Tiểu Luận Cuối Kì Tiến Trình Văn Học

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 34

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM-ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

KHOA NGỮ VĂN


-------------------------

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ

HỌC PHẦN

TIẾN TRÌNH VĂN HỌC

CẢM THỨC HIỆN SINH


TRONG TIỂU THUYẾT ĐỐT CỎ NGÀY ĐỒNG
CỦA ĐOÀN MINH PHƯỢNG

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Hồng Liên


Hà Phan Lệ Trang
Lớp học phần : 21CVH
Giảng viên hướng dẫn : Ths. Phạm Thị Thu Hương

Đà Nẵng, tháng 06/2023


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................3
3.1. Đối tượng nghiên cứu
.........................................................................................................................................
3
3.2. Phạm vi nghiên cứu
.........................................................................................................................................
3
4. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................3
4.1. Phương pháp phân tích – tổng hợp
.........................................................................................................................................
3
4.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu
.........................................................................................................................................
3
5. Bố cục..........................................................................................................................3
NỘI DUNG.....................................................................................................................4
Chương 1. TIỂU THUYẾT ĐOÀN MINH PHƯỢNG TRONG DÒNG TIỂU
THUYẾT HIỆN SINH VIỆT NAM NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XXI.................4
1.1. Một số điểm nổi bật của tiểu thuyết hiện sinh ở Việt Nam những năm đầu thế
kỉ XXI..............................................................................................................................4
1.1.1. Phản ánh đời sống hiện sinh của con người đương đại
.........................................................................................................................................
4
1.1.2. Các thủ pháp nghệ thuật mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh
.........................................................................................................................................
4
1.2. Đoàn Minh Phượng và tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng..........................................5
1.2.1. Đoàn Minh Phượng – cây bút tiểu thuyết tài năng của dòng văn học hiện sinh
Việt Nam
.........................................................................................................................................
5
1.2.2. Đốt cỏ ngày đồng – tiểu thuyết mang đậm dấu ấn hiện sinh
.........................................................................................................................................
6
1.2.2.1. Tóm tắt nội dung tác phẩm
.........................................................................................................................................
6
1.2.2.2. Ý nghĩa tác phẩm
.........................................................................................................................................
6
Chương 2. CẢM THỨC HIỆN SINH TRONG TIỂU THUYẾT ĐỐT CỎ NGÀY
ĐỒNG (ĐOÀN MINH PHƯỢNG) NHÌN TỪ KHÍA CẠNH HIỆN THỰC............8
2.1. Cuộc sống mang cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng (Đoàn
Minh Phượng)................................................................................................................8
2.1.1. Cuộc sống với những dự cảm bất an về một thế giới đổ vỡ
.........................................................................................................................................
8
2.1.2. Cuộc sống – một thế giới hoang vắng tình yêu thương
.........................................................................................................................................
8
2.2. Con người hiện sinh trong tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng (Đoàn Minh Phượng)
.........................................................................................................................................9
2.2.1. Con người mang mặc cảm của kiếp sống tha hương, lưu vong
.........................................................................................................................................
9
2.2.2. Con người lo âu, dự cảm về cái chết...................................................................10
2.2.3. Con người với những nỗi buồn không tên..........................................................12
2.2.4. Con người tồn tại như một nhân vị.....................................................................14
Chương 3. NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CẢM THỨC HIỆN SINH TRONG TIỂU
THUYẾT ĐỐT CỎ NGÀY ĐỒNG (ĐOÀN MINH PHƯỢNG).................................16
3.1. Kết cấu.....................................................................................................................16
3.1.1. Kết cấu phân mảnh, lắp ghép...............................................................................16
3.1.2. Kết cấu mở............................................................................................................16
3.2. Không gian và thời gian.........................................................................................16
3.2.1. Không gian vô định .............................................................................................16
3.2.2. Thời gian đan xen ................................................................................................19
3.3. Giọng điệu...............................................................................................................20
3.3.1. Giọng suy ngẫm triết lý.........................................................................................20
3.3.2. Giọng tự vấn.........................................................................................................22
3.3.3. Giọng bẽ bàng xót xa............................................................................................22
3.4. Ngôn ngữ đầy chất thơ và chất trữ tình...............................................................24
KẾT LUẬN ...................................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................27
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài


1.1. Trong vài thập niên trở lại đây, văn học Việt Nam đánh dấu những bước tiến đáng
kể, gắn liền với sự phát triển vượt bậc của tiểu huyết đương đại. Sau 1986, khuynh
hướng nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân
bản chiếm ưu thế chủ đạo. Tiểu thuyết đã không chỉ thực sự đổi mới về tư duy nghệ
thuật, bộc lộ khả năng vượt trội của mình trong cách “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật”, bao quát được các vấn đề cơ bản của đời sống xã hội và
con người mà còn quan tâm đến sự đổi mới chính nó. Hàng loạt cây bút thử sức mình
trong lối viết mới; bút pháp lạ, hấp dẫn và tiếp cận được những phương pháp sáng tác
thịnh hành của văn học thế giới. Bên cạnh Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Hồ Quý Ly
(Nguyễn Xuân Khánh), Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà), Lên xe xuống xe (Nguyễn
Bình Phương), Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái)... không thể
không kể đến Và khi tro bụi, Mưa ở kiếp sau và Đốt cỏ ngày đồng của nhà văn Đoàn
Minh Phượng.
1.2. Văn học Việt Nam đương đại chịu ảnh hưởng của nhiều trào lưu trên thế giới,
trong đó có chủ nghĩa hiện sinh. Sau những bước thăng trầm, từ chỗ chỉ ít nhiều mang
tinh thần hiện sinh, rồi “e dè” xuất hiện trở lại văn đàn vào cuối thế kỉ XX, đến những
năm đầu thế kỉ XXI chủ nghĩa hiện sinh đã có sự trở lại đầy ấn tượng. Sự trở lại này
như một điều tất yếu bởi các nhà văn đương đại gặp gỡ quan điểm của triết học hiện
sinh ở nhiều khía cạnh. Đặc biệt, tiểu thuyết Việt Nam trong bước chuyển mình hòa
nhập với quá trình đổi mới của văn học nước nhà đầu thế kỷ XXI đã hình thành một lối
viết hiện đại mang cảm thức hiện sinh. Điều này thể hiện rõ ở nhóm tác giả tiểu thuyết
như: Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Bình Phương, Thuận, Hồ Anh Thái
và không thể không kể đến Đoàn Minh Phượng.
1.3. Đoàn Minh Phượng là một. trong những gương mặt tiểu thuyết nổi bật của văn
học Việt Nam đương đại, chị lặng lẽ đến với văn chương, nhưng những trang văn của

1
chị đã trở thành nỗi ám ảnh đối với nhiều độc giả với cảm thức hiện sinh của con
người đương đại với những sáng tác đầy trăn trở và những thể nghiệm mới. Với cách
nhìn hiện thực và con người một cách toàn diện và sâu sắc, nhà văn luôn gửi vào tác
phẩm của mình ước mơ tìm kiếm những giá trị nhân sinh tiềm ẩn trong dòng đời của
mỗi con người, đi đến những góc khuất ở tận sâu thẳm tâm hồn con người để tìm ra ý
nghĩa giá trị cho cuộc đời.
1.4. Đốt cỏ ngày đồng là câu chuyện về những nỗi buồn. Nỗi buồn của một tình yêu
đẹp nhưng dang dở, nỗi buồn của những cô gái điếm trinh bạch, nỗi buồn về nhân tình
thế thái bạc bẽo của cuộc đời. Câu chuyện với cốt truyện rời rạc, bao trùm tác phẩm
chỉ là những cảm nhận, linh giác. Tuy vậy, mỗi mảnh ghép rời rạc, lộn xộn ấy đều
chứa đựng muôn vàn triết luận nhân sinh. Trong cuộc sống hiện đại đầy rẫy sự nhập
nhằng này, con người lạc lối trên từng nẻo đường, họ bị lưu đày trong kí ức, trước lo
âu, hoài nghi về thực tại, trong cảm thức về cái trống rỗng, mọi điểm tựa đều biến mất
của con người. Nhân vật của Đoàn Minh Phượng chịu nhiều sức đè của cuộc sống ngột
ngạt, về những yêu hận, theo đuổi truy tìm những điều cuối cùng lại là vô lí và vô
nghĩa giữa cuộc đời và vô vàn những vấn đề về hiện sinh, tự do của thân phận người
và cuộc sống con người hiện đại được đặt ra trong cuốn tiểu thuyết này.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết
Đốt cỏ ngày đồng của Đoàn Minh Phượng”, nhằm vận dụng các kiến thức đã học để
thực hành nghiên cứu những yếu tố biểu hiện cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết này.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài “Cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết Đốt cỏ ngày
đồng của Đoàn Minh Phượng” là tìm ra các yếu tố mang cảm thức hiện sinh trong tác
phẩm Đốt cỏ ngày đồng và giá trị của tác phẩm ấy trong các sáng tác tiểu thuyết của
nhà văn. Từ đó, có thêm cơ sở để khẳng định sự độc đáo của tiểu thuyết Thuận cũng
như những đóng góp của nhà văn đối với sự vận động và phát triển của tiểu thuyết Việt
Nam đương đại nói riêng và tiến trình vận động của văn học Việt Nam nói chung.
Cuối cùng là hoàn thành bài tiểu luận cuối kì môn Tiến trình văn học.
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng của Đoàn
Minh Phượng do nhà xuất bản Hội nhà văn xuất bản năm 2020.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận khai thác cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng của
Đoàn Minh Phượng qua các khía cạnh hiện thực như cuộc sống và con người hiện đại
và các phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết này.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp
4.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung của luận văn gồm
03 chương:
Chương 1: Tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng trong dòng tiểu thuyết hiện sinh Việt Nam
những năm đầu thế kỉ XXI
Chương 2: Cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng (Đoàn Minh
Phượng) nhìn từ khía cạnh hiện thực
Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết Đốt cỏ ngày
đồng (Đoàn Minh Phượng)

