Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 74

Tây Phương

An Lạc Tập

Đại Sư Đạo Xước


TK Thích Tâm Anh Dịch
---o0o---
Nguồn
http://www.chuahoangphap.com.vn
Chuyển sang ebook 18-05-2017
Người thực hiện : Nam Thiên - namthien@gmail.com
Link Audio Tại Website http://www.phapthihoi.org

Mục Lục

 » Thư đại sư Ấn Quang trả lời cho Trịnh Bá Thành


 » Tây Phương An Lạc Tập
 » Đại Môn Thứ Nhất
 » Đại Môn Thứ Hai
 » Đại Môn Thứ Ba
 » Đại Môn Thứ Tư
 » Đại Môn Thứ Năm
 » Đại Môn Thứ Sáu
 » Đại Môn Thứ Bảy
 » Đại Môn Thứ Tám
 » Đại Môn Thứ Chín
 » Đại Môn Thứ Mười
 » Đại Môn Thứ Mười Một
 » Đại Môn Thứ Mười Hai

---o0o---

Thư đại sư Ấn Quang trả lời cho Trịnh Bá Thành


 
Từ khi gặp nhau đến nay, thế mà đã 6 năm, không những tuổi tác đổi thay,
mà quốc pháp cũng đã không còn dùng cái cũ nữa rồi. Sự vô thường của
hiện tượng thế gian, quả thật là đáng đau xót!
Nhận được thư ông, biết ông hết lòng tu tập tịnh nghiệp, quả thật là đáng
khen ngợi. Nhưng trong thư ông nói thân tâm rất là không an, không biết là
do cảnh ngộ khiến tâm không an, hay do bệnh tật khiến thân không an?
Nếu là do cảnh ngộ, thì hãy nên thối lui một bước mà nghĩ. Nên nghĩ thế
gian những người hơn ta rất nhiều, nhưng những kẻ kém ta cũng không ít.
Chỉ cần không bị đói rét là được, cần gì phải đi hâm mộ những kẻ giàu sang?
Nếu biết chấp nhận những gì mình đang có, thì có thể chuyển phiền não
thành Bồ-đề mà. Lo gì không thể chuyển khổ thành vui?
Nếu do bệnh duyên mà khổ, thì nên thống niệm thân này là gốc của khổ,
phải sanh tâm yếm ly đối với thân thể, càng nỗ lực tu hành pháp môn Tịnh
độ, phát nguyện phải vãng sanh thế giới Cực Lạc. Chư Phật đều coi đau khổ
là thầy, nhờ đó mà thành tựu Phật đạo. Chúng ta cũng phải nên coi bệnh khổ
là thuốc hay, để tốc cầu vượt khổ sanh tử.
Nên biết phàm phu, nếu không nghèo đói và bệnh khổ bức bách, thì chỉ biết
đắm trong danh lợi tài sắc, có ai trong lúc đắc ý mà chịu quay đầu lại nghĩ
đến tình cảnh trầm luân trong tương lai!
Mạnh tử nói: “Vì thế khi trời giao một trách nhiệm lớn cho ai gánh vác, nhất
định trước tiên phải làm cho tâm chí người đó khốn cùng, gân cốt người đó
mệt mỏi, thân thể người đó đói khát, làm cho người đó nghèo cùng, khốn
khổ, và nhiễu loạn hành vi việc làm của họ. Sở dĩ như vậy là muốn làm cho
họ động tâm, lại muốn họ tập chịu đựng, chính là muốn tăng thêm năng lực
đạt không được ban đầu của họ.”
Cho nên chúng ta có thể biết, khi trời muốn thành tựu một ai đó, phần nhiều
là tạo nên những nghịch cảnh để khảo nghiệm, và mọi người nên lấy thái độ
thuận theo để tiếp nhận sự khảo nghiệm của trời. Tuy nhiên cái trách nhiệm
lớn mà Mạnh tử nói, vẫn chỉ là danh lợi của thế gian mà thôi.
Quang tôi cũng thế, cũng phải lao tâm nhọc chí, trầy da tróc vảy mới không
cô phụ tâm ý của trời, chớ làm sao chúng ta lấy địa vị phàm phu tục tử, mà
muốn trên thành tựu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh?
Nếu không bị chút nghèo cùng và bệnh tật, thì sự u mê ngày một lớn, và tịnh
nghiệp khó mà thành tựu. Do bị mê hoặc cái chơn tâm vốn có, cho nên vĩnh
viễn trầm luân trong ác đạo, đời đời kiếp kiếp không thoát ra khỏi.
Câu “không bị một phen sương thấm lạnh, hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”
mà cổ đức nói, là chỉ tình hình này. Nhưng khi chúng ta lập chí phát nguyện
niệm Phật để tiêu trừ nghiệp chướng cũ, nhất thiết không được khởi tâm
phiền bực mà oán trời trách người, bác nhân quả, cho Phật pháp không linh.
Phải biết chúng ta từ vô thỉ kiếp đến nay, ác nghiệp đã tạo nhiều thật không
lường. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nếu ác nghiệp mà chúng sanh tạo ra có hình
có tướng, thì hư không của cả mười phương thế giới cũng không dung chứa
hết.” Cho nên làm sao có thể tu trì hời hợt mà có thể tiêu trừ hết được?
Do đó Phật Thích-ca và Phật A-di-đà, giáo chủ của hai quốc độ Phật này,
thương cho chúng sanh không đủ sức đọan trừ nghiệp hoặc, nên đã đặc biệt
khai thị pháp môn niệm Phật, nương vào sức từ của Phật đới nghiệp vãng
sanh. Sức đại từ đại bi của chư Phật, đem so sánh trời đất với cha mẹ, như
một hạt cát so với số cát của sông Hằng. Do đó chúng sanh chỉ cần phát tâm
tàm quý, phát tâm sám hối, thì liền được sự gia bị của chư Phật, tội nghiệp
tự nhiên được tiêu trừ, thân tâm tự nhiên được an ổn.
Nếu bệnh khổ đau đớn quá không thể nhận chịu được, thì nên ngoài công
khóa sáng tối niệm Phật hồi hướng ra, chuyên tâm niệm thêm Nam mô Quán
Thế Âm Bồ-tát. Bồ-tát Quán Thế Âm chỉ cần nghe tiếng cầu cứu, thì sẽ hiện
thân trong cõi trần để cứu chúng sanh thoát khổ. Người ta trong lúc nguy
cấp, nếu tha thiết niệm, lễ bái Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ-
tát, tức liền được cảm ứng, liền được phù hộ, thoát khỏi khổ não, được thân
tâm an lạc.
Pháp môn niệm Phật là phương pháp đơn giản nhất, dễ dàng nhất, rộng lớn
nhất, vĩ đại nhất. Nhưng cần phải kiền thành khẩn thiết đến cực điểm, mới
được cảm ứng đạo giao, đời này lập tức đạt được thật ích. Nếu biếng nhác,
không tâm kính trọng và sợ hãi, thì tuy có trồng nhân được độ, nhưng với tội
ngạo mạn khinh thường, thì đời sau cùng lắm chỉ được sanh thiên hay làm
người, chớ nhất định không được vãng sanh Tịnh độ.
Đối với tượng Phật, nhất định phải coi là Phật thật, không được coi là hình
tượng. Khi đối diện với tượng Phật, kinh Phật, phải như trung thần phụng
thờ thánh chúa, phải như hiếu tử đọc di chúc của cha mẹ. Được như thế, thì
không nghiệp chướng nào là không tiêu trừ, không phước huệ nào mà không
được.
Người học Phật thời nay rất nhiều, nhưng họ chỉ đọc văn, hiểu nghĩa để rao
giảng lại cho người khác nghe, lấy tiếng học rộng mà thôi. Còn nói đến cung
kính kiền thành, y kinh giáo mà tu hành, thì quả thật khó có được người như
thế.
Tôi thường bảo, muốn được sự lợi ích thật sự của Phật pháp, cần phải cung
kính. Có một phần cung kính, thì tiêu được một phần nghiệp báo, tăng một
phần phước huệ.
Có mười phần cung kính, thì tiêu được mười phần nghiệp báo, tăng mười
phần phước huệ. Nếu không có tâm cung kính, thậm chí còn kiêu căng ngạo
mạn, thì tội nghiệp càng ngày càng tăng, và phước huệ càng ngày càng
giảm, thật là thương xót! Nếu gặp bạn bè, ông dạy được cho họ đạo lý này,
chính là pháp bố thí lớn nhất.
Pháp môn Tịnh độ nếu phát khởi niềm tin được, thì không gì bằng. Nếu trí
huệ của mình bị hạn chế, không thấu triệt được pháp môn này, thì chỉ cần tin
lời thành thật của chư Phật và chư tổ là đủ, nhất thiết không được có một
chút tâm nghi ngờ. Nếu nghi ngờ, thì đã quay lưng với Phật, như vậy khi
lâm chung nhất định không thể cảm ứng đạo giao với Phật.
Người xưa nói: “Pháp môn niệm Phật, chỉ có giữa các đức Phật với nhau,
mới hiểu khắp được. Chư Bồ-tát đăng địa, chút xíu cũng không hiểu được.”
Ngay cả những đại sĩ đăng địa, cũng không cách gì hiểu hết, thì phàm phu
tục tử, làm sao có thể đoán bậy được.
Nếu ông muốn nghiên cứu pháp môn Tịnh độ, thì nên đọc Tịnh độ Thập yếu.
Cuốn sách ấy đại sư Ngẫu Ích đã rút những tinh hoa trong các sách Tịnh độ
mà tập thành. Lấy sự khế hợp căn cơ của người hiện đại mà nói, cuốn sách
ấy phải nói là đệ nhất. Thiên Di-đà yếu giải, từ khi Phật Thích-ca nói bộ
kinh này đến nay, dù là Thiên trúc hay Trung Quốc, không ai chú giải qua
được. Ông phải đặc biệt chú trọng lời trong sách ấy nói, không được coi
thường.
Những người thông minh thời nay, tuy học Phật pháp, nhưng do không gần
gũi với bậc thiện tri thức có trí huệ, cho nên cứ chỉ chú trọng lý tánh, mà bỏ
đi đạo lý sự tướng và nhân quả. Do họ bỏ sự và nhân quả, cho nên kết quả lý
tánh cũng mất luôn.
Cho nên luôn có những người tài hoa, viết ra những bộ sách ngay cả quỷ
thần cũng kinh, nhưng hành vi của họ thì chẳng khác gì những kẻ vô thức
thế gian, bịnh ở chỗ họ bỏ đi sự tướng và nhân quả. Kết cục họ là những
người bị người trí xót thương, kẻ ngu học hỏi. Đó chính gọi là huỷ báng Phật
pháp bằng thân hành, tội lỗi quả thật không nhỏ.
Trong cuốn Pháp Uyển Châu Lâm nói nhân quả rất là kỹ lưỡng, lý thể và sự
tướng đều đầy đủ. Những sự tích nhân quả báo ứng mà trong sách thuật, rõ
ràng từng chi tiết, khiến cho ai sau khi đọc xong, cũng phát run, dù là chỗ
không người hay trong phòng tối, cũng đều như đối diện với chư Phật hay
trời đất quỷ thần, mà không dám có một chút ý niệm tà ác. Vì thế, căn cơ
thượng trung hạ đều được lợi ích, nhất định không đến nỗi đi sai đường, mà
chấp vào lý thể phế bỏ tu sự, sanh tệ bệnh thiên tà cuồng vọng.
Tổ sư Mộng Đông nói: “Những người thấu rõ tâm tánh, nhất định không bỏ
nhân quả. Những người tin sâu nhân quả, nhất định thấu rõ tâm tánh, đó là lý
tất nhiên.”
Câu này của tổ sư Mộng Đông, là câu danh ngôn bất hủ, cũng là sự cảnh tỉnh
cho những kẻ trí huệ cuồng vọng. Cuốn sách này rất phổ biến, tốt nhất xin
đọc qua, đọc xong sẽ tự thấy được lợi ích của nó, và xin giới thiệu cho bạn
bè cùng đọc.
Em trai ông mùa thu năm ngoái khi đến Phổ Đà sơn, tôi cũng có khuyên anh
ta phải cung kính đối với Phật pháp, nhưng không biết anh ta có nghe lời
khuyên của tôi không.
Nhận được thư ông, sau khi đọc xong tôi thấy tâm thần rất khoẻ. Cừ Bá
Ngọc lúc gần 50 tuổi, thấy được lỗi lầm của mình trong 49 năm qua. Khổng
tử lúc gần 70 tuổi, còn mong trời cho sống thêm mấy năm nữa để học kinh
Dịch, mong tránh lỗi lớn.
Học thuyết của các hiền thánh nhà Nho, không một học thuyết nào là không
hạ thủ ngay nơi khởi tâm động niệm. Nhưng tiếc cho các nhà Nho bây giờ,
chỉ biết học thi thơ, đối với việc chánh tâm thành ý, hòan toàn không chú ý
tới. Do đó, người ta cho dù ngày nào cũng đọc sách thánh hiền, nhưng
không biết chút gì rằng Thánh hiền viết sách dụng ý là được dạy người. Và
những gì họ nói, họ làm với những hành vi lời nói của thánh hiền, trái nhau
như ánh sáng với bóng tối, như hình tròn với hình vuông, càng không cần đề
cập đến những hành vi vi tế!
Kinh Phật dạy mọi người phải thường hay sám hối, để đọan tận vô minh,
viên thành Phật đạo. Bồ-tát Di-lặc tuy đã ở địa vị đẳng giác, nhưng vẫn một
ngày 12 thời lễ bái thập phương chư Phật, để mong đọan tận vô minh, chứng
đắc pháp thân viên mãn, huống hồ gì phàm phu.
Mà phàm phu thì một thân tội, nhưng không một chút tâm tàm quý, không tu
pháp sám hối. Tuy một niệm tâm tánh của chúng sanh, đồng với Phật không
khác. Nhưng do ác nghiệp phiền não che mất nguồn tâm, khiến cho chân
tâm không thể hiển hiện. Như tấm kiếng đồng, bị bụi bám lâu ngày, không
những không chiếu sáng, mà ngay cả chất đồng của nó cũng không nhìn
thấy.
Nếu biết tấm kiếng đồng bị bám đầy bụi ấy, vốn có đủ ánh sáng chiếu sáng
trời đất, rồi ra công chùi, ngày lại ngày thì chất đồng của nó sẽ hiện ra. Rồi
lại gia công chùi nữa, cứ như vậy, ánh sáng của nó từ từ phát quang. Tuy
ánh sáng đã phát, nhưng việc chùi rửa lại càng khẩn thiết hơn, đến một lúc
công lực đạt đến cực điểm, thì toàn bộ bụi bặm đều được tẩy sạch, ánh sáng
hòan toàn khôi phục, lúc ấy tấm kiếng có thể chiếu trời chiếu đất, trở thành
bảo vật trân quý của thế gian.
Phải biết ánh sáng của tấm kiếng đồng, là cái mà tấm kiếng vốn có sẵn,
không phải nhờ chùi mà có. Nếu không phải là cái mà tấm kiếng vốn có sẵn,
nhờ chùi mà có, thì chùi gạch chùi đá, cũng phát ra ánh sáng mới đúng.
Nhưng cũng cần phải biết, ánh sáng ấy tuy là cái vốn có của tấm kiếng,
nhưng nếu không ra công chùi, thì tấm kiếng vĩnh viễn không bao giờ phát
sáng.
Tâm tánh của chúng sanh cũng như thế, tuy bình đẳng với Phật, nhưng nếu
không cải ác theo thiện, bối trần hiệp giác, thì công đức vốn có của tâm tánh,
cũng vĩnh viễn không bao giờ phát ra. Mà ngược lại còn dùng cái tâm thức
Phật tánh đầy đủ vốn có của mình, đi tạo ác nghiệp trầm luân khổ hải trường
kiếp. Giống như trong nhà tối, đi đụng châu báu, không những không được
ích gì, mà còn bị châu báu làm cho thương tích, thật là đáng thương!
Pháp môn niệm Phật này, là diệu pháp đệ nhất, bối trần hiệp giác, trở về gốc
cũ, trở về nguồn cội, đối với người tại gia mà nói, càng thân thiết hơn. Bởi vì
người tại gia ở trong đời, lắm việc, muốn tham thiền hoặc tụng kinh, không
phải hòan cảnh không cho phép, mà là không đủ sức để làm.
Chỉ có pháp môn niệm Phật này là tiện lợi nhất, chỉ cần sáng tối trước Phật,
tuỳ theo thời gian và năng lực, lễ Phật niệm Phật, hồi hướng phát nguyện.
Ngoài thời gian đó ra, không kể đi đứng nằm ngồi, nói nín động tĩnh, mặc áo
ăn cơm... bất cứ lúc nào, ở đâu cũng đều có thể niệm Phật.
Ở những nơi sạch sẽ, giờ khắc cung kính, niệm lớn hay niệm thầm đều được.
Còn nếu những nơi không sạch sẽ (như trong nhà xí) hoặc những lúc không
cung kính (như khi đang ngủ nghỉ, tắm rửa...), chỉ có thể niệm thầm, không
được niệm lớn tiếng, chớ không phải nói những nơi không trong sạch hoặc
những lúc không cung kính không được niệm Phật. Bởi vì lúc ngủ nghỉ mà
niệm Phật lớn tiếng, không những không cung kính, mà còn tổn thương
nguyên khí, lâu ngày sẽ sanh bệnh. Và công đức niệm thầm, cũng tương tự
công đức lúc bình thường niệm ra tiếng, gọi là tâm luôn ở vào cảnh giới hiện
tại, khi vội vã cũng vậy, khi gặp khó khăn cũng vậy.
Ông đã phát lộ và sám hối, điều đó phù hợp với pháp môn Tịnh độ, đó chính
là cái gọi là “tâm tịnh tức Phật độ tịnh”. Đã biết lỗi, lại chịu phát lộ sám hối,
thì cần phải cải ác tùng thiện. Nếu không cải ác theo thiện, thì sự sám hối ấy,
chỉ là nói suông mà thôi.
Ông nói muốn không tham vật ngoài thân, chỉ muốn chuyên tâm niệm Phật,
nhưng không cách gì nhất tâm niệm Phật được. Nếu tâm không chuyên, bắt
nó chuyên; tâm không niệm được, bắt nó niệm; tâm không nhất được, bắt nó
nhất, đó cũng không phải là cách hay, chỉ cần dán chữ “tử” lên trán là xong.
Trong lòng phải thường nghĩ, ta đây từ vô thỉ kiếp đến nay, đã tạo vô biên
tội lỗi. Nếu tội lỗi có hình tướng, thì hư không của mười phương cũng không
dung chứa hết. Ta nay được phước gì mà được làm người, lại được nghe
Phật pháp. Nếu đời này không một lòng niệm Phật, cầu sinh Tây phương
Tịnh độ, khi hơi thở ra không hít vào, thì nhất định phải chịu khổ nước sôi,
lò lửa, núi đao, rừng kiếm trong địa ngục, và không biết phải chịu khổ ấy
bao lâu trong địa ngục.
Cho dù ra khỏi địa ngục, lại phải chịu đọa làm ngạ quỷ, bụng to như biển, cổ
tợ cái kim. Trường kiếp chịu đói khát, cổ họng luôn bốc lửa, ngay cả cái
danh từ “nước” cũng không được nghe đến, không bao giờ có được một bữa
ăn no.
Sau khi hết kiếp ngạ quỷ, lại đầu thai làm súc sanh, kéo cày trả nợ, cung cấp
thịt cho người dùng. Sau cho dù được đầu thai làm người, cũng ngu si dốt
nát, coi tạo ác nghiệp là công đức, tu thiện là trói buộc, rồi sau khi chết lại bị
đọa lạc. Cứ như vậy trải qua số kiếp hằng sa, luân hồi trong lục đạo, muốn ra
cũng không thể ra khỏi.
Nếu nghĩ được như thế, một lòng chuyên niệm danh hiệu Phật, thì lập tức
được ngay. Cho nên Trương Thiện Hòa và Trương Chung Quỳ khi lâm
chung tướng địa ngục hiện ra, sau khi họ niệm mấy tiếng danh hiệu Phật, thì
lập tức thấy Phật hiện ra tiếp dẫn vãng sanh. Sự lợi ích ấy, trong 80 năm thị
hiện giáo hóa của Phật, không có trong trăm ngàn vạn pháp môn. Tôi thường
nói, chúng sanh trong cửu hữu, bỏ pháp môn này, trên không thể thành tựu
Phật đạo; chư Phật trong mười phương, bỏ pháp môn này, dưới không thể
hóa độ chúng sanh, là lý này vậy.
Nếu tâm liễu sanh tử quả thật cấp thiết, tin được pháp môn này, trong lòng
không sanh một chút nghi hoặc, thì tuy hiện tại chưa ra khỏi thế giới Ta-bà,
nhưng cũng đã không còn là khách của tam giới nữa. Tuy hiện tại chưa sanh
lên thế giới Cực Lạc, nhưng cũng đã là khách quý của Tây phương Cực Lạc
rồi. Thấy người hiền liền nghĩ đến mình có được như thế không, đối với việc
nhân nghĩa quyết định không để người khác hơn, thì làm sao có thể biếng
nhác, để đến nỗi cứ sai mãi? Là hàng nam tử, nhất định không chịu làm cây
thịt biết đi, sau khi chết thúi mục đồng như cây cỏ. Phải cố gắng lên!
Niệm Phật cố nhiên tốt nhất là phải chuyên nhất, nhưng ông trên còn cha
mẹ, dưới còn vợ con, ngoài bổn phận mưu toan cuộc sống, đừng nên cầu
cuộc sống giàu có nhé! Những việc cần phải làm phải tận lực làm, đó mới là
tu hành. Nếu bỏ hết tất cả, mà vẫn cung cấp được cho cha mẹ, vợ con thì có
thể, không thì sẽ trái với hiếu đạo. Tuy ông nói để tu hành, nhưng thật ra là
trái với lời Phật dạy, điều này không thể không biết.
Ngoài ra, còn phải bày tỏ cho cha mẹ sự lợi ích của pháp môn Tịnh độ,
khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tây phương. Nếu cha mẹ có niềm tin đồng
thời hành trì theo, khi lâm chung nhất định sẽ được vãng sanh. Chỉ cần được
vãng sanh, lập tức siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử, dự vào hàng ngũ
của chúng Bồ-tát trong hải hội liên trì, thấy Phật nghe pháp, cho đến khi
thành Phật. Cái hiếu của thế gian, làm sao so sánh với cái hiếu này được.
Nếu ông và cha mẹ mang sự lợi ích của pháp môn Tịnh độ nói khắp cho mọi
người biết, khiến cha mẹ của mỗi người đều được vãng sanh hết, thì công
lao hóa độ chúng sanh thuộc hết về ông, đồng thời phẩm vị của cha mẹ và
ông cũng được tăng cao. Kinh Thi nói: “Hiếu tử trọn lành, nhân loại luôn
được ban ân.” Những ai muốn hiếu thuận với cha mẹ, phải nghĩ đến điều
này.

---o0o---

TÂY PHƯƠNG AN LẠC TẬP


An Lạc tập, tổng cộng có 12 đại môn, tất cả đều dẫn kinh luận để chứng
minh, khuyên mọi người tin theo mà cầu sanh Tịnh độ. 
ĐẠI MÔN THỨ NHẤT

Đại lược phân thành 9 loại.


I. Thuyết minh nguyên do hưng khởi giáo lý pháp môn Tịnh độ, là ngay
nơi thời đại và căn cơ của chúng sanh, và khuyên chúng sanh sanh về
Tịnh độ.
Nếu giáo môn phối hợp với thời đại và căn cơ của chúng sanh, thì dễ tu
thành, cũng dễ khai ngộ. Nếu giáo môn không hợp với thời đại và căn cơ của
chúng sanh, thì rất khó tu thành, cũng khó nhập môn. Do đó kinh Chánh
Pháp Niệm Xứ nói: “Khi hành giả một lòng cầu đạo, cần phải quan sát thời
cơ, căn cơ. Nếu thời cơ, căn cơ không đúng, thì không đạt được lợi ích.”
Vì sao? Thí như ma sát gỗ ướt, mà muốn có lửa, thì đó là điều không thể, do
thời cơ không đúng. Cũng như chặt cây khô mà muốn có nước giọt ra, cũng
là điều không thể, vì thiếu trí huệ.
Cho nên kinh Đại Tập Nguyệt Tạng nói: “Năm trăm năm đầu sau khi Phật
diệt độ, các đệ tử của ta còn có khả năng tu huệ. Năm trăm năm thứ hai, có
khả năng tu định. Năm trăm năm thứ ba, có khả năng tu đa văn đọc tụng.
Năm trăm năm thứ tư, lúc này chỉ lo tạo lập chùa tháp, tu phước sám hối.
Năm trăm năm thứ năm, Phật pháp bị suy tàn dần, giáo lý đình trệ không
thông, mọi người tranh tụng không thôi, đệ tử Phật chỉ có thể làm được chút
xíu thiện pháp.”
Kinh Đại Tập Nguyệt Tạng lại nói: “Chư Phật xuất hiện ở thế gian, dùng
bốn phương pháp để hóa độ chúng sanh:
1. Giảng nói 12 bộ kinh, cũng chính là lấy thuyết pháp để hóa độ chúng
sanh.
2. Chư Phật Như Lai có ánh sáng vô lượng và dung nhan đẹp đẽ, chúng sanh
chỉ cần chú tâm ngắm nhìn, thì không ai mà không được lợi ích, đó chính là
lấy thân nghiệp để độ chúng sanh.
3. Chư Phật có vô lượng công đức thần thông đạo lực, có thể biến hóa đủ
thứ, đó chính là dùng thần thông lực để hóa độ chúng sanh.
4. Chư Phật có vô lượng danh hiệu, có tên chung, có tên riêng. Nếu chúng
sanh một lòng xưng niệm danh hiệu chư Phật, đều trừ được chướng ngại
hoạch được lợi ích, được sanh ra quốc độ có Phật, đó chính là dùng danh
hiệu để độ chúng sanh.”
Chúng sanh thời nay (những năm Trinh Quán nhà Đường), thuộc vào thời
năm trăm năm thứ tư sau Phật diệt độ, chính là lúc tu phước và sám hối,
cũng chính là thời nên niệm danh hiệu Phật. Nếu một niệm xưng niệm danh
hiệu A-di-đà Phật, thì có thể trừ được tội lỗi sanh tử của 80 ức kiếp. Một
niệm mà còn được như thế, huống hồ xưng niệm cả đời, đó chính là người
thường hằng sám hối.
Nếu thời gian cách Phật Niết-bàn gần, thì tu định và huệ là chánh học, tu đa
văn đọc tụng, xây dựng chùa tháp là kiêm học. Còn như cách Phật Niết-bàn
đã quá xa, thì xưng niệm danh hiệu Phật là chánh học, tu định huệ
là kiêm học. Vì sao như thế? quả thật do chúng sanh cách thời Phật Niết-bàn
đã quá xa, căn cơ ám độn, sức lý giải cạn.
Do đó đại sĩ Vi-đề-hi, một mặt vì mình, một mặt thương cho chúng sanh
trong cõi năm trược xấu ác thời mạt pháp, vô thỉ kiếp đến nay chịu khổ lửa
đốt trong sáu đường. Vì thế đã giả mượn khổ duyên, thỉnh vấn Phật con
đường thoát khổ. Phật đã từ bi gia bị, khuyên bà vãng sanh thế giới Cực Lạc.
Tu pháp môn Tịnh độ, quả thật quả báo thù thắng không ai bì kịp. Chỉ có
pháp môn Tịnh độ, là có thể đáng tu tập thời nay. Do kinh điển khuyên tu
pháp môn Tịnh độ nhiều quá, nên tôi đã rút tỉa tập hợp những lời chân thật
của Phật đà, để giúp mọi người tu tập vãng sanh, đạt được lợi ích. Vì sao?
Là vì muốn cho những người đã vãng sanh, chỉ cho người sau vãng sanh;
đồng thời khiến cho người sau, bắt chước người trước vãng sanh. Như vậy
hy vọng những người vãng sanh liên tục không ngừng, khiến hết biển lớn
sanh tử vô biên.

