Co So Van Hoa VN

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 51

CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

Câu 1: Căn cứ theo nguồn gốc,


các nền văn hoá phương tây
A. Văn hóa công nghiệp
B. Văn hoá nông nghiệp
C. Văn hoá du mục
D. Văn hoá đồng quê
TRẮC NGHIỆM
Câu 1: Căn cứ theo nguồn gốc, các nền văn hoá phương tây thuộc loại hình văn hoá nào:
A. Văn hóa công nghiệp
B. Văn hoá nông nghiệp
C. Văn hoá du mục
D. Văn hoá đồng quê
Câu 2: Phân biệt cửa sinh và cửa tử là một nét đặc trưng ngôi nhà truyền thống của dân tộc nào?
A. Người Chăm
B. Người Chăm Ninh Thuận
C. Người Tày
D. Người Thái
Câu 3: Trong đời sống tư tưởng Việt nam từ thế kỷ nào thị có sự du nhập của Thiên chúa giáo, Kitô giáo?
A. Thế kỷ XII
B. Thế kỷ XVI
C. Thế kỷ XVIII
D. Thế kỷ XV
Câu 4: Nhà của người Việt đựơc xây dựng trên những miền núi cóđịa khác nhau thì có sự khác nhau. Sự
khác nhau đó có mục đích gì:
A. Đối phó với lũ lụt
B. Chiến thắng môi trường tự nhiên
C. Giữ gìn những công trình văn hoá truyền thống
D. Thích nghi với môi trường tự nhiên
Câu 5: Mục đích của chế độ thi cử thời xưa ở Việt nam:
A. Tuyển chọn hiền tài
B. Cả ba
C. Tuyển chọn người giỏi văn
D. Truyền bá nho giáo

1
Câu 6: Một yếu tố văn hoá đặc thù được người việt bảo vệ ở thời Bắc thuộc; thể hiện sự tồn tại dân tộc và
thể hiện bản sắc dân tộc:
A. Tín ngưỡng dân gian
B. Lễ hội dân tộc
C. Chữ viết
D. Tiếng nói /Tiếng Việt
Câu 7: Mối quan hệ giữa con người và văn hoá được bộc lộ ở các khía cạnh?
A. Con người - đại biểu mang giá trị văn hoá của chính mình
B. Con người - chủ thể của văn hoá
C. Con người - sản phẩm của văn hoá
D. Tất cả
Câu 8: Ai là người sáng lập ra Đạo Gia?
A. Khổng Tử
B. Trang Tử
C. Tăng Tử
D. Lão Tử
Câu 9: Kích thước ngôi nhà việt truyền thống thể hiện ở:
A. Thước dây
B. Thước tầm
C. Thước thợ
D. Thước lỗ ban
Câu 10: Tác phẩm văn học nào được coi là tiểu thuyết đầu tiên của Việt nam viết bằng chữ quốc ngữ?
A. Sống chết mặc bay
B. Truyện thầy Lazarô phiền
C. Tố Tâm
D. Phan yên ngoại sử
Câu 11: Chọn luận điểm đúng.
A. Hoạt động có ý nghĩa đặc biệt đối với giao lưu văn hoá là sự trao đổi văn hoá là sự trao đổi hàng hoá.
B. Hoạt động có ý nghĩa đặc biệt đối với giao lưu văn hoá là sự trao đổi văn hoá là sự trao đổi vật phẩm tôn
giáo.
C. Hoạt động có ý nghĩa đặc biệt đối với giao lưu văn hoá là sự trao đổi kinh tế.
D. Hoạt động có ý nghĩa đặc biệt đối với giao lưu văn hoá là do các cuộc thiên di thời cổ đại.
Câu 12: Ngôi nhà nào của người Chăm được xây dựng trước tiên trong khuôn viên?
A. Nhà tục
B. Nhà lới
C. Nhà bếp
D. Nhà cặp đôi
Câu 13: Từ nào được điền vào chổ trống: .................... là truyền thống văn hoá lâu đời và tốt đẹp. Khái niệm
này thiên về những giá trị tinh thần do những người có tài đức chuyên chở:
A. Văn vật
B. Văn minh
C. Văn hoá
D. Văn hiến
Câu 14: Các tộc người Cống, La Hư, Lô Lô thuộc nhóm văn hoá ngôn ngữ nào:
A. Mã lai- Đa đảo
B. Môn- Khơ me
C. Tày – Thái
D. Tạng - Miếng
Câu 15: Người Việt xưng hô theo nguyên tắc nào?

2
A. Trọng tình cảm
B. Xưng hô Khiêm tốn
C. Cung kính khiêm nhường
D. Xưng khiêm hô tôn
Câu 16: Hồ Nguyệt Cô hóa cáo, Chém Tá, Lan Anh đẻ, là những lớp trò thuộc loại hình sân khấu cổ truyền
nào của người Việt
A. Rối nước
B. Cải lương
C. Hát chèo
D. Hát tuồng
Câu 17: Ai trong số các đối tượng sau được tôn là một vị thánh trongTứ bất tử?
A. Trần Cảnh
B. Trần Hưng Đạo
C. Thánh Gióng
D. Chiêu Hoàng
Câu 18: Trang trí cầu thang của nhà bằng việc chạm khắc nổi hình trăng khuyết và đôi bầu sữa mẹ là của
dân tộc nào?
A. Dân tộc Chu Ru
B. Dân tộc Ê Đê
C. Dân tộc Raglai
D. Dân tộc Chăm
Câu 19: Lễ hội Chùa Hương, hội Phủ Giầy, hội Giáng Sinh thuộc loại lễ hội:
A. Lễ hội nghề nghiệp
B. Lễ hội tôn giáo và văn hóa
C. Lễ hội văn hóa
D. Lễ hội tôn giáo
Câu 20: Hệ thống từ xưng hô của người Việt có những đặc điểm gì?
A. Tính cộng đồng cao
B. Tất cả
C. Trọng tình cảm
D. Tính tôn ti kỹ lưỡng
Câu 21: Ngôi nhà cộng đồng của người Cơtu gọi là gì?
A. Nhà rường
B. Nhà dài
C. Nhà gươl
D. Nhà rông
Câu 22: Lễ Tam nguyên là lễ hội của:
A. Đạo giáo
B. Đạo mẫu
C. Phật giáo
D. Nho giáo
Câu 23: Trong câu "tháng 8 giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ", người Việttôn ai là cha, ai là mẹ?
A. Pháp Vân và Thạch Quang
B. Pháp Vân và Ngọc Hoàng
C. Liễu Hạnh và Trần Hưng Đạo
D. Liễu Hạnh và Ngọc Hoàng
Câu 24: Hề chèo là nhân vật như thế nào?
A. Là nhân vật trữ tình
B. Là nhân vật hài hước, châm biếm