3
NỘI DUNG

Chương 1
TIỂU THUYẾT ĐOÀN MINH PHƯỢNG
TRONG DÒNG TIỂU THUYẾT HIỆN SINH VIỆT NAM
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XXI

1.1. Một số điểm nổi bật của tiểu thuyết hiện sinh ở Việt Nam những năm đầu
thế kỉ XXI
1.1.1. Phản ánh đời sống hiện sinh của con người đương đại
Từ những năm 60 - 70 của thế kỷ XX, chủ nghĩa hiện sinh đã thực sự ảnh hưởng
đến sự vận động và phát triển của văn học nước nhà.
Sau năm 1986, chủ nghĩa hiện sinh có cơ hội tái xuất hiện. Cho dù viết về đề tài gì,
tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này đều xoay quanh những trăn trở, suy ngẫm khắc
khoải về nhân vị, đi sâu vào phản ánh đời sống hiện sinh của con người đương đại,
luôn thích nghi với những chuyển động phong phú của đời sống.
Các phạm trù cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh như quan niệm về phi lý, về những thân
phận cô đơn, lạc loài đi tìm bản ngã, đến những con người nổi loạn, phi luân gắn với
tình yêu, tình dục được các nhà văn vận dụng khá phổ biến, linh hoạt, sáng tạo.
Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI chú trọng thể hiện các quan niệm về
tính chủ thể, về tự do, sự phi lí, về dấn thân, nổi loạn và đề cao thân xác. Khuynh
hướng hiện sinh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã chứng tỏ sự mới mẻ của
mình, góp phần làm mạnh mẽ thêm sự phát triển và hội nhập của văn học Việt Nam
với văn học thế giới.
1.1.2. Các thủ pháp nghệ thuật mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa hiện sinh
Nhân vật thường được xây dựng như những phiến đoạn đứt rời và được mô tả
bằng ngôn ngữ gãy gọn, những kết cấu vỡ vụn... Các tác giả tập trung khai thác nội
tâm, suy nghĩ, trạng thái tâm lý cảm xúc của nhân vật để cho con người hiện hiện lên
4
như một cá nhân riêng biệt với những suy nghĩ, cảm xúc rất riêng.
Kết cấu được xây dựng theo kiểu phân mảnh, lắp ghép, kết cấu tự tham chiếu, kết cấu
xoắn kép, ... các sự kiện trong tác phẩm bị xáo trộn, lật tung khiến những bất ổn ẩn
khuất trong sâu thẳm tâm thức của con người có điều kiện phơi bày.
Thủ pháp “đối thoại trong độc thoại” và thủ pháp “dòng ý thức” được các tác giả sử
dụng để phát hiện những bí ẩn của đời sống nội tâm nhân vật, đặc biệt là những trạng
thái day dứt, bất an, lẫn lộn giữa ý thức và vô thức của con người.
1.2. Đoàn Minh Phượng và tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng
1.2.1. Đoàn Minh Phượng - cây bút tiểu thuyết tài năng của dòng văn học hiện sinh
Việt Nam.
Đoàn Minh Phượng sinh ra tại Sài Gòn, là Việt kiều từng sinh sống tại Born
(Đức). Đoành Minh Phượng là một cây bút tài năng của nền văn học Việt Nam đương
đại. Nổi tiếng trong lĩnh vực tiểu thuyết, Đoàn Minh Phượng đã thực sự tạo nên nỗi
ám ảnh trong tâm trí người đọc bởi cảm thức hiện sinh của con người đương đại được
thể hiện trong từng tác phẩm.
Sáng tác đầu tiên của chị được độc giả trong nước chú ý, đón nhận là tiểu
thuyết Và khi tro bụi, và với tiểu thuyết này, chị đã được nhận Giải thưởng Hội Nhà
văn Việt Nam 2007. Năm 2010, Đoàn Minh Phượng tiếp tục ra mắt tiểu thuyết Mưa ở
kiếp sau gây được nhiều sự chú ý. Chỉ qua hai cuốn tiểu thuyết này, phong cách của
chị đã được định hình. Đó là một cách viết vừa lạnh lùng, vừa nồng ấm với chất triết lý
suy tưởng thấm đẫm trong từng trang văn.
Với tâm thức hiện sinh, mỗi câu chữ trong các tác phẩm là dòng ý thức tuôn
chảy của một con người xa xứ, lạc lông nơi đất khách đang trên hành trình kiếm tìm
bản thể, tìm kiếm quê hương. Để lý giải những vấn đề triết lý đời sống trong thế giới
hiện đại, chị xây dựng trong các tác phẩm của mình những hình tượng nhân vật bị chấn
thương. Đó là những con người cô độc trong một thế giới bất toàn, bơ vơ kiếm tìm giá
trị bản thể, thậm chí tuyệt vọng tìm đến cái chết hoặc tìm phương cách chạy trốn để
giài thoát. Dường như mỗi nhân vật trong số đó đều là một mảnh ghép trong bản thể
5
của chính nhà văn, kiểu nhân vật nhiều chấn thương từ quá khứ đến hiện tại, cô đơn
với niềm đau câm lặng.
1.2. Đốt cỏ ngày đồng- tiểu thuyết mang đậm dấu ấn hiện sinh
1.2.1. Tóm tắt nội dung tác phẩm

Một đoàn làm phim đang trên đà rệu rã đi hết làng này qua làng khác để tìm tư
liệu cho một bộ phim, một nhân vật nữ luôn ám ảnh với những câu chuyện và trạng
thái băn khoăn không bao giờ dứt về tình yêu của mình, một cô gái tên Q bị bắt vào
một nhà chứa ở đường Huyền Trân, một chàng trai trước khi bị đi tù đã để lại cuốn sổ
tay cho bạn gái mình - một cuốn sổ khi thì được kể là viết về một phần lịch sử, khi thì
được cho là có tên của những kẻ đồng đội có nguy cơ bị vào tù… Những câu chuyện
về họ là những màn sương mù bởi cách kể không rõ ràng của tác giả. Nội tâm nhân vật
cũng mà những mảnh chắp nối vỡ vụn khiến người đọc khó cảm được nhân vật.
Trong Đốt cỏ ngày đồng, Đoàn Minh Phượng giữ nhịp kể nhẹ tênh, lạnh lùng và
những câu hỏi liên tiếp nhau. Có thể thấy xuyên suốt câu chuyện luôn khiến người
đọc luôn trong trạng thái tự vấn tự ý thức bởi những suy tư khác thường của nhân vật
và những chuyện kể trong đó gần như không có sự liên kết. Các suy tư được đảo đi
đảo lại liên tục, kéo dài vô tận làm người đọc cảm thấy ngột ngạt khó thở như đang lạc
lối trong một mê lộ không lối thoát của cuộc sống.
Trong màn sương mù mà Đốt cỏ ngày đồng tạo ra, dường như không có một câu
chuyện của riêng ai hết. Con người trong của Đoàn Minh Phượng thường mang cảm
thức hiện sinh về cuộc sống u uất, không ngừng suy tư trăn trở lo âu về cuộc đời, tình
yêu, nỗi buồn, sự tồn tại của chính họ hay về trí nhớ (hầu như đều rơi vào trạng thái
không thể nhớ gì và liên tục nhắc về việc mình không thể nhớ).
1.2.2. Ý nghĩa tác phẩm

Đốt cỏ ngày đồng xuất hiện như một cơn mưa rào, vẫn được viết theo kỹ thuật
dòng ý thức cùng màu sắc triết lí quen thuộc, nhưng có thể nói ở Đốt cỏ ngày đồng có
nhiều điểm khác biệt căn bản so với hai tác phẩm trước của Đoàn Minh Phượng. Đầu
6
tiên, đây là một tác phẩm phá vỡ mọi quy ước căn bản của thể loại, nó không định rõ
cốt truyện, bối cảnh, góc trần thuật, xuyên suốt Đốt cỏ ngày đồng tác giả hầu như
không hề nhắc tới một địa điểm nào cụ thể. Ta chỉ bắt gặp những cụm mô tả chung
chung, mơ hồ. Cùng với những địa danh hư cấu như làng Duy Hà, đường Huyền Trân,
cung Elysia... Đoàn Minh Phượng trong Đốt cỏ ngày đồng đã thực hiện chuyến hành
trình đi sâu hơn vào thế giới tâm tưởng thay vì neo vào các cột mốc từ thế giới hiện
thực. Cách xây dựng này càng làm xóa nhòa những nhận thức vốn có của bạn đọc về
một thế giới vật lý mà ta cảm nhận bằng năm giác quan, để đưa đẩy họ hay thậm chí
bó buộc họ vào một khung trời hư cấu thuộc bề sâu tiềm thức mà nhà văn tạo tác.
Người đọc không được tác giả dẫn dắt qua câu chuyện nhờ vào các sự kiện vật
lý hay thời gian thực mà chính nhờ những vào dòng chảy cảm xúc để tự hình dung lên
câu chuyện. Đây chính là kỹ thuật dòng ý thức mà Đoàn Minh Phượng vận dụng thành
công trong mọi sáng tác của mình. Khơi nguồn từ tâm lý học cuối thế kỷ 19, kỹ thuật
dòng ý thức nhấn mạnh tính tức thì của ý nghĩ, và là phương tiện đắc dụng để mô tả
thời gian vật chất như người ta cảm thấy, rút ngắn khung thời gian bên ngày mà kéo
dài thời gian bên trong tâm hồn, giúp chất chứa cảm xúc với biên độ tối đa.
Tuy dạt dào là vậy, nhưng tác phẩm này không phải là một áng văn ồn ào. Màu
văn được đưa về thế cân bằng sâu lắng nhờ tính triết lý xuyên suốt tác phẩm. Ta gặp
lại màu sắc hiện sinh từ tác phẩm thông qua những tư tưởng về nhân vị, sự tự do, về sự
ê chề của kiếp người, sự hoài nghi thực tại, và rõ ràng nhất là nỗi ám ảnh về sự đổ vỡ.
Tác giả đã kết thúc tác phẩm bằng cách để ngỏ. Đốt cỏ ngày đồng không kết thúc bằng
bằng một dấu chấm câu để trở nên toàn vẹn mà để người đọc rơi vào tâm trạng mênh
mang, gợi mở những suy tưởng sâu xa và rộng lớn hơn, tạo ra một khoảng trống để
người đọc tự do sáng tạo kết thúc riêng mình Có lẽ những gì lưu lại đậm đà nhất sau
khi người ta đọc xong không phải là ấn tượng về diễn biến câu chuyện mà là tiếng lao
xao của cảm xúc, như chị đã viết đâu đó trong sách: Tất cả những gì tôi nhớ, chỉ là
những cảm giác..