II. Theo kinh điển đại thừa, hiển thị mô thức của người nói pháp và
người nghe pháp.
Chia làm sáu bộ phận:
1. Kinh Đại Tập nói, phải coi người thuyết pháp, là đại y vương, có khả
năng cứu khổ cho mình. Coi Pháp là cam lộ, là Đề-hồ. Người nói pháp, phải
làm cho pháp mình nói, có khả năng làm cho người nghe hiểu được một
cách thù thắng, có khả năng làm lành bệnh người nghe. Nếu được như thế,
thì người nói pháp và người nghe pháp, mới đủ tư cách giới thiệu Phật pháp,
làm cho Phật pháp hưng long, thường được sanh ra trong quốc độ có Phật.
2. Đại Trí Độ Luận nói, người nghe pháp nhìn người nói pháp, phải như
người khát nước nhìn nước, nhập tâm trong nghĩa lý của giáo pháp, khi họ
nghe pháp lý, trong lòng vui sướng. Những người như thế, thì nên nói pháp
cho họ.
3. Đại Trí Độ Luận lại nói, có hai hạng người được phước đức vô lượng: đó
là những người thích nói pháp và những người thích nghe pháp. Cho nên A-
nan hỏi Phật rằng: “Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên, vì sao trí huệ và thần
thông của họ, thù thắng nhất trong hàng đệ tử Phật?” Phật trả lời: “Vì hai
người ấy, lúc còn ở nhân địa tu hành, vì cầu pháp, đã không ngại đi xa ngàn
dặm, cho nên bây giờ trí huệ và thần thông tối thắng nhất.”
4. Trong kinh Vô Lượng Thọ nói: “Nếu người ấy không có thiện căn, thì
không thể nghe được bộ kinh này. Chỉ có những người thanh tịnh trì giới,
mới được nghe chánh pháp.”
5. Kinh Vô Lượng Thọ lại nói: “Những người từng gặp Phật, mới có khả
năng tin pháp này. Những người từng phụng thờ trăm ngàn vạn ức đức Phật,
mới thích nghe pháp môn Tịnh độ.”
6. Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác nói: “Nếu có thiện nam tử
thiện nữ nhơn, khi nghe pháp môn Tịnh độ, trong lòng vui sướng, tóc tai
dựng đứng. Phải biết, người ấy quá khứ đã từng tu tập Phật đạo. Còn như
những người khi nghe pháp môn Tịnh độ, không có một chút niềm tin nào,
thì biết rằng người ấy vừa mới đầu thai từ trong ba đường ác ra, do tội lỗi
quá khứ còn chưa hết, cho nên không tin pháp môn Tịnh độ. Tôi nói người
ấy, không thể đạt được giải thoát”. Cho nên kinh Vô Lượng Thọ nói:
“Những kẻ ngạo mạn, tệ ác, giải đãi, rất khó tin pháp môn Tịnh độ”.

III. Theo kinh điển đại thừa, thuyết minh thời gian phát tâm của chúng
sanh bao lâu, và đã cúng dường bao nhiêu đức Phật, để cho những
chúng sanh nghe pháp, khuyên nhắc mình phát tâm.
Kinh Niết-bàn nói: “Phật bảo Đại Ca-diếp, những chúng sanh đã từng phát
tâm Bồ-đề trước số lượng Phật bằng một nửa số cát sông Hằng, mới trong
đời ác năm trược này, khi nghe tới bộ kinh này, không khởi tâm huỷ báng”.
“Những chúng sanh, đã từng phát tâm Bồ-đề nơi một hằng hà sa vị Phật, sau
đó mới có thể trong đời ngũ trược ác thế, nghe kinh điển đại thừa, mà không
khởi tâm huỷ báng, đồng thời sanh khởi tâm ái lạc”.
“Những chúng sanh, đã từng phát tâm Bồ-đề nơi hai hằng hà sa vị Phật, sau
đó mới có thể trong đời ngũ trược ác thế, nghe kinh điển đại thừa, mà không
khởi tâm huỷ báng, đồng thời có thể có sự hiểu biết đúng đắn, chấp nhận thọ
trì”.
“Những chúng sanh, đã từng phát tâm Bồ-đề nơi ba hằng hà sa vị Phật, sau
đó mới có thể trong đời ngũ trược ác thế, nghe kinh điển đại thừa, mà không
khởi tâm huỷ báng, đồng thời biên chép lưu thông kinh điển đại thừa. Tuy
nói pháp đại thừa cho người khác nghe, nhưng chưa hiểu được giáo pháp đại
thừa một cách sâu sắc”.
“Vì sao phải so sánh như vậy? Vì muốn hiển rõ những người nghe kinh hiện
tại dưới đây, đều đã từng phát tâm và cúng dường hằng muôn vị Phật, đồng
thời cũng hiển thị oai lực bất khả tư nghì của kinh điển đại thừa”.
Cho nên kinh Niết-bàn nói: “Chúng sanh nghe kinh điển này rồi, thì trong
trăm ngàn vạn kiếp, không còn bị đọa lạc trong ác đạo. Vì sao? Bởi vì cái
chỗ huyền diệu mà kinh điển đại thừa nói, chính là kim cang địa, những
người đang ngồi nghe giảng, với kim cang không khác.” Vì thế được biết,
những người nghe kinh điển đại thừa mà có khả năng tin nhận, đều thu được
lợi ích không thể nghĩ bàn.

IV. Phân biệt tông chỉ khác nhau của các kinh.
Kinh Niết-bàn lấy Phật tánh làm tông chỉ, kinh Duy-ma lấy Bất khả tư nghì
giải thoát làm tông chỉ, kinh Bát-nhã lấy Không huệ làm tông chỉ, kinh Đại
tập lấy Đà-la-ni làm tông chỉ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật lấy Quán Phật
Tam-muội làm tông chỉ, quán Phật kinh này nói, đó là hai loại y báo chánh
báo này, dưới đây giới thiệu sự khác nhau của các quán Phật Tam-muội.
Kinh Quán Phật Tam-muội nói thế này, Phật bảo phụ vương: “Chư Phật ra
đời ở thế gian có ba điều lợi ích cho chúng sanh”.
1. Nói 12 bộ kinh, dùng pháp thí lợi ích chúng sanh, khiến chúng sanh thực
hành theo có khả năng diệt trừ sự tối tăm của vô minh, mở con mắt trí huệ
cho chúng sanh, khiến chúng sanh được sanh vào quốc độ có Phật, sớm
chứng vô thượng Bồ-đề.
2. Sắc thân của Phật có tướng tốt và ánh sáng vô lượng, chúng sanh nếu
xưng niệm danh hiệu và quán Phật thân, bất quản là quán tổng thể hay quán
từng bộ phận, bất quản thân Phật này là Phật hiện tại hay Phật quá khứ, cũng
đều có khả năng trừ khử bốn tội nặng sát, đạo, dâm, vọng và năm tội nghịch
giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, phá hòa hợp tăng
cho chúng sanh. Vĩnh viễn không còn sanh vào trong ba đường ác, tuỳ theo
ý thích, sanh vào bất cứ quốc độ Phật nào, cho đến khi thành tựu Phật quả.
3. Nay khuyên phụ vương tu niệm Phật Tam-muội”.
Phụ vương hỏi Phật: “Chân như thật tướng đệ nhất nghĩa không của công
đức quả Phật, tại sao không bảo đệ tử tu theo pháp ấy?”
Phật bảo phụ vương: “Công đức quả vị của chư Phật, có cảnh giới thâm
diệu, thần thông và giải thoát vô lượng, không phải là cảnh giới phàm phu có
khả năng tu hành, cho nên mới khuyên phụ vương tu niệm Phật Tam-muội”.
Phụ vương hỏi Phật: “Công năng của niệm Phật, nó như thế nào?”
Phật bảo phụ vương: “Như trong rừng Y-lan rộng bốn mươi do-tuần, có một
cây chiên-đàn đầu trâu, nó tuy có mầm rễ, nhưng còn chưa chui ra khỏi đất.
Rừng Y-lan chỉ có mùi hôi, không có mùi thơm, có người ăn hoa trái của nó,
lập tức phát điên mà chết. Sau mầm rễ của cây chiên-đàn dần dần lớn lên,
khi mới vừa hình thành thành cây, hương của nó đã ngan ngát, biến cả rừng
Y-lan rộng bốn mươi do-tuần thành một rừng hương, ai thấy cũng đều cảm
thấy hiếm có”.
Phật bảo phụ vương: “Tâm niệm Phật của tất cả chúng sanh trong sanh tử
cũng vậy, chỉ cần niệm Phật không ngừng, nhất định sẽ được sanh lên cõi
Phật.” Chỉ cần được vãng sanh, liền lập tức thay đổi được tất cả tội ác, trở
thành đại từ bi, như cây chiên-đàn làm thay đổi rừng Y-lan. Rừng Y-lan, là
dụ cho ba độc ba chướng, vô lượng trọng tội trong thân chúng sanh. Cây
chiên-đàn, là dụ cho tâm niệm Phật của chúng sanh. Cái cây mới thành hình,
là dụ cho tất cả chúng sanh, chỉ cần niệm Phật không ngừng, thì đạo nghiệp
nhất định sẽ thành tựu”.
Hỏi: Hết thảy chúng sanh niệm Phật, công hiệu cảm ứng tất cả, điều đó tin
được. Nhưng sức mạnh của một niệm, làm sao có thể đọan trừ được hết thảy
chướng ngại, như cây chiên-đàn, làm thay đổi cánh rừng Y-lan rộng bốn
mươi do-tuần, trở thành một rừng hương?
Trả lời: Chư Đại Tập kinh đều nói công năng của niệm Phật Tam-muội thật
không thể nghĩ bàn, vì sao? Thí như kinh Hoa Nghiêm nói, nếu có người lấy
gân sư tử làm dây đàn, chỉ cần khảy lên một cái, thì tất cả các dây khác đều
đứt hết. Nếu ai niệm Phật Tam-muội với tâm Bồ-đề, thì tất cả phiền não và
chướng ngại đều được đọan trừ.
Nếu có người đổ sữa của các loài bò, dê, ngựa trong một cái bình. Chỉ cần
nhỏ một giọt sữa sư tử vào trong sữa đó, sữa đó lập tức trở thành nước lạnh.
Nếu có người niệm Phật Tam-muội với tâm Bồ-đề, thì có thể ở trong ma
chướng mà không gặp khó khăn.
Kinh Hoa Nghiêm lại nói, nếu có người mang thuốc ẩn thân, thì đi khắp nơi
mà không ai thấy. Nếu niệm Phật Tam-muội nơi tâm Bồ-đề, thì tất cả hung
thần và ác chướng đều không thấy người ấy. Người ấy đi đến bất cứ nơi đâu
cũng đều không gặp chướng ngại. Vì sao được như vậy? Bởi vì niệm Phật
Tam-muội là vua của tất cả Tam-muội.
V. Thuyết minh sự khác nhau của các tên kinh.
Như kinh Niết-bàn, kinh Bát-nhã... là lấy pháp môn làm tên kinh. Có kinh
lấy thí dụ làm tên, có kinh lấy sự kiện làm tên, có kinh lấy thời gian làm tên,
có kinh lấy nơi chốn làm tên... Còn kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật lấy
Người và Pháp làm tên, Phật Vô Lượng Thọ là tên người, Quán Vô Lượng
Thọ Phật là tên pháp môn.

VI. Tổng biệt sự khác nhau của người nói pháp.


Những người nói kinh không ngoài 5 loại sau:
- Phật.
- Đệ tử Phật đã chứng thánh quả.
- Chư thiên.
- Thần tiên.
- Hóa nhân.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, trong năm loại này, thuộc loại thứ nhất -
Phật nói.

VII. Giản lược thuyết minh chân thân và hóa thân của Phật, cũng phân
biệt sự khác nhau của chân thật độ và ứng hóa độ.
Hỏi: Phật A-di-đà hiện tại thị hiện bằng thân nào? Và thế giới Cực Lạc thuộc
quốc độ nào?
Trả lời: Phật A-di-đà hiện tại là Phật báo thân, quốc độ thất bảo trang
nghiêm của thế giới Cực Lạc là quốc độ của báo thân Phật. Xưa nói, Phật A-
di-đà là Phật hóa thân, quốc độ cũng là quốc độ của Phật hóa thân, điều này
không đúng. Bởi vì nếu như vậy, thì quốc độ ô uế cũng là chỗ ở của hóa thân
Phật; quốc độ thanh tịnh, cũng là chỗ ở của hóa thân Phật, vậy thì không biết
báo thân Phật rốt cuộc ở quốc độ như thế nào?
Bây giờ chúng ta y theo kinh Đại Thừa Đồng Tính để biện biệt quyết định
báo thân Phật, hóa thân Phật, quốc độ thanh tịnh và quốc độ ô uế. Kinh nói,
chư Phật thành Phật trong quốc độ thanh tịnh, đều là báo thân Phật. Chư
Phật thành Phật trong quốc độ ô uế, đều là hóa thân Phật. Kinh Đại Thừa
Đồng Tính nói, Phật A-di-đà, Phật Liên Hoa Khai Phu Tinh Vương, Phật
Long Chủ Vương và Phật Bảo Đức đang ở quốc độ Phật thanh tịnh, đắc đạo
bây giờ hay đắc đạo trong tương lai, tất cả đều là báo thân Phật.
Vậy thì hóa thân Phật thì như thế nào? Như Phật Dũng Bộ Kiện, Phật Ma
Khủng Bố hiện tại, đang ở trong thế giới ô uế ác trược, thành Phật bây giờ
hay thành Phật trong tương lai, tất cả đều là hóa thân Phật. Giáng sanh từ
trời Đâu-suất, cho đến trụ trì các thời chánh, tượng, mạt pháp, tất cả những
pháp sự như huyễn này, đều là hóa thân Phật.
Pháp thân Phật là gì? Pháp thân Phật, không có hình sắc, không thị hiện,
không nương gá, nhìn không thấy, không nói năng, không trụ ở, không sanh
khởi cũng không huỷ diệt. Đó là lý pháp thân.
Hỏi: Nếu báo thân Phật là thường hằng, sao kinh Quán Âm Thọ Ký nói, sau
khi Phật A-di-đà nhập Niết-bàn, Bồ-tát Quán Thế Âm thế vào vị trí của
Phật?
Trả lời: Đó là tướng thị hiện, Niết-bàn của báo thân Phật, hòan toàn không
phải Phật diệt độ. Kinh Đại Thừa Đồng Tính nói: “Sau khi Phật A-di-đà
nhập Niết-bàn, những chúng sanh thiện căn sâu dày, vẫn có thể thấy được
Phật A-di-đà”. Đó là một chứng minh.
Cứu Cánh Nhất Thừa Tánh Luận nói: “Báo thân Phật có năm loại tướng:
thuyết pháp, thấy được, ba nghiệp thân khẩu ý không dừng nghỉ, ba nghiệp
thân khẩu ý dừng nghỉ ẩn mất, thị hiện hình thể không chân thật”. Đó là một
chứng minh.
Hỏi: Báo thân của Phật Thích-ca Mâu-ni quốc độ ở đâu?
Trả lời: Kinh Niết-bàn nói: Phía tây thế giới Ta-bà trải qua 42 hằng hà sa cõi
Phật, có một thế giới, gọi là Vô thắng, sự trang nghiêm của quốc độ ấy,
giống với thế giới Cực Lạc, ta chính đã xuất hiện nơi quốc độ ấy. Nhưng vì
để hóa độ chúng sanh, cho nên đã đến thế giới Ta-bà này. Không chỉ ta xuất
hiện ở thế giới Ta-bà này, mà tất cả chư Phật đều thế”. Đó là một chứng
minh.
Hỏi: Kinh A-di-đà Cổ Âm Thanh Vương Đà-la-ni nói, Phật A-di-đà có cha
mẹ, cho nên ngài không phải là Phật báo thân và quốc độ báo thân.
Trả lời: Ông chỉ nghe nói vậy mà không chịu đi tham cứu lý của kinh điển,
cho nên mới hỏi như thế, có thể nói là sai một li đi một dặm. Phải biết, Phật
A-di-đà cũng có đủ ba thân: pháp thân, báo thân, hóa thân. Phật A-di-đà ở
cõi Cực Lạc, là Phật báo thân. Cha mẹ hiện tại nói, là cha mẹ hóa thân thị
hiện trong cõi ô trược. Cũng giống như Phật Thích-ca, thành tựu báo thân
Phật trong quốc độ thanh tịnh, ứng cảm với chúng sanh ở thế giới Ta-bà này,
mà thị hiện có cha mẹ, để thành tựu hóa thân Phật. Phật A-di-đà cũng như
vậy.
A-di-đà Cổ Âm Thanh Vương Đà-la-ni kinh nói: “Đất nước mà Phật A-di-đà
và chúng đệ tử ở lúc bấy giờ có tên là Thanh Thái, kinh đô rộng 10.000 do-
tuần. Cha của Phật A-di-đà là Chuyển Luân Thánh Vương, tên Nguyệt
Thượng; mẹ tên Thù Thắng Diệu Nhan. Ma Vương tên Vô Thắng. Con trai
tên Nguyệt Minh. Đề-bà Đạt-đa tên Tịch Ý. Thị giả tên Vô Cấu Xưng”.
Những gì dẫn chứng bên trên đều là hóa thân Phật. Nếu là Tịnh độ, thì đâu
có Chuyển Luân Vương và kinh thành, người nữ... Điều đó đã quá rõ ràng,
đâu cần phải thuyết minh gì thêm nữa. Hòan toàn là do bạn không biết, mới
bị danh xưng làm cho mơ hồ.
Hỏi: Nếu báo thân mà bị ẩn chìm mất, vậy thì Tịnh độ cũng bị thành trụ hoại
không hay sao?”
Trả lời: Vấn đề này từ xưa đến nay rất nhiều người không hiểu. Tuy thế, tôi
bây giờ mạnh dạn dẫn kinh để chứng minh, thì lý sẽ rõ thôi. Thí như thân
Phật là thường hằng, nhưng chúng sanh lại thấy Phật có Niết-bàn. Tịnh độ
cũng thế, bản thể của nó thì không có thành trụ hoại không, nhưng theo cái
thấy của chúng sanh, mà có thành trụ hoại không. Như kinh Hoa Nghiêm
nói: “Như thấy đức Thế tôn có đủ sắc tướng, đó là do tâm chúng sanh mà
hiện ra, cái thấy về quốc độ Phật cũng thế.”
Cho nên Tịnh độ Luận nói: “Do hòan toàn chẳng phải đồng nhất, cho nên có
Tịnh độ và uế độ khác nhau. Do hòan toàn chẳng phải bất đồng, cho nên tìm
căn nguyên của nó thì âm thầm hợp nhau. Do hòan toàn chẳng phải là không
vô, cho nên nhân duyên khởi mà hiện thiên hình vạn trạng.” Do đó nếu từ
pháp tánh mà luận Tịnh độ, thì không nói có Tịnh độ và uế độ. Nếu từ báo
thân và hóa thân của Phật mà luận Tịnh độ, thì hòan toàn chẳng phải không
có Tịnh độ và uế độ.
Do căn cơ cảm ứng khác nhau, Phật độ có ba loại khác nhau:
1. Báo thân sanh ra từ chân thân, gọi là báo độ. Như ánh sáng mặt trời, chiếu
khắp thiên hạ. Pháp thân như mặt trời, báo thân và hóa thân như ánh sáng
mặt trời.
2. Vốn không có mà bỗng nhiên có, thì gọi là hóa độ. Trong Luật Tứ Phần
nói, Định Quang Như Lai hóa ra thành Đề-bà và thành Bạt-đề, dân chúng
của hai thành ấy, sau bị lửa thiêu rụi, khiến chúng sanh tận mắt thấy sự vô
thường, thế là mọi người đều sanh tâm yếm ly đối với thế gian, mà quy về
Phật đạo.
Cho nên kinh nói: “Có Phật thị hiện kiếp tận lửa thiêu đốt cháy hết, cả trời
đất đều phó cho một ngọn lửa, phá trừ suy nghĩ thường hằng của chúng
sanh, khiến họ thấy được vô thường. Có Phật vì để cứu chúng sanh nghèo
cùng, nên đã thị hiện tạo lập bảo tạng vô lượng, tuỳ duyên khai đạo cho
chúng sanh, khiến họ phát tâm Bồ-đề.”
3. Bỏ uế độ hiện Tịnh độ, như trong kinh Duy-ma, Phật dùng ngón chân ấn
xuống mặt đất, tam thiên đại thiên thế giới lập tức biến thành thanh tịnh
trang nghiêm.
Quốc độ Vô Lượng Thọ hiện tại, là báo độ được hiện ra từ chân thân. Làm
sao biết được? Vì kinh Quán Âm Thọ ký nói, sau này Quán Thế Âm thành
Phật, thay vào vị trí Phật A-di-đà, cho nên biết nước ấy là báo độ.

VIII. Hiển thị Tịnh độ của Phật A-di-đà, quả vị trên dưới đều đầy đủ,
phàm phu, thánh nhân tất cả đều được vãng sanh.
Quốc độ của Phật Vô Lượng Thọ là Tịnh độ báo thân Phật, nhờ nguyện lực
của Phật A-di-đà, cho nên bất kể là thượng vị hay hạ vị, phàm hay thánh tất
cả đều được vãng sanh. Do bao quát cả Bồ-tát thượng vị, cho nên Bồ-tát Thế
Thân, Long Thọ cho đến những Bồ-tát đăng địa trở lên, đều có thể vãng
sanh.
Cho nên kinh Vô Lượng Thọ nói, Bồ-tát Di-lặc hỏi Phật: “Không biết thế
giới này có bao nhiêu Bồ-tát ở địa vị bất thối vãng sanh lên Cực Lạc thế
giới?”
Đức Phật trả lời: “Thế giới Ta-bà này có 67 ức Bồ-tát ở địa vị bất thoái, đều
sẽ vãng sanh thế giới Cực Lạc. Nói rộng ra là, chư Bồ-tát ở các phương khác
cũng đều như thế”.
Hỏi: Tịnh độ của Phật A-di-đà, đã bất kể Bồ-tát thượng vị hay hạ vị, bất luận
là phàm hay thánh, tất cả đều được vãng sanh, vậy thì không biết những
người chỉ tu niệm Phật vô tướng có được vãng sanh hay không? Hay là hàng
phàm phu tu niệm Phật hữu tướng cũng được vãng sanh?
Trả lời: hàng phàm phu trí huệ thiển bạc, phần lớn là tu niệm Phật hữu
tướng, họ cũng chắc chắn được vãng sanh. Nhưng vì thiện lực niệm Phật
hữu tướng yếu ớt, cho nên chỉ được sanh lên quốc độ hữu tướng, chỉ được
thấy báo thân Phật và hóa thân Phật mà thôi. Vì thế trong Bồ-tát Bổn Hạnh
Phẩm trong kinh Quán Phật Tam-muội, Văn Thù Sư Lợi nói với Phật: “Quá
khứ vô lượng kiếp về trước khi con còn là một phàm phu, đức Phật thời đó
tên Bảo Uy Đức Thượng Vương Như Lai. Đức Phật đó ra đời, giống với đức
Thích-ca hiện tại, cũng cao một trượng sáu, thân kim sắc vàng, cũng nói
Phật pháp tam thừa”.
“Nước ấy lúc bấy giờ có một đại đức trưởng giả, tên Nhất Thiết Thí, con trai
ông tên Giới Hộ. Khi đứa con trai đang còn trong bụng mẹ, người mẹ do
kính trọng tin Tam bảo, nên đã thọ tam quy cho con. Đứa con trai sau khi
sanh ra, năm lên tám, cha mẹ liền thỉnh Phật đến nhà cúng dường”.
“Đứa con trai thấy Phật, lập tức đảnh lễ. Do rất kính Phật, nên đã nhìn Phật
không nháy mắt. Nhờ lần được thấy Phật này, mà đồng tử được trừ tội sanh
tử của trăm vạn ức na-do-tha kiếp. Từ đó về sau, đồng tử ấy luôn được sanh
về Tịnh độ, và được gặp trăm ức na-do-tha hằng hà sa Phật. Những đức Phật
ấy, đều dùng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp để độ chúng sanh”.
Lúc bấy giờ đồng tử đối với mỗi đức Phật, đều nhất nhất thân cận hầu hạ,
không thiếu bất cứ một đức Phật nào. Nhờ nhân duyên này, mà cậu đã được
trăm vạn a-tăng-kỳ Phật. Những đức Phật ấy, cũng đều dùng 32 tướng tốt,
80 vẻ đẹp để độ chúng sanh”.
“Từ đó về sau, đồng tử đạt được trăm ngàn ức niệm Phật Tam-muội, lại đạt
được a-tăng-kỳ Đà-la-ni môn. Như thế sau đó, chư Phật liền xuất hiện trước
mặt đồng tử, nói pháp vô tướng, trong nháy mắt đồng tử liền chứng Thủ
Lăng Nghiêm Tam-muội”.
“Đồng tử thời bấy giờ, ban đầu chỉ thọ tam quy y, đảnh lễ Phật, nhìn Phật
không nháy mắt. Chỉ nhờ nhân duyên ấy, mà được gặp vô số Phật, huống hồ
gì chuyên tâm quán tưởng sắc thân Phật? Đồng tử thời bấy giờ không phải ai
khác, chính là con đây”.
Lúc ấy đức Thế tôn khen ngợi Văn Thù Sư Lợi: “Lành thay! Lành thay! Ông
vì duyên cớ đảnh lễ Phật, mà được gặp vô lượng Phật, huống hồ các đệ tử
của ta sau này, chuyên tâm quán Phật, chuyên tâm niệm Phật?”
Đức Phật dặn dò A-nan: “Ông mang những lời của Văn Thù Sư Lợi nói lại
cho tất cả mọi người và chúng sanh mai hậu. Nếu người nào lễ Phật, niệm
Phật, quán Phật, thì sẽ được giống đức Văn Thù Sư Lợi vậy. Sau khi người
ấy mạng chung, được sanh ra làm người, thì Văn Thù Sư Lợi và chư Bồ-tát,
sẽ là Hòa thượng của người ấy”.
Từ đọan kinh này có thể chứng tri, Tịnh độ và hữu tướng độ thông nhau,
quyết định được vãng sanh. Nếu biết không tướng, li niệm làm thể, niệm
Phật vãng sanh, chắc chắn thuộc về thượng phẩm.
Cho nên trong Tịnh độ luận của Bồ-tát Thiên Thân nói: Nếu quán chiếu
được 29 loại trang nghiêm thanh tịnh, cũng tức là lược vào trong một câu
pháp. Một câu pháp chính là câu “thanh tịnh”, câu thanh tịnh chính là pháp
thân trí huệ vô vi.
Vì sao phải quảng-lược dung nhập nhau? Vì chư Phật Bồ-tát có hai loại pháp
thân: Pháp tánh pháp thân và phương tiện pháp thân. Phương tiện pháp thân
được sanh ra từ pháp tánh pháp thân, nhưng cũng nhờ phương tiện pháp thân
mà hiển lộ pháp tánh pháp thân. Hai pháp thân này tuy khác nhau, nhưng
không thể tách rời. Tuy là một nhưng không phải đồng, cho nên quảng-lược
phải đi vào nhau. Bồ-tát nếu không biết quảng-lược đi vào nhau, thì không
thể lợi mình lợi người.
Vô vi pháp thân chính là pháp tánh thân, do pháp thân là tịch diệt, cho nên
pháp thân không có hình tướng. Và do pháp thân không có hình tướng, cho
nên có thể hiển lộ bất cứ hình tướng nào. Vì thế 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp của
đức Phật, chính là pháp thân. Do pháp thân vô sở tri, cho nên vô sở bất tri.
Do đó nhất thiết chủng trí, chính là trí huệ chân thật.
Lấy sự quán chiếu tổng tướng và biệt tướng mà nhìn, thì tất cả đều là tướng
chân thật. Nhờ biết tướng chân thật, cho nên liền biết tướng hư vọng của tam
giới chúng sanh. Nhờ biết tướng hư vọng của tam giới chúng sanh, nên đã
khởi được lòng từ bi chân thật. Nhờ khởi lòng từ bi chân thật, cho nên đã
khởi quy y chân thật.
Là hành giả, không kể xuất gia tại gia, chỉ cần biết được pháp sanh tức vô
sanh, không trái với chân đế tục đế, thì đều được sanh lên thượng phẩm.