3
C. Là nhân vật hóm hỉnh.
D. Là nhân vật từ bi
Câu 25: Đặc điểm lối chào của văn hóa giao tiếp người Việt Nam?
A. Phụ thuộc vào quan hệ xã hội và theo sắc thái tình cảm.
B. Theo khuôn mẫu chung.
C. Phân biệt kỹ lưỡng các lối chào.
D. Phụ thuộc vào thời gian.
Câu 26: Nguyên nhân khiến người Việt Nam cực kỳ coi trọng việcgiao tiếp?
A. Tính rụt rè.
B. Tính tự ti làng xã.
C. Tính thích tìm hiểu.
D. Tính cộng đồng làng xã nông nghiệp.
Câu 27: Hát Chầu văn và kéo chữ là nét văn hóa đặc trưng của lễhội nào của người Việt?
A. Lễ hội Đền Hai Bà Trưng
B. Lễ hội Đền Đô
C. Lễ hội Phủ Giầy
D. Lễ hội Đền Hùng
Câu 28: Thành Hoàng là vị thần như thế nào?
A. Thần nghề nghiệp
B. Thần bảo vệ làng
C. Thần bảo vệ di tích
D. Thần giữ của
Câu 29: Nhà mồ Tây Nguyên thường phải tuân theo một hướng nhất định là hướng nào?
A. Đông Tây
B. Đông Bắc
C. Đông Nam
D. Tây Nam
Câu 30: Lễ tế thành hoàng hằng năm ở đình làng Việt gọi là lễ gì?
A. Lễ Kỳ Yên
B. Lễ sắp ấn
C. Lễ khai hạ
D. Lễ Hạ điền
Câu 31: Tên một lễ hội nông nghiệp đặc trưng ở vùng việt Bắc?
A. Lễ hội cúng trăng
B. Lễ hội Lung Tùng
C. Lễ hội Nàng hai
D. Lễ hội Hang Bua
Câu 32: "Nương - Phai - Lái - Lịn" là những biểu tượng của văn hoá nông nghiệp của dân tộc nào ở vùng
văn hoá Tây bắc?
A. Người Nùng
B. Người Thái
C. Người Tày
D. Người Lự
Câu 33: Xuồng ba lá, Ghe tam bàn là những phương tiện đi lại vàvận chuyển thuộc vùng đất nào ở nước ta?
A. Vùng Nam bộ
B. Vùng Thăng Long
C. Vùng Nam trung bộ
D. Vùng Trung bộ
Câu 34: Các báo "Lục tĩnh tân văn" "Nông cổ mín đàm", "Nữ giới chung" ra đời ở đâu?
4
A. Bắc Bộ
B. Nam Bộ
C. Hà Nội
D. Trung Bộ
Câu 35: Người Êđê gọi sử thi của mình là gì?
A. Hri
B. Truyện cổ tích
C. Hmon
D. Kha
Câu 36: Váy, xửa cơm (áo), khăn piêu là trang phục của phụ nữ dân tộc nào ở nước ta?
A. Người La Ha
B. Người La Chí
C. Người Lô Lô
D. Người Thái
Câu 37: Một biểu tượng của nghi lễ trong các dịp hỏi, cưới, đám tang, cúng giỗ, của người Việt là?
A. Cau và thuốc lào
B. Trầu và Cau
C. Trầu và bánh bèo
D. Trầu và nước
Câu 38: Mục đích lễ hội Chorchmanthmay của người Khơme Nam bộ?
A. Cúng trăng
B. Đón năm mới/ lễ tết
C. Cúng thần lúa
D. Ngày Phật đản
Câu 39: Kinh rạch và cầu tre là biểu tượng của làng Việt ở vùng nào của nước ta?
A. Vùng trung bộ
B. Vùng Nam bộ
C. Vùng duyên hai trung bộ
D. Vùng bắc bộ
Câu 40: Dân tộc nào ở nước ta có tục "kéo vợ"?
A. Người Cờ Lao
B. Người Hà Nhí
C. Người Lô Lô
D. Người Sila
Câu 41: Hát Chầu văn, Hát bóng liên quan đến liên quan đến hình thái tín ngưỡng nào của người Việt?
A. Thờ Mẫu
B. Thờ thuỷ thần
C. Thờ thiên Thần
D. Thờ Phồn Thực
Câu 42: Nội dung Tết Đoan Ngọ của người Việt?
A. Cúng hành khiển thần.
B. Hái thuốc nam để dành chữa bệnh.
C. Diệt trừ sâu bọ, xua đuổi bệnh tật.
D. Giỗ khuất nguyên.
Câu 43: Nội dung ý nghĩa lễ trừ tịch trong đêm giao thừa của người Việt?
A. Cúng hành khiển thần
B. Cúng Thổ thần
C. Cúng chúng sinh, hành khiển thần
D. Cúng chúng sinh

5
Câu 44: Vùng văn hoá nào của nước ta mà trong suốt quá trình lịch sử trở thành "phên dậu" của Đại việt
chống lại mưu đồ thôn tính và đồng hoá phong kiến Phương bắc?
A. Vùng Việt Bắc
B. Vùng Trường sơn Tây nguyên
C. Vùng Tây Bắc
D. Vùng Thăng long
Câu 45: Dân tộc nào của nước ta cho rằng Trống là Mặt trời-tính nam, Cồng chiêng là Mặt trời- tính nữ?
A. Người Êđê
B. Người lô
C. Người Mnông
D. Người Khơmú
Câu 46: Lượn cọi và lượn chương là những thể loại dân ca tiêu biểu?
A. Cư dân Tày- Nùng ở Việt Bắc
B. Cư dân Môn- khơ me
C. Cư dân Tày - Thái ở tây bắc
D. Cư dân Mông -Dao vùng Việt bắc
Câu 47: Biểu tượng của văn hoá ChămPa thuộc lĩnh vực kiến trúc?
A. Linga
B. Tượng thần SiVa
C. Tháp/Kalan
D. Lăng mộ
Câu 48: Vùng văn hoá nào của nước ta mà sinh hoạt hội chợ đựơc coi như một sinh hoạt văn hoá đặc thù?
A. Vùng Tây Nguyên
B. Vùng Tây Ninh
C. Vùng Việt Bắc
D. Vùng Tây Bắc
Câu 49: Lễ pơ thi (bỏ mả), lễ cúng giằng và tục đâm trâu là những lễ hội đặc trưng của vùng văn hoá nào
của nước ta?
A. Vùng Việt Bắc
B. Vùng Bắc Bộ
C. Vùng Tây Nguyên
D. Vùng Tây Bắc
Câu 50: Thiên Y A Na (Pô-I- Nu- Narga) là Thần Mẹ của dân tộc nào trên đất nước ta?
A. Người Gia Rai
B. Người Chăm
C. Người Raglai
D. Người Chu Ru
Bài 1. DẪN LUẬN VĂN HOÁ VÀ VĂN HOÁ HỌC
1. ĐỊNH NGHĨA/ KHÁI NIỆM VĂN HOÁ
Văn hoá là sản phẩm của hoạt động người, là sự sáng tạo của con người từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất trên
mọi lĩnh vực của đời sống. Văn hoá bao trùm lên lên tất cả các mặt của đời sống con người, khiến bất kỳ
định nghĩa nào đưa ra cũng khó có thể bao quát hết được nội dung của nó. Do đó cần coi các định nghĩa ấy
là những bổ sung lẫn nhau để có thể tái hiện văn hoá như một chỉnh thể.
Với tư cách một chỉnh thể, văn hoá mang trong mình những đặc trưng bất biến sau:
- Văn hoá là cái phân biệt con người với động vật, văn hoá là đặc trưng riêng có của xã hội loài người.
- Văn hoá không phải là sản phẩm của sự kế thừa về mặt sinh học, mà phải qua giáo dục, nhận thức, giao
tiếp trao truyền.
- Văn hoá là cách ứng xử đã được hình mẫu thành những khuân mẫu ứng xử.
2. CÁC THÀNH TỐ VĂN HOÁ

