Câu Cá Mùa Thu

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 2

Đi câu là một cái thú thanh tao của các bậc trí giả.

Có bậc hiền nhân có tài, bất đắc chi đi câu để


chờ thời. Ngồi trên bờ ai mà nghĩ đến chuyện năm châu bốn biển, nghĩ đến thế sự đảo điên. "Cá
ăn đứt nhợ vểnh râu ngồi bờ" (có người còn dùng lưỡi câu thẳng như Khương Tử Nha - Trung
Quốc). Có bậc đại nhân vác cần đi câu để hương thú nhàn tản, hòa hợp với thiên nhiên, suy tư
trong trạng thái thư giãn. Nguyễn Khuyến đi câu theo kiểu này. Ông đã mở hết các giác quan để
cảm nhận mùa thu, cũng là mùa câu của xứ Bắc. Như những đứa trẻ trong xóm, ông câu cá
cũng chăm chú, cũng hồi hộp, cũng say mê. Kết quả của cuộc chơi ấy là ông đã được một bài
thơ "Thu điếu" vào loại kiệt tác của nền vãn học nước nhà.

Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuốm đậm tư tưởng Lão
Trang và triết lí Đông phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể nói cả trên
hai lĩnh vực, Nguyễn Khuyến đều thành công. Thu điếu được trích từ chùm thơ thu gồm ba bài:
Thu điếu, thu vịnh. Cả ba thi phẩm đều được viết bằng từ chương, bút pháp thi trung hữu họa,
lấy động tả tĩnh của văn học trung đại, nhưng vẫn mang đậm dấu ấn riêng của một trong những
bậc thầy thơ Nôm đường luật xuất sắc.

Hình ảnh mùa thu hiện lên trong bài thơ với một không gian hẹp ở chốn làng quê của tác giả,

trong một cái ao nhỏ với chiếc thuyền câu nhẹ thênh thênh:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.


Nguyễn Khuyến mở ra một không gian nghệ thuật, một cảnh sắc mùa thu đồng quê. Chiếc
ao thu nước trong veo có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao
trùm không gian. Tác giả gieo vần “eo” đặc sắc, tinh tế và có chút mạo hiểm. Hai câu thơ
trên thể hiện sự co lại, đọng lại cho ta cảm giác lạnh lẽo bao trùm toàn cảnh cùng sự yên
tĩnh, lẻ loi. Sách Gia Ngữ nói: “Thuỷ chí thanh tác vô ngư” nghĩa là nước trong quá thì không
có cá. Ấy thế mà, Nguyễn Khuyến lại nhè đúng lúc “nước trong veo” để mà ngồi thuyền đi
câu. Trên mặt ao thu đã có một chiếc thuyền câu bé tẻo teo từ bao giờ. Một chiếc gợi tả sự
cô đơn của thuyền câu. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự
hun hút của cảnh vật (trong veo - bé tẻo teo). Đó là một nét thu đẹp và êm đềm. Sự so sánh
vô lí giữa con thuyền với cái ao chẳng phải là thân phận của Nguyễn Khuyến đối với thời
thế thiên nan vạn nan đang trùm lên ông? Câu thơ được chọn lọc từ ngữ, gieo vần bình dị,
thân mật mang tính gợi cảm cao và hàm ý sâu sắc, ắt hẳn cụ Tam Nguyên phải là một
người có tầm nhìn sâu rộng và lòng yêu quê hương vô bờ bến mới lột tả được cảnh vật từ
tâm đến diện.
Xuân Diệu: “Cái thú của bài Thu điếu ở cái điệu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh
trúc, xanh tròi, xanh bèo”. Không chỉ xanh, ở hai câu thực bức tranh thiên nhiên ấy còn
được tô một nét vàng:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước ngõ khẽ đưa vèo
Mùa thu tiếp tục được hiện lên với hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng”. Cảnh vật động một cách khẽ
khàng. Tác giả đã rất nhạy cảm, tinh tế khi chớp được những biến động tinh vi của tạo vật. Đó là
sự chuyển động “hơi gợn tí” của sóng, là sự đưa nhẹ khẽ khàng của lá vàng, là sự mong manh
uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao. Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh, các sự vật có mối liên
hệ với nhau chặt chẽ: gió thổi làm sóng gợn, làm lá rơi. Các tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”, “vàng”,
“khẽ”, “vèo” được sử dụng hợp lí, giàu tạo hình, vừa tạo ra bức tranh thanh nhã vừa có xanh
vừa có vàng, vừa gợi được sự uyển chuyển của tạo vật. Sau này Xuân Diệu trong bài Đây
mùa thu tới cũng đã bắt được những nét điển hình đó của sông nước ở vùng quê, khi trời đã bắt
đầu bước vào những ngày giá lạnh:
Những luồng run rẩy rung rinh lá…

… Đã nghe rét mướt luồng trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò.

Nghệ thuật đặc sắc lấy động tả tĩnh của tác giả đã khiến cái tình nay càng tĩnh hơn. Cái tĩnh nó
nhẹ đến vô hình, vị thi sĩ này quả là một người có tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống sâu
sắc thì mới có thể cảm nhận được sự im lặng đến thế.

Xuyên suốt sáu câu thơ đầu, tác giả cho ta thấy bức tranh mùa thu với điểm nhìn từ gần đến cao
xa, từ cao xa trở về gần gụi. Bức vẽ mang màu sắc xanh thẳm, buồn bã, cô đơn và đầy tâm sự
của thi sĩ. Chung quay lại, không gian thu cũng chính là không gian của tâm trạng: cõi lòng nhà
thơ yên tĩnh, vắng lặng. mọi tâm tư, giãi bàu được dồn nén vào hai câu kết:

Tựa ôm cần lâu chẳng được


Cá đâu đớp động dưới chân bèo

Hình ảnh con người xuất hiện với tư thế ngồi ôm gối, trong trạng thái trầm tư mặc tưởng. Nhà
thơ ngồi câu cá nhưng chẳng hề chú tâm đến việc câu, bởi vậy mới giật mình trước tiếng cá
“đớp động dưới chân bèo”.  Phải chăng đó là âm thanh của cõi lòng người câu cá? Nguyễn
Khuyến nói chuyện câu cá nhưng thực ra tác giả không chú ý vào việc câu cá. Nói câu cá nhưng
thật ra là để đón nhận trời thu vào lòng, gửi gắm tâm sự. Cõi lòng tĩnh lặng để cảm nhận độ
trong veo của nước, cảm nhận cái hơi gợn của sóng, cảm nhận độ rơi khẽ của lá. Đặc biệt cõi
lòng tĩnh lặng được gợi lên sâu sắc từ một tiếng động nhỏ: tiếng cá đớp mồi. Đó là sự tĩnh lặng
tuyệt đối của tâm cảnh, cõi lòng của thi nhân cũng tĩnh lặng, trong trẻo như làng quê Việt trong
tiết thu.  Nhà thơ mượn cảnh để tả tình. Câu cá chỉ là cái cớ để tìm sự thư thái trong tâm hồn.
Âu cũng là cái sự vì nước vì dân. Đất nước ta đẹp thế, ấy vậy mà nhân dân lầm than. Cái hoài
bão giúp dân từ đó mà mỗi ngày đều thêm khó khăn, và cũng tạo ra trong lòng cụ Tam Nguyên
một rào cản; tạo sự buồn tẻ, cô đơn. Lòng người quạnh hiu chẳng cớ nào cảnh lại nhộn nhịp, vui
tươi:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu


Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

You might also like