IX. Thuyết minh Tịnh độ của Phật A-di-đà có thuộc về tam giới hay
không?
Hỏi: Thế giới Cực Lạc trong ba cõi, thuộc cõi nào?
Trả lời: Tây phương Tịnh độ thù thắng đẹp đẽ, vượt thắng thế gian. Ba cõi,
là căn nhà tối tăm phàm phu sanh tử, ở đó tuy có chút khổ sướng, mạng có
ngắn dài, nhưng nhìn chung, thì đều là bể khổ. Do đó, Tây phương Tịnh độ
không thuộc ba cõi.
Đại Trí Độ luận nói: Những người sanh lên thế giới Cực Lạc, tự nhiên không
có niệm tham, cho nên không phải dục giới. Chúng sanh ở Tịnh độ sống trên
đất, cho nên chẳng phải sắc giới. Chúng sanh ở cõi Tịnh độ có sắc thân, cho
nên chẳng phải vô sắc giới.
Tuy ở trên đất, nhưng hòan cảnh rất tinh tế thù thắng đẹp đẽ siêu tuyệt. Cho
nên Tịnh độ Luận của Bồ-tát Thiên Thân nói: “Tướng đẹp của cõi Tịnh độ,
vượt thắng ba cõi, rộng lớn như hư không, không có bờ mé”.
Cho nên kinh Vô Lượng Thọ khen rằng: “Tịnh độ rộng đến không có hạn
lượng, do bảy loại châu báu tự nhiên hợp thành, được trang nghiêm nhờ
nguyện lực của Phật A-di-đà, xin đảnh lễ Phật đà thanh tịnh có sức nhiếp thọ
lớn. Thế giới Cực Lạc ánh sáng chiếu diệu đẹp đẽ siêu tuyệt, thư thái an vui
không có xuân hạ thu đông. Sức tự lợi lợi tha đều đã viên mãn, xin quy
mạng Phật A-di-đà dùng phương tiện khéo léo trang nghiêm Cực Lạc thế
giới”.

---o0o---

ĐẠI MÔN THỨ HAI

Chia ra làm ba bộ phận để giảng:


I. Thuyết minh phát tâm Bồ-đề.
1. Thuyết minh công dụng của tâm Bồ-đề.
Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Những ai muốn vãng sanh Tịnh độ, đều cần phải
phát tâm Bồ-đề làm cơ sở”.
Bồ-đề là gì? Là tên gọi của vô thượng Phật đạo. Nếu phát tâm thành Phật, thì
tâm này rất là rộng lớn, có thể khắp cả pháp giới. Tâm này cứu cánh lớn như
hư không, dài không biên giới. Tâm này đầy cả ba cõi, lìa hai chướng của
nhị thừa.
Chỉ cần vừa phát tâm này, thì liền bao nhiêu công đức từ vô thỉ kiếp đến
nay, đều hồi hướng Bồ-đề, cuối cùng thành tựu Phật quả, không bị tiêu mất.
Thí như mang hoa gởi trên cõi trời tịnh cư thì gió thổi mặt trời chiếu cũng
không khô héo; đổ nước trong sông suối có rồng ở, thì cho dù thế gian có đại
hạn cũng không khô kiệt.
2. Thuyết minh danh tự và bản thể của tâm Bồ-đề.
Bồ-đề có ba loại:
- Pháp thân Bồ-đề.
- Báo thân Bồ-đề.
- Hóa thân Bồ-đề.
Pháp thân Bồ-đề chính là chân như thật tướng đệ nhất nghĩa không, tự tánh
của nó là thanh tịnh, thể chất không bị nhiễm ô, lý thể của nó là tự nhiên
không cần phải dụng công tu hành mà thành tựu, đó gọi là pháp thân. Là thể
tánh căn bản của Phật đạo, gọi là Bồ-đề.
Baó thân Bồ-đề là phải tu nhân đầy đủ vạn hạnh mới thành tựu Phật đạo, lấy
quả báo nhân nên gọi là báo thân. Viên mãn thông đạt không có chướng ngại
nên gọi là Bồ-đề.
Hóa thân Bồ-đề chính là công dụng được khởi từ quả báo, có khả năng ứng
với mọi căn cơ., nên gọi là hóa thân. Viên mãn thông đạt lợi ích chúng sanh,
gọi là Bồ-đề.
3. Thuyết minh những phát tâm khác nhau.
Hành giả phát tâm Bồ-đề có ba nguyên nhân:
- Đã nhận thức rõ được hữu và vô vốn là tự tánh thanh tịnh.
- Do đã tu 84.000 ba-la-mật.
- Có tâm từ bi lớn, muốn độ sanh. Ba nguyên nhân này, có khả năng tương
ứng với đại Bồ-đề, cho nên gọi là phát tâm Bồ-đề.
Tịnh Độ Luận nói: “Phát tâm Bồ-đề, chính là tâm nguyện thành Phật. Tâm
nguyện thành Phật, chính là tâm độ chúng sanh. Tâm độ chúng sanh, chính
là tâm nhiếp thủ chúng sanh sanh vào quốc độ có Phật.” Hiện tại mọi người
đã nguyện sanh lên Tịnh độ, thì trước tiên phải phát tâm Bồ-đề mới được.
4. Trả lời câu hỏi.
Hỏi: Nếu tu đầy đủ vạn hạnh, thì liền cảm được Bồ-đề thành tựu Phật quả,
vậy thì tại sao trong kinh Chư Pháp Vô Hành nói: “Nếu ai một lòng cầu Bồ-
đề thì sẽ mất Bồ-đề, người ấy xa Bồ-đề như trời cách đất?”
Trả lời: Bản thể của Bồ-đề, về lý thì không có hình tướng, người nào cầu
Bồ-đề trên hình tướng thì mất Bồ-đề, do đó nói người đó cách Bồ-đề xa.
Cho nên kinh nói: “Bồ-đề, đã không thể dùng tâm để cầu, mà cũng không
thể dùng thân để cầu”.
Hiện tại ở đây là nói, hành giả tuy biết phải tu hành để cầu chứng Bồ-đề,
cũng biết rõ ràng lý thể thì vô sở cầu, nhưng hành giả vẫn có thể không bỏ
giả danh cầu Bồ-đề này, do đó nói tu đủ vạn hạnh, có thể cảm được quả Bồ-
đề.
Nên Đại Trí Độ Luận nói: “Nếu ai thấy được Bát-nhã, tức người ấy đã bị trói
buộc. Nếu ai đó không thấy Bát-nhã, thì người ấy cũng bị trói buộc. Nếu ai
thấy được Bát-nhã, tức người ấy liền được giải thoát. Nếu ai không thấy Bát-
nhã, người ấy cũng được giải thoát.”
Bồ-tát Long Thọ giải thích rằng: “Nếu không thoát ra được tứ cú: thấy,
không thấy, cũng thấy cũng không thấy, chẳng thấy chẳng không phải thấy,
thì liền bị trói buộc. Nếu như thoát ra được tứ cú, liền được giải thoát”. Cầu
Bồ-đề mà ở đây nó, cũng như vậy. Nếu hành trì được như thế, thì chính là
không tu mà tu. Gọi là không tu mà tu, chính là không trái với chân đế và
tục đế.
Tịnh độ Luận của Bồ-tát Thiên Thân nói, ai muốn phát tâm cầu vô thượng
Bồ-đề, cần phải đầy đủ hai điều kiện: trước tiên cần phải lìa ba loại trái với
Bồ-đề và phải biết ba loại thuận với Bồ-đề.
Ba loại nào?
- Phải theo trí huệ, không chạy theo khoái lạc bản thân, để tránh xa sự tham
luyến đối với sắc thân mình.
- Phải theo trí huệ, bạt trừ tất cả những đau khổ cho chúng sanh, để xa lìa
tâm không muốn làm cho chúng sanh an lạc.
- Phải theo môn phương tiện, khởi tâm thương xót tất cả chúng sanh, để
tránh xa chỉ cung kính cúng dường thân tâm mình. Trên đây là xa lìa ba
pháp trái với Bồ-đề.
Thuận Bồ-đề là nói, sau khi Bồ-tát xa lìa ba pháp trái với Bồ-đề, thì sẽ đạt
được pháp thuận với Bồ-đề.
Ba pháp nào?
- Tâm thanh tịnh vô nhiễm, chính là không cầu các khoái lạc cho mình, bởi
vì Bồ-đề là nơi thanh tịnh không có nhiễm ô. Nếu cầu khoái lạc cho mình,
thì là trái với Bồ-đề, cho nên tâm thanh tịnh không ô nhiễm, là thuận với Bồ-
đề.
- Tâm an thanh tịnh, chính là muốn bạt trừ đau khổ cho tất cả chúng sanh,
bởi vì Bồ-đề là nơi thanh tịnh an ổn tất cả chúng sanh. Nếu không khởi tâm
bạt trừ thống khổ sanh tử cho chúng sanh, thì đã trái với Bồ-đề, cho nên bạt
trừ đau khổ cho chúng sanh, là thuận với Bồ-đề.
- Tâm vui thanh tịnh, vì muốn làm cho tất cả đạt được đại Bồ-đề, cho nên
phải nhiếp thủ chúng sanh vãng sanh Cực Lạc. Bồ-đề là nơi rốt ráo vui
sướng thường hằng, do đó, nếu không làm cho tất cả chúng sanh đạt được
niềm vui rốt ráo, thì liền trái với Bồ-đề. Vậy thì niềm vui rốt ráo đạt được từ
đâu? Phải đạt được từ đại nghĩa môn. Gọi là đại nghĩa môn, chính là Phật
quả chứng được ở thế giới Cực Lạc. Cho nên cần phải làm cho chúng sanh
một lòng một ý, phát nguyện cầu sanh Tây phương Cực Lạc, như vậy mới có
thể khiến cho họ sớm tương hội với vô thượng Bồ-đề.
II. Thuyết minh phá trừ tà tri kiến.
Có 9:
- Phá trừ tà tri kiến đại thừa vô tướng.
- Dung hội quán thông đại bi tâm ái kiến của Bồ-tát.
- Phá trừ tri kiến tà chấp trước ngoài tâm không pháp.
- Phá trừ tri kiến tà nguyện sanh uế độ mà không nguyện vãng sanh Tịnh độ.
- Phá trừ cho rằng những người vãng sanh Tịnh độ, sẽ đắm trước vào hoan
lạc.
- Phá trừ cho rằng cầu sanh Tịnh độ là thuyết tiểu thừa.
- Phá trừ cầu sanh Đâu-suất, khuyên không sanh Tịnh độ.
- Dung hội quán thông nếu cầu sanh Tịnh độ mười phương, không bằng
vãng sanh Tây phương.
- Thuyết minh hàm ý đặc biệt.
1. Phá trừ tà tri kiến đại thừa vô tướng, có hai:
a. Tổng thuyết minh khởi nhân của lời này, để tiện cho học giả đời sau,
rõ phải trái, bỏ tà tri kiến theo chánh tri kiến.
Tổng thuyết minh khởi nhân. Đại thừa là Phật pháp bảo tạng thâm áo, danh
tự nghĩa lý trong đó nhiều như trần sa, cho nên kinh Niết-bàn nói: “Một
danh tự bao hàm nghĩa lý vô lượng, một nghĩa lý bao hàm danh tự vô
lượng.” Cần phải đọc nhiều, kỹ các kinh luận, mới hiểu được tông chỉ của
nó, khác với các sách tịch tiểu thừa và thế tục, nghĩa lý đều nằm trên mặt
chữ.
b. Dùng sự rộng lớn của chánh pháp, phá trừ chỗ mê chấp.
Vì sao phải phá trừ? Bởi vì lý Tịnh độ u vi mà không tịch, có kinh nói rõ, có
kinh thì không nói rõ, khiến cho mọi người đoán định đủ thứ bằng tình
phàm. Vì sợ những lời siểm mỵ, có thể làm cho những kẻ mù mờ thiên chấp,
những kẻ vô tri đau đầu mà trở ngại cho vãng sanh, do đó bây giờ tạm đưa ra
mấy ví dụ, để phá trừ tất cả.
* Hỏi đáp phá trừ tà tri kiến đại thừa vô tướng.
Hỏi: Có người nói, đại thừa là không có hình tướng, cho nên không nên
phân biệt đây kia, nếu phát nguyện cầu sanh Tịnh độ, thì coi như đã chấp lấy
hình tướng, trở ngược càng thêm phiền não trói buộc, vì thế cần gì cầu vãng
sanh?
Trả lời: Nói như vậy không đúng, vì sao? Bởi vì hết thảy chư Phật nói pháp,
đều đầy đủ hai nguyên nhân:
1. Y cứ thể chân thật của pháp tánh.
2. Thuận theo chân đế và tục đế.
Nói đại thừa không nên có ý phân biệt, là nói theo pháp tánh. Nhưng lại huỷ
báng nói không cần cầu sanh Tịnh độ, như vậy là không thuận theo lý nhị
đế, tri kiến ấy, thuộc về đọan diệt không.
Cho nên trong kinh Vô Thượng Y, Phật nói với A-nan: “Tất cả chúng sanh,
nếu khởi tri kiến hữu ngã lớn như núi Tu-di, ta cũng không lo, vì sao? Bởi vì
những người này tuy chưa có khả năng ra khỏi sanh tử, nhưng vẫn còn tin có
nhân có quả. Còn những ai có tà kiến không vô, cho dù chỉ nhỏ như hạt cải,
ta cũng đáng ngại, vì sao? Bởi vì tà kiến này sẽ phá hoại đạo lý nhân quả,
mà bị đọa trong tam ác đạo, những nơi mà bọn người này đầu thai về sau,
nhất định sẽ trái với sự giáo hóa của ta.”
Bây giờ cần phải khuyến cáo hành giả, trên lý thì tuy không có vãng sanh,
nhưng đối với lý nhị đế (chân đế và tục đế), thì cần phải cầu vãng sanh. Cho
nên kinh Duy-ma nói: “Tuy quán quốc độ chư Phật và chúng sanh đều là
không vô, nhưng vẫn phải luôn tu hành để thành tựu Tịnh độ, và giáo hóa
chúng sanh.”
Kinh Duy-ma lại nói: “Tuy hành vô tác nhưng vẫn thị hiện có thân, đó là
Bồ-tát hạnh. Tuy hành vô khởi nhưng vẫn khởi tất cả thiện hạnh, đó là Bồ-
tát hạnh.” Đó là một chứng minh.
Hỏi: Hiện tại có một số người, hành đại thừa vô tướng, không phân nhân
ngã, không giữ cấm giới, việc ấy thế nào?
Trả lời: Tri kiến ấy thật quá nguy hại, vì sao? Như kinh Đại Phương Đẳng
nói, Phật chế giới luật cho hàng cư sĩ, không cho phép cư sĩ tại gia đến nhà
đàn bà goá, nhà con gái trinh, quán rượu, tiệm nhuộm, tiệm ép dầu, tiệm
da... Phật cấm hết không cho đến những nơi ấy.
A-nan liền hỏi Phật: “Thưa đức Thế tôn, vì những hạng người nào mà chế
định giới ấy?”
Phật đáp: “Có hai hạng tu hành, một hạng tu thế gian, một hạng tu xuất thế
gian. Hạng người tu xuất thế gian thì ta không chế những giới luật trên. Còn
hạng tu thế gian thì ta mới chế. Vì sao? Bởi vì tất cả thế gian đều là con ta,
Phật là cha mẹ của tất cả chúng sanh, cho nên phải chế định giới cấm để ước
thúc khiến chúng sanh sớm ra khỏi thế gian, mau chứng Niết-bàn.”
2. Dung hội quán thông đại bi tâm ái kiến của Bồ-tát.
Hỏi: Theo pháp đại thừa, Bồ-tát nếu khởi tâm đại bi ái kiến đối với chúng
sanh thì phải xả li. Nay khuyên chúng sanh phát tâm vãng sanh Tịnh độ, như
vậy không phải đã khởi tướng tham ái nhiễm trước sao, làm sao tránh khỏi
trần luỵ?
Trả lời: Pháp hành của Bồ-tát, có hai công dụng:
a. Chứng trí huệ Bát-nhã: Nhờ sức mạnh tu trì tánh không Bát-nhã, mà có
khả năng đi vào trong sáu đường sanh tử, không bị trói buộc.
b. Đầy đủ đại bi tâm: Nhờ đại bi tâm, mà không ở trong Niết-bàn. Bồ-tát tuy
ở trong tục đế, chân đế vẫn luôn xả bỏ hữu và vô một cách khéo léo. Bởi vì
lấy bỏ hợp với trung đạo, cho nên không trái với lý đại đạo.
Do đó kinh Duy-ma nói: “Nếu ai đó muốn kiến tạo nhà cửa trên đất, thì có
thể tuỳ ý không có gì trở ngại; nhưng muốn xây dựng trên không trung, thì
nhất định không thể thành công. Bồ-tát cũng lại như thế, vì muốn thành tựu
chúng sanh, cho nên nguyện sanh Tịnh độ.” Nguyện sanh Tịnh độ, hòan toàn
chẳng phải là cầu sinh trong hư không.
3. Phá trừ tri kiến tà chấp trước ngoài tâm không pháp. Có hai phần:
phá trừ tình kiến và trả lời câu hỏi.
a. Phá trừ tình kiến.
Hỏi: Có người nói, duy tâm Tịnh độ, Tịnh độ tại trong tâm, tâm tịnh tức Phật
độ tịnh. Ngoài tâm không có một pháp nào khác, vậy thì cần gì phải vãng
sanh Tây phương?
Trả lời: Đó là nói Tịnh độ thuộc pháp tánh, trên lý thì hư không viên dung,
trên thể thì không hạn cục ở một chỗ nào, đây gọi là vãng sanh không có
vãng sanh, đó chỉ là cảnh giới của hàng thượng sĩ. Cho nên kinh Vô Tự Bảo
Khiếp nói: “Này các thiện nam tử, còn có một pháp, là pháp mà Phật giác
ngộ, đó chính là các pháp không có đến, đi, không có nhân không có duyên,
không có sanh khởi, không có hoại diệt, không có suy nghĩ, không có không
suy nghĩ, không có tăng, không có giảm.”
Phật hỏi La-hầu-la: “Ngươi có thọ trì chánh pháp ta trao truyền không?”
Lúc bây giờ chín ức Bồ-tát trong mười phương đồng thanh bạch với Phật
rằng: “Chúng con đều có thể thọ trì pháp môn này, chúng con nhất định sẽ vì
chúng sanh, làm cho pháp môn này lưu thông không dứt.”
Đức Phật liền bảo: “Các thiện nam tử này là những người hai vai gánh vác
Bồ-đề. Những người này sẽ nhanh chóng được biện tài vô ngại, có khả năng
trang nghiêm cõi Phật. Những người ấy khi họ lâm chung, lập tức liền được
Phật A-di-đà và các thánh chúng, hiện ngay trước mặt, tiếp dẫn họ vãng sanh
Cực Lạc. Và những hạng người căn cơ trung hạ, do chưa trừ được sắc tướng,
cho nên cần phải nương vào nhân duyên tin Phật, cầu sanh Tịnh độ. Sau khi
vãng sanh Tịnh độ rồi, vẫn ở trong cõi có sắc tướng.”
Trong kinh lại nói: “Nếu từ nhân duyên mà tìm về căn bổn, thì ngoài tâm
không có một pháp nào khác.” Nếu giải thích nghĩa lý này bằng nhị đế Chân
Tục, thì Tịnh độ là pháp ngoài tâm.
b. Trả lời câu hỏi.
Hỏi: Khi nãy vừa nói vãng sanh không có vãng sanh, chỉ có những người
căn tánh thượng đẳng mới đi vào được cảnh giới này, còn những người trung
hạ căn không có sức vào đây, đó là phối hợp người và pháp mà phán đoán
trực tiếp, hay là có kinh giáo gì chứng minh?
Trả lời: Đại Trí Độ luận nói, Bồ-tát mới phát tâm căn cơ và sức lý giải vẫn
còn rất khiêm nhượng, tuy nói đã phát tâm, nhưng phần lớn vẫn phải phát
nguyện vãng sanh Tịnh độ, vì sao như vậy? Như đứa trẻ nếu không dựa vào
sự nuôi dưỡng của cha mẹ, thì rất dễ có khả năng rơi xuống giếng, hoặc bị
tai nạn lửa, nước, rắn độc, hoặc thiếu sữa mà chết. Cho nên cần phải dựa vào
sự bảo bọc, nuôi dưỡng của cha mẹ mới lớn lên thành người, và kế tục gia
nghiệp.
Bồ-tát cũng phải như vậy, nếu đã phát tâm Bồ-đề, lại phải phát nguyện vãng
sanh, để thân cận chư Phật, nuôi lớn pháp thân của mình. Như thế mới có
khả năng kế thừa gia nghiệp Như Lai, cứu độ chúng sanh trong khắp mười
phương thế giới. Vì những lợi ích này, cho nên Bồ-tát đều phát nguyện vãng
sanh Tịnh độ.
Đại Trí Độ luận lại nói, thí như cánh của con chim nhỏ chưa trưởng thành,
không thể bắt nó bay cao, cần phải tập chuyền cành trước, đợi đến khi lông
cánh dài và có sức, mới bỏ cành cây mà bay cao. Bồ-tát mới phát tâm cũng
lại như thế, cần phải trước tiên phát nguyện vãng sanh Tịnh độ, đến khi
thành tựu pháp thân, mới ứng cơ thuyết pháp lợi lạc chúng sanh.
A-nan hỏi Phật: “Pháp môn ba-la-mật vô tướng này, giảng thuyết ở đâu?”
Phật dạy: “Pháp môn này, thuyết trong Bồ-tát vị bất thoái, vì sao? Bởi vì có
một số Bồ-tát mới phát tâm, sau khi nghe môn ba-la-mật vô tướng này, thì
tất cả thiện căn thanh tịnh, liền tiêu mất.” Vả lại chỉ cần hễ sanh lên Tịnh độ,
thì mọi việc đều xong, cần gì phải tranh luận sự sâu cạn của lý này.
4. Phá trừ thuyết phát nguyện sanh ở cõi uế, không cầu vãng sanh Tịnh
độ.
Hỏi: Có người nói, nguyện sanh vào cõi năm trược để hóa độ chúng sanh,
không muốn sanh vào Tịnh độ, việc ấy thế nào?
Trả lời: Hạng người này có, nhưng là hạng người nào? nếu đã chứng được
Bồ-tát vị bất thoái trở lên, vì muốn hóa độ chúng sanh tạo ác nghiệp, nên
nguyện sanh vào đời ác trược. Họ có khả năng sống trong hòan cảnh ô
nhiễm nhưng không bị nhiễm ô, gặp ác duyên mà không trở thành ác, như
vịt xuống nước, mà nước không thể làm ướt lông chúng. Những người như
vậy, có năng lực sống trong thế giới ô trược, cứu khổ cho chúng sanh.
Nếu thật chỉ là phàm phu, e sự tu tập của bản thân còn chưa có kết quả, nên
khi gặp khổ nạn, lập tức thoái chí. Lúc ấy còn muốn cứu người khác, chỉ có
chìm cùng với người. Như nhận con gà xuống nước, đâu thể không làm cho
cả thân con gà ướt nhem.
Cho nên luận Đại Trí Độ nói: nếu phàm phu phát tâm, tức nguyện cứu chúng
sanh trong cõi uế, chư thánh không cho phép. Vì sao? Long Thọ giải thích:
thí như tảng băng bốn mươi dặm, có một người dội lên một xô nước sôi, lúc
ấy tợ như có khuyết xuống. Nhưng qua một đêm, chỗ ấy băng lại cao hơn.
Phàm phu phát tâm cứu khổ ở uế độ cũng thế. Do uế độ tham sân si thuận
nghịch nhiều, tự sanh phiền não trở ngược rơi vào ác đạo.
5. Đả phá nếu sanh Tịnh độ, nhiều sự sung sướng, đắm vào lạc thú.
Hỏi: Có người nói, trên cõi Tịnh độ toàn những sự vui thích, nhiều sự vui
sướng đắm vào lạc thú, trở ngại cho việc tu tập, đâu nên nguyện vãng sanh?
Trả lời: Đã gọi là Tịnh độ, thì không có những cái xấu xa. Nếu nói tham đắm
vào lạc thú, đó chính là tham ái phiền não, sao được gọi là tịnh? Nên kinh
Vô Lượng Thọ nói: trời người ở cõi Tịnh độ, vãng lai tiến chỉ, không bị tình
đời trói buộc.
Cho nên luận Đại Trí Độ nói: nếu phàm phu phát tâm Bồ-đề, phát nguyện
cứu khổ chúng sanh trong cõi uế, như Phật không cho phép.
Vì sao? Bồ-tát Long Thọ giải thích: thí như tảng băng bốn mươi dặm, có
một người dội lên một thùng nước nóng. Lúc ấy chỗ dội nước nóng ấy băng
dường như có khuyết chút ít. Nhưng qua một đêm, chỗ ấy băng lại cao hơn
chỗ khác. Phàm phu phát nguyện cứu chúng sanh khổ trong cõi Ta-bà cũng
thế. Vì là cảnh giới cái xấu nhiều hơn cái tốt, nên phàm phu trở ngược sanh
phiền não mà đọa vào ác thú.
Hỏi: Có người nói, trên cõi Tịnh độ toàn là những việc sung sướng, nên dễ
bị đắm vào khoái lạc, mà trở ngại cho sự tu tập. Vì vậy đâu nên phát nguyện
vãng sanh.
Trả lời: Đã là Tịnh độ, thì không có những sự dơ uế. Nếu nói đắm trước
khoái lạc, thì đó chính là phiền não tham ái, sao có thể gọi là Tịnh độ được.
Cho nên trong kinh Vô Lượng Thọ nói: người, trời ở cõi ấy, mọi việc làm,
tâm không có một chút dính mắc nào.
Lại nguyện thứ 48 nói: Người, trời mười phương đến cõi nước tôi, nếu khởi
niệm đắm trước thân, tôi nguyện không thành Phật.
Kinh Vô Lượng Thọ lại nói: Trời, người cõi nước ấy, không có thân sơ. Làm
sao có lý đắm trước khoái lạc.
6. Phá trừ cầu sanh Tịnh độ, chẳng phải tiểu thừa.
Hỏi: Có người nói, cầu sanh Tịnh độ chính là tiểu thừa, nên không nên cầu
sanh.
Trả lời: Điều đó không đúng. Vì sao? Vì giáo nghĩa tiểu thừa, không bao giờ
khuyên vãng sanh Tịnh độ.
7. Phá trừ cầu sanh Đâu-suất, khuyên không sanh Tịnh độ.
Hỏi: Có người nói, nguyện sanh trời Đâu-suất, mà không nguyện sanh Tây
phương, được không?
Trả lời: Hai hướng vãng sanh này khác nhau, trong đó chỉ giống nhau một
phần nhỏ. Phần lớn khác nhau rất lớn.
a. Bồ-tát Di-lặc chuyển bánh xe pháp bất thối cho thiên chúng, những ai
nghe xong tin nhận hoạch được lợi ích, điều này giống với chúng sanh ở cõi
Cực Lạc nghe pháp tin nhận, gọi là tín đồng. Nhưng thiên chúng phần nhiều
đắm trước dục lạc không tin Phật pháp. Vả lại dù sanh lên trời Đâu-suất, vẫn
còn thoái đọa, cho nên kinh nói: “Ba cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới
không an ổn, như ngôi nhà lửa.”
b. Sau khi sanh lên trời Đâu-suất, thọ mạng là bốn ngàn tuổi, sau khi mạng
chung không tránh khỏi đọa lạc.
c. Trên trời Đâu-suất tuy tiếng nước chảy, tiếng chim kêu đều phát ra những
âm thanh u nhã, nhưng những âm thanh này đều là nhân duyên làm cho
thiên chúng khoái lạc, thuận theo ngũ dục của thiên giới chớ không giúp cho
việc tu hành thánh đạo. Còn như cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà, chỉ cần vãng
sanh lên, là liền vào ngôi bất thoái, không có những người thoái đọa tạp cư
trong đó.
Lại bất thối vị là bất thối vị vô lậu, vượt ngoài tam giới, không còn luân hồi
trong sáu đường. Thọ mạng của chúng sanh ở cõi Tịnh độ, đồng Phật không
khác. Tiếng nước chảy, tiếng chim kêu ở cõi Cực Lạc đều là nói pháp, làm
cho chúng sanh khai ngộ, mà chứng vô sanh pháp nhẫn.
d. Theo cách nói của kinh Vô Lượng Thọ, chỉ lấy âm nhạc so sánh thì cũng
đã biết, như trong kinh khen ngợi: “Từ thế gian, đế vương cho đến trời Lục
dục, sự mỹ diệu của âm nhạc có tám cấp độ. Nhưng sự mỹ diệu của âm nhạc
ở cõi Cực Lạc thì vượt xa cả ức vạn lần, sự mỹ diệu của âm thanh cây bảy
báu cũng như thế. Ngoài ra, thế giới Cực Lạc còn có pháp nhạc mỹ diệu tự
nhiên, những tiếng nhạc này thanh tịnh tường hòa, làm cho tâm thần sung
sướng, âm thanh nhu hòa u nhã nhưng trong sáng, vang thấu mười phương
thế giới, cho nên đảnh lễ đáng công đầu thanh tịnh.
Hỏi: Có người nói, nguyện sanh Đâu-suất, không nguyện sanh về Tây
phương, điều đó được chăng?
Trả lời: Đâu-suất, Tây phương có chút giống nhau. Tuy nhiên, căn cứ trên
thể thì khác nhau rất lớn.
Nguyện thứ 48 nói: Người, trời mười phương thế giới, khi đến nước tôi, nếu
có tâm niệm tham trước sắc thân, tôi nguyện không thành Phật.
Kinh Vô Lượng Thọ lại nói: trời, người cõi nước ấy, không có gì là thích
hoặc không thích. Do đó, làm gì có chuyện đắm trước khoái lạc.
8. So sánh nguyện sinh Tịnh độ mười phương, không bằng sanh Tịnh độ
Tây phương.
Hỏi: Có người nói, muốn sanh lên Tịnh độ mười phương thế giới, mà không
muốn sanh lên Tịnh độ tây phương, là lý làm sao?
Trả lời: Hai cái này khác nhau, có ba:
a. Quốc độ Phật mười phương thế giới không phải là không thanh tịnh,
nhưng nếu cái cảnh giới quán tưởng rộng quá, thì tâm không sáng; cảnh giới
quán tưởng nhỏ, tâm mới chuyên chú, cho nên kinh Thập Phương Tuỳ
Nguyện Vãng Sanh nói: “Bạch đức Thế Tôn, quốc độ Phật mười phương
cũng rất trang nghiêm thanh tịnh, nhưng vì sao trong các kinh chỉ khen ngợi
cõi Phật A-di-đà và khuyên mọi người vãng sanh lên trên ấy?”
Phật bảo Phổ Quảng Bồ-tát: “Chúng sanh phần nhiều tâm loạn, vì vậy muốn
chúng sanh chuyên chú trong một Tịnh độ, nên mới đặc biệt khen ngợi Tịnh
độ của Phật A-di-đà, đó là chỗ bất đồng. Chỉ cần y theo thệ nguyện mà tu
hành, thì liền thu được lợi ích.”
b. Tịnh độ mười phương thế giới, tuy tất cả đều thanh tịnh, nhưng thứ tự sâu
cạn của chúng, chúng ta khó mà biết được. Quốc độ của Phật A-di-đà, là sơ
nhập môn Tịnh độ, vì sao mà biết? Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một kiếp của thế
giới Ta-bà, bằng một ngày một đêm của thế giới Cực Lạc. Và một kiếp của
thế giới Cực Lạc, bằng một ngày một đêm của thế giới Ca Sa Tràng.”
Từ sự hơn kém quá nhiều ấy mà biết được, Tịnh độ Tây phương là sơ nhập
môn của tất cả Tịnh độ, do đó tất cả chư Phật đều đặc biệt khuyên chúng
sanh sanh lên, mà những quốc độ Phật khác, thì không khuyên như vậy.
c. Cõi Cực Lạc đã là sơ nhập môn của các Tịnh độ, vậy thì cõi Ta-bà phải là
đọan cuối của quốc độ xấu ác, vì sao? Thí như trong kinh Chánh Pháp Niệm
Xứ nói: “Phía Đông bắc thế giới Ta-bà, có một thế giới tên Tư-ha, đất đai ở
đó, toàn cát đá hình tam giác, mỗi năm mưa ba lần, lượng mưa mỗi lần chỉ
thấm sâu năm tấc đất. Chúng sanh ở thế giới ấy chỉ ăn trái cây và hạt, mặc
đồ bằng vỏ cây. Họ cầu sống không được, cầu chết cũng không được.
“Lại có một thế giới, cầm thú ở đó, từ hổ, lang cho đến rắn rết đều có cánh
bay. Chỉ cần chúng gặp nhau là ăn thịt lẫn nhau, bất kể đối phương thiện ý
hay ác ý”. Đó chẳng nhẽ không phải bước đầu của cõi xấu ác sao?
Nhưng y phục của thế giới Ta-bà, đồng với hiền thánh, như vậy mới là chỗ
cuối cùng của cõi xấu ác. Cõi Cực Lạc đã là tối sơ nhập môn của Tịnh độ,
cũng là chỗ tương tiếp với cõi Ta-bà, cho nên sanh sang rất dễ, sao không
sanh sang?
9. Căn cứ Nhiếp Đại Thừa Luận, mà cho rằng có ý trái với kinh Thập
Lục Quán. Do đó phân biệt thuyết minh thêm hàm ý ấy.
Trong kinh Thập Lục Quán, Phật nói những người vãng sanh hạ phẩm, đời
hiện tại tạo nghiệp nặng, khi lâm chung, gặp thiện tri thức dạy pháp môn
Tịnh độ, nếu mười niệm hiện tiền, liền được vãng sanh Tịnh độ. Nhiếp Đại
Thừa Luận nói, đó là ý đặc biệt của Phật.
Những giảng sư từ xưa đến nay đều nói, mười niệm khi lâm chung mà trong
kinh nói, chỉ làm nhân vãng sanh, chớ thật sự không được vãng sanh. Vì sao
mà biết? Vì trong Nhiếp Đại Thừa Luận nói: “Nếu như dùng một đồng tiền
làm vốn, buôn bán kiếm một ngàn đồng lời, không phải trong một ngày mà
làm được”. Cho nên biết mười niệm hiện tiền, chỉ làm nhân vãng sanh, chớ
không thể lập tức liền được vãng sanh, đó chính là ý đặc biệt của Phật.
Cách giải thích này hòan toàn không chính xác, vì sao? Vì Bồ-tát tạo luận để
giải thích kinh điển, đều vì muốn làm rõ hàm ý sâu xa của Phật, hợp với bản
ý của thánh nhân, nếu nói luận của Bồ-tát trái với kinh điển, thì điều đó
không thể có.
Bây giờ đến giải thích câu “ý đặc biệt của Phật”, là nói bình thường khi Phật
nói pháp, đều trước nói nhân, sau đó mới nói tới quả báo, lý rất rõ ràng. Và
trong kinh Thập Lục Quán, chỉ nói đời này tạo ác nghiệp, khi lâm chung, chỉ
cần mười niệm hiện tiền, thì liền được vãng sanh, mà không nói qua đời
trước có nhân duyên hay không. Đây là đức Phật vì muốn tiếp dẫn những
chúng sanh tạo ác nghiệp trong đời vị lai, muốn làm cho họ khi lâm chung
bỏ ác niệm trở về với thiện niệm, nương thiện niệm này mà được vãng sanh,
nên đã bỏ đi nhân duyên đời trước của họ. Đây là vì đức Thế tôn đã bỏ đi
những thiện niệm ban đầu, mà chỉ hiển thị những thiện niệm cuối, không nói
nhân, chỉ nói quả, cho nên gọi là “ý đặc biệt”.
Vì sao biết chỉ cần mười niệm hiện tiền, đều có nhân duyên đời trước? Như
Kinh Niết-bàn nói: “Nếu một ai, đã từng cúng dường hơn nửa hằng hà sa số
chư Phật, lại đã phát tâm, mới có thể trong đời ác trược nghe kinh điển đại
thừa mà không huỷ báng, nhưng cũng còn không có những công đức khác.
Nếu đã từng cúng dường hơn một hằng hà sa số chư Phật, cũng đã phát tâm,
sau đó mới có thể sau khi nghe kinh điển đại thừa, không những không huỷ
báng, mà còn có niềm vui thích”.
Từ những kinh điển này để nghiệm chứng, có thể biết được những người
được mười niệm hiện tiền, đều quả thật có nhân duyên đời trước. Nếu đời
trước họ không có những nhân duyên này, thì ngay thiện tri thức còn không
thể gặp, càng không phải nói được mười niệm hiện tiền.
Nhiếp Đại Thừa Luận nói: “Dùng một đồng vốn, buôn bán lời một ngàn
đồng, không phải một ngày mà làm được”. Nếu là ý của Phật, phải là muốn
chúng sanh tích luỹ nhiều nhiều nhân lành, để nương vào những nhân lành
đó mà vãng sanh. Nếu là ý của luận chủ Vô Trước, là nương vào những nhân
duyên xa bị đóng kín này, lý cũng không sai. Nếu giải thích như vậy mà trên
hợp với ý kinh, dưới hợp với ý của luận, thì chính là kinh luận phù trợ nhau,
thì con đường vãng sanh đã thông, không còn chỗ nào để nghi ngờ.