7
Chương 2

CẢM THỨC HIỆN SINH


TRONG TIỂU THUYẾT ĐỐT CỎ NGÀY ĐỒNG (ĐOÀN MINH PHƯỢNG)
NHÌN TỪ KHÍA CẠNH HIỆN THỰC

2.1. Cuộc sống mang cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng
(Đoàn Minh Phượng)
2.1.1.Cuộc sống với những dự cảm bất an về một thế giới đổ vỡ
Martin Heidegger (1889 - 1976) cho rằng bản chất con người là lo âu, tâm trạng
chủ yếu của con người là sự sợ hãi. Trước cuộc sống hiện đại đầy rẫy những bất công,
phi lý, ngổn ngang những “buồn nôn”, bất an trở thành tâm lý chung của con người
trong cuộc sống hiện đại.
Tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng ngập tràn những ám ảnh nỗi buồn và dự cảm về
những điều không hay sẽ xảy ra với con người. Đó là những dự cảm bất an về sự mất
an toàn trong cuộc sống, dự cảm về sự đổ vỡ trong hạnh phúc cá nhân, lo sợ những
điều không hay xảy ra với chính mình và người mình yêu thương. Đặc biệt, quyền
được sống như một con người thực sự đồng thời là mối lo luôn canh cánh hiện hữu,
ám ảnh trong tâm hồn con người trong một cuộc sống vốn dĩ đã quá mơ hồ, xám xịt.
2.1.2. Cuộc sống- một thế giới hoang vắng tình yêu thương
Tình yêu vốn được nhắc đến nhiều trong tiểu thuyết này nhưng con người trong
đó không có được hạnh phúc trọn vẹn, hạnh phúc chỉ là những giây phút ngắn ngủi mà
thậm chí người ta không thể nào thực sự tận hưởng nó vì nỗi lo lắng thường trực sợ
rằng sẽ đánh mất nó bất cứ lúc nào. Con người dần trở nên khép lòng mình lại, không
chia sẻ với ai về bất cứ điều gì, con người tổn thương trước hiện thực cuộc sống nên
khó cơi mở để đón nhận tình yêu và ban phát tình yêu, vậy nên cuộc sống trong Đốt cỏ
ngày đồng quá đỗi buồn nhạt và hoang vắng.