6
Sự kết tinh của các mặt của cuộc sống được thể hiện qua các thành tố của văn hoá. Sự phân chia văn hoá
thành nhiều thành tố hay hai, ba thành tố của hệ thống/ chỉnh thể văn hoá cũng không đi ra ngoài cách phân
chia phổ biến (phù hợp với quan điểm của UNESCO về văn hoá và di sản văn hoá), phân văn hoá thành hai
thành tố: Văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Những thành tố văn hoá mà giáo trình nêu cũng thuộc về
hai bộ phận văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần.
3. CÁC CHỨC NĂNG CỦA VĂN HOÁ
Văn hoá là sản phẩm của sự nhân hoá thế giới tự nhiên của con người để tạo ra cái "tự nhiên" thứ hai, tức
là tạo ra văn hoá. Văn hoá được được xem là một thiên nhiên thứ hai / hệ sinh thái văn hoá phải có của con
người. Nó cùng với hệ sinh thái tự nhiên làm nên môi trường sống của con người. Do đó văn hoá mang
những chức năng xã hội bao trùm nhất, cơ bản nhất là chức năng giáo dục.
Là sản phẩm của hoạt động người, Văn hoá không phải là một thực thể tồn tại tự nó, và tồn tại bên ngoài
con người, mà là toàn bộ những sản phẩm, hành động bao chứa vốn kinh nghiệm xã hội, tạo thành "môi
trường văn hoá", nuôi dưỡng đời sống con người. Hoạt động văn hoá vì thế diễn ra liên tục. Muốn cho hoạt
động này khỏi bị đức đoạn thì mỗi thế hệ người phải thường xuyên làm công việc giáo hoá đối với thế hệ
tương lai. Chức năng giáo dục của văn hoá thể hiện ra như sự kế thừa lịch sử, đảm bảo tính liên tục của lịc
sử.
Bác sĩ Sing người Ấn Độ đã kể về trường hợp phát hiện cô Kamala bị chó sói nuôi từ nhỏ. Khi rời hang
sói, Kamala đã 12 tuổi. Ban ngày, cô thường ngũ trong xó nhà, đêm đến thì tỉnh táo và đôi khi sủa lên như
chó rừng. Bình thường cô đi hai chân, khi bị đuổi thì chạy bằng bốn chi rất nhanh. Trong bốn năm học nói,
Kamala chỉ nhớ được hai từ. Cô không thể trở lại làm người, và chỉ sống đến năm 18 tuổi.
Sự kiện trên đây cho thấy vai trò / sự tác động của văn hoá đối với con người cực kỳ quan trọng. Nó
chứng tỏ đứa trẻ khi mới sinh ra chưa phải là người, vì không tiếp nhận được một sản phẩm văn hoá xã hội
nào của loài người truyền cho cả. Đúng như nhà xã hội học người Mỹ R.E. Pacco đã nói: "người không đẻ ra
người, đứa trẻ chỉ trở nên người trong quá trình giáo dục".
Môi trường xã hội loài người / môi trường văn hoá, đối với mỗi đứa trẻ mới ra đời chính là cái tập thể bao
quanh chúng. Lúc đầu là gia đình, gia tộc, làng xóm tiếp đến là trường học và các nhó xã hội khác, đã nối
tiếp nhau thực hiện công việc giáo dục- xã hội hoá một cá nhân. Đó là viêc giáo dục, dạy dỗ nhằm trao
truyền cho những đứa trẻ những kỷ năng và tri thức, những chuẩn mực và tập dần cho trẻ cách ứng xử phù
hợp với những khuôn mẫu của cộng đồng mà đứa trẻ là thành viên. Công việc này diễn ra liên tục để mỗi cá
nhân có trong mình những yếu tố chung của đời sống tập thể, biết tự kiểm soát hành vi của mình để có thể
ứng xử hài hoà (theo những điều đã được) trước từng trường hợp cụ thể của đời sống.
4. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA VĂN HOÁ HỌC
4.1. Văn hoá với văn minh, văn hiến, văn vật.
Đây là những khái niệm gắn liền với văn hoá học. Quan hệ giữa các khái niệm có cả những nét tương
đồng và khác biệt.
- Quan hệ giữa văn hoá và văn minh: Văn hoá (văn: vẻ đẹp, hoá: biến cải) và Văn minh (văn: cái đẹp,
minh: ánh sáng) là những khái niệm gần gũi, có quan hệ mật thiết, không đối lập nhau, song cũng không
hoàn đồng nhất. Cả hai khái niệm cùng được dùng để chỉ sức mạnh sáng tạo của con người. Người ta phân
biệt nội hàm hai khái niệm này tuỳ theo văn cảnh: Thuật ngữ văn hoá và văn minh thường sử dụng với một
nội dung giống nhau khi nó được đặc trong quan hệ dẫn đến các yếu tố khác như: kinh tế, chính trị, xã hội;
song khi vấn đề được bàn đến trong khoá học văn hoá, thì sự phân biệt văn hoá văn minh là cần thiết.
Văn minh dùng để chỉ trình độ phát triển cao của nền văn hoá. Việc xác định "cao" hay "thấp" được dựa
vào hai tiêu chí cơ bản là: tính duy lý và tính phổ biến của nền văn hoá ấy.
+ Tính duy lý thể hiện ở mức độ hiện thực hoá các sức mạnh vật chất, sức mạnh sáng tạo của con người,
được biểu đạc qua hệ thống hoạt động sản xuất xã hội, gồm sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần (hệ thống
các chuẩn mực, các tri thức).
+ Tính phổ biến thể hiện ở chỗ các thành viên trong cộng đồng văn hoá đó đều hoạt động dựa trên hệ
thống chuẩn mực, giá trị mà cộng đồng ấy xây dựng nên, tạo nên tính đồng nhất văn hoá trong mỗi thành
viên; mặt khác những hệ thống chuẩn mực, giá trị ấy có ảnh hưởng mạnh đến các nền văn hoá khác.
Chính vì có hai thuộc tính trên nên văn minh còn được dùng để chỉ tình trạng tiến bộ chung các cộng
đồng người ở mọi cấp độ, từ địa phương, nhà nước, khu vực cho đến nhân loại.
Ở cấp độ phổ quát toàn nhân loại, văn minh được hiểu là sự tổng hoà những thành quả vật chất và tinh
thần của loài người trong qúa trình cải tạo thế giới; là thước đo của tiến bộ xã hội và mức độ khai hoá của