III. Trả lời câu hỏi, trừ bỏ nghi hoặc.


Dưới đây dùng Đại Trí Độ Luận để trả lời câu hỏi.
Hỏi: Hết thảy chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay tạo biết bao ác nghiệp, thậm
chí bị ba cõi trói buộc, vậy thì sao không đọan trừ sự trói buộc nghiệp quả
của ba cõi, mà chỉ cần dùng một ít thời gian để niệm A-di-đà Phật liền được
vãng sanh Tịnh độ, vượt ra ba cõi. Lý nghiệp quả trói buộc, phải giải thích
thế nào?
Trả lời: Có hai cách giải thích: Phá trừ ngay trên pháp lý và mượn ví dụ để
hiển thị.
Ngay trên pháp lý mà nói, chư Phật vốn có trí bất khả tư nghì, trí đại thừa
rộng lớn, thắng trí vô thượng không ai bằng. Sức trí bất khả tư nghì là, có thể
biến ít thành nhiều, biến nhiều thành ít. Biến gần thành xa, biến xa thành
gần. Biến nặng thành nhẹ, biến nhẹ thành nặng. Những sức trí như vậy, Phật
có vô lượng vô biên bất khả tư nghì.
Tiếp đến cần mượn bảy thí dụ để hiển thị những đạo lý ấy.
1. Thí dụ có một trăm thanh niên, đốn củi một trăm năm, đống củi chất cao
mấy ngàn thước, nhưng chỉ cần một đóm lửa nhỏ, với nửa ngày là nó thiêu
sạch. Vậy thì sao có thể nói, đống củi tích chứa một trăm năm, nửa ngày đốt
không hết?
2. Thí như có người bệnh, ngồi thuyền nhờ sức gió đi ngày một ngàn dặm.
Vậy thì sao có thể nói, người bệnh làm sao có thể đi ngày ngàn dặm được?
3. Thí như có một người nghèo cùng, nhặt được một vật mang ý tốt lành,
liền dâng lên cho vua. Vua đại hoan hỷ, liền trọng thưởng. Chỉ trong nháy
mắt, người này liền được giàu sang và có danh vọng. Vậy thì sao có thể nói,
mình làm quan mấy mươi năm, siêng năng khổ nhọc, triều đình đã không
biết, dân chúng cũng không nương về, cho nên người nghèo cùng này được
phú quý là không thể?
4. Thí như người thân thể yếu gầy, ngay cả cỡi lừa cũng không cỡi được.
Nếu anh ta theo Chuyển Luân Vương, thì có thể phi hành tự tại trong không
trung. Vậy thì sao có thể nói, người thân thể yếu gầy, nhất định không cách
gì phi hành trong không trung?
5. Có mười người vây quanh một dây thừng lớn, một ngàn người kéo cũng
không đứt. Nhưng có một đứa trẻ với một cái dao bén, chặt một phát đứt làm
hai. Vậy thì sao có thể nói, sức của một đứa trẻ, chặt không đứt sợi dây mười
người vây quanh?
6. Thí như con chim Chẫm mà lặn xuống nước, thì lập tức các loài thuỷ tộc
đều chết hết. Nhưng chỉ cần sừng Tê giác được nhúng vào nước, lập tức loài
thuỷ tộc được sống lại. Vậy thì sao có thể nói, hễ chết thì không thể sống
lại?
7. Cũng thí như Hòang Hạc gọi Tử An, Tử An sống lại. Vậy thì sao có thể
nói, chết chôn một ngàn năm, thì không thể sống lại được?
Vạn pháp đều có sức mạnh của mình và sức mạnh của người khác, sự thu
nhiếp của chính mình và sự thu nhiếp của kẻ khác, ngàn loại khai pháp và
vạn loại bế pháp... là vô lượng vô biên. Sao bạn có thể lấy cái biết hữu
chướng ngại để hòai nghi cái pháp lực vô chướng ngại của người khác!
Trong năm loại bất khả tư nghì, thì pháp lực của Phật là bất khả tư nghì nhất.
Bạn cho rằng nghiệp lực của ba cõi trói buộc nặng, mà hòai nghi sức niệm
Phật thời gian ngắn nhẹ, cho nên không thể vãng sanh Cực Lạc, đi vào
chánh định tụ, điều này không đúng.
Hỏi: Hoặc kinh Đại Thừa nói, nghiệp lực và ba đường như cái cân, cái nào
nặng thì đi đầu thai trước. Vì vậy chúng sanh một trăm năm, mười năm hay
trong một ngày, không việc ác nào không làm, thì làm sao có thể khi lâm
chung, gặp được thiện tri thức, chỉ cần mười niệm tương tục, liền được vãng
sanh. Nếu như vậy, thì đạo lý nghiệp nào nặng đi đầu thai trước, làm sao cho
người ta tin được?
Trả lời: Bạn cho rằng người ta tạo ác nghiệp quá nặng, người hạ phẩm thiện
tâm niệm Phật mười niệm nhẹ, cho nên bây giờ phải cho bạn biết cái gọi là
lý nặng nhẹ và phân biệt so sánh, là tại tâm, tại duyên, tại quyết định chớ
không phải nơi thời gian dài ngắn.
Thế nào gọi là tại tâm? Là nói khi người ta tạo nghiệp, là tạo bằng cái tâm
điên đảo hư vọng, nhưng khi mười niệm niệm Phật, là nhờ pháp phương tiện
an uý của thiện tri thức, dùng cái tâm thính văn thật tướng pháp niệm. Một
cái là hư vọng, một cái là chân thật, hai cái làm sao so sánh được? Thí như
một ngôi nhà tối đã mấy ngàn năm, nhưng chỉ cần ánh sáng chiếu vào, lập
tức sáng lên. Vì vậy đâu có thể nói, một ngôi nhà tối đã ngàn năm, bóng tối
không thể rời đi.
Cho nên kinh Di Nhật Ma Ni Bảo nói, Phật bảo Bồ-tát Ca-diếp: “Chúng
sanh tuy mấy ngàn ức vạn kiếp ở trong niệm dục tham ái, bị tội nghiệp che
đậy. Nhưng nếu sau khi nghe kinh, biết cải ác tùng thiện, thì tội ác lập tức
tiêu trừ”. Đây gọi là tại tâm. Thế nào gọi là tại duyên? Là nói người ta trong
khi tạo tội, là từ vọng tưởng và quả báo phiền não mà khởi tạo. Nhưng mười
niệm niệm Phật, là từ niềm tin vô thượng, và trên danh hiệu chân thật thanh
tịnh của Phật A-di-đà vốn có vô lượng công đức mà khởi niệm. Thí như có
người bị trúng tên độc, nghe được tiếng trống giải độc, mũi tên lập tức trồi
ra, và độc dược cũng được giải trừ. Vì vậy sao có thể nói, trúng tên độc sâu,
độc dược lại nặng, cho dù có nghe tiếng trống giải độc, mũi tên không thể lồi
ra, độc dược cũng không tiêu trừ, đây gọi là tại duyên. Thế nào gọi là tại
quyết định? Chính là người ta trong khi tạo tội, là dùng cái tâm hậu lai, tâm
gián đọan. Nhưng mười niệm niệm Phật, là dùng cái tâm không hậu lai,
không gián đọan, đây gọi là tại quyết định.
Đại Trí Độ Luận lại nói: “Hết thảy chúng sanh khi lâm chung, phong đại
giống như con dao, đang cắt cơ thể. Khi sự đau khổ của cái chết bức bách,
người ta có cảm giác rất là sợ hãi, cho nên ngay khi gặp được thiện tri thức
liền phát tâm đại dõng mãnh, niệm niệm tương tục không ngừng mười niệm
niệm Phật. Nhờ thiện căn tăng thượng này, nên có thể vãng sanh Tịnh độ.
Lại thí như có người khi đối diện với địch, nhất thời dùng hết sức bình sinh,
thiện nghiệp mười niệm niệm Phật cũng thế. Nếu như người ta khi lâm
chung, mà khởi niệm tà kiến, thì từ ác tâm tăng thượng này, khuynh đảo hết
phước nghiệp trong ba cõi, mà thọ sinh vào đường ác.
Hỏi: Thiện nghiệp của mười niệm niệm Phật khi lâm chung có thể khả năng
khuynh đảo tất cả ác nghiệp của một đời, mà được vãng sanh Tịnh độ, không
biết mười niệm là bao lâu?
Trả lời: Trong kinh nói, một trăm lẻ một sanh diệt là một sát-na; sáu mươi
sát-na là một niệm, đây là giải thích ý niệm y cứ trên kinh luận. Hiện tại
chúng ta nói niệm, không lấy loại thời gian này làm chuẩn, mà chỉ cần nhớ
niệm Phật A-di-đà, bất quản là quán Phật toàn thân hay bộ phận, chỉ cần
theo cảnh giới quán tưởng, mười niệm hiện tiền, không bị tạp niệm, thì gọi
là mười niệm.
Hoặc là nói, mười niệm hiện tiền, chỉ là chữ một niệm của thánh nhân, chỉ
cần tích luỹ được ý niệm, ngưng định tâm ý, không suy nghĩ việc gì khác,
khiến đạo nghiệp thành tựu, thì liền bỏ không cần nữa, cũng không cần bỏ
số.
Hoặc là nói, những người tu lâu, thì dùng phương pháp không đếm số bên
trên. Còn những người mới tu pháp môn niệm Phật, đếm số cũng tốt, đó
cũng là giáo pháp của Phật.
Lại hỏi: Bây giờ muốn theo lời khuyên của bạn tu niệm Phật Tam-muội,
nhưng không biết cái được gọi là “niệm” ấy, tình hình thế nào?
Trả lời: Thí như có người ra giữa đồng gặp kẻ thù cầm dao muốn giết, người
ấy liền bỏ chạy, bị một dòng sông chắn ngang trước mặt, đến bên bờ, người
ấy nghĩ: “Nên cởi đồ ra lội qua hay để đồ lội qua? Nếu cởi đồ e không kịp;
còn để đồ lội qua thì vướng víu không bội được”. Lúc ấy, người ấy chỉ một
tâm một ý nghĩ cách vượt sông, không có thì giờ để nghĩ những việc khác.
Hành giả cũng như vậy, khi niệm A-di-đà Phật, tình hình cũng giống như
người niệm vượt sông vậy, niệm niệm đều là Phật, không có thì giờ để nghĩ
việc khác. Hoặc là niệm pháp thân Phật, hoặc là niệm thần lực Phật, hoặc là
niệm trí huệ Phật, hoặc là niệm ánh sáng tướng lông trắng, hoặc là niệm ba
mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của Phật, hoặc là niệm bốn mươi tám
lời nguyện của Phật, xưng niệm danh hiệu của Phật cũng vậy. Chỉ cần
chuyên tâm nhất ý tương tục không ngừng, nhất định sanh về cõi Phật.
Các người học Phật đời sau nên biết, nếu muốn thể hội đạo lý chân đế tục
đế, chỉ cần biết niệm niệm là không, đó là trí huệ môn. Lại có thể làm cho
niệm niệm tương tục không gián đọan, đó chính là công đức môn. Cho nên
kinh nói: “Bồ-tát Ma-ha-tát thường dùng công đức và trí huệ để tu tâm”.
Nếu là những người mới học Phật, chưa phá trừ được sắc tướng, lúc này chỉ
cần nương nơi sắc tướng này, chuyên tâm nhất ý tu hành, thì đều được vãng
sanh, chớ nên hòai nghi.
Lại hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Chúng sanh trong mười phương, nếu với
tâm chí thành tin tưởng, yêu thích muốn sanh sang nước ta, cho đến chỉ cần
mười niệm, nếu không được sanh sang nước ta, thì ta nguyện không thành
Phật”. Người bây giờ nghe vậy, liền nghĩ trước mắt không cần lo, đến lúc
lâm chung mới tu pháp mười niệm này, xin hỏi cách nghĩ này thế nào?
Trả lời: Đây là hai việc khác nhau, vì sao? Kinh nói “chỉ cần mười niệm
tương tục”, thấy thì dễ, nhưng tâm phàm phu như ngựa chưa thuần, tâm thức
động như khỉ, luôn chạy theo sáu trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, lúc
nào mới dừng lại? Quý vị phải có niềm tin, nhất định phải tập chế ngự ý
niệm của mình, đến khi niệm niệm tương tục không ngừng, đã thành thói
quen, thiện căn mới được kiên cố.
Thí như Phật nói với đại vương: “Người ta hằng ngày tích luỹ việc lành, khi
chết không có niệm ác, thì như cây khi sắp đổ, nhất định sẽ đổ về phía
nghiêng”.
Vì vậy, ngay khi phong đao của cái chết vừa đến, thì trăm cái khổ nhất thời
bạo phát, nếu hằng ngày không thực hành mười niệm, thì đến lúc ấy muốn
niệm làm sao mà nhớ niệm? Cho nên mọi người tốt nhất năm ba bạn đạo,
hẹn trước với nhau, khi lâm chung thay nhau khai thị và hộ niệm, cầu vãng
sanh Cực Lạc, để thành tựu mười niệm.
Thí như phẩm in, phẩm in bạc đi thì đường nét hình thành. thời khắc mạng
đọan, cũng chính là thời khắc vãng sanh Cực Lạc. Vừa vãng sanh lên Cực
Lạc, liền vào chánh định tụ, lúc ấy còn có gì phải lo? Quý vị phải nghĩ đến
lợi ích lớn này, cho nên sao không lo thực hành mười niệm trước?
Lại hỏi: Các kinh luận đại thừa đều nói, hết thảy chúng sanh cứu cánh là vô
sanh, như hư không vậy. Đã vậy, sao hai Bồ-tát Thế Thân và Long Thọ đều
phát nguyện vãng sanh?
Trả lời: Chúng sanh cứu cánh là vô sanh, như hư không, có hai nghĩa:
1. Nhìn từ góc độ phàm phu thì thật có sanh, có tử. Nhưng nhìn từ góc độ
Bồ-tát thì chuyện vãng sanh cứu cánh như hư không, như sừng thỏ.
2. Sanh ở đây nói, là chỉ nhân duyên sanh. Do nhân duyên sanh, cho nên là
sanh giả có. Do là sanh giả có, cho nên là không có sanh. Điều này không
trái với đạo lý lắm, cũng không phải là cái gọi là “thật có chúng sanh, thật có
sanh tử” của phàm phu.
Lại hỏi: Sanh là căn bản của hữu, là căn nguyên của tất cả phiền não. Nếu
biết có lỗi này, thì nên bỏ sinh mà cầu vô sinh, như vậy mong được giải
thoát. Vậy mà bây giờ anh khuyên người ta sinh Tịnh độ, chính là bỏ cái
sanh của Ta-bà, cầu cái sanh Tịnh độ, như vậy, chẳng phải là sanh hòai sao?
Trả lời: Tây phương Tịnh độ là bổn nguyện thanh tịnh của Phật A-di-đà, là
sinh không sinh, không giống với cái sinh tham ái, ô nhiễm, hư vọng, chấp
trước của chúng sanh trong ba cõi. Vì sao? Bởi vì pháp tính vốn thanh tịnh,
cứu cánh vô sanh, nhưng nay nói sanh về đó, là mượn tình huống sanh để
nói mà thôi.
Lại hỏi: Cái sanh mà vô sanh của anh nói phải là cái sanh của người thượng
phẩm. Nếu như vậy, người hạ phẩm dùng mười niệm vãng sanh, chẳng phải
là thật sanh hay sao? Nếu là thật sanh, thì có hai vấn đề: một là có thể không
được vãng sanh, hai là loại thiện này không cách gì trở thành nhân của vô
sanh.
Trả lời: Có thể chia làm ba bộ phận để giải thích:
- Thí như châu Ma-ni, sau khi bỏ vào nước đục, nước đục liền trong. Giống
như người ta tuy có tội sanh tử vô lượng như nước đục, nếu nghe đến danh
hiệu của Phật A-di-đà, thì như bảo châu thanh tịnh, thả vào trong tâm ô trọc,
trong niệm niệm, tội lỗi liền tiêu trừ và tâm được thanh tịnh, thế là liền được
vãng sanh.
- Thí như châu Ma-ni thanh tịnh, dùng vải vàng hoặc vải đen bọc lại, để vào
trong nước, nước liền biến thành màu vàng hoặc màu đen giống với vật thể.
Phật độ thanh tịnh Tây phương, có danh hiệu bảo châu vô thượng của Phật
A-di-đà, dùng vải thành tựu vô lượng công đức bọc lại, đặt trong nước tâm
của người vãng sanh, thì làm sao không chuyển cái sanh của chúng sanh trở
thành trí huệ vô sanh của thánh nhân được.
- Lại như trên băng nhóm lửa, nếu sức lửa mạnh thì lập tức băng biến thành
nước. Sau khi băng biến thành nước, lửa lập tức tắt. Người hạ phẩm vãng
sanh, tuy không biết tự tánh các pháp là vô sanh, nhưng nhờ sức mạnh của
niệm danh hiệu Phật, lại thêm nguyện cầu vãng sanh, do đó khi sanh sang
cõi vô sanh, thì ngọn lửa cho rằng có sanh lập tức tắt ngấm.
Lại hỏi: Vãng sanh bằng loại thân nào?
Trả lời: Chúng sanh ở cõi uế khi thực hành pháp môn Tịnh độ, niệm trước là
nhân của niệm sau. Mà chúng sanh cõi uế và chúng sanh ở cõi Tịnh độ
không thể gọi là cùng một chúng sanh mà cũng không thể nói là khác. Niệm
trước và niệm sau cũng thế. Vì sao? Nếu nói là một thì không có phát sanh
nhân quả; nếu nói là khác thì sẽ không có sự tương tục. Vì vậy, tuy nhiên nói
đứng nói ngang đều có sai biệt, nhưng trước sau cùng một hành vi.
Lại hỏi: Nếu chỉ cần xưng danh hiệu Phật, là phá trừ được các chướng ngại,
vậy thì người dùng tay chỉ trăng, ngón tay anh ta phải phá trừ được bóng tối.
Trả lời: Các pháp có vạn sự sai biệt, không thể nói đại khái được. Có những
danh tự bản thân là pháp môn, có những danh tự bản thân không tương can
gì với pháp môn.
Những danh tự bản thân là pháp môn, thí như những danh hiệu của chư Phật
Bồ-tát, âm thanh câu từ của thần chú, văn chương câu cú của kinh...
Thí như thần chú nói: “Mặt trời mọc ở phương đông, màu sắc đỏ bỗng
chuyển sang vàng.” Quy định người bệnh từ năm giờ đến bảy giờ tối, từ chín
giờ đến mười một giờ đêm không được làm gì, mà bệnh của người bệnh
được lành.
Lại thí như có người bị chó cắn, cần phải lấy xương cọp đốt nóng rồi lăn lên
chỗ chó cắn, bệnh sẽ lành. Nếu không có xương cọp, thì có thể lấy bàn tay
rái cá nhấn lên chỗ cắn, miệng nói: “Cọp đến rồi, cọp đến rồi”. Bệnh cũng
lành.
Có người bị bong gân chân, phải dùng cành Mộc qua nướng lên xoa nơi chỗ
đau, bệnh sẽ hết. Nếu không có cành Mộc qua, thì hơ tay lên lửa cho nóng
rồi áp lên chỗ đau, miệng nói: “Mộc qua Mộc qua.” Bệnh cũng hết. Nguyên
nhân ở đâu? Bởi danh tự chính là pháp môn.
Lại hỏi: Nếu chỉ cần xưng danh hiệu của Phật A-di-đà, thì có thể trừ hết
bóng tối vô minh của chúng sanh trong mười phương mà được vãng sanh.
Nhưng có những chúng sanh tuy xưng danh hiệu Phật, nhớ Phật, nhưng vô
minh vẫn còn, nguyện vãng sanh cũng không thành tựu, đây là lý gì?
Trả lời: Bởi họ không chân thật tu hành, nên không tương ứng với nghĩa lý
danh hiệu Phật. Nguyên nhân ở đâu? Vì họ không biết thân Như Lai là thật
tướng, mà cho là thân chúng sanh.
Lại có ba điều khiến không tương ứng: 1. Tín tâm không thuần, lúc có lúc
không. 2. Tín tâm bất nhất, không có niềm tin tuyệt đối. 3. Tín tâm không
tương tục, tức luôn có tạp niệm. Nếu được niệm niệm tương tục, liền được
nhất tâm. Nếu được nhất tâm, liền được tâm thuần nhất. Nếu đầy đủ được ba
tâm này, mà không được vãng sanh là điều không thể có.