8
2.2. Con người hiện sinh trong tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng (Đoàn Minh Phượng)
2.2.1. Con người mang mặc cảm của kiếp sống tha hương, lưu vong
Nhân vật Mây trong Đốt cỏ ngày đồng lại lưu vong trong chính thân phận của
chính mình. Đó chính là biểu hiện rõ nét của lưu vong tinh thần. Lưu vong tinh thần
được hiểu như một trạng huống của lý trí. Con người sống trong một tâm thế bất ổn,
tâm hồn họ bị lưu đầy trong những chuyến lưu vong bất tận, con người trở thành xa lạ
với chính mình. Cảm thức lưu vong không chỉ là hoàn cảnh sống, mà còn là tình thế
lưu vong trong trái tim mỗi con người. Nhân vật Mây cũng mang trong mình những
cảm xúc như thế. Trái tim cô bây giờ là con đường tối tăm không lối thoát, không nơi
trú ngụ. Dù trái tim ấy đã từng đập thổn thức vì tình yêu, đã từng khao khát được yêu
nhưng giờ đây nó lạc lõng, vô hồn, thật cô đơn biết nhường nào. Trái tim hay tâm hồn
con người cũng cần có "nhà" của nó, cũng cần có nơi chốn để thuộc về. Nhân vật Mây
sau khi người yêu bị bắt giam vào tủ, cô bị bắn vào nhà chứa Huyền Trân, đi làm điểm
“Em vừa bước qua cánh cửa nhôm có giăng tấm vải in hoa đó để bước vào phòng, thi
cuộc đời em đứt đoạn ngay lúc đó” [5; tr 84]. Mây lưu vong trong chính miền ký ức
của mình. Con người lưu vong không có quê hương nào ngày ký ức. Đến với một nơi
hoàn toàn xa lạ _ mảnh đất Sài Gòn phồn hoa đô hội, hay tòa nhà Elysia, đó đều là
những nơi không thuộc về cô. Cô thuộc về nơi có anh, khi người yêu cô chưa bị bắt
giam và cô được sống trong tình yêu "Buổi sáng của chúng tôi đẹp như nắng và như
sương. Trăm năm chắc chắn không đủ dài để thương nhau, tôi yêu anh đến nỗi thời
gian làm cho tôi thấy đau trong lồng ngực" [5, tr 45]. Cô cũng đã từng có khát khao về
một tình yêu bình dị như bao người khác, đó là được sống với người đàn ông mình yêu
thương, bình đạm bước qua năm tháng. Nhưng rồi cô quyết định sống chung với cô
đơn, nỗi buồn và khoảng không anh để lại. Tất cả khoảng không gian thời gian đều bao
trùm bởi nỗi nhớ đến vô cùng vô tận. Và khi cô không còn cảm nhận được tình yêu
của anh ở bên mình cũng chính là lúc cô rơi vào hố sâu của sự cô đơn. “Có khi ở chợ
về đến trước cửa căn nhà của mình, tôi không biết tôi vừa đến đây hay vừa về đây. Bên
9
ngày chẳng thuộc về ai, không một ai yên ấm, không một ai lạc loài. Ở bên ngày người
ta luôn có một nơi nào để đi đến – hoặc trở về. Bên trong căn nhà của mình, người ta
dừng lại, ngồi xuống, không còn nơi nào để đi tiếp. Nếu không cảm thấy được bao bọc
trong hơi ấm và sự quen thuộc của nơi chốn thuộc về mình, người ta không còn nơi
nào trú ngụ ngày con tim bên trong thân thể. Vách con tim tôi mỏng, tôi biết vậy” [5,
tr.38]. Rời xa anh cô cũng như rời xa trái tim tầm hồn của mình. Bởi tình yêu chính là
thứ kết nối và sưởi ấm cho những con tim đang se sắt, cô đơn. Nhưng giờ anh không
còn ở đây nữa thì còn chỗ dựa nào cho cô. Mây trở nên lạc lõng, vô loài, cảm thấy
mình như bị ra khỏi rìa của thế giới, không có nơi nào là thuộc về mình cả. Sự cô đơn
ấy chi phối cả tiềm thức của cô, khiến cô cũng không thể hiểu được suy nghĩ và hành
động của chính mình. Có đôi khi cô hành động một cách vô thức và cũng có khi tất cả
diễn ra xung quanh cô chỉ là sự ảo giác mà thôi.
Đọc Đốt cỏ ngày đồng bao giờ ta cũng thấy hiện lên cá thể cô độc, khép mình
trước con người cuộc đời và luôn chìm đắm trong nỗi đau thương hoài niệm. Dường
như những chấn thương và mặc cảm đã làm cho nhân vật thiếu một niềm tin đầy đủ và
chắc chắc về sự tồn tại của chính mình. Có thể nói, nhân vật lạc loài cô đơn trong cuộc
sống đời thường hay hoàn cảnh tha phương xa xứ trong tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng
là minh chứng cho sự bất nhận thức. Chính vì bất nhận thức, mà họ lạc lối giữa cuộc
đời, với chính bản thân mình.
2.2.2 Con người lo âu, dự cảm về cái chết
Con người hiện sinh luôn hoang mang, âu lo trước hiện thực cuộc sống và dự
cảm về cái chết. Đó là sự lo âu không có hình hài cụ thể, khi con người mất phương
hướng trong cuộc sống, quá khứ là hư không còn tương lai là vô định, luôn cô độc
không có điểm tựa. Lo âu tồn tại đương nhiên chi phối con người trong mọi hành
động, mọi suy nghĩ và mọi sự lựa chọn. Thứ cảm giác này thậm chí có thể khiến con
người đau đớn khôn nguôi.
Trong tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng ta có thể thấy được sự ám ảnh về quá khứ
vẫn luôn dằn vặt con người. Dù quá khứ ấy nằm sâu trong tiềm thức, hay được in lần
10
trên những khuôn mặt, những tâm hồn đầy rẫy vết xước thì vẫn không cách nào thoát
ra được. Nhân vật chính trong tác phẩm là Mây, tên của cô đến cuối tác phẩm mới
được phát hiện. Dòng ý thức của cô là chuỗi hồi tưởng các sự kiện trong đời: người
yêu bị bắt giam vào tù, những ngày cuối cùng bên nhau và những tháng chờ đợi G mãn
hạn. Những sự kiện ấy được lồng ghép trong tâm tưởng nhân vật nhưng lại đứt đoạn,
rời rạc. Những ngày trước khi G bị bắt giam, có lẽ cô đã có một khoảng thời gian được
hạnh phúc, được sống trong tình yêu. Tình yêu sẽ đi cùng với những mơ ước. hứa hẹn
về một tương lai cùng nhau. “Anh ước gì chúng ta đã già, - bảy mươi hai em nhé? -Và
đang đi dạo, đúng con đường này, ngày thu này, đúng là chúng ta, anh như anh và em
như em, chỉ khác là tóc chúng ta đã trắng, em buông tóc xuống như ngày hôm nay,
cuộc đời đã đi qua, không có gì khác hết, chỉ có tóc trắng xóa và màu vàng tái hơn,
màu nắng tháng mười một” “Chúng ta sẽ sống như thể minh đã giải thương nhau trong
an lành. Dù chúng ta thương nhớ nhiều hơn là ước vọng” Anh sẽ không bao giờ đi đầu
hết. Ở nhà gõ nhịp cho em hát, viết sách rồi đem chôn. Chỉ vậy thôi" [5; tr 30]. Hạnh
phúc và bình yên mãi mãi là khát vọng muôn thuở của người con gái. Cần gì hơn được
sống bên nhau bình yên đến cuối đời. Thế nhưng đôi khi lời hứa lại là dự cảm cho
những phút chia xa. Để rồi Mây bàng hoàng nhận ra “trong khi anh đang nói và tôi
đang nhìn về phía xa của con đường mất dần khỏi tầm mắt, nơi cái vòm tối ở bên dưới
hai vòm cây đang giao nhau gợi lên hình ảnh của nơi thời gian biến đi mà lời hứa về
một thiên đường thì không giữ nổi, tôi chợt hiểu tất cả ý nghĩa của sự chia ly. Sẽ
không còn một ngày tháng Chín nào nữa. Chúng tôi sẽ xa nhau, sẽ quên, cuộc đời sẽ
khác ... Tất cả sẽ không còn nữa, không còn trong hiện tại của mai sau và không còn
trong tâm tưởng...” [5, tr.31,32]. Nhân vật Mây mang theo những cảm giác lo âu về
tình yêu ấy, khi thi chìm đắm, khi lại chỉ còn một mớ hỗn độn, mơ hồ. Có lẽ, tình yêu
với anh là nguồn sống duy nhất của cô, cứu rỗi lấy trái tim tâm hồn đang chết dần chết
mòn của cô. Chỉ có tình yêu với anh, quá khứ hạnh phúc bên anh, hình ảnh, hơi thở
của anh mới đủ để cô bấu víu lấy sự sống này. Ký ức về anh, về tình yêu với anh nó
không chỉ đẹp mà con là niềm đau. Cứ tưởng rằng, con đường hạnh phúc đã đến rất
11
gần tựa có thể chạm tay nhưng ngay vào lúc bình yên nhất thì bão tố lại đang chực chờ
vây quanh và đổ sầm xuống. Anh bị bắt giam, một mình cô đối mặt với thế giới tàn
khốc. Kể từ đó, tác phẩm xuất hiện dày đặc ám ảnh về cái chết: cái chết của người
Mây yêu và hành trình lựa chọn cái chết của chính cô: “Anh nghe tôi, nhưng làm sao
tôi nghe lời anh nói? Họa chăng là vào ngày tôi chết theo anh. Sau này, tôi sẽ ngỡ
ngàng vì mình có lần ao ước điều ghê gớm ấy, rằng anh chết đi, để tôi cùng chết đi, để
chúng tôi thoát khỏi nỗi im lặng man dại này. Ngày nào còn mang thân người, ngày ấy
người ta còn có thể bị ức hiếp, đày đọa, cách chia. Không còn thân người, sẽ không
còn thân phận. Tự do chỉ có thể tìm được khi chúng tôi đã bỏ đi cái thân xác biết đau
đớn, quẫn bách, đói khát, tuyệt vọng, mong mỏi” [5; tr 42]. Cái chết xuất hiện không
chỉ với cảm thức đau thương, nhưng đồng thời nó cũng thể hiện ý chí sống của con
người, đôi khi cuộc sống quá đỗi khó khăn để họ được sống tự do an lành, và họ tìm