7
con người. khi loài người tách mình ra khỏi thế giới động vật thị cũng là bước khởi đầu của văn minh. Theo
tinh thần đó, khái niệm văn minh bao gồm bốn nội dung cơ bản: Nhà nước, chữ viết, đô thị và trình độ kỹ
thuật.
- Văn hiến, văn vật: Đây là những thuật ngữ đặc trưng của văn hoá phương đông. Văn hiến dùng để chỉ
những giá trị tinh thần do những người hiền tài chuyển tải. Văn vật dùng để chỉ truyền thống văn hoá lâu đời
và tốt đẹp được thể hiện thông qua một đội ngũ nhân tài và hiện vật trong lịch sử.
4.2. Văn hoá tộc người
Văn hoá tộc người là tổng thể các yếu tố về tiếng nói, chữ viết, sinh hoạt văn hoá vật chất và tinh thần, cá
sắc thái tâm lý và tình cảm, phong tục và lễ nghi... khiến người ta phân biệt tộc người này với tộc người
khác
Văn hoá tộc người với các yếu tố cơ bản trên làm nên tính đặc trưng và đặc thù của tộc người, là nền tảng
nẩy sinh và phát triển ý thức tộc người, thực hiện chức năng cố kết tộc người. Một dân tộc bị mất văn hoá
riêng thì ý thức tộc người cũng sẽ bị mai một. Văn hoá tộc người làm nên tính đa dạng của một nền văn hoá
dân tộc (quốc gia).
4.3 Văn hoá vùng
Văn hoá vùng là một thực thể văn hoá bao chứa những sắc thái văn hoá chung (thể hiện qua nếp sống và
lối sống của cư dân như sản xuất, nghi lễ, tín ngưỡng, hội hè, qua các hoạt động văn hoá nghệ thuật, qua
phong tục và phong cách sống...) từ đó có thể phân biệt với các vùng văn hoá khác.
Những đặc trưng chung ấy hình thành trong quá trình lich sử lâu dài, tạo nên tương đồng văn hoá / tính
đồng nhất của các cộng đồng người cùng sống trên vùng lãnh thổ.
4.4. Tiếp xúc và giao lưu văn hoá
Thực tế cho thấy, xuyên suốt tiến trình lịch sử, tất cả các nền văn hoá hiện tồn đều là hiện thân như kết
quả của quá trình giao lưu, tiếp xúc. Giao lưu và tiếp xúc là phương thức tồn tại của mọi nền văn hoá trên
hành tinh này.
Tiếp xúc và giao lưu văn hoá được hiểu là hiện tượng xảy ra khi những nhóm người có văn hoá khác
nhau, tiếp xúc lâu dài với nhau gây ra sự biến đổi mô thức văn hoá của một hoặc cả hai bên.
Trong giao lưu có thể sảy ra hiện tượng những yếu tố của nền văn hoá này thâm nhập vào nền văn hoá
kia, trường hợp này là tiếp thu thụ động; hoặc một số yếu tố của nền văn hoá kia được nền văn hoá này vay
mượn, trường hợp này gọi là tiếp thu chủ động. Trên cơ sở của yếu tố nội sinh và ngoại sinh mà chủ nhân
nền văn hoá ấy sẻ điều chỉnh, cải biên cho phù hợp, dẫn đến sự giao thao văn hoá. Từ góc độ này thì nội
dung của một nền văn hóa cụ thể được phân xuất thành: yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh.
Việc phân chia như thế chỉ mang tính tương đối. Cùng với thời gian, yếu tố ngoại sinh có thể biến thành
yếu tố nội sinh, hoặc bị biến đổi một cách căn bản để trở nên phù hợp hơn với nền văn hoá đã tiếp nhận nó.
Việc tiếp thu nho giáo, Phật giáo của Việt Nam và một số nước Đông Nam Á là một minh chứng về sự biến
đổi đó.
Dưới góc độ giao lưu tiếp xúc văn hoá, có thể nói văn hoá Việt Nam là kết quả của các cuộc gặp gỡ văn
hoá lớn trong khu vực.
- Giao lưu văn hoá Ấn Độ: Giao lưu trực tiếp qua đường biển đông; giao lưu gián tiếp qua văn hoá Bắc
thuộc, qua văn hoá Chămpa ở Trung bộ và văn hoá Óc Eo ở Nam bộ.
- Giao lưu văn hoá với Trung Hoa: Chủ yếu bằng con đường cưỡng bức (bị xâm lược, đô hộ và đồng hoá).
- Giao lưu văn hoá phương tây: Trong lịch sử, sự giao lưu này chủ yếu diễn ra thông qua các kênh: buôn
bán đường biển; sự đô hộ của thực dân Pháp, kế đến là đế quốc Mỹ (miền Nam việt Nam). Ngày nay, giao
lưu văn hóa với phương Tây đã có thêm nhiều hình thức mới.
5. VĂN HOÁ VÀ CÁC BỘ MÔN VĂN HOÁ HỌC
Văn hoá là môn khoa học tích hợp (Integral Science), vừa nghiên cứu văn hoá nói chung, vừa nghiên cứu
hiện tượng văn hoá riêng biệt. Mục đích của văn hoá học là phát hiện ra và phân tích tính qui luật của những
biến đổi văn hoá - xã hội. Đối tượng của văn hoá học chính là văn hoá.
Văn hoá được xem xet từ nhiều góc độ, do vậy văn hoá học có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau, tạo nên nhiều phân môn như:
- Lịch sử văn hoá
- Địa lý văn hoá
- Văn hoá học đại cương
- Cơ sở văn hoá.

8
Bài 2. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ VIỆT NAM
I. VĂN HOÁ VIỆT NAM THUỘC LOẠI HÌNH VĂN HOÁ GỐC NÔNG NGHIỆP
Các nền văn hoá trên thế giới, bên cạnh những sắc thái riêng thì có không ít những nét tương đồng, vì vậy có
thể đối thoại với nhau. Những nét tương đồng đó được lý giải thông qua ba chủ thuyết lớn
- Thuyết khuếch tán văn hoá
- Thuyết vùng văn hoá
- Thuyết loại hình kinh tế - văn hoá
Các chủ thuyết này không mâu thuẫn nhau, mà bổ sung cho nhau để đáp ứng yêu cầu nhận biết về văn
hoá của con người, trong đó thuyết loại hình kinh tế - văn hoá có ý nghĩa cho việc tìm hiểu những nền văn
hoá của các dân tộc ở phương Đông và phương Tây từ góc độ khởi nguyên văn hoá. Loại hình văn hoá được
giải thích, phân chia từ góc độ này có cơ sở là căn cứ vào sự khác biệt về môi trường sống. tức là can cứ vào
địa bàn cư trú với điều kiện khí hậu khác nhau giữa các vùng trên thế giới. Theo đó, khởi nguyên ban đầu
thế giới chỉ có các vùng: châu Âu, châu Á và châu Phi. Từ ba vùng này đã sản sinh hai loại hình: loại hình
văn hoá du mục và loại hình văn hoá nông nghiệp.
- Cư dân cư trú ở phía Tây - Bắc tức châu Âu (so với châu Phi ở phía Đông Nam) và cư dân vùng Tây -
Bắc châu Á là vùng khí hậu khô lạnh, là xứ sở của những thảo nguyên mênh mông. Ở đây, nghề du mục
chăn nuôi phát triển, tạo ra lối sống du cư, vừa đi vừa ở, nay đây mai đó. Nơi này không thuận tiện, họ có
thể dễ dàng chuyển đi nơi khác. Cư dân sống không phụ thuộc vào thiên nhiên. Đối tượng sản phẩm của
nghề chăn nuôi là đàn gia súc. Khi tách hộ, tách tộc thì dẫn đến việc tính toán phân chia gia súc. Cùng với
chăn nuôi là nhu cầu cần phải trao đổi hàng hoá, vì vậy, thương nghiệp đã sớm xuất hiện. Thương nghiệp
xuất hiện đòi hỏi phải có kho chứa hàng và bãi trao đổi hàng hoá, dẫn đến sự hình thành đô thị. Đô thị xuất
hiện kéo theo các ngành nghề thủ công sớm ra đời. Việc xây dựng nhà cửa, kho bãi, đường giao thông dẫn
đến khoa học kỹ thuật sớm phát triển. Tóm lại, tất cả những điều kiện của phương thức sinh tồn này dẫn đến
kinh tế du mục. Văn hoá lại được quy định bởi kinh tế, vì vậy loại hình văn hoá du mục là sản phẩm của
hình thái kinh tế này, với những đặc tính sau:
+ Dân du mục sống không phụ thuộc vào thiên nhiên, nên không coi trọng thiên nhiên bằng coi trọng sức
mạnh con người; ít chú ý bảo vệ thiên nhiên. Con người trong ứng xử thì độc tôn, trong tiếp nhận theo xu
hướng chiếm đoạt và trong đối phó thì cứng rắn.
+ Du mục ưa di chuyển, trọng động, hiếu chiến (khởi nguyên là từ chiếm đoạt gia súc, chiếm đoạt thị
trường).
+ Sự ra đời của thương nghiệp, đô thị, công nghiệp đòi hỏi phải tính toán, hạch toán, nên tư duy phân tích
sớm phát triển. Tư duy phân tích chú trọng các thành tố, yếu tố, dẫn đến phát triển mạnh về cấp số nhân, kéo
theo sự xuất hiện trừu tượng hoá thoát khỏi những yếu tố ban đầu, dẫn đến siêu hình. Tư duy phân tích gắn
liền với siêu hình nên triết học siêu hình sớm nảy nở.
+ Thương nghiệp, công nghiệp thì phải hạch toán, dẫn đến rất coi trọng và thiên về pháp, lý hơn tình cảm.
Đó chính là cơ sở cho pháp luật sớm ra đời, nghị trường sớm hình thành.
Tất cả những đặc tính trên cũng là những đặc trưng của văn hoá phương Tây sau này.
- Cư dân ở vùng Đông Nam thế giới, nhất là vùng Đông Nam châu Á có điều kiện khí hậu nắng, nóng, ẩm
nhiều, lắm mưa, sông ngòi, ao hồ, bãi bồi nhiều, đây là điều kiện thuận lợi cho nghề nông nghiệp cấy trồng.
Kinh tế nông nghiệp đã ra đời và phát triển, là nền tảng hình thành / tạo nên nền văn hoá nông nghiệp. Văn
hoá nông nghiệp có những đặc tính sau:
+ Nông nghiệp phải phụ thuộc, trông chờ nhiều vào thiên nhiên (mưa nắng phải thì), dẫn đến lối sống hoà
hợp cùng thiên nhiên, tôn trọng, không ganh đua với thiên nhiên. Chẳng hạn như ở Việt Nam, người nông
nghiệp tôn thờ trời và những hiện tượng thiên nhiên như mây, mưa, sấm, chớp, trong suy nghĩ thì ''ngẫm hay
muôn sự tại trời''.
+ Làm nông nghiệp cấy trồng thì phải định cư lâu dài, phải trông chờ mùa vụ, sản phẩm cây trái dài ngày
hàng đời. Định cư nông nghiệp ưa ổn định, ưa tĩnh và khao khát hoà bình ''trời yên biển lặng mới vui tấm
lòng''.
+ Nông nghiệp cấy trồng thì phải dựa vào nhau để tạo sức mạnh làm thuỷ lợi, chiến thắng thiên tai địch
hoạ. Phải dựa vào nhau nên phải yêu thương nhau, vì thế văn hoá nông nghiệp thiên về trọng tình cảm, tình
nghĩa ''Một bồ cái lý không bằng một tý cái tình''.