---o0o---

ĐẠI MÔN THỨ BA

Chia làm bốn bộ phận để thuyết minh.


- Giải thích đường dễ đi và đường khó đi.
- Thuyết minh chỗ dài ngắn bất đồng của thời gian kiếp số.
- Thuyết minh từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng sanh trong ba cõi năm đường,
do tạo nghiệp thiện ác mà chịu quả báo khổ vui, vì vậy luân hồi thọ sanh
không dứt.
- Đưa ra ví dụ dẫn dụng kinh Phật chứng minh tu thành, khuyên người đời
sau tin tưởng mà cầu vãng sanh.
I. Giải thích đường dễ đi và đường khó đi, có hai:
1. Thuyết minh đường dễ đi và đường khó đi.
Thân ta đang ở trong nhà lửa ba cõi, nghĩ đến quả thật đáng sợ hãi. Chỉ có
nương vào Phật dùng ba loại xe đến dụ. Nhưng sức chở của xe dê xe nai, chỉ
là tạm thời quyền nghi mà thôi, hòan toàn chưa đạt đến mục đích, cho nên bị
Phật quở trách là chấp trước tà kiến, thậm chí chướng ngại cho việc hướng
thượng cầu quả vị Bồ-đề. Cho dù sau này bỏ tiểu hướng đại, cũng bị gọi là
đi con đường quanh co. Nếu trực tiếp leo lên chiếc xe lớn, cũng là một con
đường, nhưng chỉ sợ hiện tại chỉ có thể chứng được những quả vị còn thoái
chuyển, con đường nguy hiểm vẫn còn rất dài, mà mình chưa lập được công
đức gì, vì thế rất khó mà tiến đến địa vị bất thối.
Cho nên Bồ-tát Long Thọ nói, cầu quả vị bất thoái có hai con đường, một là
con đường khó đi, hai là con đường dễ đi. Con đường khó đi là chỉ trong đời
ác thế năm trược, khi không có Phật xuất thế, cầu quả vị bất thoái rất là khó.
Những chỗ khó, đại lược có năm loại:
- Thân cận với ngoại đạo mà loạn đi pháp tu hành của Bồ-tát.
- Pháp tự lợi của Thanh văn, chướng ngại đại bi tâm.
- Những người ác không có tâm xấu hổ, phá hoại công đức thù thắng của
người khác.
- Tất cả người trời, đảo lộn quả báo thiện nghiệp, phá hoại những người tu
phạm hạnh.
- Chỉ có tự lực tu hành, không có sự nâng đỡ của tha lực. Những việc như
vậy, ở đâu cũng có, như đi đường bộ, bộ hành rất là vất vả, cho nên nói là
đường khó đi.
Gọi là đường dễ đi là, nhờ nhân duyên tin Phật, phát nguyện cầu sanh Tịnh
độ, vì thế liền sanh tâm Bồ-đề, tạo lập công đức, tu các thiện hạnh. Nhờ
nguyện lực của Phật gia trì, nên liền được vãng sanh Tịnh độ. Sau khi vãng
sanh, nhờ sự trụ trì của Phật lực, nên được vào chánh định tụ của đại thừa.
Chánh định tụ, chính là quả vị bất thoái. Điều này giống như đi đường thuỷ,
ngồi thuyền là việc rất khoái, cho nên gọi là đường dễ đi.
2. Trả lời câu hỏi.
Hỏi: Chứng Bồ-đề rồi thì giống nhau, vậy thì nhân tu hành cũng phải giống
nhau mới đúng. Vì vậy, tại sao tu cầu thành Phật ở cõi Ta-bà gọi là đường
khó đi, mà vãng sanh Tịnh độ cầu đại Bồ-đề, mới gọi là đường dễ đi?
Trả lời: Tất cả pháp môn tu hành mà các kinh đại thừa nói, đều có phân biệt
tự lực với tha lực, tự nhiếp và tha nhiếp. Thế nào gọi là tự lực? Thí như có
người, sợ quả khổ sanh tử, liền phát tâm xuất gia, tu thiền định mà có thần
thông, có khả năng du hành khắp thiên hạ, đó gọi là tự lực.
Hỏi: Thế nào gọi là tha lực?
Trả lời: Thí như người gầy yếu, không đủ sức leo lên lưng lừa. Nếu nương
vào bảo luân của vua Chuyển luân, thì anh ta có thể phi hành trong không
trung, đó là nhờ uy lực của vua Chuyển luân, nên gọi là tha lực.
Chúng sanh cũng như thế, ở cõi Ta-bà phát tâm lập hạnh, phát nguyện vãng
sanh Tịnh độ, đó gọi là tự lực. Khi lâm chung, được Phật A-di-đà cùng các
thánh chúng dùng đài vàng đến tiếp dẫn, liền được vãng sanh, đó gọi là tha
lực.
Cho nên kinh Vô Lượng Thọ nói: “Hết thảy chúng sanh trong mười phương,
muốn sanh lên nước ta, đều lấy đại nguyện lực của Phật A-di-đà làm tăng
thượng duyên.” Nếu không đúng như vậy, thì bốn mươi tám nguyện chỉ là
hư giả. Cho nên nói, chư vị hậu học, đã có tha lực giúp đỡ, nhưng nhất thiết
không được hạn cục năng lực của mình, để cuối cùng rơi trong nhà lửa tam
giới.
II. Thuyết minh sự lâu dài của kiếp thời gian.
Đại Trí Độ Luận nói, kiếp có ba loại là tiểu kiếp, trung kiếp và đại kiếp. Thí
như thành rộng bốn mươi dặm, trong thành chứa đầy hạt cải, có một thiên tử
Trường thọ thiên, mỗi ba năm đến mang một hạt cải, mang cho đến hết gọi
là một tiểu kiếp.
Có một thành rộng tám mươi dặm, trong thành chứa đầy hạt cải, có một
thiên tử Trường thọ thiên, mỗi ba năm đến mang một hạt cải, mang cho đến
hết gọi là một trung kiếp.
Có một thành rộng một trăm hai mươi dặm, trong thành chứa đầy hạt cải, có
một thiên tử Trường thọ thiên, mỗi ba năm đến mang một hạt cải, mang cho
đến hết gọi là một đại kiếp.
Hoặc có một tảng đá rộng tám mươi dặm, có một vị thiên tử trời Trường thọ
cứ mỗi ba năm đến dùng thiên y của mình chùi lên tảng đá một cái, trọng
lượng của chiếc thiên y nặng 12gram, chùi cho mòn hết tảng đá, mới gọi là
một trung kiếp. Đại kiếp tiểu kiếp có thể chiếu theo tỷ lệ tảng đá của trung
kiếp.

III. Thuyết minh từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng sanh trong ba cõi năm
đường, do tạo nghiệp thiện ác mà chịu quả báo khổ vui, vì vậy luân hồi
thọ sanh không dứt. Có 5:
Vấn đề thứ nhất: Thuyết minh từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng sanh luân hồi
mãi không ngừng, thọ sắc thân vô tận. Đại Trí Độ Luận nói, khi đầu thai
trong nhân gian, anh chàng họ Trương chết đầu thai vào nhà họ Vương,
người họ Vương chết, đầu thai vào nhà họ Lý. Như vậy trong cõi Diêm Phù
Đề, có khi đầu thai lại trong gia đình, có khi đầu thai vào gia đình khác. Có
khi chết ở cõi Nam Diêm Phù Đề, sau đó sanh sang cõi Tây Ngưu Hóa...
Những người ở ba châu khác, cũng đầu thai y như người cõi Nam Diêm Phù
Đề vậy.
Người ở bốn châu thiên hạ đầu thai sang trời Tứ Thiên Vương tình hình
cũng vậy. Người trời ở trời Tứ Thiên Vương chết, sanh sang trời Đao lợi.
Người trời Đao lợi chết, sanh sang trời bốn tầng trên cũng thế. Sắc giới có
18 tầng trời, vô sắc giới có bốn tầng trời. Ở tầng trời này chết, sanh sang
tầng trời khác, cũng đều như vậy.
Cũng có những vị trời cõi sắc sau khi chết đọa vào địa ngục Vô gián. Sau
khi ra khỏi địa ngục Vô gián, lại sanh sang những địa ngục tương đối nhẹ
hơn. Sau khi ra khỏi địa ngục, lại sanh sang làm súc sanh. Hết kiếp súc sanh,
sanh làm ngạ quỷ. Hết làm ngạ quỷ có thể sanh làm trời hoặc làm người.
Chúng sanh luân hồi trong sáu đường như thế, chịu hai quả báo khổ lạc,
sống chết hòai như thế.
Cho nên kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói, Bồ-tát Hóa Sanh nói với chư thiên:
“Phàm phu đầu thai trăm ngàn ức kiếp, đều đắm trước khoái lạc, phóng túng
không tu hành, bất giác, những phước báu tích tập quá khứ hưởng hết, lại
đọa vào trong ba đường ác chịu khổ vô tận.”
Kinh Niết-bàn nói: “Thân thể này hình thành do tích tập những khổ đau,
toàn thân đều bất tịnh, lại bị phiền não trói chặt, căn bản là chẳng có gì lợi
ích đáng nói, cho dù là thân chư thiên cũng thế”.
Cho nên kinh Niết-bàn lại nói: “Khuyên chúng sanh nên tu hành, không nên
phóng dật, vì sao? Bởi phóng dật là căn bản của các nghiệp ác. Và không
phóng dật, là đầu nguồn của các nghiệp lành. Như ánh sáng mặt trăng mặt
trời, là sáng nhất trong các ánh sáng. Không phóng dật cũng lại như thế, là
cao nhất trong các pháp lành. Vì sao? Bởi tất cả các pháp ác, đều do phóng
dật mà ra; và tất cả các pháp lành, đều lấy không phóng dật làm căn bản”.
Vấn đề thứ hai: Nói từ vô thỉ kiếp đến nay, chúng sanh luân hồi không
ngừng trong sáu đường, nhưng không biết trong một kiếp, rốt cuộc thọ bao
nhiêu lần thân?
Trả lời: Kinh Niết-bàn nói, lấy hết cỏ trong tam thiên đại thiên thế giới, cắt
đều bốn tấc để tính số những người đã từng làm cha mẹ của mình trong một
kiếp cũng còn không đủ.
Lại nói, sữa mà ta đã bú của mẹ trong một kiếp, còn nhiều hơn nước bốn
biển.
Lại nói, xương cốt của ta trong một kiếp còn cao hơn núi Tu-di. Như vậy
nhiều kiếp lâu xa đến nay, oan uổng chịu sanh tử mãi cho đến ngày nay, vẫn
là cái thân phàm phu, vì sao tư lượng việc này mà thương cảm không thôi?
Vấn đề thứ ba: Anh nói từ vô thỉ kiếp đến nay chúng sanh thọ thân vô số,
nói như vậy là để cho mọi người khởi tâm chán ghét đối với thế gian hay là
trong kinh có chứng minh?
Trả lời: Trong kinh có chứng minh, thí như kinh Pháp hoa nói: “Vào thời đại
kiếp quá khứ kiếp lâu xa bất khả thuyết, có Phật xuất hiện thế gian tên Đại
Thông Trí Thắng Như Lai. Có mười sáu vị vương tử, vị nào cũng thăng toà
thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Mỗi vị vương tử đều giáo hóa sáu trăm
vạn ức na-do-tha hằng hà sa số chúng sanh. Thời gian sau khi đức Như Lai
Đại Thông Trí Thắng diệt độ, lâu xa đến số cũng không đếm hết”. Vì sao?
Trong kinh nói, nghiền đại địa của tam thiên đại thiên thế giới thành những
hạt bụi, Phật nói, có một người bay một ngàn nước Phật rải một hạt bụi, như
thế bay qua vô số quốc độ, rải hết số hạt bụi đó. Phật nói: “Những quốc độ
mà người này bay qua, cho dù có rải hạt bụi hay không. Lại nghiền hết đại
địa của những quốc độ ấy, lấy một hạt bụi làm một kiếp, thời gian Đại
Thông Trí Thắng Như Lai diệt độ đến nay, còn nhiều hơn số hạt bụi nói trên.
Và những chúng sanh nghe pháp trong pháp hội hôm nay, đều là những
người được mười sáu vị vương tử giáo hóa thời bấy giờ”.
Cho nên trong kinh lại nói: “Vì nhân duyên này, cho nên nên nói kinh Pháp
Hoa cho mọi người”.
Kinh Niết-bàn lại nói: “Một người là vương tử, một người là người nghèo,
hai người này qua lại với nhau.” Vương tử, là Phật Thích-ca hiện tại, cũng
chính là vương tử thứ 16 lúc bấy giờ. Người nghèo, chính là mọi người trong
hội Niết-bàn.
Vấn đề thứ tư: Những chúng sanh này nhiều kiếp xa xưa sanh tử không
dứt, vậy thì trong ba cõi, phần nhiều họ đầu thai vào đường nào?
Trả lời: Tuy là nói luân hồi trong sáu đường, nhưng thật ra phần nhiều họ
qua lại trong ba đường ác. Như trong kinh nói: “Trong hư không, lấy diện
tích của tám cái cùi chỏ tay, từ trái đất cho đến đỉnh trời sắc giới, trong diện
tích này, những chúng sanh thấy được, còn nhiều hơn người và trời của tam
thiên đại thiên thế giới.” Cho nên có thể biết, chúng sanh ở đường ác nhiều.
Vì sao như vậy? Bởi ác pháp dễ sanh, thiện hạnh khó làm!
Hãy nhìn chúng sanh hiện tại, những kẻ giàu có chỉ biết phóng dật hưởng
thụ, phá giới, và chúng sanh cõi trời, phần nhiều đắm trước dục lạc. Cho nên
kinh nói: “Chúng sanh lưu chuyển trong sáu đường, thường lấy ba đường ác
làm nhà.” Làm người hoặc trời, chỉ là dừng ở tạm thời, rồi phải lìa xa, cho
nên nói là nhà trọ. Trong luận Đại Trang Nghiêm, khuyến cáo tất cả chúng
sanh, nên luôn thu nhiếp tâm niệm, kệ nói: “Tuổi tráng niên và những lúc
không tai không hoạ, nếu không siêng năng tinh tấn, chỉ ham làm giàu,
không tu các pháp bố thí, trì giới... đến khi lâm chung, mới hối hận muốn tu
thiện nghiệp. Những người có trí phải khéo quán sát, để đọan trừ những ý
niệm về năm dục. Những người tinh tiến quán tâm như vậy, khi lâm chung
sẽ không hối hận. Một lòng thu nhiếp tâm ý, không khởi niệm sai lầm tạp
loạn; người có trí hết lòng nhiếp tâm, khi lâm chung ý thức sẽ không tán
loạn. Nếu không một lòng tu hành, lâm chung nhất định sẽ tâm ý tan loạn.
Lúc đó tâm nếu tán loạn, như dùng răng mài để điều phục ngựa. Như vậy khi
sắp chiến đấu, ngựa chỉ chạy quanh mà không thẳng tiến”.
Vấn đề thứ năm: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, vậy thì lâu xa kiếp
đến nay, đáng lẽ phải gặp rất nhiều Phật, tại sao mãi đến bây giờ, đều còn
luân hồi trong sanh tử, ra không khỏi ngôi nhà lửa tam giới?
Trả lời: Kinh Đại Thừa nói, do chúng sanh không nương vào hai pháp môn
thù thắng, để trừ sanh tử, cho nên không ra khỏi ngôi nhà lửa tam giới. Hai
pháp môn thù thắng nào? Một là thánh đạo, hai là vãng sanh Tịnh độ. Thánh
đạo pháp môn, người bây giờ rất khó chứng đắc. Một mặt vì Phật đã Niết-
bàn quá lâu, một mặt vì lý Phật quá thâm áo, nghĩa Phật quá huyền vi.
Cho nên trong kinh Đại Tập Nguyệt Tạng nói: “Thời kỳ mạt pháp sau khi
Như Lai diệt độ, dù có vạn ức chúng sanh tu hành, nhưng không một người
đắc đạo”. Hiện tại chính trong đời ác năm trược thời mạt pháp, vì vậy chỉ có
pháp môn Tịnh độ, là con đường có thể thông hành.
Vì vậy kinh Vô Lượng Thọ nói: “Nếu có chúng sanh, dù cả đời tạo ác
nghiệp, chỉ cần khi lâm chung, mười niệm tương tục, xưng danh hiệu ta, nếu
không sanh lên nước ta, ta sẽ không thành Phật”.
Hết thảy chúng sanh đều không lượng sức mình, không cần nói những người
tu đại thừa, ngay cả đạo lý chân như thật tướng đệ nhất nghĩa không, chưa
từng để lòng. Mà ngay cả những người tu tiểu thừa, ngay kiến đế đạo chứng
sơ quả, nhị quả cho đến tam quả đọan năm hạ phần kết, tứ quả đọan năm
thượng phần kết, bất kể là chúng xuất gia hay tại gia, chẳng ai có phần. Dù
là quả báo sanh cõi trời hay cõi người, đều phải trì năm giới, mười thiện
nghiệp mới được quả báo này. Nhưng những người trì được năm giới, mười
thiện nghiệp cũng rất hiếm hoi. Còn như những hành động tạo ác nghiệp thì
như mưa to gió lớn. Cho nên chư Phật đại từ bi khuyên chúng sanh quy
hướng Tịnh độ. Cho dù cả đời tạo nghiệp ác, chỉ cần một lòng tinh tiến niệm
Phật, thì tất cả chướng ngại đều được tiêu trừ, nhất định được vãng sanh. Vì
sao mọi người không nghĩ kỹ lý này, mà đều vô tâm cầu vãng sanh?

IV. Dẫn dụng kinh Phật chứng minh những người đã được vãng sanh,
để khuyên mọi người tin mà cầu vãng sanh.
Trong kinh Quán Phật Tam-muội nói, lúc bấy giờ trong pháp hội, Bồ-tát Tài
Thủ nói với đức Phật, bạch Thế tôn, trong vô số kiếp về trước, có một vị
Phật ra đời, cũng tên là Thích-ca Mâu-ni Phật. Sau khi đức Phật ấy diệt độ,
có một vương tử tên Kim Tràng, rất ngạo mạn, có tà kiến không tin Phật
pháp.
Vương tử ấy có một người bạn Tỳ-kheo tên Định Tự Tại. Tỳ-kheo bảo với
vương tử: “Trong tháp có tượng Phật rất đẹp, vương tử vào tháp chiêm
ngưỡng xem”.
Vương tử nghe lời bạn, vào tháp chiêm ngưỡng tượng Phật. Thấy vẻ đẹp của
tượng Phật, liền nói với Tỳ-kheo: “Tượng Phật mà đẹp như thế, huống hồ gì
là Phật thật!”
Tỳ-kheo liền nói với vương tử: “Này vương tử, cậu đã thấy tượng Phật rồi,
nếu không đảnh lễ thì cũng nên niệm một câu “Nam Mô Phật””.
Sau khi vương tử về đến vương cung, trong lòng luôn nhớ đến tượng Phật,
nên trong giấc ngủ đã mơ thấy tượng Phật. Lúc ấy trong lòng vương tử rất
vui, liền bỏ tà kiến, quy y Tam bảo.
Sau khi vương tử mệnh chung, nhờ công đức niệm một câu Nam Mô Phật
mà được gặp chín trăm ức na-do-tha Phật. Nơi chỗ chư Phật, ông thường
luôn tinh tấn, và luôn được niệm Phật Tam-muội một cách thâm sâu. Nhờ
duyên sức niệm Phật Tam-muội, mà được chư Phật xuất hiện trước mặt, mỗi
mỗi đều thọ ký cho ông. Từ đó về sau, trải qua trăm vạn a-tăng-kỳ kiếp,
không bao giờ rơi lại vào các đường ác. Đến nay, đã được Thủ Lăng Nghiêm
Tam-muội. Vương tử lúc bấy giờ, chính là Tài Thủ tôi.
Trong pháp hội lúc ấy, có vô lượng vô số chư thiên Bồ-tát ở mười phương,
nói đã được đạo nhân duyên, họ tất cả đều nhờ pháp môn niệm Phật mà đắc
đạo. Đức Phật bèn nói với A-nan: “Quán Phật Tam-muội là thuốc của hết
thảy chúng sanh phạm tội, là thần thủ hộ của những người phá giới, là hướng
đạo của những kẻ lạc đường, là con mắt của những người mù, là trí tuệ cho
kẻ ngu, là ngọn đèn trong đêm tối, là tướng quân đại dũng mãnh trong giặc
phiền não, là sự du hý của chư Phật Thế tôn, là cửa vào các đại Tam-muội
Thủ Lăng Nghiêm...”
Đức Phật nói với A-nan: “Ông phải hộ trì kinh này cho tốt, chớ để quên.
Chư Phật ba đời quá khứ, vị lai và hiện tại cũng đều nói kinh Niệm Phật
Tam-muội này. Ta và chư Phật trong mười phương, và ngàn Phật thời Hiền
kiếp từ tối sơ bắt đầu phát Bồ-đề tâm, đều nhờ sức niệm Phật Tam-muội mà
được Nhất thiết chủng trí”.
Trong kinh Mục Liên Sở Vấn, Phật bảo Mục Kiền Liên: “Thí như trong trăm
ngàn dòng sông, mọi người đều bám vào bè cỏ nổi trên mặt nước, trái phải
trước sau đều không hẹn nhau, nhưng tất cả đều trôi ra biển. Thế gian cũng
vậy, dù là giàu sang, cuộc sống khoái lạc tự tại, cũng không tránh khỏi sanh
già bệnh chết. Chỉ vì không tin những lời trong kinh Phật nói, nên đời sau
khi làm người, càng khổ, và không được sanh vào những quốc độ có Phật”.
“Cho nên ta nói, quốc độ của Phật Vô Lượng Thọ, dễ vãng sanh, dễ chứng
đắc, nhưng mọi người lại không muốn sanh lên, mà lại theo các hàng ngoại
đạo khác. Ta gọi hạng người này, là những người không có mắt, cũng không
có lỗ tai”.
Trong kinh đều giảng như vậy, vì sao quý vị không bỏ con đường khó đi,
nương vào con đường dễ đi mà tu hành?