đến cái chết như là một khởi đầu mới của cuộc đời mình. Dù là sống hay chết, họ đều
chọn cái đem lại cho họ cảm giác được tồn tại thực sự: “Người ta sống, và chết, vì một
mục đích, một niềm tin nào đó, họ đem thân mình và cuộc đời mình để làm hiển thị
một ý niệm, tại sao chúng tôi không sống, và rồi chết đi cho một tứ thơ của riêng
chúng tôi thôi” [5; tr 42]. Khi ở trong nỗi lo sợ sự mất mát, Mây hiểu được ý nghĩa cần
cải trân trọng tình yêu đang hiện tồn mong mạnh giữa cuộc sống và mong muốn nó
được tồn tại mãi. Ở một thế giới khác, con người sẽ thực sự được tự do gắn kết với
tình yêu cuộc đời mình “Hãy tìm cách tự vẫn, hãy về với em trong chiêm bao, và em
sẽ ở bên anh ngay trong khoảnh khắc này, hơi thở kế của em sẽ là hơi thở cuối. Hãy
gửi cho em một dấu hiệu, một dấu hiệu thôi, và chúng ta sẽ bước qua bờ bên kia của
mọi niềm im lặng.” [5; tr 43]. Qua những phân tích về nỗi lo âu, ám ảnh, về cái chết và
sự bất an, tác giả muốn hướng người đọc đến với thái độ sống an lành, tâm thế đón
nhận bình thản với những quy luật của cuộc đời.
2.2.3. Con người với những nỗi buồn không tên
Bằng cảm thức hiện sinh đó, Đoàn Minh Phượng đã xây dựng nhân vật Mây
cùng với nỗi cô đơn và những hoang mang, lạc lõng giữa dòng đời tưởng chừng như
12
vô tận. Tất cả những gì diễn ra xung quanh cô luôn mờ ảo, vô định. Cô không tin vào
thực tại, cô luôn có ý nghĩ rằng đó chỉ là một giấc chiêm bao. Ngay cả khi cô đang
sống trong tình yêu và hạnh phúc thì cô vẫn lo sợ rằng điều đó không có thật. "Em sợ
người yêu em không được sinh ra. Có, anh ấy có đó, có hẳn tên cha cùng mẹ, nhưng
làm sao em biết được, biết đầu cái tên của anh ấy, hơi thở của anh ấy, nỗi buồn của anh
ấy, ánh mắt và mùi mồ hôi chỉ là em chiêm bao mà thấy?” [5; tr 16] Khi con người ta
bị đẩy vào trạng thái vô định, họ luôn tư đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi
đó trong vô thức. Trong vô thức, cô nhìn sự vật xung quanh cô đều như có linh hồn.
Có muốn biết về chúng, muốn thấu hiểu sự tồn tại của chúng, giống như muốn hiểu sự
tồn tại của cô. Những câu hỏi cứ liên tiếp được đặt ra “Vì sao lại có bông hoa này? Có
là người chủ cũ đã trồng hoa, lâu lắm rồi, họ đã đi xa, nhà đổ nát, vườn thành đất
hoang, các bụi cây dại che lấp, cây hoa, vẫn có một hôm đâm chồi lên được một nhánh
gầy, cô vươn mãi lên mỗi ngày một ít, chờ đến lúc cao hơn các bụi cây dại để có được
chút nắng khi hoa nở. Vì sao hoa nở? Vì cây hoa không chết, còn sống, thì nó còn phải
giữ lời hẹn là sẽ nở hoa. Hẹn với ai? Sáng nay hoa đã nở, không ai nhìn thấy lời hẹn đã
thành một sự thật đỏ như không có gì đỏ hơn như vậy được" [5; tr 50]. Tâm hồn cô bị
chi phối bởi nỗi buồn, nỗi buồn ấy mãnh mang, đằng dặc, không có khởi đầu và không
có kết thúc. Cô tìm kiếm cội nguồn của nỗi buồn, lý giải về chúng. “Nỗi buồn vì không
có bắt đầu, nó sẽ không có chấm dứt. Nhưng nỗi buồn, quê nhà nó ở đâu? Ý thức và
cảm xúc, tất cả chỉ là cái sắc của rằng chiều, rang lên trong nửa giờ cuối ngày rồi tối
đi. Sự dằng dặc của nỗi buồn chỉ là một cảm giác, thời gian chỉ là một cảm giác, nỗi
buồn bất tử trong một khoảnh khắc” [5; tr 59]. Nỗi buồn đối với cô bây giờ đã giống
như một phần đời, có sống chung với nó, có thể nỗi buồn cũng là thủ để cô biết rằng
mình còn có cảm giác. Cô thắc mắc về sự tồn tại của cô trên cõi đời này, những việc
làm cô đang làm có ý nghĩa gì, đối với cuộc hiện sinh của cô hay không: “Làm sao tôi
có thể giải thích được tất cả những điều tôi làm. Làm sao tôi chọn làm những gì tôi làm
(phải lựa chọn tức là không có lựa chọn rồi) và tại sao lại làm với một tâm thức như
thế. Một tâm thực như thế, là như thế nào, cải lương tri ấy ngày càng trở nên xa lạ, nó
13
không còn biết tôi, tôi không còn biết nó" [5; tr 95]. Hằng trăm câu hỏi cứ lặp đi lặp lại
trong đầu cô, cô muốn tìm câu trả lời, cô muốn tìm muốn đáp án cho sự giằng xé bấy
lâu nay. Cuộc đời Mây là cuộc đời tràn ngập những nỗi buồn khó gọi tên. Có lẽ, việc
tình yêu rời xa cô, thực tại vùi dập cô đã làm cô mất đi niềm hi vọng, ý chí sống. Cô ao
ước được làm người bình thường và sống như một người bình thường nhưng mọi thứ
xung quanh khiến cô quá đỗi thất vọng và chán chường. Những nỗi buồn xuất phát từ
sự cô đơn, nỗi mặc cảm về bản thân, cô giờ đây như một con sâu nhỏ chui rúc trong
cái kén của chính mình và mặc cho nỗi buồn đau từ từ gặm nhấm tâm hồn cho đến
chết.
2.2.4. Con người tồn tại như một nhân vị
Vấn đề của triết học hiện sinh và văn học hiện sinh là chỉ quan tâm đến con
người ở phương diện tồn tại như một nhân vị chứ không phải bản chất và cho rằng,
nhân vị (sự hiện hữu) có trước bản chất. Có nghĩa là con người trước hết phải hiện hữu
đã, sau đó mới truy tìm, định nghĩa được bản chất của mình. Ngay từ ban đầu, con
người không là gì cả, sau đó mới tự tạo nên chính mình. Chủ nghĩa hiện sinh quan
niệm, con người không lệ thuộc vào cái gì ngày sự đối diện với chính bản thân mình
và thông qua sự hiện hữu đó tự làm nên bản chất của mình một cách cụ thể.
Nhân vật Mây của Đoàn Minh Phượng rỗng không và xa lạ về mọi thứ xung
quanh và trong chính hình hài hiện sinh “ Bởi vì chúng ta không có kí ức nào để chống
đỡ sinh mạng của mình. Tôi là ai, tôi làm gì ở đoạn đường này? Tôi đi tìm một thứ gì
đó, tại sao nó là một cuốn sách rất mơ hồ mà không phải một thứ thật cụ thể, như gạo
có thể nấu thành cơm ăn, nước có thể pha thành trà uống, hay cả một loài lá cây có thể
đốt thành khói hút vào người? [5; tr 27]. Đoàn Minh Phượng hay nói đến đường biên,
giới hạn của nó và sự xóa nhòe, “ranh giới của sự an bình bên trong và cái chết chậm
không tiếng động”. Bước qua ranh giới đó là đêm, bóng tối, im lặng, kể cả cái chết.
Con người luôn chênh vênh trong một khoảng không nhòa mờ giữa ý thức và vô thức,
giữa thật và ảo ảnh, cái họ cần là một sự khẳng định cho vị trí và sự tồn tại của mình: “
Ừ tất cả những gì chúng ta cần là sự bảo đảm, tất cả đều được bảo đảm ngoại trừ mặt
14
đất ở dưới chân. Măth đất lúc nào cũng chực chao nghiêng, mặt đấ lúc nào cũng chực
chao nghiêng, mặt đất bắc ngang qua hai bờ của vực thẳm, cho nên chúng ta luôn
mang trong người cái cảm giác về một cái khoảng không ánh sáng đâu đó bên dưới [5;
tr 27]. Vô thức, chiêm bao, ảo giác nhòa lẫn với hiện thực. Không có gì là thật trong
cảm nhận của nhân vật, kể cả trong mơ. Những chiêm bao đồng dạng, trùng khít. Ám
ảnh nhất là “giấc mơ về cái không”. Nó mù mờ không có nội dung, không có một
không thời gian cụ thể nào; chỉ có vô thức vang lên câu hỏi về nhân vị. Qua giấc mơ
Mây cảm nhận mình có trong cuộc đời này, “tôi biết rằng tôi có đó” nhưng liệu nó có
thật không, “nó không tồn tại, không thể có thật, vậy mà tôi chỉ có nó để đo sự thật”.
Tất cả chỉ là ngụy tín, là niềm tin vào một hiện hữu không đích thực. Với cảm thức
hoài nghi về sự tồn tại của chính mình, tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng lặp lại rất nhiều
câu hỏi. Câu hỏi về sinh tử và sự giải thoát khỏi vòng sinh tử; câu hỏi về vô thường, về
khổ, luân hồi được lật xới trở lại: Phật có buồn không? Nếu Phật buồn, thì biết lấy biển
cả nào so sánh? Có luân hồi không? "Q hỏi tôi em có đầu thai không”, “bây giờ em ở
đâu"? Vũ trụ cũng chỉ là một khoảng không, nó có thật hay không? Thời gian có thật
hay chăng? Không có nơi chốn cụ thể, chỉ có những mê cung, mê lộ, những khoảng
đêm mờ mịt, những khoảng ngày không ánh sáng; không có thời gian, câu hỏi thời
gian là gì luôn được đặt ra, chỉ có ảo giác, kể cả kí ức cũng mơ hồ. Con người hiện tồn
với cảm giác bất an. Nhân vật của Đoàn Minh Phượng không hiện hữu như một thân
xác; hoặc đang mang vác một "thân xác. Nhân vật Mây chính là một nhân vị đang
trong hành trình nỗ lực thoát khỏi những ảo ảnh, những giấc chiêm bao để định nghĩa
lại chính mình: Mình là ai? Mình đến từ đâu? Mình vì ai mà sống? Đó là những điều
nhân vật cần tìm câu trả lời.

