chim nhỏ… Nhưng có lẽ bức tranh vô biên của Tràng giang đạt đến tận cùng là ở hai câu này:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu.”
Câu trên là sự vô biên được mở về chiều cao. Câu dưới là sự vô biên về cả bề rộng và chiều dài. Có một khoảng không gian đang giãn nở ra trong cụm từ:
“Nắng xuống, trời lên”. Hai động từ ngược hướng lên và xuống đem lại một cảm giác chuyển động rất rõ rệt. Nắng xuống đến đâu, trời lên đến đó. Và nó
được hoàn tất bởi cụm từ “sâu chót vót”. Có cái gì như phi lí! Có lẽ không chịu được vẻ phi lí mà có nhiều người đã cố tình in và viết thành “sầu chót vót” để
dễ hình dung hơn. Tiếc rằng, chính “sâu” mới là sự xuất thần của hồn thơ.
Chót vót vốn là một từ láy độc quyền của chiều cao, bỗng phát huy một hiệu quả không ngờ. Nó còn gợi sắc thái chưa hoàn tất. Dường như cái nhìn của thi
sĩ vươn tới đâu thì trời sẽ sâu tới đó, mỗi lúc một chót vót hơn. Vừa tương xứng vừa hô ứng với câu trên, câu thứ hai mở ra bát ngát, tít tắp. Câu thơ được
viết giản dị, không chữ nào lạ, ngỡ như chỉ là sự sắp xếp các chiều kích của tràng giang.
Là một người thuộc lớp Tây học, nhưng tâm hồn tác giả Lửa thiêng lại thấm đẫm Đường thi, nên không gian Tràng giang cứ lãng đãng thơ Đường. Thơ cổ
Trung Hoa thật tinh diệu trong việc diễn tả cái trạng thái tĩnh của thế giới. Có lẽ vì triết học nơi đây đã quan niệm tĩnh là gốc của động, tĩnh là cội nguồn của
thế giới? Cùng với nó, tĩnh tại và thanh vắng cũng trở thành một tiêu chuẩn mĩ học phổ biến của cái đẹp trong thiên nhiên và nghệ thuật về thiên nhiên.
Tái tạo cái tĩnh vắng mênh mông trong nghệ thuật được xem là tái tạo hư không - một hư không chứa đầy âm nhạc, chứ không phải hư không trống rỗng.
Huy Cận cũng tái tạo như thế, nhưng thi sĩ muốn đi xa hơn. Cái thanh vắng của thơ xưa được cảm nhận bằng sự an nhiên tự tại. Còn sự trống vắng
của Tràng giang lại là một thế giới quạnh hiu, cơ hồ tuyệt đối hoang vắng. Đối diện với không gian vô biên, trống trải, cái tôi ấy đi tìm kiếm sự cảm thông
của đồng loại. Nhưng con người hoàn toàn vắng bóng.
Đúng ra, con người có thoáng hiện ra trong hình bóng chiếc thuyền ở đầu bài thơ. Một con thuyền “xuôi mái”, thụ động buông trôi trên dòng nước luân lạc.
Và nó cũng chỉ hiện ra thoáng chốc, rồi sau đó nép mình vào bờ bãi nào mà mất hút trên sông nước, trả lại không gian cho sự ngự trị của muôn ngả sông,
nghìn luồng sóng:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Khát thèm âm thanh của cuộc sống người, thi sĩ lắng nghe, không dám mơ đến thứ âm thanh náo động vui tươi, chỉ mong gặp thứ âm thanh xoàng xĩnh
nhất, buồn chán nhất của cuộc sống người, thế mà cũng không có:
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Chữ “đâu” ở đầu câu có thể hiểu là từ chỉ nơi chốn với nghĩa là “đâu đó”. Cũng có thể hiểu là từ phủ định với nghĩa là “đâu có”. Dù theo nghĩa nào thì nó
cũng nhằm nói đến cuộc sống tan rã, một đằng thì đã vắng bóng, một đằng thì đang vắng bóng mà thôi. Rồi cả những phương tiện giao lưu gợi sự có mặt của
con người cũng không hề có:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật”
Và sự phủ định cuối cùng: “Không khói hoàng hôn…”. Vậy là ở đây không còn là cái thanh vắng của “Lác đác bên sông chợ mấy nhà” (Bà Huyện Thanh
Quan), hay “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” (Nguyễn Khuyến) nữa. Tràng giang hiện ra như một thế giới hoang sơ. Có lẽ từ thuở khai thiên lập địa đến
giờ vẫn thế. Thi sĩ như một kẻ lữ thứ lạc vào giữa một hoang đảo. Trơ trọi, cô đơn đến tuyệt đối.