---o0o---

ĐẠI MÔN THỨ TƯ

Chia làm ba bộ phận để giảng:


- Các tam tạng pháp sư nước Thiên Trúc, cũng như chư đại đức nước ta, tất
cả đều thấu triệt hiểu rõ giáo pháp của Phật, và họ đều rất tán thán đồng thời
quy hướng Tịnh độ. Cho nên bây giờ lấy họ làm gương, khuyên mọi người
cũng quy hướng Tịnh độ.
- Căn cứ kinh Vô Lượng Thọ Phật và các kinh đại thừa khác, bất luận là tu
hành nhập đạo của phàm phu hay thánh nhân, đều nói niệm Phật Tam-muội
là cái chính yếu của nhập môn.
- Trả lời câu hỏi để hiển thị lợi ích công đức bất khả tư nghị mà người niệm
Phật đạt được.
I. Căn cứ vào sự tu hành của các đại đức Thiên Trúc và nước ta để học
hỏi.
Tôi là một người không biết gì, vì vậy đâu dám tự chủ trương. Chỉ có điều là
sau khi tôi đi du lịch nhiều nơi, tôi rất cung kính lời dạy của nhiều vị pháp sư
như: Tam tạng pháp sư Lưu Chi người Thiên Trúc, pháp sư Huệ Sủng, pháp
sư Đạo Tràng, pháp sư Đàm Loan, đại đức Tề Triêu, Thượng Thống.
Sáu vị đại đức này, đều thông tỏ hai đế Chân Tục, là rồng voi của Phật môn.
Ý chí vào sự tu hành của họ vượt xa mọi người, là những bậc tu hành xưa
nay hiếm có. Họ đều là những người đã thấu triệt tông chỉ đại thừa, nhưng
cũng đều tán thán quy hướng Tịnh độ, gọi Tịnh độ là cửa chính yếu vô
thượng.
Hỏi: Tuy họ đều tán thán quy hướng Tịnh độ, xưng là cửa chính yếu vô
thượng, nhưng không biết những vị đại đức ấy, khi lâm chung có gì linh ứng
chứng minh không?
Trả lời: Tất cả đều có sự thật căn cứ, như pháp sư Đàm Loan sanh tiền,
thường tu pháp môn Tịnh độ. Thường hay có một số người đời tới mắng
chửi ngài rằng: “Các quốc độ Phật mười phương đều là Tịnh độ, pháp sư vì
sao chỉ chú trọng Tây phương Tịnh độ, điều này chẳng phải khởi thiên kiến
sao?”
Pháp sư trả lời: “Tôi là phàm phu, trí huệ thiển bạc. Quả vị còn chưa chứng
nhập, nên sức niệm Phật cần phải tập trung. Như đặt cỏ vào máng cho bò,
con bò phải tâm tâm niệm niệm để nơi máng cỏ. Vì vậy tâm niệm đâu thể
phóng túng, mà không quy hướng?”
Tuy những người phản đối nói đủ thứ, nhưng pháp sư vẫn tu Tịnh độ. Vì vậy
bất luận xuất gia hay tại gia, chỉ cần gặp pháp sư một lần, nếu ai chưa có
chánh tín Phật pháp, thì khuyên họ khởi niềm tin. Còn nếu ai đã có chánh
tín, thì khuyên họ vãng sanh Tịnh độ. Cho nên khi pháp sư lâm chung,
chúng xuất gia, tại gia các chùa phụ cận, đều thấy cờ phướn và hoa trời ánh
đầy hư không trong chùa, lại nghe các mùi hương lạ, còn có tiếng âm nhạc
đến đón pháp sư.
Những vị đại đức kia, khi lâm chung, cũng có những điềm lành. Tình huống
vãng sanh của họ, cũng thật bất khả tư nghì.
II. Thuyết minh các kinh điển, đều nói sự thù thắng của niệm Phật
Tam-muội.
Có 8 phần. Hai phần trước thuyết minh nhất tướng Tam-muội, sáu phần sau
thuyết minh niệm Phật Tam-muội.
1. Trong kinh Phật Thuyết Hoa thủ, Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý: “Tam-muội có
hai loại, một là nhất tướng Tam-muội, một là chúng tướng Tam-muội. Nhất
tướng Tam-muội là, có Bồ-tát nghe nói có một thế giới, trong đó có Phật
đang thuyết pháp. Thế là Bồ-tát liền tưởng tượng đức Phật ấy xuất hiện
trước mắt, hoặc là đang tu hành thành Phật, hoặc là đang thuyết pháp cho đại
chúng.
“Trong khi tưởng tượng như vậy, liền thu nhiếp sáu căn, tâm không chút
động loạn, luôn nghĩ đến đức Phật ấy, không ngừng tưởng tượng cảnh giới
này. Và Bồ-tát ấy, biết một cách thấu triệt tướng Phật và thế giới đều không.
Nếu Bồ-tát luôn quán chiếu được như thế, tâm không rời cảnh giới ấy, thì
Phật liền xuất hiện trước mặt, nói pháp cho Bồ-tát.”
“Lúc ấy Bồ-tát liền sanh khởi niềm cung kính sâu xa, tin sâu pháp Phật nói,
bất luận là pháp ấy sâu hay cạn, đều rất tôn trọng. Bồ-tát lúc ấy trú trong
Tam-muội, nghe Phật nói tướng các pháp đều không thật, liền thọ trì. Bồ-tát
sau khi ra khỏi Tam-muội, liền có khả năng nói pháp cho hai chúng xuất gia
tại gia.”
Phật nói với Bồ-tát Kiên Ý rằng: “Đó gọi là Bồ-tát vào cửa Nhất Tướng
Tam-muội.”
2. Trong kinh Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma Ha Bát-nhã Ba La Mật Đa, nói
đến Nhất Hạnh Tam-muội.
Lúc bấy giờ Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: “Bạch Thế tôn, thế nào gọi là Nhất
Hạnh Tam-muội?”
Phật nói: “Nhất Hạnh Tam-muội là, có thiện nam tử hay thiện nữ nhân, lúc
rỗi rãi, tâm không tán loạn, hướng về phía Phật, ngồi thẳng, cũng không nhớ
đến hình ảnh Phật, chỉ một lòng xưng danh hiệu Phật không ngừng. Ngay
trong niệm Phật, liền thấy được chư Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị
lai. Vì sao? Bởi vì công đức niệm một vị Phật vô lượng vô biên, bằng với
niệm vô lượng chư Phật, đây gọi là Bồ-tát tu Nhất Hạnh Tam-muội.”
3. Trong kinh Niết-bàn, Phật nói: “Nếu ai với tâm cực kỳ chuyên chú,
thường tu niệm Phật Tam-muội, thì mười phương chư Phật luôn thấy người
ấy, như ở trước mặt họ vậy.”
Cho nên trong kinh Niết-bàn, Phật nói với Bồ-tát Ca-diếp: “Nếu thiện nam
tử thiện nữ nhân nào, luôn niệm Phật với tâm cực kỳ chuyên chú, bất luận ở
núi rừng hay thô ấp, ban ngày hay ban đêm, nằm ngồi hay đứng đi, thì chư
Phật luôn thấy họ, như đang ở trước mặt vậy, chư Phật Thế tôn thường dừng
lại và tiếp nhận phẩm vật cúng dường của họ.”
4. Kinh Quán Vô Lượng Thọ và các kinh đại thừa khác đều nói, bất cứ công
đức tu nào của hành giả, chỉ cần phát nguyện hồi hướng, thì nhất định sẽ
vãng sanh. Tuy nhiên niệm Phật là con đường chủ yếu nhất, vì sao? Có thể
thấy từ trong kinh Phật, có hai loại lợi ích bắt đầu và kết thúc. Nếu muốn bắt
đầu tu hành thiện pháp, thì niệm Phật bao quát cả lục độ. Nếu muốn diệt trừ
ác nghiệp, tiêu trừ tai ương, thì niệm Phật có thể đối trị tất cả chướng ngại.
Cho nên kinh nói: “Hành giả một lòng niệm Phật, khi mạng chung nhất định
vãng sanh.” Đó là chỗ lợi ích của bắt đầu niệm Phật.
Chỗ lợi ích của rốt ráo niệm Phật là, trong kinh Quán Thế Âm Bồ-tát Thọ
Ký nói, thời gian Phật A-di-đà trụ thế rất lâu, dù cho thời gian lâu xa cách
mấy, cũng có lúc diệt độ. Khi Phật A-di-đà vào Niết-bàn, chỉ có Bồ-tát Quán
Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí làm chủ nước An Lạc, tiếp dẫn chúng sanh
mười phương. Thời gian Phật A-di-đà diệt độ, lâu dài ngang bằng với thời
gian Ngài trụ thế, và những chúng sanh nước đó, đều không gặp được Phật
A-di-đà. Chỉ có những người trước kia một lòng niệm Phật A-di-đà mà vãng
sanh, thì được thấy Phật A-di-đà ở trước mắt, như chưa từng diệt độ, đó là
lợi ích của thời cuối.
Người tu các pháp môn khác mà hồi hướng vãng sanh, tuy cũng được vãng
sanh Tịnh độ, nhưng sau khi Phật A-di-đà diệt độ, thì trong số họ có người
thấy Phật mà cũng có người không thấy Phật. Cho nên ở đây khuyến cáo
người đời sau nên nghĩ kỹ, để được lợi ích lâu dài.
5. Kinh Ban Chu Tam-muội nói, lúc bấy giờ có Bồ-tát Bạt-đà-hòa, ở trong
quốc độ ấy nghe nói có Phật A-di-đà, liền một lòng niệm Phật, nhờ một lòng
niệm Phật nên được gặp Phật A-di-đà. Sau khi thấy Phật A-di-đà, ngài liền
hỏi Phật: “Bạch Thế tôn, phải tu hành pháp môn nào mới được sanh lên Tây
phương Tịnh độ?”
Phật A-di-đà liền nói với Bồ-tát Bạt-đà-hòa: “Muốn sanh lên nước ta, thì
phải thường niệm danh hiệu ta, không được ngừng nghỉ, thì liền được sanh
lên nước ta.”
6. Trong Đại Trí Độ Luận có ba cách giải thích:
a. Phật là bậc pháp vương vô thượng, Bồ-tát là đại thần của pháp vương. Bậc
mà Bồ-tát tôn trọng, chỉ có chư Phật Thế tôn, cho nên Bồ-tát phải thường
nhất tâm niệm Phật.
b. Chư Bồ-tát nói: “Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta được đức Thế tôn
nuôi dưỡng pháp thân, trí huệ thân và đại từ bi thân. Thiền định, trí huệ và
vô lượng hạn nguyện cũng nhờ chư Phật mà được thành tựu. Để báo đáp ân
đức của Phật, nên thường mong muốn thân cận Phật. Cũng như đại thần
được ân huệ và sủng ái của vua, nên luôn nghĩ đến chủ nhân của họ.”
c. Một Bồ-tát nói: “Khi tôi ở nhân địa tu hành, gặp ác tri thức, đã huỷ báng
Bát-nhã mà đọa trong ác đạo qua vô lượng kiếp. Tôi đã tu nhiều pháp môn,
nhưng không ra được sanh tử. Sau có một lần, gặp một thiện tri thức, anh ta
dạy tôi tu niệm Phật Tam-muội, liền đốn trừ các chướng ngại mà được giải
thoát. Do đại lợi ích này, cho nên tôi phát nguyện không rời Phật.”
7. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tình nguyện trong vô lượng kiếp chịu tất cả khổ
đau; tình nguyện không rời xa Phật, ngay cả những đức Phật không thấy
được sức tự tại vốn có của mình.”
Trong kinh lại nói: “Tu niệm Phật Tam-muội nhất định được thấy Phật, sau
khi mạng chung nhất định sẽ sanh ra trước Phật. Lúc thấy chúng sanh lâm
chung, nên khuyên họ niệm Phật, đem tượng Phật đến trước mặt họ, để họ
chiêm ngưỡng lễ bái”.
Thiện Tài đồng tử tham phỏng thiện tri thức, khi bái phỏng Tỳ-kheo Công
Đức Vân nói: “Thưa đại sư, Thầy tu đạo Bồ-tát như thế nào, mà hướng về
hạnh nguyện Bồ-tát Phổ Hiền?”
Tỳ-kheo Công Đức Vân trả lời: “Tôi ở trong biển trí tuệ của Thế tôn, chỉ biết
có một pháp môn, đó là Niệm Phật Tam-muội. Trong môn Niệm Phật Tam-
muội này, có thể thấy được tất cả chư Phật và quyến thuộc của các ngài, còn
có Phật độ trang nghiêm thanh tịnh của các ngài nữa. Pháp môn này, có thể
làm cho chúng sanh lìa xa điên đảo. Pháp môn Niệm Phật Tam-muội, có thể
trong cảnh giới nhỏ nhiệm, thấy được tất cả cảnh giới tự tại của Phật, được
nhiều kiếp không điên đảo. Pháp môn Niệm Phật Tam-muội, có thể hiện
khởi tất cả quốc độ Phật, không vật gì có thể làm hư hoại quốc độ Phật này.
Có thể thấy được chư Phật mười phương, mà được ba đời không điên đảo”.
Tỳ-kheo Công Đức Vân nói với Thiện Tài đồng tử: “Phật pháp rộng sâu như
biển, rộng đến không có bờ mé, cái mà tôi biết, chỉ là pháp môn Niệm Phật
Tam-muội mà thôi. Những cảnh giới đẹp đẽ mầu nhiệm khác, nhiều không
thể đếm hết, tôi không được biết”.
8. Trong kinh Hải Long Vương, Hải Long Vương hỏi Phật: “Bạch đức Thế
tôn, con muốn cầu sanh lên cõi Phật A-di-đà, nhưng không biết phải tu pháp
môn gì mới được sanh lên Tịnh độ ấy?”
Phật nói với Hải Long Vương: Muốn sanh lên nước Phật ấy, phải tu tám
pháp. Tám pháp nào?
a. Thường phải niệm Phật.
b. Cúng dường Như Lai.
c. Tán thán Thế tôn.
d. Phải tạo tượng Phật, tu hành các công đức.
e. Phải hồi hướng phát nguyện vãng sanh.
f. Không được sợ hãi nhu nhược.
g. Phải một lòng tinh tấn.
h. Phải truy cầu trí tuệ chân chánh của Phật.
Phật nói với Hải Long Vương: “Tất cả chúng sanh chỉ cần đầy đủ tám pháp
này, thì sẽ không rời Phật”.
Hỏi: Nếu không đủ tám pháp này, có được sanh lên cõi Phật, để được không
rời Phật không?
Trả lời: Được vãng sanh chứ. Làm sao biết? Bởi trong kinh Bảo Vân, Phật
có nói đầy đủ thập hạnh, cũng được vãng sanh, thường không rời Phật.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng hỏi Phật: “Nếu không đủ thập hạnh, có được vãng
sanh không?”
Phật trả lời: “Được. Chỉ cần trong mười hạnh này, đầy đủ công đức một
hạnh, thì chín hạnh kia cũng có thể gọi là thanh tịnh, nên chớ hòai nghi”.
Trong kinh Đại Thọ Khẩn Na La Vương nói, Bồ-tát tu hành bốn pháp, liền
được thường không rời Phật. Bốn pháp gì?
a. Tự mình tu hành thiện pháp, cũng khuyên chúng sanh cầu vãng sanh để
thấy Phật.
b. Khuyên mình khuyên người thích nghe chánh pháp.
c. Khuyên mình khuyên người phát tâm Bồ-đề.
d. Lập chí không thay đổi, luôn tu Niệm Phật Tam-muội. Đủ bốn pháp này
thì dù sanh ra ở đâu cũng luôn ở trước mặt Phật, không rời xa Phật.
Trong kinh lại nói, Phật nói pháp tu hành của Bồ-tát, như ba mươi hai loại
đồ đựng. Như bố thí thì là đồ đựng được đại giàu sang, trì giới thì là đồ đựng
được thân thánh quả, nhẫn nhục thì là đồ đựng được đoan chánh, ngũ nghịch
bất hiếu thì là đồ đựng được núi đao rừng kiếm chảo dầu sôi, phát tâm Bồ-đề
là đồ đựng được thành Phật, thường niệm Phật cầu sanh Tịnh độ thì là đồ
đựng được thấy Phật.
Chỉ lược nói chừng đó, còn nhiều lắm! Nhiều kinh Phật đã nói như vậy,
những hành giả phát nguyện vãng sanh, sao không thường niệm Phật?
Trong kinh Nguyệt Đăng Tam-muội nói, niệm 32 tướng và 80 vẻ đẹp của
Phật, còn có niệm đức hạnh Phật, có thể làm cho hành giả sáu căn không
loạn động, tâm không mê hoặc, hội hợp được với chánh pháp, có thể nghe
Phật thuyết pháp, có thể hoạch được trí huệ lớn như biển. Người có trí tuệ
nhiếp niệm trong Niệm Phật Tam-muội, thì có thể gặp muôn ức chư Như
Lai, cũng gặp được vô lượng hằng hà sa Phật.

III. Trả lời câu hỏi để làm rõ đủ các sự lợi ích của Niệm Phật Tam-
muội.
1. Câu hỏi thứ nhất: Thường tu Niệm Phật Tam-muội, có phải là không tu
các Tam-muội khác không?
Trả lời: Chúng tôi nói thường niệm Phật, hòan toàn không nói không tu các
Tam-muội khác. Vì thời gian tu Niệm Phật Tam-muội nhiều, nên nói thường
niệm Phật, chớ không phải nói hòan toàn không tu các Tam-muội khác.
2. Câu hỏi thứ hai: Ngài khuyên mọi người thường Niệm Phật Tam-muội,
vậy sự cao thấp giữa Niệm Phật Tam-muội và các Tam-muội khác như thế
nào?
Trả lời: Sự thù thắng của Niệm Phật Tam-muội là không thể nghĩ bàn. Vì
sao biết? Thí như trong Ma-ha-diễn nói, các Tam-muội khác chẳng phải là
Tam-muội. Vì sao? Bởi vì có Tam-muội chỉ trừ tâm tham, mà không thể trừ
tâm sân tâm si. Có Tam-muội chỉ trừ tâm sân mà không thể trừ tâm tham
tâm si... Có Tam-muội chỉ trừ những chướng ngại trong hiện tại mà không
trừ được tất cả chướng ngại của quá khứ, tương lai. Nhưng nếu thường tu
Niệm Phật Tam-muội, thì bất kể những chướng ngại quá khứ, hiện tại, tương
lai đều trừ được hết.
3. Câu hỏi thứ ba: Niệm Phật Tam-muội trừ được tất cả chướng ngại, được
đại phước đức, nhưng không biết có làm cho hành giả được tăng thọ không?
Trả lời: Nhất định là được. Vì sao? Như trong kinh Duy Vô Tam-muội nói,
có hai anh em, người anh tin nhân quả, người em không tin, nhưng rất hiểu
tướng mạo. Một hôm, người em nhìn vào gương thấy trên mặt mình xuất
hiện tướng chết, nhiều nhất không qua bảy ngày là chết. Có một người có trí
tuệ, bảo anh ta đến thỉnh vấn Phật.
Phật bảo: “Trong bảy ngày chết không sai, nhưng nếu con một lòng niệm
Phật, trì giới thì có thể vượt qua nạn này.”
Người em lập tức theo lời Phật, một lòng một dạ niệm Phật. Đến ngày thứ
sáu, có hai con quỷ đến muốn bắt anh ta, nhưng nghe tiếng anh ta niệm Phật,
nên không cách gì đến gần được. Thế là quỷ trở về báo cáo lại cho Diêm La
Vương. Diêm La Vương lấy thẻ sống chết của người em ra xem, thấy ghi:
“Người này nhờ công đức niệm Phật trì giới, sau khi chết sanh về trời Diệm-
ma”.
Trong kinh Thí Dụ, có một vị trưởng giả, không tin làm lành có phước, làm
ác có tội. Năm 50 tuổi, một hôm nằm mơ thấy quỷ La-sát, cầm thẻ thâu
mạng nói, trong mười ngày sẽ đến lấy mạng ông. Sau khi tỉnh dậy, trưởng
giả rất là sợ hãi. Trời sáng, trưởng giả đi tìm thầy đoán mộng, thầy đoán
mộng bốc quẻ, trên quẻ nói: “Trong mười ngày, quỷ La-sát sẽ đến hại ông”.
Trưởng giả càng lo sợ, bèn đi tìm Phật cứu mạng, Phật nói: “Nếu ông muốn
tránh nạn này, thì từ hôm nay trở đi, phải chuyên tâm niệm Phật, trì giới, đốt
hương đèn, treo cờ xí, quy y Tam bảo, như vậy có thể khỏi chết”.
Trưởng giả y lời, chuyên tâm niệm Phật, quy hướng Tam bảo. Kết quả La-
sát đến nhà, thấy vậy không hại được, bèn bỏ đi. Trưởng giả nhờ tu những
công đức này, rốt cuộc sống đến trăm tuổi, sau khi chết được sanh lên cõi
trời.
Lại có một vị trưởng giả, tên Chấp Trì, mang trả hết giới luật Phật đã dạy
cho ông ta, kết quả bị ác quỷ đánh cho một trận.
4. Câu hỏi thứ tư: Niệm Phật có khả năng đối trị tất cả chướng ngại và quả
báo trong kiếp hiện tại, không biết có cảm ứng đến Vô thượng Bồ-đề xuất
thế gian lâu xa về sau không?
Trả lời: Đương nhiên là được. Vì sao? Như trong kinh Hoa Nghiêm phẩm
Thập Địa nói: “Bắt đầu từ sơ địa, cho đến thập địa, trong mỗi địa, đều nói
gia hạnh đạo tiến vào địa này.” Sau khi tu đầy đủ công đức mỗi địa, hành giả
hoạch được lợi ích tự lợi, nhưng vẫn không trụ trong đạo này, cuối cùng đều
tổng kết rằng: “Những Bồ-tát đăng địa, tuy tu các pháp môn khác, nhưng
đều không rời niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, lấy những vật khoái lạc mỹ
diệu vô thượng cúng dường Tam bảo”.
Từ văn kinh này có thể chứng biết, chư Bồ-tát cho dù chứng đắc những quả
vị như trên, cũng vẫn luôn tu niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, mới thành
tựu được tu hành và thệ nguyện vô lượng, mới viên mãn được biển lớn công
đức. Huống hồ nhị thừa và phàm phu, muốn cầu sanh Tịnh độ lại không
thường niệm Phật. Vì sao? Vì Niệm Phật Tam-muội, đầy đủ tất cả Tứ Nhiếp
pháp và pháp Lục độ, đồng bạn đồng hành với các pháp đến Niết-bàn.
5. Câu hỏi thứ năm: Bồ-tát chứng Sơ địa trở lên, giống Phật đã chứng lý
chân như, gọi là sanh vào nhà chư Phật, bản thân đã có thể làm Phật, cứu độ
chúng sanh, cần gì phải tu Niệm Phật Tam-muội, phát nguyện thấy Phật?
Trả lời: Lý chân như rộng lớn vô bờ, như hư không, khó mà biết được hạn
lượng của nó. Như ngôi nhà tối tăm, nếu chỉ thắp một hai ngọn đèn, thì tuy
cả ngôi nhà đều chiếu sáng, nhưng vẫn còn rất tối. Cho dù số đèn tăng nhiều,
có thể nói là rất sáng, nhưng, làm sao so sánh được với mặt trời? Trí tuệ mà
Bồ-tát chứng được, tuy mỗi địa cao thấp khác nhau, nhưng làm sao so sánh
được với Phật ánh sáng của mặt trời?

---o0o---

ĐẠI MÔN THỨ NĂM


Chia làm bốn phần để giảng.
- Thuyết minh sự dài ngắn của thời gian tu để nhanh hoạch được quả vị bất
thoái.
- Phân biệt sự khác nhau của cõi Ta-bà này và Tịnh độ trong thiền quán,
khuyên mọi người vãng sanh.
- Cảnh giới khác nhau của cõi uế này và cõi Tịnh độ, cũng gọi là sự so sánh
hữu lậu và vô lậu.
- Dẫn dụng kinh điển chứng minh, khuyên người đời sau khởi tín tâm cầu
vãng sanh.
I. Thuyết minh sự dài ngắn của thời gian tu.
Có hai phần:
1. Thuyết minh sự dài ngắn của thời gian tu.
Hết thảy chúng sanh không ai là không chán khổ thích sướng. Ai cũng sợ
trói buộc, mong cầu giải thoát, ai cũng muốn sớm chứng đắc vô thượng Bồ-
đề. Vì vậy, trước tiên cần phải phát khởi Bồ-đề tâm, mà tâm Bồ-đề này rất
khó biết, rất khó phát khởi. Cho dù đã phát tâm Bồ-đề, trong kinh nói, phải
trải qua tu mười công đức tín tâm, tinh tấn, ức niệm, giới luật, thiền định, trí
tuệ, xả tâm, hộ pháp, phát nguyện, hồi hướng mới tiến bộ trên con đường
Bồ-đề. Lại nữa cái thân thể tu tập này, còn phải trải qua thời gian lâu xa một
vạn kiếp tương tục không ngừng mới chứng được quả vị bất thối.
Nhưng phàm phu hiện tại, trước mắt chỉ được gọi niềm tin nhẹ như lông
hồng, cũng gọi là tên gọi giả có, cũng gọi là bất định tụ, cũng gọi là ngoại
phàm phu, chưa thể ra khỏi ngôi nhà lửa tam giới. Vì sao biết? Bởi vì căn cứ
trong kinh Bồ-tát Anh Lạc nói, thì hòan toàn phải đầy đủ những quả vị vào
đạo chính là như vậy, cho nên gọi là đường khó đi.
Lại nữa trong một kiếp, thân trải qua sống chết đếm không xuể, huống hồ gì
trong một vạn kiếp, luôn chịu đau khổ lửa đốt. Nếu tin được những lời Phật
nói trong kinh, phát nguyện cầu sanh Tịnh độ, bất luận đời này thọ hay yểu,
chỉ cần vãng sanh, thì liền được lên ngôi bất thoái, ngang với công đức tu
một vạn kiếp. Này chư Phật tử, sao không thử nghĩ xem, bỏ con đường khó
đi, mà chuyển qua tu con đường dễ đi?
Trong luận Câu Xá, cũng có đề cập đến đường dễ đi và đường khó đi. Trong
luận nói, con đường khó đi là mỗi kiếp trong ba đại a-tăng-kỳ kiếp đều phải
đầy đủ tư lương phước đức, trí tuệ, còn phải tu lục độ vạn hạnh. Và trong
mỗi pháp tu, còn phải trải qua hàng vạn con đường khó đi, mới chứng được
một quả vị, đây gọi là đường khó đi.
Luận ấy lại nói, đường dễ đi là có pháp môn phương tiện đặc biệt, mà đạt
đến mục đích giải thoát, đây gọi là đường dễ đi.
Bây giờ khuyên mọi người quy hướng thế giới Cực Lạc, đem hết công đức
tu tập hồi hướng vãng sanh Tịnh độ. Chỉ cần hết lòng niệm Phật, thì khi
mạng chung nhất định vãng sanh. Chỉ cần được sanh lên nước ấy, thì liền
được khoái lạc, đó không phải là con đường dễ đi sao? Mọi người phải biết
lý này!
2. Trả lời câu hỏi:
Anh nói chỉ cần phát nguyện vãng sanh Tịnh độ, thì sau khi mạng chung,
liền được vãng sanh, có kinh nào chứng minh không?
Trả lời: Có. Có tới mấy kinh luận minh chứng điều này.
a. Trong kinh Vô Lượng Thọ nói, Phật bảo A-nan: “Nếu có chúng sanh
muốn trong đời này thấy Phật Vô Lượng Thọ, thì nên phát tâm Bồ-đề vô
thượng, tu các công đức, phát nguyện sanh về nước Vô Lượng Thọ, thì liền
được vãng sanh.”
Cho nên kinh Vô Lượng Thọ khen ngợi: “Nếu nghe danh hiệu của Phật A-
di-đà, liền phát khởi tâm hoan hỷ tán thán ngưỡng mộ quy y, thậm chí chỉ
cần khởi một niệm tâm này, liền thu được lợi ích rất lớn, liền đầy đủ bảo
tạng công đức. Chỉ cần nghe danh hiệu của Phật A-di-đà, liền được không
còn thoái chuyển, cho nên phải dùng tâm chí thành đảnh lễ Phật A-di-đà.”
b. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ nói, trong cửu phẩm, chỉ cần khi lâm
chung tâm chánh niệm, thì liền được vãng sanh.
c. Trong Đại Thừa Khởi Tín Luận nói, phải dạy các chúng sanh, khuyên mọi
người quán chiếu tánh chân như là bình đẳng, đồng nhất, chân thật. Có
những Bồ-tát mới bắt đầu phát tâm Bồ-đề, tâm họ còn rất yếu, cho rằng nếu
chính mình không thường gặp được chư Phật, được chư Phật dạy dỗ, được
cúng dường chư Phật, tì có thể sẽ thối tâm. Như Lai có pháp môn phương
tiện thù thắng, để thâu nhiếp thủ hộ tín tâm của họ, chính là phải chuyên tâm
niệm Phật, liền được theo sở nguyện mà vãng sanh Tịnh độ. Nhờ thường
được thấy Phật, nên vĩnh viễn xa rời ác đạo.
d. Trong kinh Cổ Âm Đà-la-ni, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Ở Thế giới Cực Lạc
phương ây, hiện tại có Phật hiệu A-di-đà. Nếu bốn chúng đệ tử với tâm
chánh tín thọ trì danh hiệu Phật A-di-đà, với tâm kiên cố nhớ Phật A-di-đà,
trong mười ngày đêm, liền hết loạn tâm, rất tinh tiến siêng năng tu tập Niệm
Phật Tam-muội. Nếu niệm niệm không ngừng, trong mười ngày đêm, chắc
chắn sẽ thấy Phật A-di-đà, cũng được vãng sanh về nước Cực Lạc.
e. Trong kinh Pháp Cổ nói: “Nếu có người khi lâm chung, không niệm Phật
được, nhưng biết phương tây có Phật, trong lòng khởi niệm cầu vãng sanh
Tịnh độ, cũng được vãng sanh.”
g. Trong kinh Thập Phương Tuỳ Nguyện Vãng Sanh nói: “Nếu có người bên
lề cái chết, hoặc sau khi chết đọa địa ngục, nếu bà con quyến thuộc niệm
Phật, tụng kinh, trai tăng hồi hướng phước đức cho người chết, người chết
liền ra khỏi địa ngục, mà được sanh về Tịnh độ.” Huống hồ bây giờ chính
mình niệm Phật, tại sao không được vãng sanh?”
Cho nên kinh ấy lại nói: “Người sống làm phước cho người chết, như cúng
cho ông bà tổ tiên, nhất định người chết hưởng được.”
h. Dẫn dụng các kinh chứng minh, trong kinh Đại Pháp Cổ nói: “Nếu thiện
nam tử thiện nữ nhân, hết lòng xưng danh hiệu chư Phật, thì chư Phật và
thánh chúng trong mười phương luôn hiện tiền trước mặt. Vì thế bộ kinh
này, có tên là Đại Pháp Cổ. Nên biết, người này có thể theo tâm nguyện của
mình mà vãng sanh lên các cõi Tịnh độ trong mười phương.”
Kinh Đại Bi nói: “Sao gọi là đại bi? Nếu một lòng niệm Phật, tâm chuyên
nhất tương tục, thì sau khi mạng chung, nhất định sanh về nước An Lạc. Còn
nếu khuyên người khác niệm Phật, thì những người này đều được gọi là tu
hành đại bi tâm.”
 Cho nên trong kinh Niết-bàn, Phật nói với đại vương: “Giả sử đại vương mở
kho lớn, trong một tháng bố thí hết đồ trong kho, thì công đức có được
không bằng công đức của một người niệm một danh hiệu Phật. Công đức
của người niệm Phật, hơn những người bố thí trên nhiều không thể tính
đếm.”
Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, Phật hỏi A-nan: “Nếu có một người cúng
dường cho tất cả những người của cõi Diêm-phù này cơm ăn, áo mặc,
giường nằm, thuốc thang thì công đức mà người ấy thu được có nhiều
không?”
A-nan trả lời: “Thưa đức Thế tôn, rất nhiều”.
Phật bảo A-nan: “Nếu một người xưng danh hiệu Phật với tâm chuyên nhất,
thời gian chỉ cần ngắn như búng tay, thì công đức của người ấy vượt hơn
người kia không thể tính đếm”.
Trong kinh Đại Phẩm nói: “Nếu có người niệm Phật với tâm tán loạn, cho
đến mạng chung, thì phước báo cũng rất lớn. Nếu có người rải hoa đồng thời
niệm danh hiệu Phật, cho đến mạng chung, thì phước báo cũng nhiều vô số”.
Cho nên biết lợi ích niệm Phật rất lớn, là không thể nghĩ bàn.
Ngoài ra, kinh Thập Vãng Sanh và các kinh đại thừa đều có nói lợi ích của
việc niệm Phật, nhưng nhiều quá không thể mỗi mỗi đều dẫn ra.