15
Chương 3
NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CẢM THỨC HIỆN SINH
TRONG TIỂU THUYẾT ĐỐT CỎ NGÀY ĐỒNG (ĐOÀN MINH PHƯỢNG)

3.1. Kết cấu


3.1.1. Kết cấu phân mảnh, lắp ghép
Với kết cấu phân mảnh, lắp ghép, tiểu thuyết của Đoàn Minh Phượng đã làm
sáng lên những “vùng mờ” trong thế giới tâm linh con người, tô đậm chiều sâu tâm
thức của con người trong cuộc hiện sinh. Xây dựng trên nền tảng phân mảnh, Đoàn
Minh Phượng đã để cho nhân vật Mây tự do lần hồi trong quá khứ, mê mải trong hiện
tại và mơ hồ về tương lai. Giúp người đọc hiểu tường tận hành trình dốc mình tận tụy,
miệt mài đi tìm giá trị của bản thân, truy tìm ý nghĩa và giá trị hạnh phúc đích thực
trong cuộc đời của nhân vật. Kết cấu phân mảnh là dạng thức tác giả “xé lẻ” chỉnh thể
tạo thành nhiều kiểu kết cấu khác nhau. Hệ quả thẩm mĩ của kết cấu này là tạo được
nhiều tầng nghĩa hơn cho tác phẩm, đồng thời, cũng phản ánh được tâm trạng vụn vỡ
và cuộc sống vô hướng của con người hiện đại, thể hiện những bất ổn, lo âu trong đáy
sâu tâm thức của họ.
3.1.2. Kết cấu mở
Nhằm xác định tính chất không hoàn kết của đời sống, tiểu thuyết đương đại đa
phần hướng đến một kết cấu bỏ ngỏ, vẫy gọi - một kết cấu phát huy tối đa tâm thế sáng
tạo của người đọc. Chọn kết cấu mở, tiểu thuyết của Đoàn Minh Phượng gợi ra bao
suy tư về cảnh huống tha hương của con người trong hành trình hiện sinh. Với cách kết
thúc chưa hoàn kết hoặc đưa ra những giả định, Thuận đã lôi cuốn người đọc phải
nhập cuộc cùng nhân vật. Như thế, người đọc đã cùng đồng hành với nhân vật trong
quá trình “ưu tư”, “tự quyết”, “vươn lên”.
16
3.2. Không gian và thời gian
3.2.1. Không gian vô định
Xuất hiện trong tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng ta thấy hiện lên những khoảng
không gian khác nhau. Nó xen lẫn trong dòng hồi tưởng của nhân vật tôi. Đặc biệt,
khoảng không gian mà nhân vật bị lưu lạc đã ám ảnh rất nhiều, nó chứa đựng cả nét
tâm lý đặc trưng của nhân vật đó chính là nỗi buồn, sự lạc lõng và cô đơn. Nhân vật
Mây sau khi người yêu bị bắt giam, đã bị tên V đưa vào cung Elysia và sau đó vào nhà
chứa Huyền Trân. “Elysia, một căn phòng rộng lớn, tường cao kín mọi phía: nhà thiết
kế không muốn ánh sáng mặt trời rọi vào, dù chỉ một chút lờ mờ qua một khe hở bên
dưới một cánh cửa đóng...Phía trước bức tranh, đâu đó giữa phòng, có vài bức màn vải
mỏng nhìn xuyên qua được...Bàn ghế phủ nhung đen hoặc một màu nào đó thẫm, trong
vùng mờ tối trông như đen” [5; tr.76]. Đây là một không gian khép kín, tối tăm như
giam cầm những thân thể người ở trong đó. Ở Elysia, người ta không còn biết đến định
nghĩa về không gian, thời gian hay sự tồn tại của con người. Bởi ở đó, họ không được
sống giống như con người mà thứ tồn tại duy nhất chỉ là “các giác quan của họ, bây
giờ đã hòa vào mọi thứ trong căn phòng” và rồi “tôi mất dần ý thức về bên ngày và
bên trong của mình, mất dần trí nhớ, cảm xúc, đợi chờ, mọi oan ức, cô đơn và mong
ước” [5; tr.76]. Ý thức được sự ê chề của một kiếp người, không gian ấy chứa cả sự
não nề khiến cho nhân vật muốn thoát cũng không thoát được. Từ cung Elysia, Mây bị
đưa vào nhà chứa Huyền Trân. Đó là nơi dung chứa những cô gái làm điếm. “Em mở
cửa bước vào một gian phòng nhà nghỉ, cánh cửa nhôm, nửa dưới là nhôm, nửa trên là
kính, bên trong lớp kính có một tấm màn được dệt bằng sợi gì trơn láng và có in hoa
màu đậm, để người ta nhìn vào không thấy - tấm vải ấy từ sau ngày giăng nó lên
không ai nghĩ đến việc tháo nó xuống để giặt nữa – ranh giới cánh cửa đó, ranh giới
tầm thường và rõ ràng, bước qua nó, em không còn biết gì về mình nữa” [5; tr.76].
Gắn liền với không gian này chính là sự ý thức về bản thể. Con người luôn ở trong
trạng thái mơ hồ, hoài nghi về tất cả. Nó ý thức mạnh mẽ nhất khi cô chấp nhận việc
bản thân làm điếm. Ngày việc đó ra cô không còn một lựa chọn nào khác. Ở đó, những
17
người đàn ông bị bản năng lường gạt, xem thân thể phụ nữ là thứ để thỏa mãn mà thôi.
Ở trong không gian ấy, cô cảm thấy mình và những người xung quanh không được
sống như một con người. Ai cũng khoác lên mình gương mặt không cảm xúc. Giống
như Q: “Anh không biết mắt nó nhìn nơi đâu, anh không biết nó có nghĩ đến gì, có
thương nhớ ai không. Nó là một thiên thần, hay một con ma không cảm xúc? Đã mất
hết hay chưa bao giờ có? Nó ngồi nơi cửa sổ, khi không làm tình với khách nó không
làm gì khác hơn là đến ngồi trên một chiếc ghế cạnh cửa sổ [5; tr.102-103]. Bên trong
mỗi con người đều chất chứa một nỗi niềm nào đó không thể nói ra. Q câm lặng. Phải
chăng Q chọn cách câm lặng bởi cô chẳng còn điều gì để thiết tha với thế giới này nữa.
Cuộc đời đối xử quá tàn khốc với cô. Nếu như Mây còn có tình yêu là thứ để cô bám
vào mà tồn tại thì Q có gì? Chẳng còn một thứ gì cả. Tất cả đều vô định, trống không.
Không gian lưu lạc ấy đã mở ra nhiều mảnh đời, những thân phận với nỗi đau khác
nhau, ai cũng đều sống như những cái bóng vật vờ u ám.
Không gian quê nhà trong Đốt cỏ ngày đồng chỉ xuất hiện thấp thoáng qua
dòng hồi ức của nhân vật Mây. Đó là lúc cô đang cảm thấy cái chết hình thành tự bên
trong thân thể, xâm nhập vào ý thức. Khi cô chấp nhận rằng cô làm điếm, rằng không
có hiện thực nào tàn khốc hơn thế nữa. Trong những giây phút ấy, ký ức về quê nhà,
về tuổi thơ lại hiện lên trong tâm trí cô: “Tuổi thơ và người thân và con đường ven
sông, mối tình từ năm mười bốn đến năm mười bảy tuổi. Tan tác hết. Không còn gì ở
đó nữa cả. Đến bầy gà cũng bị bắt đi”; “Phía sau nhà em có một con lạch nhỏ. Cha em
trồng một bụi mía. Má em đi chợ mua về cho mỗi đứa em một con gà hay một con vịt
để nuôi...”; “Em nói rằng bọn cướp lấy hết của em mọi ký ức. Những lần em gọi không
phải để nói em đi làm điểm thì em không bao giờ nói về đàn gà cả. Bây giờ thì em nhớ
đến chúng, nhớ đến cả lông gà con còn đang chờ có màu. Tuổi thơ của em rõ ràng hơn
tự bao giờ” [5; tr.83-84]. Có lẽ đối với Mây, khoảng thời gian đẹp nhất chính là tuổi
thơ. Khoảng không gian yên bình nhất chính là quê nhà. Đó là lúc cô vẫn còn là một
đứa trẻ, cuộc sống chỉ xoay quanh khoảng sân, góc vườn cùng những đàn gà con. Là
lúc cô chưa phải trải qua những mặn chất của cuộc đời, phải lưu lạc khắp nơi trong thế
18
giới khắc nghiệt. “Em nhớ lại, như người chết nhớ lại tất cả cuộc đời của mình trong
phút chót" [5; tr.841]. Cuộc đời dài rộng là thế nhưng được thực sự sống thì có mấy
nhiêu năm tháng. Rong ruổi gần một phần ba đời người để rồi gói gọn lại những điều
tồn tại duy nhất chính là tuổi thơ.
3.2.2. Thời gian đan xen
Thời gian trong tiểu thuyết của Đoàn Minh Phượng luôn đa dạng, nhiều chiều
và có thể kết hợp đan xen với nhau. Quá khứ và hiện tại là những dòng chảy không
ngừng vận động trong những trang viết. Chính điều đó đã tạo nên nét riêng biệt, độc
đáo trong văn phong của Đoàn Minh Phượng.
Tác giả đã xây dựng tuyến thời gian chảy hoài trong tâm tưởng với trái tim đau
đáu, khắc khoải khi hồi tưởng về quá khứ của nhân vật Mây trong Đốt cỏ ngày đồng.
Thời gian hoài niệm của Mây xuất hiện từ những khoảnh khắc Mây nhớ về tinh yêu
với anh. Đó là cảm giác thuộc về anh, để nhắc nhớ cho cô rằng anh có thật và ở bên cô
ngần ấy năm “Lời anh nói đã làm tôi bàng hoàng; nỗi mong ước tự mở những chiếc
cúc áo để da thịt tôi nhận được vị êm ấm lẫn một chút hương mê muội từ da thịt của
anh; hay hơi nóng từ chén trà anh vừa rót đặt vào lòng bàn tay tôi, tôi nhớ đầu tôi đụng
vào hông anh khi anh ngồi xuống nhìn ra bầu trời ngoài kia và tôi nằm xuống dọc bức
tường mà anh tựa lưng vào... Tất cả những gì tôi nhớ, chỉ là những cảm giác của chính
mình về anh” [5; tr.39]. Những vương vấn về quá khứ làm cho trái tim cô như mang
một nỗi khắc khoải khôn nguôi. Để rồi ngược thời gian, kiếm tìm và sống lại trong
những hồi ức của một thời quá khứ đã qua. Phải chăng thực tại quá khắc nghiệt, nó
đang dần giết chết tâm hồn cô, để rồi cô khao khát được trở về những năm tháng có
tình yêu của anh. “Những ngày đầu của chúng ta, cách đây một ngàn ngày, khi chúng
ta còn ăn ngủ chung và cùng về với nhau một tương lai, khi chúng ta mỗi khi đi ngang
qua một căn nhà, có một giàn hoa giấy trước sân, lòng cũng rung theo một nhịp đằm
thắm, mơ màng nào đó" "Chúng tôi đã có những năm như thế, và năm năm nhớ cơn
mưa thời sinh viên ấy. Chúng ta nghe nhạc Bach, đọc sách triết giữa một thành phố
nóng và hỗn loạn" [5; tr.53]. Con người luôn có ý thức hướng về những giá trị xưa cũ
19
và nhìn lại cuộc đời của chính mình. Để ngẫm xem phần đời đó mình đã trải qua và
sống như thế nào? Giữa thế giới rộng lớn hơn bảy tỉ người, cơ duyên nào đã đưa họ
gặp nhau và yêu nhau đến thế. Quá khứ càng hạnh phúc bao nhiêu thì thực tại lại càng
ê chề bấy nhiêu. Giờ đây khi hồi tưởng về quá khứ, nó lại làm cho cô mơ hồ thêm mà
thôi. Tình yêu đó có thật hay không? Những điều đó đã từng xảy ra hay chỉ là ảo ảnh
của cô? Tất cả đều mơ hồ như sương.
Thời gian thực tại của Mây, đó là lúc cô gặp T, cô đã tìm ra được nút thắt cho
những mơ hồ của bản thân. Có lẽ, cô đã nhận ra được một điều gì đó sau những năm
tháng chơi vơi giữa dòng đời. Cô đã luôn tin rằng Q có thật, Q đã từng thở, từng chung
sống với cô trong nhà chứa Huyền Trân, Q đã từng ngồi bên cửa sổ một cách vô định,
khuôn mặt đẹp như trăng nhưng đôi mắt không chứa một điều gì, Q luôn cảm lặng như
thế. Cô đã luôn tin minh từng bước vào tiệm sách cũ, đọc cuốn sách về lòng nhân từ
của vị vua, nhưng thực tại những điều ấy chưa từng có một dấu vết nào để chứng minh
rằng nó có thật. “Không có một cô gái câm nào, tên Q hay bất cứ tên gì, đã từng sống,
từng ở đó. Cũng không có một căn nhà nào như thế ở đường Huyền Trân” [5; tr.161].
Vậy những cảm giác vô cùng chân thực ấy về Q trong tiềm thức của Mây là gì? Tại
sao Q lại xuất hiện trong cuộc đời cô mà không phải là ai khác? Cô đã từng hứa rằng,
mình sẽ thấu hiểu nỗi buồn của Q thế mà giờ đây một dấu vết về Q cũng không có. Trí
nhớ của Mây giờ chỉ còn lại sự trừu tượng và nhạt nhòa. Thời gian của thực tại nó
dừng lại ở sự vỡ lẽ. Trên đời này, “lòng tin là một thứ dễ tan. Nó là một thứ tình cảm,
một thứ khói, một chút gì như ân huệ... Người ta chỉ nên biết, hoặc là không biết, và
chịu trách nhiệm về nhận thức của mình, không nên dựa vào lòng tin. Tin chỉ có nghĩa
là người ta nghĩ rằng sự thật phải như mình mong vọng, và người được tin phải giữ
cho điều đó đúng như vậy, dù là như thế nào” [5; tr.165]
Như vậy, Đoàn Minh Phượng xây dựng nên tuyến thời gian thực tại được lồng
ghép đan xen cùng quá khứ. Yếu tố thời gian đã nhấn mạnh thêm chiều sâu tâm trạng
của nhân vật, giúp cho người đọc thông qua đó mà có sự tương giao, đồng cảm cùng

20
với nhân vật của mình. Từ đó, ta thấy được cái nhìn của tác giả về thế giới, những
quan niệm và cảm xúc của nhà văn thông qua nhân vật của mình.