9
+ Yêu thương nhau thì ''chín bỏ làm mười', văn hoá nông nghiệp ít ưa hạch toán, ít trọng lý, ít trọng pháp,
dẫn đến lối ứng xử xuê xoa, đại khái.
+ Thành quả nông nghiệp là từ nhiều yếu tố hợp thành: Thời tiết, giống má, kỹ thuật nên dẫn đến phát
triển tư duy tổng hợp. Tổng hợp thì kéo theo biện chứng - tư duy không phải là tập họp các yếu tố riêng lẻ,
mà là mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố. Vì thế tư duy văn hoá nông nghiệp cấy trồng là linh hoạt ''dĩ bất
biến, ứng vạn biến'', chủ thể văn hoá có lối ứng xử là dung hợp trong tiếp nhận, mềm dẻo trong đối phó.
+ Văn hoá nông nghiệp trong cộng đồng, trọng tình nghĩa, tình cảm, khiến nảy nở tâm lý hiếu hoà, cư xử
khoan dung, khoan hoà, chấp nhận.
Những đặc tính văn hoá trên đây cũng là những đặc tính của văn hoá nông nghiệp Việt Nam, biểu hiện cụ
thể trên các lĩnh vực:
. Ứng xử với môi trường tụ nhiên
. Kiểu tư duy
. Nguyên tắc tổ chức cộng đồng
. Lối sống
. Các ứng xử với môi trường xã hội
II. CON NGƯỜI VIỆT NAM - CHỦ/ KHÁCH THỂ CỦA VĂN HOÁ VIỆT NAM
- Văn hoá Việt Nam như nó đang tồn tại là một nền văn hoá của một quốc gia đa tộc người, gồm 54 dân tộc,
trong đó tộc người Việt (kinh) - ''tộc người đa số'', đóng vai trò là tộc người chủ thể. Đó là một cộng đồng
người làm nông nghiệp lúa nước được hình thành trong quá trình khai phá vùng châu thổ Hồng, với đặc
trưng nổi bật trong tính cách là sắc thái, triết lý nghĩa nghĩa tình trong quan hệ với tự nhiên, với xã hội, làm
nên lối ứng xử duy tình, duy cảm, duy nghĩa, gắn chặt với quan niệm sống của cư dân nông nghiệp, đó là
phúc đức và phúc đức tại mẫu.
III. NHỮNG DỮ KIỆN CĂN BẢN VỀ ĐỊA LÝ, XÃ HỘI VÀ LỊCH SỬ CỦA VĂN HOÁ VIỆT NAM
1. Văn hoá chịu sự chi phối đáng kể của môi trường tự nhiên. Hoàn cảnh địa lý/ môi trường tự nhiên
Việt Nam có ba đặc điểm cơ bản: Nóng ẩm, mưa nhiều và có gió mùa.
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, vùng bao gồm miền chân núi Himalaya và
Thiên Sơn. Các dòng sông lớn của khu vực đều bắt nguồn từ hai dãy núi này. Các hạ lưu của sông gồm
Dương Tử, sông Hồng, Mê Công, Chaophaya... đều là những vùng đồng bằng màu mỡ đầy phù sa. Một đặc
trưng của vùng này là sự chênh lệch khá lớn giữ bình nguyên và núi rừng. Chính nét đặc trưng này cùng với
điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là cơ sở thuận lợi cho sự hình thành và phát triển nghề
nông trồng lúa nước. Đặc biệt sông nước đã để lại dấu ấn quan trọng làm nên một nét độc đáo trong văn hoá
nông nghiệp lúa nước. Sông nước và thực vật là hai đặc tính nổi trội trong văn hoá Việt Nam, làm nên nền
văn minh thực vật (khái niệm của học giả Pháp P. Gourou) hay văn minh thôn dã. Văn hoá lúa nước tính
chất thực vật (mà cốt lõi là cây lúa) đã in dấu ấn đậm nét trong trong đời sống hàng ngày của con nguời Việt
Nam như: ăn, ở và đi lại. Bữa ăn / bữa cơm hàng ngày của người Việt được mô hình hoá là: cơm - rau - cá,
thêm vào đó, người Việt không có thói quen ăn sữa và các sản phẩm từ sữa động vật, cũng không có truyền
thống chăn nuôi đại gia súc lấy thịt - chăn nuôi gắn với trồng trọt. Tính chất thực vật cũng thể hiện rõ nét
trong đời sống tâm linh qua tục thờ cây. Và môi trường sông nước được coi là một yếu tố quan trọng khi
xem xét về những vấn đề văn hoá và con người Việt Nam. Yếu tố nước tạo nên sắc thái riêng biệt trước hết
là trong tập quán kỹ thuật canh tác (hình thành một hệ thống: Đê, ao, kênh, rạch...), cư trú (có làng ven sông,
làng trên sông, tới những đô thị ven sông, ven biển hay đô thị, thành phố ngã ba, ngã tư sông...), ở (nhà sàn,
nhà có mái hình thuyền, nhà - ao; nhà thuyền...), ăn (cá sông, cá bể / biển, các loại nhuyễn thể...), đến tâm lý
ứng xử (linh hoạt, mềm mại như nước), sinh hoạt cộng đồng (đua thuyền, bơi chải...), tín ngưỡng tôn giáo
(thờ cá voi, thờ rắn, thờ Thuỷ thần...), phong tục tập quán, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, nghệ thuật (chèo,
tuồng, rối nước, hò, lý...) và truyền thống cố kết cộng đồng, kiên cường, bất khuất trong cuộc đấu tranh với
bão tố thiên tai, với lũ lụt.
Việt Nam ở bán đảo Đông Dương, là đầu cầu mở vào Đông Nam Á từ hướng Ấn Độ và Trung Quốc. Vị
thế này tạo cho Việt Nam trở thành giao điểm của các nền văn hoá văn minh, là cầu nối Đông Nam Á lục địa
và Đông Nam Á hải đảo.
2. Lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống xâm lực và mở mang bờ cõi về phía biển và phương
Nam.
3. Cơ cấu xã hội Việt Nam cổ truyền: nhà - làng - nước. Đây là một thể cộng đồng đồng tâm và đồng
dạng:

10
- Nhà/ gia đình (hình thức mở rộng là Họ): Đại đa số là gia đình tiểu nông, với cơ cấu kinh tế tự túc, tự
cấp theo mô hình ''chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa''.
- Làng: Là một đơn vị cộng cư của cư dân nông nghiệp định cư trên một vùng đất chung, một hình thức tổ
chức xã hội nông nghiệp tự túc tự cấp. Đó cũng là mẫu hình phù hợp với xã hội có nền sản xuất tiểu nông.
Làng được hình thành và tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lý cội nguồn và cùng chỗ. Làng có sức sống
mãnh liệt với cấu trúc động, không có làng bất biến. sự biến đổi của làng do sự biến đổi chung của đất nước.
Do những đặc thù của tự nhiên và xã hội mà ở miền Trung và miền Nam tuy gốc gác cũng là người Việt từ
miền Bắc di cư vào, nhưng với môi trường sống mới, hình thức cơ cấu làng xã và quan hệ xã hội thay đổi
nhiều, không còn những đặc điểm như làng Bắc Bộ.
Làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ là hình thức công xã nông thôn với những đặc thù riêng của làng được thể
hiện ở chế độ ruộng đất, chế độ công điền, các loại hình và nguyên tắc tổ chức xã hội như lệ làng, tín
ngưỡng, lễ hội của làng. Đặc trưng nổi bật của làng Việt Nam là ý thức cộng đồng làng, ý thức tự quản -
quyền quản lý làng xã được thể hiện trong hương ước của làng và tính đặc thù độc đáo rất riêng của mỗi
làng trong tập quán, nếp sống, tín ngưỡng, tôn giáo, kể cả giọng nói và cách ứng xử. Các đặc trưng trên có
mối liên hệ hữu cơ, tạo cho làng một vị trí đặc biệt làm nên những đặc trưng văn hoá làng, văn hoá dân tộc.
Làng là một đơn vị xã hội của văn hoá Việt Nam, đồng thời là một môi trường văn hoá. Ở đó, mọi thành
tố, mọi hiện tượng văn hoá được sinh thành phát triển, lưu giữ và trao truyền tới mọi thành viên.
- Nước: Là một cộng đồng siêu làng/dân tộc. Khi cộng đồng người đã tiến tới trình độ dân tộc thì cộng
đồng làng lớn nhất là nước, là dân tộc. Con người Việt Nam trong lịch sử, từ rất lâu đã là con người vừa của
làng, vừa của nước ''sống ở làng sang ở nước''.
Nhà - làng - nước của người Việt Nam vốn đã sớm có bản sắc của mình.
4. Cơ cấu xã hội Việt Nam truyền thống: xã hội Việt Nam là xã hội nông nghiệp, văn hoá Việt Nam là
văn hoá nông nghiệp. Trong xã hội đó, gia đình, làng là đơn vị xã hội cơ sở, là hai yếu tố cơ bản chi phối
toàn bộ hệ thống xã hội Việt Nam. Đặc trưng cơ cấu xã hội Việt Nam truyền thống là những gia đình tiểu
nông trong những làng xã tiểu nông.
Những dữ kiện trên đây là cơ sở hình thành và củng cố những đặc điểm của dân tộc Việt Nam, trong đó
quan trọng và tiêu biểu là những đặc điểm sau đây:
1. Tính cố kết cộng đồng sâu sắc. Đặc điểm này giúp con người Việt Nam vượt qua những khó khăn thử
thách của thiên nhiên và kẻ thù xâm lược.
+ Cộng đồng gia đình: Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
+ Cộng đồng làng xóm: Bán anh em xa mua láng giềng gần.
+ Cộng đồng lãnh thổ/dân tộc: Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn;
hay: Dù ai đi ngược về xuôi / Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.
2. Tinh thần tương thân tương ái cộng đồng, lối ứng xử nhân hậu với môi trường tự nhiên.
3. Tinh thần cởi mở, hỗn dung những tinh hoa văn hoá bên ngoài song vẫn giữ cốt lõi và bản sắc văn hoá
Việt Nam trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
4. Văn hoá Việt Nam là một nền văn hoá thống nhất trong đa dạng. Quốc gia dân tộc Việt Nam hiện nay
gồm 54 tộc người, trong đó tộc người Việt là tộc người chủ thể. Nền văn hoá thống nhất của quốc gia dân
tộc Việt Nam bao gồm văn hoá của 54 tộc người, với đặc trưng vừa có tính thống nhất, vừa có tính đa dạng.
Tiếp cận văn hoá Việt Nam cần phải tiếp cận và phản ánh được tính thống nhất trong đa dạng ấy.