II. So sánh sự khác nhau của tu thiền và tu quán ở thế giới này và thế
giới Cực Lạc, và khuyên mọi người vãng sanh Tịnh độ.
Thế giới này dơ uế, tâm người tán loạn, khó đi vào định để quán chiếu. Cho
dù có quán chiếu được, thì cũng chỉ là thu được định cảnh trên sự tướng mà
thôi, vả lại người ta phần nhiều vẫn còn trầm mê trong cảnh định này. Ngoài
ra cũng chỉ có thể tích phước, sanh lên cõi trời, đến khi hết phước, lại đọa
xuống hạ giới.
Vì vậy Đại Trí Độ Luận nói: “Bác học đa văn lại trì giới tu thiền định, khi
chưa được pháp vô lậu, tuy có chút ít công đức, vẫn không dám chắc là
không mắc sai lầm. Còn nếu tu tập ở Tây phương Cực Lạc, ở đó sự tướng và
hòan cảnh quang minh và sạch sẽ, trong thiền định quán chiếu dễ thành tựu,
nhờ đó có thể trừ được tội nghiệp vô lượng kiếp. Vì luôn ở trong định, cho
nên tiến bộ nhanh chóng, rốt ráo thanh tịnh”. Như kinh Vô Lượng Thọ nói.
Hỏi: Nếu cảnh giới của Tây phương Tịnh độ thù thắng, dễ dàng thiền định,
vậy thì trời sắc giới của thế giới Ta-bà này, đáng lẽ không tu thiền được.
Trả lời: Tu thiền thì Ta-bà và Tịnh độ như nhau, nhưng vì thế giới Cực Lạc
hễ sanh lên là được bất thoái, lại được sự gia trì của Phật lực, cho nên nói là
thù thắng hơn. Ở cõi Ta-bà tu thiền định, chỉ có dựa vào sức mình, mà
không có Phật lực gia trì, thì khi bỏ thân này, đời sau không tránh khỏi sẽ
thoái đọa, cho nên nói không bằng Tây phương Tịnh độ.

III. Uế độ Ta-bà và Tây phương Tịnh độ cũng gọi là hữu lậu và vô lậu.
Nói đến cảnh giới chúng ta đang ở trước mắt, đầy những tình cảnh xấu ác
đồi núi lởm chởm, cây cối gai góc, thú dữ rắn độc, bão táp sấm chớp, giặc
giã trộm cướp, tai nạn nước lửa, con cái bất hiếu, ôn dịch đói khát...
Nói đến chánh báo sắc thân của chúng ta, có ba độc tham sân si, có tám đảo
thường, lạc, ngã, tịnh, phi thường, phi lạc, phi ngã, phi tịnh, có ưu bi, khổ
não, có những khổ đau bệnh tật, chết sớm, đói khát, nóng lạnh... nhiều nói
không thể hết, nên gọi là hữu lậu, quả thật đáng chán lìa.
Chỗ thù thắng của vãng sanh nước An lạc, căn cứ kinh Vô Lượng Thọ nói,
nhân loại và chư thiên mười phương thế giới, chỉ cần sanh lên nước ấy, đều
thu được đủ các lợi ích. Những lợi ích nào? Những người sanh lên nước ấy,
khi đi có hoa sen sắc vàng đỡ gót, khi ngồi có toà bảy báu nâng thân, ra cửa
có chúa trời Đao lợi mở cửa, vào nhà thì có Phạm Thiên Vương theo sau.
Hết thảy thánh nhân đều là bạn thân của ta, Phật A-di-đà là thầy ta. Dưới
rừng cây báu, có thể tuỳ ý bay lượn; trong hồ nước tám công đức, có thể du
ngoạn rửa chân, thọ mạng dài bằng Phật. Trong tu học, tất cả pháp môn có
thể đồng thời thực hành; khi ngừng tu, thì hai đến Chân Tục dung thông.
Khi ra cứu độ chúng sanh khắp mười phương, thì dùng sức đại thần thông.
Tạm thời an trụ thì ngồi trong ba cửa giải thoát không, vô tướng, vô tác. Du
hành thì đi vào đường Bát chánh đạo. Đích đến là đạt đến cảnh giới Đại
Niết-bàn. Hết thảy chỉ cần sanh lên nước ấy, thì tất cả đều được lợi ích ấy.
Do đó, tại sao không muốn đến mau?

IV. Dẫn chứng những người tu hành thành tựu trong kinh Phật, để
khuyên người đời sau phát nguyện cầu vãng sanh.
Kinh Quán Phật Tam-muội nói, trong pháp hội, chư Phật mười phương đều
tự tại kiết-già trên đài liên hoa, xuất hiện trong không trung.
Thiện Đức Như Lai đại biểu chư Phật phương đông, nói với đại chúng:
“Quý vị nên biết, vào thời vô lượng kiếp lâu xa, có đức Phật ra đời tên là
Bảo Oai Đức Thượng Vương, ngài cũng như Phật hiện tại nói pháp ba thừa.
Sau khi Phật ấy diệt độ, trong thời mạt pháp, có một vị Tỳ-kheo, dẫn chín
người đệ tử, đến tháp lễ lạy tượng Phật”.
“Họ thấy tượng Phật được tôn tạo quá đẹp, nên sau khi lễ bái xong, họ còn
đứng ngắm mãi, rồi họ cùng nói lên một bài kệ, tán thán công đức tướng hảo
của Phật rồi mệnh chung”.
“Sau khi họ mệnh chung, đều sanh vào nước có Phật. Từ đó về sau, họ gặp
vô lượng chư Phật, và rộng tu vô lượng phạm hạnh thanh tịnh, cuối cùng
hoạch đắc Niệm Phật Tam-muội. Sau khi được Niệm Phật Tam-muội, chư
Phật xuất hiện trước mặt thọ ký cho họ, rồi họ tuỳ ý làm Phật trong thế giới
mười phương.”
“Phật Thiện Đức ở phương đông chính là ta, còn Phật ở chín phương khác,
chính là chín người đệ tử của ta. Chư Phật mười phương này, nhờ đến tháp
lễ Phật, đồng thời dùng kệ tán thán Phật mà cuối cùng được thành Phật, họ
là ai khác? Chính là Phật mười phương của chúng ta”.
Chư Phật mười phương lúc bấy giờ, đến từ không trung, phóng ra ngàn loại
ánh sáng, trong ánh sáng hiện ra sắc thân của các ngài, trong bạch hào phóng
ra vô lượng ánh sáng, chư Phật mười phương này đều ngồi trên toà của đức
Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni.
Chư Phật mười phương nói với A-nan: “Ông có biết Phật Thích-ca Văn, đã
trải qua vô lượng kiếp tinh tấn, tu muôn ngàn khổ hạnh để cầu trí tuệ Phật,
cuối cùng mới được thành Phật không? Hiện tại chúng tôi nói cho ông, chính
là điều này đây. Ông phải lấy lời của chư Phật mười phương, nói lại cho trời
rồng, bốn chúng đệ tử đời sau, phải quán tưởng ba mươi hai tướng tốt và tám
mươi vẻ đẹp của Phật và Niệm Phật Tam-muội.”
Sau khi chư Phật mười phương nói xong lời này, liền thăm hỏi Phật Thích-
ca Văn. Sau khi thăm hỏi xong, liền trở về Phật quốc của mình.

---o0o---

ĐẠI MÔN THỨ SÁU

Có 3.
- So sánh Tịnh độ mười phương.
- Suy luận ngay nơi nghĩa lý.
- Biện biệt những sự việc Phật trụ thế và Phật diệt độ mà trong kinh điển nói.
I. So sánh Tịnh độ mười phương, có 3.
1. Trong kinh Tuỳ Nguyện Vãng Sanh nói, các Phật quốc trong mười
phương thế giới đều trang nghiêm thanh tịnh, hành giả có thể tuỳ ý nguyện
vãng sanh. Tuy vậy, nhưng các Tịnh độ này không bằng Tây phương Tịnh
độ. Vì sao? Bởi vì Phật A-di-đà cùng Quan Âm, Thế Chí, đầu tiên phát tâm
Bồ-đề, là phát nơi cõi Bồ-tát, cho nên họ đặc biệt có duyên với chúng sanh ở
cõi Bồ-tát. Vì vậy Phật Thích-ca Mâu-ni đâu đâu cũng tán thán thế giới Cực
Lạc, khuyên mọi người vãng sanh về đó.
2. Trong kinh Vô Lượng Thọ, Bồ-tát Pháp Tạng khi tu nhân, nơi chỗ Phật
Thế Nhiêu Vương, đã phát đại hoằng thệ nguyện, muốn thành tựu Tịnh độ
nên muốn tham khảo các Tịnh độ khác. Phật Thế Nhiêu Vương đã nói cho
Pháp Tạng Bồ-tát hai trăm mười ức quốc độ Phật, trong đó những thiện ác
của trời người, quốc độ tốt đẹp hay xấu ác đều hiện hết ra cho ngài thấy. Kết
quả Bồ-tát Pháp Tạng phát nguyện phải thành lập Tây phương Tịnh độ để
chứng thành Phật quả, chính là thế giới Cực Lạc Tây phương hiện tại, đó là
minh chứng thứ hai.
3. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, phu nhân Vi-đề-hi cũng muốn thấy
Tịnh độ của chư Phật, nên trên đài sen quang minh của Phật đã xuất hiện tất
cả Tịnh độ trong mười phương cho bà thấy, Vi-đề-hi nói với Phật: “Các
quốc độ Phật này tuy đều thanh tịnh, đều có ánh sáng, nhưng con thích sanh
về cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà.” Đó là minh chứng thứ ba. Cho nên biết
trong các cõi Tịnh độ, cõi Cực Lạc là thù thắng nhất.

II. Suy luận ngay nơi nghĩa lý.


Hỏi: Vì sao phải mặt quay về phía tây toạ thiền, lễ bái, niệm Phật và quán
tưởng?
Trả lời: Người cõi Diêm-phù nói, chỗ mặt trời mọc gọi là sinh, chỗ mặt trời
lặn gọi là chết. Do phía tây là chỗ chết, thần thức sẽ đi về hướng tây, có
phương tiện giúp đỡ, cho nên Bồ-tát Pháp Tạng phát nguyện thành Phật ở
phương tây, dùng tâm bi để tiếp dẫn vãng sanh.
Thiền toạ, quán tưởng, lễ bái, xưng niệm... mặt hướng về hướng Phật A-di-
đà, là tuỳ thuận lễ nghi thế gian. Nếu là thánh nhân, có thể được quả báo phi
hành tự tại, vốn không cần phân biệt phương hướng. Nhưng phàm phu nếu
không hướng về hướng tây mà hướng đến những hướng khác, thì việc vãng
sanh Tây phương có thể sẽ khó khăn.
Cho nên Đại Trí Độ Luận nói, có một vị Tỳ-kheo, sanh tiền đọc tụng kinh
A-di-đà, và tụng niệm kinh Bát-nhã Ba La Mật, khi lâm chung, ngài nói với
đệ tử: “Phật A-di-đà và các thánh chúng, đang xuất hiện trước mặt ta.” Rồi
ngài chắp tay hướng về Phật, không lâu thì tắt thở.
Các đệ tử đem thiêu, sau khi thân thể ra tro bụi, còn lại cái lưỡi như lưỡi
người sống. Các đệ tử mang lưỡi xây tháp cúng dường.
Bồ-tát Long Thọ giải thích, nhờ Tỳ-kheo đọc tụng kinh A-di-đà, nên lâm
chung được Phật A-di-đà đến đón tiếp. Nhờ tụng niệm kinh Bát-nhã Ba La
Mật, nên cái lưỡi không hoại. Lấy đó mà biết, tất cả các pháp môn tu, chỉ
cần hồi hướng vãng sanh, liền được vãng sanh.
Cho nên kinh Tu Di Tứ Vức nói, khi trời đất mới bắt đầu, không có mặt trời
và trăng sao, chư thiên xuống nhân gian, đều dùng ánh sáng nơi bụng soi
sáng. Lúc bấy giờ nhân loại trên trái đất vì vậy mà rất khổ não, do đó Phật
A-di-đà phái hai vị Bồ-tát xuống trần gian, một vị tên Bảo Ứng Thanh, một
vị tên Bảo Cát Tường, họ chính là Phục Hy và Nữ Oa.
Hai vị Bồ-tát thương lượng, kết quả quyết định mang thất bảo của tầng trời
thứ bảy Sắc giới xuống trần gian để tạo mặt trăng mặt trời và hai mươi tám
tinh tú để chiếu sáng thiên hạ, định ra bốn mùa xuân hạ thu đông.
Lúc bấy giờ hai vị Bồ-tát đều nói, mặt trăng mặt trời và hai mươi tám tinh tú
đều đi về hướng tây, mang ý thay cho tất cả trời người đều hướng về Phật A-
di-đà đảnh lễ. Cho nên trăng, sao, mặt trời tâm đều hướng về giáo chủ của
thế giới Cực Lạc, nên chúng đều lặn về hướng tây.
III. Biện biệt những sự việc Phật trụ thế và Phật diệt độ mà trong kinh
điển nói.
Trong kinh nói, giáo pháp của Phật Thích-ca Mâu-ni, chánh pháp tồn tại
năm trăm năm, tượng pháp một ngàn năm, mạt pháp một vạn năm. Sau đó
thì chúng sanh diệt hết, các kinh cũng diệt hết. Vì vậy Phật thương cho
chúng sanh bị khổ thiêu đốt, nên đã giữ lại kinh Vô Lượng Thọ trên đời một
trăm năm.
Từ kinh văn này mà biết, thế giới Cực Lạc tuy là Tịnh độ, nhưng thể của nó
trên dưới thông nhau. Chỉ cần cái tướng không tướng, thì liền sanh lên cửu
phẩm. Phàm phu trong ngôi nhà lửa tam giới, xưa nay chính lấy có hình
tướng mà vãng sanh.

---o0o---

ĐẠI MÔN THỨ BẢY

Có 2.
- Thuyết minh tình hình trói buộc và giải thoát của thế giới Bồ-tát và Tây
phương Tịnh độ.
- Thuyết minh sự dụng công tu ít nhiều, và sự thật giả của quả báo đạt được
ở đây và ở đó, từ đó mà khuyên mọi người vãng sanh lên đó.
I. Thuyết minh sự khác nhau của trói buộc và giải thoát của ở đây và ở
đó.
Nếu ở Tây phương Tịnh độ, nhờ thuần tuý là tướng thanh tịnh, cho nên rất
nhanh liền được giải thoát, chỉ hưởng thọ sung sướng, mắt tuệ được mở ra.
Nếu ở thế giới Bồ-tát này, do đầy những tướng uế trược, cho nên chỉ có
những sự sung sướng giả tạm, sầu đau, trói buộc, sợ hãi.
Hỏi: Các kinh đại thừa đều nói, không có hình tướng mới là con đường
chính thoát ly sanh tử, chấp trước hình tướng sẽ bị câu thúc và chướng ngại,
vì vậy không tránh khỏi luỵ trần lao. Bây giờ anh khuyên người ta chán uế
hân tịnh, là ý gì?
Trả lời: Hai điều đó khác nhau. Vì sao? Hình tướng có hai loại, một loại là
đối với trần cảnh năm dục, sanh tham ái ô nhiễm, theo cảnh giới mà khởi
tâm chấp trước, thì đó gọi là trói buộc. Một loại là thích công đức của Phật,
phát nguyện phải vãng sanh Tịnh độ, tuy đó cũng là hình tướng nhưng gọi là
giải thoát. Vì sao biết? Như trong kinh Thập Địa nói, Bồ-tát chứng Sơ Địa
còn phải phân biệt quán sát chân đế và tục đế, tập trung tâm ý tìm cầu trên
hình tướng, cuối cùng mới đạt đến chỗ vô tướng, dùng phương pháp tiệm đi
chậm này, thể ngộ cảnh giới đại Bồ-đề. Mãi cho đến khi chứng được cái tâm
cuối cùng của địa thứ bảy, thì cái tâm hữu tướng mới hết. Sau khi vào bát
địa, mới không còn tìm cầu trên tướng, lúc này mới gọi là không còn dụng
công mà công dụng tự hiện.
Cho nên trong Thập Địa Luận nói: “Trước địa thứ bảy, cái tâm tham ác là
chướng ngại, phải dùng cái tâm tham thiện để đối trị. Bát địa trở lên, cái tâm
tham thiện là chướng ngại, phải dùng cái tâm vô tham để đối trị.” Huống hồ
những người phát nguyện vãng sanh Tịnh độ ngày nay, đều là phàm phu,
những thiện căn mà họ tu trì, đều phát sanh từ yêu thích công đức của Phật
A-di-đà, làm sao mà trói buộc được?”
Cho nên kinh Niết-bàn nói: “Tất cả chúng sanh đều có hai loại yêu thích,
một là yêu thích thiện pháp, hai là yêu thích bất thiện pháp. Yêu thích bất
thiện pháp, là cái mà người ngu theo đuổi; yêu thích thiện pháp, là cái mà
Bồ-tát theo đuổi.”
Vì vậy Tịnh Độ Luận nói: “Quán sát quốc độ Phật gọi là vị thanh tịnh, nhiếp
thọ chúng sanh gọi là vị đại thừa, khởi tâm tu hành những việc tương tự gọi
là vị phát nguyện thành tựu quốc độ Phật, cứu cánh trụ trì được gọi là vị bất
hư nguỵ tạo tác, có vô lượng vị thành Phật đạo như thế.” Cho nên tuy là thủ
tướng, nhưng không phải là chấp trước trói buộc. Và cái tướng mà Tây
phương Tịnh độ nói, chính là cái tướng vô lậu, cái tướng thật tướng.

II. Thuyết minh ở đây và ở đó, trong tu hành dụng công nặng hay nhẹ,
quả báo đạt được thật hay giả.
Nếu muốn phát tâm quy hướng Tịnh độ, chỉ cần tốn ít công lễ bái, quán
tưởng, xưng niệm danh hiệu Phật, theo thọ mạng dài ngắn của mỗi người mà
khi lâm chung, được đài liên hoa đến đón, lập tức được sanh lên cõi Cực
Lạc, chứng ngôi bất thoái.
Cho nên kinh Vô Lượng Thọ nói: “Trời người ở mười phương thế giới, nếu
sanh lên nước ta, mà không được quả vị bất thoái, ta quyết không giữ ngôi
chánh giác.”
Ở cõi Ta-bà này, phải trải qua thời gian dài bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định, trí huệ, nếu không đủ một vạn kiếp vẫn không tránh khỏi
ngôi nhà lửa tam giới, cho nên nói dụng công rất nặng mà quả báo hư giả.
Kinh Vô Lượng Thọ lại nói: “Những chúng sanh sanh lên nước ta, lập tức
cắt đứt luân hồi sanh tử trong năm đường ác.” Đây là đối với cõi Tịnh độ,
mà nói năm đường của cõi Ta-bà là ác thú. Ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh thuần hướng về ác, cho nên gọi là ác thú. Mà thiên, nhân của thế giới
Ta-bà, quy hướng cả thiện ác nên cũng gọi là ác thú.
Nếu tu hành ở cõi Ta-bà này, để đối trị đọan trừ phiền não, trước tiên phải
đọan trừ kiến hoặc, thoát ly nhân ba đường ác, để trừ quả báo ba đường ác.
Sau đó, lại đọan tu hoặc để thoát ly nhân trời người, đọan tuyệt quả báo nhân
thiên. Đây đều là sự đọan trừ chậm lần lượt, không gọi là cắt ngang.
Nếu vãng sanh lên cõi Tịnh độ của Phật A-di-đà, thì năm đường của thế giới
Ta-bà, lập tức không còn, cho nên gọi là cắt ngang năm đường ác, nghĩa là
cắt ngang quả báo của nó. Đường ác đóng kín, là đóng nhân duyên của nó.
Trên đây là nói thuyết minh những thứ mà vãng sanh lên Cực Lạc không
còn.
Con đường đi lên không có cùng tận, đạt đến đỉnh điểm, là làm rõ những thứ
đạt được khi vãng sanh lên Tịnh độ. Nếu hạ quyết tâm, hồi hướng nguyện
vãng sanh Tây phương Tịnh độ, thì nhiều nhất là một đời này, ít nhất là
mười niệm, liền được vãng sanh. Hễ lên được Cực Lạc thì liền vào Chánh
định tụ, công đức ngang với tu một vạn kiếp. 

---o0o---

ĐẠI MÔN THỨ TÁM

Có 3.
- Lược cử các kinh để chứng minh, khuyên mọi người chán bỏ cõi này, vui
lên cõi kia.
- So sánh Phật A-di-đà và Phật Thích-ca.
- Giải thích ý nghĩa vãng sanh.
I. Lược đưa ra các kinh để chứng minh, khuyên mọi người chán bỏ cõi
này, vui lên cõi kia.
1. Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, nói hai quyển kinh Vô Lượng Thọ.
2. Trong hai pháp hội trong cung vua và núi Kỳ-xà-quật, nói một bộ kinh
Quán Vô Lượng Thọ.
3. Trong nước Xá-vệ nói kinh Phật Thuyết A-di-đà.
4. Kinh Thập Phương Tuỳ Nguyện Vãng Sanh chứng minh vãng sanh Tịnh
độ.
Ngoài ra những kinh luận đại thừa, tán thán việc vãng sanh Tịnh độ có rất
nhiều, như các kinh Thỉnh Quan Âm và Đại Phẩm Bát-nhã. Và các bộ luận
của hai vị Bồ-tát Vô Trước, Thế Thân cũng nơi nơi đều khen ngợi vãng sanh
Tây phương Tịnh độ. Còn các Tịnh độ khác, thì các ngài không dặn dò
người sau như vậy.

II. So sánh Phật A-di-đà và Phật Thích-ca.


Phật Thích-ca trụ thế chỉ có 80 năm, chỉ là sự xuất hiện tạm thời, lập tức đi
ngay. Lại một đi không trở lại. Thời gian trụ thế, không bằng một ngày cõi
trời Đao-lợi.
Khi Phật Thích-ca tại thế, cơ duyên độ chúng sanh cũng rất yếu kém. Lấy
việc bệnh tật của dân Tỳ-xá-ly mà nói, lúc bấy giờ dân Tỳ-xá-ly bị năm loại
bệnh quái lạ:
1. Mắt đỏ như máu.
2. Tai chảy mủ.
3. Mũi ra máu.
4. Miệng không nói được.
5. Thức ăn đưa vào miệng, mùi vị liền biến thành hôi dở, sáu thức đóng kín,
như người say.
Có năm con quỷ Dạ-xoa, tên Ngật-noa-ca-la, mặt đen như mực, có năm con
mắt, răng vẩu ra, hút tinh khí của người. Lương y Kỳ-bà lúc bấy giờ, tận lực
cũng không cứu được.
Lúc ấy trưởng giả Nguyệt Cái liền dẫn những bệnh nhân này đến chỗ Phật,
dập đầu cầu cứu. Đức Thế tôn khởi tâm từ vô lượng, nói với các bệnh nhân:
“Tây phương có Phật A-di-đà và Quan Âm, Thế Chí, các con phải một lòng
chắp tay, cầu mong gặp họ.”
Mọi người nghe theo lời dạy bảo của Phật Thích-ca, chắp tay cầu nguyện
Phật A-di-đà và Quan Âm, Thế Chí. Lúc ấy Phật A-di-đà liền phóng ra ánh
sáng lớn cùng Quan Âm, Thế Chí từ trên không xuống nói đại thần chú, và
bệnh khổ của mọi người liền được dứt trừ, khôi phục lại sức khoẻ.
Sức thần thông của hai vị Phật như nhau, nhưng Phật Thích-ca không hiển
xuất năng lực, mà nhường cho Phật A-di-đà phát huy sở trường, là muốn
làm cho tất cả chúng sanh, đều hướng về Phật A-di-đà. Nên biết Phật Thích-
ca khen ngợi ý muốn quy hướng Tây phương khắp nơi, cũng chính là ý vãng
sanh Tây phương của pháp sư Đàm Loan.
Kinh Vô Lượng Thọ khen ngợi rằng: “Chúng Thanh Văn và Bồ-tát ở Tây
phương Cực Lạc, đối với trí tuệ của chư thiên và loài người họ đều thông đạt
hết. Thân tướng họ trang nghiêm như nhau, nhưng vì để thuận với chúng
sanh ở các phương khác, nên nêu tên ra ở thế giới Cực Lạc. Dung nhan đoan
chánh của Phật không ai có thể so sánh, thân thể Phật đẹp không ai có thể
bằng. Thân Phật hư vô và không có hạn cùng, cho nên đảnh lễ đức Thế tôn
bậc có sức bình đẳng vô lượng.”