3.3. Giọng điệu


3.3.1. Giọng suy ngẫm triết lý
Trong tiểu thuyết của Đoàn Minh Phượng, giọng điệu suy ngẫm, triết lý trở
thành sắc thái cảm chủ đạo. Người đọc bị lôi cuốn bởi chất văn cảm xúc, tinh tế và ẩn
chứa trong đó chính là sự từng trải của nhà văn.
Trong Đốt cỏ ngày đồng, nhân vật Mây đã có những chiêm nghiệm về cuộc đời,
về tình yêu và cả thân phận con người. Toàn bộ tác phẩm giống như một dòng chảy
của cảm xúc. Ở đó, có những câu chuyện, có những thân phận nhưng lại mang đầy xúc
cảm và chất triết lý trong tâm tưởng của nhân vật Mây. Cô chìm trong những suy
ngẫm về kiếp nhân sinh “Ngày nào còn mang thân người, ngày ấy người ta còn có thể
bị ức hiếp, đày đọa, cách chia. Không còn thân người, sẽ không còn thân phận. Tự do
chỉ có thể tìm được khi chúng tôi đã bỏ đi cái thân xác biết đau đớn, quẫn bách, đói
khát, tuyệt vọng, mong mỏi. Và nếu người ta chết đi không còn linh hồn, thì chúng tôi
chết đi sẽ còn lại một ý niệm, tựa như là một tử thơ.” [5; tr.42]. Có lẽ đối với cô, thực
tại đã quá đau đớn, nó đày đọa cô về cả tâm hồn lẫn thể xác. Cô không tìm được cho
mình lý do để tiếp tục tồn tại. Anh với cô bây giờ đã quá xa cách. Anh không thể hiểu
được nỗi cô đơn, lạc lõng của cô và chính cô cũng không còn cảm nhận được tình yêu
của anh dành cho cô nữa rồi. Những lần gào thét trong chiêm bao rằng anh hãy gửi cho
cô một tín hiệu, một dòng chữ hẹn ở hai nơi cùng tự vẫn để chẳng còn một sự chia ly
nào nữa. Thế nhưng tất cả đều vô vọng. Và rồi cô nhận ra rằng “chúng tôi còn phải học
bài học thế nào là đang sống trong một thân thể người. Những con người đã rơi khỏi
ký ức của mình, ở hai nơi và hoàn toàn không biết giữa chúng tôi có bao nhiêu lần vô
tận” [5; tr.55]. Thực tại dù đau đớn đến thế nào thì con người ta vẫn phải chấp nhận và
21
học cách sống chung với nó. Còn tình yêu đối với cô là gì? Nó có còn tồn tại nữa
không? Cô mơ hồ không biết anh và tình yêu của anh có thật hay chỉ là giấc chiêm
bao. Trong dòng cảm xúc miên man ấy, ta nhận ra được những chiêm nghiệm của cô
về tình yêu “Không có tình yêu của chúng tôi, thì không có gì để tôi biết rằng tôi có
mặt trên đời này. Tinh yêu hứa hẹn muôn đời, lời hứa đó có khi nói ra, đã chứa đựng
sự tan vỡ. Lời hứa nào cũng nghe như một lời thoái thác. Tình yêu chỉ cho tôi sự giới
hạn và tôi luôn luôn đứng ở biên giới giữa khoảnh khắc và sự vô thường, nơi mối tình
bắt đầu, nơi sự chia ly bắt đầu, và chỉ ở đó tôi hiểu sự vô hạn của tôi" [5; tr.63]. Tình
yêu chính là sự ràng buộc duy nhất để cô tiếp tục tồn tại. Sống để duy trì tình yêu ấy,
dù nó chỉ còn là cảm giác đối với người yêu hay một ý niệm rằng mình phải giữ niềm
trung kiên cho tình yêu đó.
3.3.2. Giọng tự vấn
Đoàn Minh Phượng đã đưa vào tác phẩm của mình những mảnh vụn của hiện
thực ngổn ngang, ê chề. Và các nhân vật trong tác phẩm ấy đều luôn ám ảnh bởi những
điều không biết, không hiểu. Họ luôn khao khát được tìm lại sự thật về bản thân xem
mình là ai, từ đầu đến và mục đích nào cho sự tồn tại của chính mình?
Nhân vật Mây trong Đốt cỏ ngày đồng cũng luôn mang trong mình những nỗi
hoài nghi như thế. Cô luôn hoài nghi về hạnh phúc, tình yêu và cả sự có mặt của người
yêu cô trong cuộc đời này. Những lời chất vấn mang tính bản thể luôn dằn vặt trong
tâm trí cô. "Tôi là ai, tôi làm gì ở đoạn đường này? Tôi đi tìm một thứ gì đó, tại sao nó
là một cuốn sách rất mơ hồ mà không phải là một thứ thật cụ thể, như gạo có thể nấu
thành cơm, nước có thể pha thành trà để uống hay ngay cả một loài lá cây có thể đốt
thành khỏi hút vào người?" [5; tr.271]. Phải chăng, con người ta thường theo đuổi
những thứ mơ hồ, những giá trị vô hình nên họ mới trở nên cô đơn lạc lõng đến như
vậy. Người yêu cô bị bắt giam trong những tháng ngày bên nhau hạnh phúc nhất. Cô
không được đi thăm anh cũng không được nhận một chút thư từ gì của anh bởi cô chưa
phải là vợ anh. Con người đến với nhau và ở bên nhau cũng cần một thân phận. Thân
phận đó để họ dựa vào và khẳng định rằng họ thuộc về nhau. Khi con người cô đơn,
22
thường gắn liền với nỗi buồn và nước mắt. Khi cô đang hoài nghi rằng anh không có
thật, “những chuyện xảy đến với anh và sự chia ly này chỉ nằm trong một cuốn sách
của ai đó trao cho tôi". Và rồi cô tự hỏi rằng: "Nỗi buồn vì không có bắt đầu, nó sẽ
không có chấm dứt. Nhưng nỗi buồn, quê nhà nó ở đâu?" [5, tr.591]. Cô muốn tìm ra
chỗ trú ngụ của nỗi buồn. Nó lơ lửng trong thinh không và rồi đáp xuống trong tâm
hồn cô. Có phải nỗi buồn cũng giống như nỗi cô đơn lạc lõng trong lòng cô, đều không
có quê nhà. Bởi vậy, nó cử day dứt ám ảnh mãi khôn nguôi.
3.3.3. Giọng bẽ bàng xót xa
Đối với Đốt cỏ ngày đồng giọng điệu xót xa, bẽ bàng xuyên suốt toàn bộ tác
phẩm. Nó hiện lên qua những suy tư, chiêm nghiệm của Mây. Mây luôn mang trong
mình những dự cảm, nỗi hoài nghi về mọi thứ trong cuộc đời. Ngay cả khi cô sống
trong tình yêu của anh, cô vẫn mơ hồ rằng nó không có thật. Cô luôn sợ tất cả tình yêu
đều tan biến, vụt mất trong bàn tay cô. Cô không thể giữ anh, không cách nào giữ lại
anh. Anh bị bắt giam, để lại cho cô cả một trời nhớ thương và trống vắng. Cô xót xa
khi nỗi nhớ anh lại ập đến, giăng mắc trong tâm trí cô như một mê cung không thoát ra
được "Tất cả những gì tôi nhớ, chỉ là những cảm giác.”, “Tất cả những gì tôi nhớ, chỉ
là những cảm giác của chính mình về anh, chứ khôn phải là anh” [5, tr.391]. Kỷ niệm
chính là thứ giết chết trái tim của những kẻ yêu mà phải chia ly. Nó không phát ra
tiếng, nhưng sự vô thanh của nó làm con người ta nghẹt thở. Từng cảnh vật, con
đường, ngôi nhà, chén trà vẫn còn vương những hương thơm, tất cả vẫn còn đó, chỉ là
con người đã rời đi. Làm sao người ta đủ dũng cảm để sống trong một khoảng không
đầy kỉ niệm như thế. Nhìn đâu cũng thấy đau lòng, nhìn đâu cũng thấy bị thương. Tận
cùng của nỗi xót xa, đau đớn, êu chề không phải là sống không có anh bên cạnh mà
chính là cô phải sống dưới một thân phận khác thân phận của một người đi làm điểm.
“Em đi làm điếm rồi thì em không còn câu chuyện nào khác" [5, tr.86]. Một câu nói,
chỉ một câu nói thôi đã góiọn trong đó biết bao nỗi ê chề từ cuộc đời của một người
phụ nữ. Cánh cửa nhôm giăng tấm vải in hoa chính là ranh giới của sự đứt đoạn. Là
lằn ranh của đường cùng. Còn sự lựa chọn nào khác đây, liệu cái chết nó có nhẹ nhàng
23
hơn cái sự sống như thế này? Khi thân thể của con người không thuộc về họ nữa mà
trở thành nơi giải tỏa cho những người đàn ông. "Một vụ hiếp dâm trở thành một thỏa
thuận” [5, tr.85]. Một sự mua da bán thịt mà trong đó thời gian dường như vô tận, từng
phút từng giây đều là sự giày vò thân xác. Thân phận làm điểm ám ảnh Mây trong từng
suy nghĩ. Cô cảm thấy bản thân giờ đây đã không còn xứng đáng với tình yêu của anh
nữa, một thân thể đã mang nhiều vết nhơ làm sao có thể đối diện với anh đây. Tình yêu
của anh luôn tồn tại và phán xét cô như một thứ lương tri "Dù nói thế nào thì em cũng
đã mất đi sự trong trắng. Trong mắt người ngoài em là nước đục" [5; tr.96]. Có lẽ
trong sâu thẳm trái tim cô cũng từng có suy nghĩ căm ghét chính bản thân mình, căm
ghét cái thân thể đã bị bao nhiêu người đàn ông không phải người yêu mình chà đi xát
lại ấy. Chính điều đó, làm cho cô đau đớn khôn nguôi. Mang trong mình nỗi ám ảnh về
thân phận kiếp người, với giọng điệu bẽ bàng, xót xa, Mây đã đưa người đọc chảy trôi
theo từng dòng tâm trạng của cô. Hiện thực, quả khứ, cuộc đời đều trải dài trên trang
viết nồng nàn, da diết của Đoàn Minh Phượng như thế.
3.4. Ngôn ngữ đầy chất thơ và chất trữ tình
Sử dụng lớp ngôn ngữ vô cùng mềm mại, Đoàn Minh Phượng đã tạo nên chất
thơ, chất trữ tình cho tiểu thuyết của mình. Mùa hè đi qua êm đềm và ẩm ướt mùa thu
bọc chúng tôi trong một tầng không trong suốt và se sắt, trong đó dường như mọi thứ
đều rạn vỡ. Trái tim loài người như một chiếc lá sắp rơi, và mọi thủ đều sắp rơi dù
trong một ngày im gió" [5; tr.29] Vào một hôm khác, tôi đứng cạnh ở khung cửa nhìn
ra ngoài, nơi đáng lẽ là khoảng sân của anh. Không có những phiến đá xanh thẫm,
cũng không có khu rừng, mà chỉ có cỏ tranh và những dây leo lưa thưa trên mặt đất.
Thỉnh thoảng một bông hoa dại nở, hoa dại hoặc là còn xót lại từ khu vườn của người
chủ cũ, nở khuất trong những thân cỏ. Có tranh cứ mọc lên mãi, đã cao quá đầu người.
Cuối mùa hè có xao xác trong mưa hoặc xao xác trong những cơn gió thổi suốt buổi
chiều và suốt cả đêm" [5; tr.43-44]. Ngôn ngữ Đoàn Minh Phượng sử dụng thật giản dị
nhưng giàu giá trị gợi tả gợi cảm. Con người đủ mang trên thân thể nỗi buồn, những bi
ai của số phận, họ giao cảm với thiên nhiên. Dường như cảnh vật cũng mang nét rạng
24
rỡ, cũng thật chênh chao và vô định. Chỉ điểm xuyết một vài hình ảnh thiên nhiên
nhưng có thể thấy rõ sự rung cảm mãnh liệt, sự tinh tế sâu xa của người cầm bút. Đọc
những áng văn ấy, ta như chảy trôi theo dòng cảm xúc của nhân vật. Ta buồn cho nỗi
buồn của nhân vật, ta nhớ thương cho những nỗi niềm tha thiết dàn trải trên từng câu
chữ, từng lớp ngôn từ. Càng đọc càng thấm thía như ăn sâu vào da thịt, vào từng ngóc
ngách sâu kín nhất của tâm hồn, ở đó ta nhận ra, phải là một tâm hồn đa cảm đến
nhường nào mới viết nên được những áng văn sâu sắc đến thế.