Bài 3. ĐẠI CƯƠNG VỀ TIẾN TRÌNH VĂN HOÁ VIỆT NAM


I. VĂN HOÁ VIỆT NAM THỜI TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ
Đây là thời kỳ hình thành nền tảng/cơ tầng văn hoá Việt Nam, được tính từ khi người nguyên thủy biết dùng
đá để chế tác công cụ cách ngày nay vài chục vạn năm cho đến thời đại Hùng Vương dựng nước - thời đại
làm nên hai thành tựu lớn lao có ý nghĩa lịch sử. Đó là sự hình thành của nền văn minh sông Hồng và sự ra
đời của hình thái nhà nước sơ khai: nhà nước Văn Lang của các vua Hùng và tiếp đó là nước Âu Lạc của An
Dương Vương.
1. Văn hóa Việt Nam thời tiền sử.
Là thời kỳ trước khi xuất hiện nền văn minh cổ đại, tức là trước khi hình thành nhà nước / quốc gia (từ
buổi đầu thế kỷ I TCN - cuối thời đại đá mới), trên đất nước Việt Nam đã có một quá trình phát triển văn hoá
lâu dài.
11
- Trong thời kỳ tiền sử ấy đã dần dần hình thành một cơ tầng văn hoá chung cho tất cả cư dân ở vùng
Đông Nam Á. Đó là nền văn hoá lấy nghề nông làm phương thức hoạt động, thích nghi với điều kiện tự
nhiên thuộc khu vực châu Á gió mùa - Nền văn hoá có đặc trưng là một phức thể văn hoá lúa nước với ba
yếu tố: văn hoá núi, văn hoá đồng bằng và văn hoá biển. Trong đó, yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng đóng
vai trò chủ đạo.
Ở sườn đồi, sườn núi thấp, người ta đốt rừng làm nương rẫy, trồng lúa cạn. Ở thung lũng, đồng bằng, ở
ven biển, người ta canh tác lúa nước. Ở nhiều nơi, cư dân còn biết dùng trâu bò để cày bừa. Ở ven các dòng
sông, ở ven biển, cư dân thạo nghề đi biển và đánh bắt hải sản.
Ở các vùng núi, cư dân nói chung còn ở trình độ tổ chức sống bộ lạc, nhưng ở trung du và đồng bằng, cư
dân đã dần dần vươn tới trình độ tổ chức liên minh bộ lạc, sống thành vùng cư dân đông đúc, gồm nhiều
làng xã lớn. Liên minh bộ lạc là một bước quá độ để vươn lên trình độ tổ chức quốc gia.
- Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ, có đủ ba yếu tố văn hoá núi, đồng bằng và biển, có đủ các sắc
tộc thuộc các ngữ hệ ở Đông Nam Á hiện nay.
Thông qua các ngành khảo cổ học và cổ nhân học, chúng ta biết có các nền văn hoá trên đất nước Việt
Nam thuộc thời kỳ tiền sử:
+ Văn hoá Núi Đọ - văn hoá thuộc thời kỳ đá cũ, bắt đầu hàng chục vạn năm kéo dài cho đến một vạn
năm cách ngày nay (tên gọi của nền văn hoá này là từ điểm khảo cổ học ở núi Đọ, Thanh Hoá)
+ Văn hoá Sơn Vi (Phú Thọ) - văn hoá thuộc hậu kỳ đá cũ, tồn tại từ 20 đến 15 nghìn năm trước công
nguyên.
+ Văn hoá Hoà Bình (Hoà Bình) - văn hoá thuộc thời kỳ đá giữa, kéo dài khoảng từ 12.000 đến 7.000
năm cách ngày nay. Đã có một nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong lòng văn hoá Hoà Bình.
+ Văn hoá Bắc Sơn (Lạng Sơn) - văn hoá thuộc thời kỳ đá mới, kéo dài khoảng từ 11.000 năm đến 7.000
năm cách ngày nay. Cùng với nền văn hoá Hoà Bình, văn hoá Bắc Sơn đã làm nên khúc dạo đầu của cuộc
cách mạng đá mới. Để đến cuối thời đại đá mới thì phần lớn các bộ lạc nguyên thuỷ đã tiến sang giai đoạn
nông nghiệp trồng lúa, cũng tức là chuyển từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản xuất, thực sự bước vào lĩnh
vực sáng tạo văn hoá.
Cư dân thời đại đá mới đã có những tri thức phong phú về tự nhiên và dựa vào những tri thức đó để thích
nghi một cách hài hoà với tự nhiên. Chẳng hạn, người Hoà Bình cư trú trong các hang động đã nhận biết
được những hiện tượng có tính quy luật của gió mùa, do đó để tránh gió mùa, các hang động của họ đã
không có hang động nào quay về hướng chính Bắc, mà có tới hơn 50% quay về hướng nam và hướng đông
Nam. Thời kỳ này cũng để lại những dấu vết nghệ thuật, như những hiện vật xương có vết khắc hình cá,
hình thú và người trên vách hang Đồng Nội. Trong sự nhận thức về thiên nhiên của người Hòa Bình, còn
thấy rõ những cảm nhận về những nhịp điệu vốn có trong tự nhiên, được thể hiện bằng những nhóm vạch 3
vạch một trên các hòn đá cuội trong hang động. Dù chỉ là giả thuyết, những di vật tìm thấy trong văn hoá
Hoà Bình và Bắc Sơn cũng cho thấy một bước phát triển mới về tư duy của người nguyên thuỷ. Tư duy về
thời gian, vũ trụ còn được thể hiện bằng những hoa văn, ký hiệu biểu thị mặt trời như hình tròn, hình chữ vẽ
trên đồ gốm. Có thể bấy giờ đã bắt đầu hình thành loại nông lịch sơ khai. Thời kỳ này cũng xuất hiện những
tín ngưỡng nguyên thuỷ: niềm tin vào thế giới bên kia; sự tôn thờ các sức mạnh tự nhiên. Những hiện tượng
tự nhiên như mưa, gió, đặc biệt là mặt trời đã trở thành những thần linh quan trọng đối với con người. Về tổ
chức xã hội, vào giai đoạn hậu kỳ đá mới, khi con người đã chọn nghề nông và sống định cư, thì có thể tin
rằng nhiều bộ lạc đã sống thành hàng xóm.
2.Thời sơ sử.
Cách đây khoảng 4000 năm, cư dân Việt Nam từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Đồng Nai đã bước
vào thời đại kim khí. Thời kỳ này trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã tồn tại 3 trung tâm văn hoá lớn của 3
quốc gia cổ nhất Đông Nam Á:
- Văn hoá Đông Sơn (miền Bắc) gắn với sự ra đời của nhà nước Văn Lang của các vua Hùng và tiếp đó là
nước Âu Lạc của vua An Dương Vương. Với nền văn hoá Đông Sơn, kỹ thuật chế tác đồ đồng đã vươn lên
trình độ khá cao so với trình độ thế giới lúc đương thời. Sản phẩm đồng thời cũng là biểu tượng của văn hoá
Đông Sơn là trống đồng Đông Sơn. Quá trình hình thànhvà phát triển của văn hoá Đông Sơn / văn minh
sông Hồng ở miền Bắc là một quá trình hình thành nên cái cốt lõi của người Việt cổ và nhà nước đầu tiên
của họ. Đây là một nền văn hoá thống nhất mà chủ nhân của nền văn hoá đó là một cộng đồng cư dân gồm
nhiều thành phần tộc người gần gũi nhau về nhân chủng và văn hoá. Văn hoá Đông Sơn là một điển hình của
nền văn hoá nông nghiệp lúa nước.

12
- Văn hoá Sa Huỳnh (miền Trung) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương quốc Chăm Pa. Văn
hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của cư dân nông nghiệp trồng lúa, nhưng biết khai thác nguồn lợi của rừng và
biển, và phát triển các nghề thủ công.
- Văn hoá Đồng Nai (miền Nam), một cội nguồn hình thành nền văn hoá Óc Eo ở Nam Bộ vào những thế
kỷ đầu công nguyên sau này. Văn hoá Óc Eo gắn với vương quốc Phù Nam, một nhà nước tồn tại từ thế kỷ
II đến thế kỷ VII ở châu thổ sông Cửu Long. Văn hoá Đồng Nai cũng là sản phẩm của cư dân có hoạt động
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và thủ công.
Tóm lại, tiến trình văn hoá thời tiền sử và sơ sử thuộc giai đoạn hình thành nền tảng của văn hoá Việt Nam,
với các đặc điểm cơ bản sau đây:
- Tiến trình văn hoá Việt Nam thời tiền sử và sơ sử là tiến trình hình thành nên những nền tảng của văn
hoá Việt Nam, hình thành cốt lõi của người Việt cổ, là phác thảo khởi nguyên về một nền văn hoá quốc gia
dân tộc đa tộc người về sau.
- Những nền tảng văn hoá đó có là những nền tảng văn hoá bản địa / nội sinh, nằm trong cơ tầng văn hoá
chung của khu vực văn hoá Đông Nam Á thời bấy giờ, nó khác với hai nền văn hoá - văn minh Trung Quốc
và Ấn Độ ở châu Á.
- Đỉnh cao của giai đoạn hình thành những nền tảng văn hoá nội sinh Việt Nam là văn hoá Đông Sơn, văn
hoá Sa Huỳnh và văn hoá Đồng Nai, cũng là ba đỉnh cao của văn hoá Đông Nam Á, miền đông bán đảo
Đông Dương. Ba trung tâm văn hoá đó phát triển theo thế chân vạc, nhưng luôn có mối quan hệ qua lại với
nhau, đồng thời phát triển, giao lưu với nhiều văn hoá khác ở khu vực. Đồng thời, ba trung tâm văn hoá ấy
đều sẽ phát triển thành ba nền văn minh lớn ở Đông Nam Á, ứng với ba quốc gia cổ đại là Văn Lang - Âu
Lạc, Chăm Pa và Phù Nam.
- Như thế, trước khi chịu sự thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc, đất nước ta đã từng tồn tại
một nền văn minh cổ như vậy, nên ý thức quốc gia dân tộc của người Việt đã sớm hình thành và làm nên
một sức mạnh đủ để dân tộc Việt Nam vừa không bị Hán hoá lại vừa có khả năng thâu hoá những nhân tố
của mô hình văn hoá Trung Quốc trong quá trình xây dựng nhà nước Đại Việt tự chủ sau này.
II. VĂN HOÁ VIỆT NAM THIÊN NIÊN KỶ THỨ NHẤT SAU CÔNG NGUYÊN
Trong khoảng mười thế kỷ đầu công nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã từng tồn tại ba nền văn
hoá: văn hoá của cộng đồng cư dân châu thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, văn hoá Chăm Pa ở ven biển miền
Trung, và văn hoá Óc Eo ở vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Ba nền văn hoá này có những nét
chung do có chung cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, nhưng cũng lại có những nét riêng do từng vùng có những
đặc điểm và số phận lịch sử khác nhau. Bài giảng trình bày đặc điểm văn hoá của cư dân châu thổ bắc Bộ
với tư cách đại diện, điển hình.
1. Năm 179 trước công nguyên, nước Âu Lạc của An Dương Vương bị nước Nam Việt của Triệu Đà
(đóng đô ở Phiên Ngung thuộc Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) thôn tính. Năm 111 trước công nguyên,
nước Nam Việt bị thôn tính vào đế quốc Hán, nước Âu Lạc lúc ấy thuộc nước Nam Việt cũng bị thôn tính
theo. Từ đó, đất nước ta trải qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, tức là chịu sự đô hộ, áp đặt văn hoá của phong
kiến phương Bắc và có sự chống phong kiến phương Bắc đô hộ để bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc. Lịch sử
các cộng đồng dân tộc Việt Nam trong suốt thời kỳ Bắc thuộc là lịch sử của một cuộc đấu tranh đề kháng dai
dẳng, bền bỉ để bảo tồn giống nòi, bảo vệ nền văn hoá dân tộc và giải phóng đât nước. Cuộc đấu tranh chống
ách đô hộ của phong kiến phương Bắc thành công nên mới tồn tại nền văn hoá Việt Nam hiện nay.
2. Trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, các triều vua Trung Quốc từ Hán đến Đường, thông qua chính quyền
đô hộ nước ta khi ấy, đã kế tiếp nhau thi hành chính sách cai trị tàn bạo, chính sách đồng hoá / Hán hoá đối
với người Việt và văn hoá Việt trên mọi phương diện, nhằm vĩnh viễn thôn tính nước ta vào đế quốc phong
kiến phương Bắc. Đặc trưng cơ bản trong bối cảnh văn hoá lịch sử giai đoạn này là:
- Tiếp xúc cưỡng bức văn hoá Việt - Hán.
- Tiếp xúc văn hoá Việt Ấn.
- Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc, bản sắc văn hoá.
3. Dấu ấn văn hoá thời kỳ Bắc thuộc áp đặt vào Việt Nam mà ngày nay vẫn còn ảnh hưởng rõ nét là các
học thuyết, các tôn giáo của phương Đông, là sự du nhập đạo Nho, đạo Giáo...
- Nho giáo (còn được gọi là đạo Nho hay Khổng giáo) do Khổng Tử (551 - 479 trước CN) sáng lập. Nho
giáo không phải là tôn giáo hiểu theo đúng nghĩa, không phải là học thuyết triết học theo nghĩa chính xác,
mà thực chất là học thuyết chính trị - xã hội và đạo đức của giai cấp thống trị. Nho giáo thiết lập trật tự xa
hội, quan hệ giữ người với người trong xã hội và quan hệ giữa con người với thế giới tụ nhiên (trời). Giai