III. Giải thích ý nghĩa vãng sanh. Có 2:


- Giải thích ý nghĩa vãng sanh.
- Trả lời câu hỏi.
1. Giải thích ý nghĩa vãng sanh:
Đại Trí Độ Luận lại nói, Bồ-tát sau khi sanh lên Tịnh độ, đầy đủ đại thần
thông lực, lại có biện tài vô ngại, khi trở lại Bồ-tát hóa độ chúng sanh, còn
vẫn không thể làm cho chúng sanh bỏ ác theo thiện, để tăng tiến đạo nghiệp,
tăng tiến quả vị hợp với tâm ý Bồ-tát. Nếu Bồ-tát không vãng sanh Tịnh độ,
mà lập tức cứu độ chúng sanh nơi uế độ này, ngay cả đại thần thông và biện
tài vô ngại đều không có, quả thật giống như nhúng gà vô nước, thì làm sao
mà gà không ướt.
Trong kinh Vô Lượng Thọ khen ngợi: “Chư Bồ-tát trong nước An Lạc, có trí
tuệ theo căn khí chúng sanh mà thuyết pháp, họ đã đạt được vô ngã, vô ngã
sở, họ trong sạch như hoa sen, không nhiễm chút bụi trần. Việc đến đi dừng
ở của họ như chiếc thuyền, chỉ vì muốn lợi ích chúng sanh An lạc, không có
bất kỳ yêu ghét. Họ đã chứng tánh không, đã đọan có-không nhị tưởng. Họ
đốt đèn trí tuệ soi phá đêm dài vô minh. Họ đầy đủ tam minh lục thông,
những Bồ-tát này dùng mắt tâm để quán sát vạn hạnh. Bồ-tát ở cõi Tịnh độ
đầy đủ vô lượng vô biên công đức như thế, cho nên chúng sanh chí thành
phát nguyện vãng sanh.”
2. Trả lời câu hỏi.
Hỏi: Hiện tại chúng tôi phát nguyện muốn vãng sanh Tịnh độ, nhưng không
biết phải khởi tâm như thế nào?
Trả lời: Chỉ cần phát nguyện, hy vọng rất mau liền được tự lợi lợi tha, lợi tha
phải sâu rộng, chứng quả vị thập tín, quả vị tam hiền, nhiếp thọ tất cả chánh
pháp, để khế hợp dung hội pháp môn bất nhị, thấy Phật tánh và chứng Phật
tánh, hiểu rõ thật tướng các pháp, dùng tâm quán chiếu hai đế có không, sự
thứ tự trước sau của nhân và quả, so sánh sự hơn kém của mười địa, đạt
được ba nhẫn hỷ nhẫn, ngộ nhẫn, tín nhẫn; ba đạo kiến đạo, tu đạo, vô học
đạo, đạt được định kim cang vô chướng ngại, chứng đắc đại Niết-bàn. Pháp
đại thừa vận chuyển lớn, mong trụ thế lâu dài, để hết biển sanh tử vô biên.
Hỏi: Phát nguyện vãng sanh Tịnh độ, cần phải lợi ích chúng sanh. Nếu như
vậy, phải cứu độ chúng sanh thì phải ngay cõi Ta-bà này. Hành giả đã phát
tâm độ sanh, thì phải cứu khổ sanh ngay nơi đây. Vì vậy vì sao sau khi phát
tâm Bồ-đề, lại phát nguyện vãng sanh Tịnh độ? Giống như bỏ chúng sanh,
mình tìm cầu khoái lạc Bồ-đề riêng.
Trả lời: Ví như vậy không đúng. Vì sao? Chính như trong Đại Trí Độ Luận
có nói, có hai người đều thấy cha mẹ bà con rơi xuống vực nước xoáy. Một
người lập tức nhảy xuống, ra sức cứu, nhưng không đủ sức, cuối cùng chết
cùng với mọi người. Người kia thì đi đến một nơi xa, kiếm một chiếc
thuyền, chèo đến cứu mọi người. Bồ-tát cũng như vậy, trước khi chưa phát
tâm, lưu chuyển trong sanh tử không khác gì chúng sanh. Nhưng sau khi
phát tâm Bồ-đề, thì phát nguyện vãng sanh Tây phương Tịnh độ trước, lấy
được thuyền đại bi rồi, lại nương biện tài vô ngại, tiến vào biển sanh tử để
cứu chúng sanh.

---o0o---

ĐẠI MÔN THỨ CHÍN


Có 2. Đối chiếu khổ vui và thiện ác và so sánh thọ mạng dài ngắn của hai
nơi.
I. Đối chiếu khổ vui và thiện ác.
Lại có 2: Đối chiếu khổ vui thiện ác và dẫn dụng kinh Vô Lượng Thọ để
chứng minh.
1. Đối chiếu thiện ác khổ vui, là nói ở thế giới Ta-bà này, tuy có quả báo
khổ vui, nhưng phần nhiều vui ít khổ nhiều. Khổ nặng là nỗi khổ bị thiêu
trong ba đường dữ, khổ nhẹ là bệnh tật, chiến tranh trong đường trời người,
liên tục không ngừng, từ vô lượng kiếp đến nay, chưa bao giờ ngừng qua.
Cho dù trời người có chút khoái lạc, cũng giống như bóng nước, điện chớp,
sanh diệt rất nhanh, cho nên nói thế giới Ta-bà chỉ có đau khổ, chỉ có việc
ác.
Còn quốc độ thanh tịnh của Phật A-di-đà, thì tiếng nước chảy, tiếng chim
kêu đều phát ra diệu pháp, khiến cho người nghe đều ngộ nhập Phật tánh.
2. Dẫn dụng kinh điển để chứng minh.
Tịnh độ Luận nói, trời người của mười phương thế giới sanh sang nước Cực
Lạc, giống với Bồ-tát tâm địa thanh tịnh không khác. Bồ-tát tâm địa thanh
tịnh và Bồ-tát thượng địa, cuối cùng cũng đều chứng đắc tịch diệt nhẫn, cho
nên sẽ không thoái chuyển.
Đại nguyện thứ bốn mươi tám trong kinh Vô Lượng Thọ, có năm đại lợi ích:
a. Kinh nói: “Trời người trong mười phương thế giới sanh sang nước ta, nếu
không được thân kim sắc, ta không thủ chánh giác.”
b. Kinh nói: “Trời người trong mười phương thế giới sanh sang nước ta, nếu
hình tướng nhan sắc không giống nhau, có đẹp xấu khác nhau, ta không thủ
chánh giác.”
c. Kinh nói: “Trời người trong mười phương thế giới sanh sang nước ta, nếu
không được túc mạng trí, không biết được những việc của trăm ngàn ức na-
do-tha kiếp, ta không thủ chánh giác.”
d. “Trời người trong mười phương thế giới sanh sang nước ta, nếu không
được thiên nhĩ thông, không nghe được pháp của bách thiên ức na-do-tha
chư Phật nói, ta không thủ chánh giác.”
e. Trời người trong mười phương thế giới sanh sang nước ta, nếu không có
tha tâm trí, không biết được tâm tưởng của bách thiên ức na-do-tha chúng
sanh của các cõi Phật, ta không thủ chánh giác.”
Những việc lợi ích của nước ấy, vốn nói không hết, chỉ cần phát nguyện
vãng sanh, nhất định là bất khả tư nghị, cho nên Tây phương Tịnh độ chỉ có
những việc lành, chỉ có khoái lạc, không có đau khổ, cũng không có việc ác.

II. Thuyết minh thọ mạng dài ngắn.


Thọ mạng của người ở cõi Ta-bà, phần lớn không hơn một trăm năm. Những
người hơn trăm tuổi rất ít. Có người vừa sanh ra đã chết. Có người chỉ được
mấy tuổi liền chết. Thậm chí chết trong bào thai. Vì sao như vậy? Vì chúng
sanh tạo nghiệp khác nhau, nên quả báo khác nhau.
Cho nên kinh Niết-bàn nói: “Tạo nghiệp ác thì quả báo là ác. Tạo nghiệp
thiện thì quả báo là thiện. Tạo nghiệp báo nào thì quả báo cũng như thế.”
Kinh Tịnh Độ Bồ-tát nói, con người sống một trăm năm, ban đêm mất đi hết
một nửa, có nghĩa là mất hết năm mươi năm. Trong năm mươi năm còn lại,
trước mười lăm tuổi, không biết gì là thiện ác. Sau tám mươi tuổi, đầu óc lú
lẫn thân thể yếu gầy, chỉ cảm thấy khổ đau của tuổi già. Trừ những năm
tháng đó ra, chỉ còn có mười lăm năm.
Trong mười lăm năm này, mặt ngoài thì bị vua quan áp bức, phải đi lính
viễn phương hay tù trong lao ngục. Mặt trong thì phải lo việc trong nhà, tạp
sự quá nhiều bận đến túi bụi, nhưng vẫn thiếu thốn. Tính lại, còn bao nhiêu
thời gian để tu hành? Xét kỹ, đời người như thế há không đáng thương, sao
không đáng chán?
Kinh này lại nói, con người ta, trong một ngày một đêm có tám ức bốn ngàn
vạn ý niệm. Một niệm khởi một niệm ác, thì phải nhận một thân ác nghiệp.
Mười niệm ác thì phải thọ thân ác nghiệp mười đời. Trăm niệm ác thì phải
thọ thân ác nghiệp trăm đời. Như vậy một chúng sanh, trong một đời, nếu
một trăm năm đều sinh ác niệm, thì trong các quốc độ của ba ngàn đại thiên
thế giới đầy những thân ác nghiệp của chúng sanh này.
Ác pháp đã như thế, thì thiện pháp cũng như thế. Một niệm khởi thiện tâm,
thì nhận một thân nghiệp thiện. Trăm niệm khởi thiện tâm, thì thọ một trăm
thân nghiệp thiện. Như vậy một chúng sanh, trong một đời, trăm năm đều
khởi niệm thiện, thì trong ba ngàn đại thiên thế giới, đầy thân nghiệp thiện
của chúng sanh này.
Nếu một người dùng mười năm hay năm năm để niệm Phật A-di-đà, hoặc rất
nhiều năm niệm Phật, thì sau khi sanh lên nước Cực Lạc sẽ thọ pháp thân
Tịnh độ, pháp thân này như cát sông hằng không có tận cùng, là bất khả tư
nghị.
Cõi uế này thọ mạng ngắn ngủi, chớp nhóang đã đối diện với cái chết. Nếu
sanh sang nước Phật A-di-đà, thọ mạng vô lượng là bất khả tư nghị.
Cho nên trong kinh Vô Lượng Thọ nói, Phật nói với Xá-lợi-phất: “Phật ấy vì
sao có tên gọi là A-di-đà? Xá-lợi-phất, vì tất cả trời người của thế giới trong
mười phương khi sanh sang nước ấy, có thọ mạng rất dài, ngang bằng với
Phật, cho nên gọi là A-di-đà.” Quý vị phải nghĩ đến lợi ích lớn này, mà phát
nguyện vãng sanh.
Lại Kinh Thiện Vương Hòang Đế Tôn nói, có người học đạo, muốn vãng
sanh lên nước Cực Lạc của Phật A-di-đà, ngày đêm niệm Phật, một ngày,
hai ngày cho đến bảy ngày. Nếu nửa chừng hối hận, nhờ nghe công đức của
bộ kinh Thiện Vương này, mà khi mạng sắp chung, sẽ có tám vị Bồ-tát bay
đến, đón người ấy về nước Phật A-di-đà.
Dưới đây dẫn dụng kệ kinh Vô Lượng Thọ chứng minh, kệ khen: “Nếu có
chúng sanh sanh lên nước An Lạc, liền đủ ba mươi hai tướng, trí tuệ sung
mãn đủ để đi vào pháp thâm sâu, có khả năng thuyên dương Phật đạo không
bị chướng ngại. Tuỳ sự bén nhạy hay trì độn của người vãng sanh mà thành
tựu pháp nhẫn, không chỉ thành tựu tam nhẫn, cho đến bất khả thuyết nhẫn.
Người vãng sanh chứng được ngũ thông, được tự do tự tại, cho đến khi
thành Phật không còn rơi trở lại vào đường ác. Ngoại trừ vì muốn thị hiện
như Phật Thích-ca Mâu-ni mà sanh vào trong đời ác năm trược. Vãng sanh
nước Cực Lạc có thể thành tựu được những lợi ích như thế, vì vậy phải chí
thành phát nguyện vãng sanh.”

---o0o---

ĐẠI MÔN THỨ MƯỜI

Có 2. Dẫn chứng kinh Vô Lượng Thọ và giải thích ý nghĩa hồi hướng.
I. Dẫn chứng kinh Vô Lượng Thọ.
Chư Phật mười phương không ai là không khuyên mọi người vãng sanh
Tịnh độ. Chư Bồ-tát mười phương, không ai là không cùng sanh Tịnh độ.
Trời người trong mười phương, cũng đều có ý muốn vãng sanh Tịnh độ. Cho
nên biết được, đây là điều không thể nghĩ bàn.
Cho nên kinh Vô Lượng Thọ tán thán: “Phật A-di-đà thần thông vô hạn
lượng, là Phật được vô lượng chư Phật khen ngợi. Các nước Phật nhiều như
số cát sông hằng ở phương đông, có vô số Bồ-tát đều đến Tây phương Tịnh
độ triều kiến Phật A-di-đà, cũng đều cúng dường nước An Lạc. Các Thanh
văn, Bồ-tát sau khi nghe Phật A-di-đà thuyết pháp, đều đi khắp nơi tuyên
hóa pháp mầu, các thánh nhân chín phương cũng thế.”

II. Giải thích ý nghĩa hồi hướng.


Tất cả chúng sanh, tuy đều có Phật tánh, người người cũng đều có tâm
nguyện thành Phật. Nhưng nhìn vào hạnh nghiệp tu hành của mỗi người, nếu
chưa đủ một vạn kiếp, thì chưa ra khỏi ngôi nhà lửa tam giới, chưa thoát
khỏi luân hồi. Vì vậy thánh nhân thương cho chúng sanh phải chịu khổ dài
lâu, nên khuyên chúng sanh hồi hướng công đức cầu vãng sanh Tây phương,
để thành tựu đại lợi ích. Công dụng của hồi hướng, không vượt ra ngoài sáu
loại sau:
1. Mang kết quả tu hành hồi hướng Tây phương Tịnh độ. Sau khi vãng sanh
Tịnh độ, được sáu thần thông, lại đi tế độ chúng sanh, đó chính là không trụ
trong pháp.
2. Mang tu nhân hồi hướng quả báo.
3. Mang sanh cõi dưới hồi hướng sanh cõi trên.
4. Mang thành tựu chậm hồi hướng thành tựu nhanh, chính là không trụ ở
thế gian.
5. Thương xót chúng sanh, mong chúng sanh hướng thiện, mà đem công đức
hồi hướng chúng sanh.
6. Hồi hướng nhập và khứ, cũng chính là trừ cái tâm phân biệt.
Công dụng của hồi hướng, có thể thành tựu sáu việc này, cho nên kinh Vô
Lượng Thọ nói: “Chúng sanh sanh sang nước ta, ắt hoạch được tiến bộ thù
thắng, vượt thường quy tu hành bình thường của mỗi địa, mãi cho đến thành
tựu cứu cánh quả vị Phật, cũng không gặp khó khăn nào.”
Vì vậy kinh Vô Lượng Thọ tán thán rằng: “Bồ-tát và Thanh văn ở cõi nước
An lạc, ở Ta-bà không tìm thấy tương đương. Lấy đại biện tài vô ngại của
Phật Thích-ca, để nói chút ít về tỷ dụ này. Thí như so sánh vua với kẻ ăn
mày đại hạ tiện với vua, như so sánh đến vương với kim luân vương, như
vậy so sánh cho đến trời thứ sáu, thứ tự so sánh đều như vậy. Lại lấy hình
sắc của trời thứ sáu, so sánh với Bồ-tát ở cõi Tịnh độ, thì sự xấu đẹp khác
nhau ngàn vạn ức bội lần. Những điều đó đều do nguyện lực của Bồ-tát Pháp
Tạng, cho nên chúng ta đảnh lễ Phật A-di-đà tâm lực vĩ đại.” 

---o0o---

ĐẠI MÔN THỨ MƯỜI MỘT

Có 2. Khuyên hết thảy chúng sanh, nên nương thiện tri thức, khởi tâm vãng
sanh Tây phương và biện biệt rõ nhân duyên hơn kém sau khi chết.
I. Khuyên chúng sanh trông cậy vào thiện tri thức.
Trong kinh Pháp Cú nói, phải trở thành thiện tri thức cho chúng sanh. Bồ-tát
Bảo Minh hỏi Phật: “Bạch Thế tôn, thế nào gọi là thiện tri thức?”
Phật đáp: “Thiện tri thức là người nói được những pháp thâm áo, như nói
Không Tam-muội, Vô tướng Tam-muội, Vô nguyện Tam-muội, biết các
pháp bình đẳng, là không có tạo nghiệp cũng không có quả báo, là không có
nhân duyên cũng không có quả báo, là cứu cánh như thế, là ở trong thực tế.
Nhưng trong tất cánh không, lại có khả năng kiến lập tất cả pháp. Những
người có khả năng nói được những pháp thâm áo ấy, chính là thiện tri thức.
“Thiện tri thức, chính là con mắt của bạn, bởi vì họ có khả năng thấy được
tất cả thiện ác.”
“Thiện tri thức, là con thuyền lớn của bạn, bởi vì có khả năng chở bạn vượt
qua biển lớn sanh tử.”
“Thiện tri thức, là sợi dây cứu mạng của bạn, bởi vì có khả năng kéo bạn ra
khỏi biển lớn sanh tử.”
Trong kinh lại khuyên chúng sanh: “Tuy làm thiện tri thức cho chúng sanh,
nhưng vẫn cần phải vãng sanh Tịnh độ, vì sao? Bởi vì nếu ở trong ngôi nhà
lửa tam giới, cảnh thuận nghịch nhiều, vì vậy đại đa số bị thoái đọa, mà khó
ra khỏi sanh tử.”
Cho nên Xá-lợi-phất trong cõi Ta-bà phát tâm tu Bồ-tát hạnh, sau khi tu sáu
mươi kiếp, gặp một vị ác tri thức, muốn xin con mắt ông, kết quả làm ông
thoái tâm. Vì vậy chúng ta biết, trong ngôi nhà lửa tam giới tu hành rất là
khó, cho nên khuyên mọi người nên vãng sanh Tịnh độ. Chỉ cần hễ vãng
sanh, là tam học giới định huệ tự nhiên tiến bộ một cách thù thắng, lục độ
vạn hạnh đầy đủ một cách mau chóng. Cho nên kinh Vô Lượng Thọ nói:
“Tịnh độ của Phật A-di-đà, không có chỗ tạo ác, cho dù như đầu sợi lông.”
II. Phân biệt rõ sự hơn kém của chúng sanh thọ sanh sau khi chết.
Chúng sanh cõi Ta-bà, sau khi mạng chung, đều theo nghiệp lành nghiệp dữ,
mang những tham lam phiền não hư vọng, tuỳ ngục tốt quản thọ mạng, mà
đầu thai vào chỗ phải thọ sanh. Điều này, từ vô thỉ kiếp đến nay, không bao
giờ thoát khỏi.
Nếu có tín nguyện cầu sanh Tịnh độ, phấn phát tinh tiến tu hành, thì khi
mạng chung, Phật A-di-đà và Quan Âm, Thế Chí cùng chư thánh chúng cầm
đài liên hoa phóng quang đến tiếp dẫn hành giả. Lúc đó hành giả liền rất
sung sướng chắp tay bước lên đài sen, đi theo thánh chúng, chốc lát liền đến
thế giới Cực Lạc. Ở đó, mãi cho đến khi thành Phật, không có cái gì là
không khoái lạc.
Tất cả chúng sanh do tạo nghiệp khác nhau, mà có ba phẩm thượng trung hạ.
và tất cả đều phải đến trước Diêm La Vương để chịu phán quyết. Nếu chúng
sanh biết tin Phật, phát nguyện vãng sanh Tịnh độ, đem hết những công đức
tu hành hồi hướng vãng sanh. Như vậy khi mạng chung, thì Phật A-di-đà sẽ
đích thân đến nghinh tiếp mà không phải đến trước vua Diêm La chịu phán
quyết.

---o0o---

ĐẠI MÔN THỨ MƯỜI HAI

Dẫn chứng kinh Thập Vãng Sanh mà khuyên mọi người vãng sanh. Trong
kinh Phật nói phương pháp vãng sanh nước Phật A-di-đà, nói pháp môn
quán thân cho mọi người, để đạt được chánh niệm mà được giải thoát.
Trong kinh Thập Vãng Sanh, A-nan nói với Phật: “Bạch Thế tôn, tất cả
chúng sanh muốn tu pháp môn quán thân, phải tu thế nào? Xin Phật nói cho
chúng con.”
Phật nói với A-nan: “Phương pháp quán thân, là không quán phương đông
phương tây, không quán phương nam phương bắc, không quán tứ duy thiên
hạ, cũng không quán hư không, không quán cảnh giới bên ngoài, không
quán thân thể, không quán âm thanh, không quán dung mạo, mà chỉ quán vật
không có nhân duyên này, đó chính là pháp quán thân chân chánh. Ngoài
cách quán thân này, cho dù đi khắp mười phương tìm kiếm, cũng không tìm
được phương pháp nào khác có thể đưa tới giải thoát.”
Phật lại nói với A-nan: “Bản thân chỉ cần quán thân như vậy, liền được thiện
lực, được chánh niệm, được giải thoát. Vì sao? Như có một người, tinh tiến
bằng tâm chánh trực, liền được chánh giải thoát. Người ấy không cần đi tìm
giải thoát mà giải thoát tự đến.”
A-nan nói với Phật: “Bạch Thế tôn, chúng sanh nếu có chánh niệm như vậy
mà được giải thoát thì đáng lẽ không có ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh.”
Phật nói: “Chúng sanh không có cách nào giải thoát được. Vì sao? Bởi vì tất
cả thật ít, dối nhiều, không có một chút chánh niệm, cho nên kẻ ở địa ngục
nhiều, kẻ được giải thoát ít. Thí như có người, bên ngoài thì tỏ ra hiếu thuận
với cha mẹ, sư trưởng nhưng trong lòng thì bất hiếu. Bên ngoài tỏ ra tinh
tấn, nhưng bên trong kỳ thật không như vậy. Hạng người xấu này, quả báo
tuy chưa tới nhưng đã ở gần ba đường ác. Nếu không có chánh niệm, thì
không được giải thoát.”
A-nan lại hỏi Phật: “Nếu như vậy, phải tu thiện căn gì mới được chánh giải
thoát?”
Phật nói với A-nan: “Ông nghe cho kỹ, ta sẽ nói cho ông, tu mười loại vãng
sanh, có thể được giải thoát. Mười loại nào?”
1. Dùng chánh niệm để quán sắc thân này, luôn cúng dường ẩm thực và y
phục cho Phật và tăng chúng bằng tâm đầy hoan hỷ, phát nguyện vãng sanh
nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.
2. Dùng chánh niệm cúng dường thuốc thang cho Tỳ-kheo bệnh và tất cả
chúng sanh, phát nguyện vãng sanh nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.
3. Dùng chánh niệm không sát hại bất cứ sanh mạng nào, phát nguyện vãng
sanh nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.
4. Dùng chánh niệm thọ giới pháp nơi thầy, lấy trí tuệ thanh tịnh để tu phạm
hạnh thanh tịnh, mà trong lòng luôn đầy hoan hỷ, phát nguyện vãng sanh
nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.
5. Dùng chánh niệm để hiếu thuận cha mẹ, kính phụng sư trưởng, mà không
khởi tâm ngạo mạn, phát nguyện vãng sanh nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.
6. Dùng chánh niệm đi tham hỏi chỗ ở của sư tăng, cung kính chùa tháp,
nghe pháp để hiểu rõ lý đệ nhất nghĩa, phát nguyện vãng sanh nước Cực Lạc
của Phật A-di-đà.
7. Dùng chánh niệm trong một ngày một đêm, thọ trì bát quan trai giới, phát
nguyện vãng sanh nước Cực Lạc của Phật A-di-đà.
8. Nếu trong tháng trai và ngày trai, dùng chánh niệm lìa bỏ hòan cảnh gia
đình, đi tham yết thiện tri thức, phát nguyện vãng sanh nước Cực Lạc của
Phật A-di-đà.
9. Luôn dùng chánh niệm để trì giới luật thanh tịnh, siêng năng tu thiền định,
hộ trì Phật pháp, nếu được như vậy, liền được vãng sanh nước Cực Lạc của
Phật A-di-đà.
10. Dùng chánh niệm không khởi tâm phỉ báng đạo vô thượng, trì giới luật
thanh tịnh một cách tinh tiến, đồng thời dạy dỗ những người không có trí
tuệ. Lại lưu bố bộ kinh này, để giáo hóa vô lượng chúng sanh. Những người
trên đây đều có thể vãng sanh Tây phương Tịnh độ.
Lúc bấy giờ trong pháp hội có một vị Bồ-tát, tên Sơn Hải Huệ, hỏi Phật:
“Bạch Thế tôn, nước Phật A-di-đà, có những sự vui vi diệu thù thắng gì, mà
khiến cho hết thảy chúng sanh đều phát nguyện vãng sanh?”
Phật nói với Bồ-tát Sơn Hải Huệ: “Bây giờ ông nên đứng dậy chắp tay
hướng về phía tây, dùng chánh niệm để quán quốc độ của Phật A-di-đà, phát
nguyện muốn gặp Phật A-di-đà.”
Lúc bấy giờ tất cả mọi người, đều đứng dậy chắp tay, hướng về phía Phật A-
di-đà. Lúc ấy Phật A-di-đà liền hiển đại thần lực, phóng ánh sáng lớn chiếu
trên thân Bồ-tát Sơn Hải Huệ.
Thế là Bồ-tát và đại chúng đều thấy được tất cả cảnh giới đẹp đẽ trang
nghiêm của quốc độ Phật A-di-đà, đều được làm bằng thất bảo. Nước chảy,
chim kêu đều phát ra pháp âm. Dân chúng ở nước Cực Lạc ngoài tu tập,
không làm gì cả. Ngôn ngữ họ nói, âm thanh họ nghe và những điều tâm họ
nghĩ đều là nghĩa lý đại thừa.
Lúc ấy Bồ-tát Sơn Hải Huệ hỏi Phật: “Bạch Thế tôn, chúng con hiện tại đều
thấy được lợi ích thù thắng không thể nghĩ bàn của nước Cực Lạc. Con
mong tất cả chúng sanh đều phát nguyện vãng sanh, và chính con cũng phát
nguyện vãng sanh nước ấy.”
Đức Phật bèn dự ký rằng: “Những chúng sanh dùng chánh quán và chánh
niệm mà được chánh giải thoát, thì đều được sanh lên nước ấy. Nếu có thiện
nam tử thiện nữ nhân, chánh tín bộ kinh này, ái lạc bộ kinh này, đồng thời
khuyên dạy chúng sanh làm theo. Như vậy người nói người nghe đều được
vãng sanh về nước an lạc. Nếu có hạng người như vậy, tôi bắt đầu từ hôm
nay, thường sai 25 vị Bồ-tát hộ trì người ấy, làm cho người ấy không bệnh
không não. Nếu có nhân phi nhân muốn hại người ấy, chắc chắn không được
như ý. Người ấy đi đứng nằm ngồi, bất luận là ngày hay đêm, đều được bình
an.”
Bồ-tát Sơn Hải Huệ nói với Phật: “Bạch Thế tôn, nay con hết lòng kính lễ,
không dám hào tơ nghi ngờ. Nhưng ở đời nếu có chúng sanh, phỉ báng bộ
kinh này, thì người ấy sau này sẽ như thế nào?”
Phật nói với Bồ-tát Sơn Hải Huệ: “Sau này trong cõi Diêm-phù-đề, có Tỳ-
kheo, Tỳ-kheo ni nào thấy người đọc tụng kinh này mà khởi tâm sân hận,
phỉ báng. Do huỷ báng chánh pháp, người ấy ngay trong đời mắc các bệnh
nặng, sáu căn khiếm thiếu, mắt mù, tai điếc, miệng câm, phù thủng, ngồi
nằm không được an ổn, cầu sống không được cầu chết không xong.”
“Sau khi chết bị đọa vào trong địa ngục, trong tám vạn kiếp chịu các khổ
não. Rồi trăm ngàn vạn kiếp làm ngạ quỷ, ngay cả tên gọi nước và thức ăn
cũng còn không được nghe đến. Rất lâu sau mới ra khỏi ngạ quỷ, làm heo dê
trâu chó, bị người giết thịt, chịu khổ não lớn. Sau được đầu thai làm người,
nhưng luôn sanh ra trong nhà hạ tiện, trăm ngàn vạn kiếp không được tự tại,
không được nghe đến hai chữ Tam bảo. Cho nên đối với những người không
có trí tuệ không tin pháp đại thừa, không nên nói bộ kinh này.”
Công đức biên soạn lưu bố sách này, xin hồi hướng cho tất cả chúng sanh,
mọi người trước nên phát tâm Bồ-đề, kế đó phát nguyện vãng sanh Tịnh độ,
cuối cùng đều được thành tựu Phật đạo.

---o0o---

HẾT

You might also like