25
KẾT LUẬN

Trong sự vận động và phát triển của văn học Việt Nam, khi mỗi nhà văn phải
nỗ lực tự tìm cho mình một lối đi riêng để bắt nhịp kịp với yêu cầu của thời đại, cách
tân nghệ thuật và đổi mới nội dung, Đoàn Minh Phượng đã lựa chọn cho mình một con
đường sáng tạo khá độc đáo khiến tiểu thuyết của mình mang đậm dấu ấn hiện sinh.
Tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng là một dấu ấn riêng của văn xuôi đương đại mang
khuynh hướng hiện sinh ở Việt Nam. Đi suốt hành trình sáng tạo nghệ thuật của nhà
văn Đoàn Minh Phượng, chúng ta nhận thấy tiểu thuyết của bà là một niềm khắc khoải
về sự đổ vỡ niềm tin của con người trước hiện thực cuộc sống và những phản ứng
mạnh mẽ của con người trước những trói buộc họ trong cuộc hiện sinh.
Cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng thể hiện rõ ở cảm quan
về cuộc sống và con người của nhà văn. Dưới góc nhìn ấy, xã hội mà các trật tự, an
ninh, luân thường đạo lý, các giá trị đạo đức đã bị đảo lộn, khiến cho con người luôn
thấp thỏm với những dự cảm bất an về một thế giới đổ vỡ được hiện lên một cách rõ
nét. Trong thế giới hoang vắng tình người, con người rơi vào trạng thái cô đơn, lạc
loài, bơ vơ trước cộng đồng, xã hội. Tiểu thuyết Đốt cỏ ngày đồng vừa thể hiện nỗi
khắc khoải về sự đổ vỡ niềm tin của con người trước hiện thực cuộc sống, đồng thời
bộc lộ rõ sự băn khoăn, trăn trở của nhà văn về những số phận người mang linh hồn
sầu xứ, những bản thể bị chối từ cũng như sự tồn vong của cuộc đời.
Bằng nghệ thuật xây dựng kết cấu phân mảnh, lắp ghép, kết cấu mở, Đoàn
Minh Phượng đã đưa người đọc tham gia, đồng hành cùng nhân vật trong cuộc hiện
sinh. Bằng kỹ thuật xây dựng không gian xa xứ, lưu lạc đầy biến động của con người
26
kết hợp với thời gian tâm trạng quá khứ và ở tương lai, nhà văn đã phơi trần cuộc sống
của con người đương đại trong cuộc hiện sinh và thế giới nội tâm phức tạp của những
“cái tôi” mang tâm thức hiện sinh cũng được tác giả lật tung, đào xới. Với ngôn ngữ
góc cạnh ngắn gọn, súc tích mà đầy chất thơ, chất trữ tình, Đốt cỏ ngày đồng đã mô
phỏng sự vụn vỡ của hiện thực cuộc sống mà con người đang phải đối đầu một cách
thuyết phục và nghệ thuật. Bên cạnh đó, việc vận dụng giọng điệu đa thanh đã giúp
nhà văn làm nổi bật thế giới nội tâm phức tạp của nhân vật, “khai quật” những ngóc
ngách, sắc thái tâm tư, tình cảm của nhân vật mà vì nhiều lý do họ vẫn giấu sâu, cất kỹ.
Ta thấy rằng, tác phẩm của Đoàn Minh Phượng giàu chất triết lý. Những cái tôi luôn
trầm tư suy nghĩ về nhân sinh, về thân phận con người. Chiều sâu của cuốn tiểu thuyết
đã chạm tới vấn đề sống chết của một con người – một vấn đề lớn của nền văn học
đương đại.

27
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Nguyên Giang (2021), Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết Đoàn
Minh Phượng, Luận văn tốt nghiệp, Đại học Sư Phạm Đà Nẵng.
2. Phú Thuỳ Hương (2020) , Con người hiện sinh trong tiểu thuyết Và khi tro bụi của
Đoàn Minh Phượng, nguồn:
https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/309840/CVv517S0320
20044.pdf, truy cập ngày 12/6/2023
3. Lê Thị Hường (2022), Không trong Đốt cỏ ngày đồng của Đoàn Minh Phượng,
nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p4/c18/n31428/Khong-trong-Dot-co-
ngay-dong-cua-Doan-Minh-Phuong.html, truy cập ngày: 14/6/2023.
4. Phương Lựu, Lê Khắc Hoà, Trần Mạnh Tiến(2020), Lí luận văn học tập 3, Nxb Đại
học Sư Phạm, Hà Nội.
5. Đoàn Minh Phượng (2020), Đốt cỏ ngày đồng, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội.
6. Thanh Xuân (2020), Đoàn Minh Phượng trở lại với Đốt cỏ ngày đồng, nguồn:
http://daidoanket.vn/doan-minh-phuong-tro-lai-voi-dot-co-ngay-dong-507935.html,
truy cập ngày: 14/6/2023

28
BẢNG NHIỆM VỤ CỦA CÁC THÀNH VIÊN

Tên thành viên Nhiệm vụ


1. Hà Phan Lệ Trang Hoàn thành Mở đầu và Nội dung chương
1 và chương 2.
2. Nguyễn Thị Hồng Liên Hoàn thành Nội dung chương 3 và Kết
luận.

Đà Nẵng ngày 20 tháng 6 năm 2023

29

You might also like