Có lẽ đó là nỗi hoài hương của lòng sầu xứ chợt dâng lên trong hồn kẻ xa quê. Và nó cần có khói sóng để làm duyên cớ. Nỗi nhớ của tác giả  Tràng
giang dường như mang sẵn, nên chả thấy viện đến thứ khói nào làm duyên cớ. Chừng như, nhớ nhà là cách duy nhất để vượt thoát, để trốn chạy nỗi cô đơn
cố hữu mà thôi:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Đứng trước những dòng sông lớn, ta có cảm tưởng như đang đối diện với sự trường tồn, trường cửu. Nghìn năm trước khi chưa có ta, nó vẫn chảy thế này.
Nghìn năm sau, khi ta đã tan biến khỏi mặt đất này, nó vẫn chảy thế kia. Tràng giang vẫn điềm nhiên dửng dưng không thèm biết đến sự có mặt của con
người. Sự lặng lẽ của tràng giang là miên viễn. Đứng bên dòng sông lớn, hãy lắng nghe nhịp triều miên viễn mênh mang. Nó là nhịp của vĩnh hằng, nhịp của
vũ trụ. Và, tôi muốn nói đến một đặc sắc khó thấy hơn của Tràng giang nói riêng và Lửa thiêng nói chung: hình như Huy Cận đã nghe thấy và đã chuyển
được nhịp chảy trôi miên viễn ấy vào trong âm hưởng của bài thơ.
Huy Cận đã thể hiện điều đó bằng thứ âm vang lạ lùng của chữ nghĩa. Mà chủ yếu là nhờ sự âm vang của các yếu tố lặp và trùng điệp. Hãy chú ý đến những
từ láy, nhất là láy nguyên. Đâu phải ngẫu nhiên thi phẩm có mật độ từ láy nguyên dày đến vậy: điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn,… ẩn hiện trong toàn
bài. Chúng không chỉ gợi được dáng nét  dáng nét đường bệ, mà còn gợi được nhịp chuyển động - chuyển động triền miên. Rồi, những cặp câu tương xứng
như trùng lặp, nối tiếp nhau, đuổi nhau không ngừng nghỉ, Rồi rải rác các vế chỗ này nối, chỗ kia tiếp “hàng nối hàng”, “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”…
Hàng nối hàng, bờ tiếp bờ, tất cả phụ họa hô ứng lẫn nhau cứ song song, điệp điệp, cứ nối nối, tiếp tiếp không cùng… khi hiện thành câu chữ, khi chìm trong
âm vang. Tất cả những yếu tố ấy như những bè khác nhau, kết lại với nhau tạo thành một âm hưởng cứ ngầm chảy đây đó trong bài thơ: âm hưởng trôi xuôi
bất tận. Phải chăng đó là cái nhịp trôi âm thầm về phía hư vô không thể cưỡng được của cõi thế này?
Phân tích khổ thơ cuối bài Tràng giang, có thể nói đây là thứ âm hưởng vừa nằm trong vừa nằm ngoài ngôn ngữ, nó vừa thuộc ý thức vừa thuộc về vô thức
của người làm thơ. Tôi cho đây là một trong những chỗ vi diệu nhất của thi phẩm này. Nó khiến cho ta có một cảm tưởng thật rõ rệt: cái mặt bằng chữ
nghĩa của cả bài thơ cũng như đang chuyển động xuôi dòng. Dòng tràng giang không chỉ chảy trong không gian, mà còn chảy trong thời gian… Từ thuở
khai thiên lập địa, sông chảy miết qua các thời đại mà về đây! Phải chăng đây là chiều thứ tư đầy mơ hồ và hư ảo của không gian Tràng giang?
Tôi đọc bài thơ bao nhiêu lần và không sao xoá được khỏi lòng mình cái cảm giác bâng quơ này: mình là cái cành củi khô luân lạc trên dòng tràng giàng kia
hay mình là cánh chim nhỏ lạc lõng dưới lớp lớp mây cao đùn núi bạc đó!… Nó là cảm tưởng của một đứa trẻ? Mà dường như cũng là của một người già?
Bởi vì Tràng giang là dòng sông mà cũng là dòng đời chăng?

You might also like