13
cấp thống trị coi Nho giáo là công cụ để cai trị xã hội theo theo một trật tự nghiêm ngặt cho các mối quan hệ
trong xã hội. Tư tưởng này quy định phương châm ứng xử theo thứ bậc: quân, sư, phụ, và con người trong
xã hội phải giữ đạo Cương thường (trung quân, ái quốc, tam tòng tứ đức, tam cương ngũ thường) để duy trì
và củng cố trật tự xã hội ấy.
Học thuyết về con người với thế giới tự nhiên đuợc thể hiện thông qua tư tưởng 'Thiên mệnh', 'Thiên nhân
cảm ứng'.
- Đạo giáo là một thuật ngữ dùng để chỉ hai dòng triết học và tôn giáo ủa Trung Quốc có bản chất khác
nhau: một dòng là đạo Giáo triết học được gọi là đạo Gia, một dòng là đạo giáo tôn giáo thường được gọi là
đạo Giáo.
Đạo Gia do Lão Tử sáng lập và Trang Tử phát triển, nên còn gọi là đạo Lão - Trang. Đạo này đề cao tư
duy trừu tượng, coi thường việc nghiên cứu sự vật cụ thể, khuyên con người sống gần gũi tự nhiên, không
làm gì trái với lẽ tự nhiên. Trong thời kỳ Bắc thuộc, đạo Lão - Trang chủ yếu lưu hành trong số người Hán
thất thế.
- Đạo giáo, một tôn giáo bản địa của Trung Quốc hỗn hợp rất nhiều tín ngưỡng Saman giáo và các phương
thuật của dân gian lẫn cung đình như: đoán mộng, xem sao, bói rùa, cúng quỷ thần, đồng cốt, cầu tiên
v.v...Đạo này khi được truyền bá vào Việt Nam đã hoà nhập với tín ngưỡng đa thần của người Việt, bổ sung
những tín điều cần thiết cho tín nguỡng dân gian Việt Nam.
- Phật giáo: Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào nước ta cùng từ thời kỳ này, khoảng thế kỷ đầu công nguyên.
Đạo Phật (Buddha, tiếng Ấn là 'giác ngộ') phát sinh ở Ấn Độ vào thế kỷ VI trước công nguyên, tại một bang
Capilavatxtu gần biên giới Nê pan. Người sáng lập là đức Thích ca Mâu ni (Cakya Mauni). đạo Phật là tiếng
nói bất bình của quần chúng nhân dân lao động đối với chế độ đẳng cấp hà khắc, là sự phản ứng mãnh liệt,
chống lại quyền uy của đẳng cấp thống trị Bàlamôn. Đạo Phật chủ trương pháp tính bình đẳng, rằng tất cả
chúng sinh đều có Phật tính và đều có thể thành Phật, từ chỗ từ giác đến chỗ giác tha. Đạo Phật khuyên mọi
người nên tiết chế dục vọng, có tinh thần vô ngã vị tha, tu nhân tích đức, làm điều lành, tránh điều ác.
Thuyết 'Nhân quả nghiệp báo' của đạo Phật phù hợp với quan niệm 'ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão' trong
tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Thuyết “Luân hồi” cũng phù hợp với quan niệm dân gian cho rằng linh hồn
tồn tại sau khi thể xác tiêu tan và tiếp tục đầu thai để kiếp sau trở lại cuộc sống thực tại.
4. Bên cạnh việc chịu ảnh hưởng những tư tưởng lớn như trên, trên cơ sở văn minh nông nghiệp và xóm
làng, người Việt đã tiếp thu một số yếu tố văn hoá Trung Quốc, Ấn Độ và vùng biển phương Nam.
5. Song hành với việc chịu Bắc thuộc, việc chống Bắc thuộc để bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc của dân
tộc ta đạt được những kết quả mang tính quyết định sự tồn tại của cả dân tộc VIệt Nam. bản sắc văn hoá dân
tộc được bảo vệ có thể kể ra ở một số mặt chính sau đây:
- Tiếng nói.
- Tín ngưỡng dân gian và lễ hội dân tộc.
- Văn nghệ dân gian.
6. Như vậy, nhìn tổng thể có thể kết luận rằng, đã diễn ra hai khuynh hướng đối lập của tiến trình văn hoá
Việt Nam thời Bắc thuộc:
- Khuynh hướng Hán hoá là mưu đồ có ý thức của bọn đô hộ và tay sai.
- Khuynh hướng Việt hoá nhằm gìn giữ và phát huy những tinh hoa văn hoá cổ truyền từ đã có từ thời
Văn Lang - Âu Lạc, mặt khác còn tiếp thu, hội nhập những yếu tố văn hoá bên ngoài để làm phong phú văn
hoá Việt; sắp xếp, cấu trúc lại nền tảng văn hoá Việt. Khuynh hướng này là chủ đạo.
Đối lập lại chủ nghĩa 'bình thiên hạ' của kẻ thù, nhân dân ta đã phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước, ý
chí độc lập tự chủ, tinh thần tự lập tự cường. Đối lập với bộ máu nhà nước đế chế và tổ chức chính quyền đô
hộ theo cơ cấu quận huyện, nhân dân ta lo củng cố và giữ gìn cộng đồng xóm làng. Từ làng, người Việt
vươn ra giành lại nước. Đối lập với sức mạnh của một đế chế lớn mạnh, nhân dân ta tạo lập nên một sức
mạnh đoàn kết toàn dân. Khởi nghĩa chống Bắc thuộc là khởi nghĩa nhân dân, có tính quần chúng rộng rãi,
mau chóng phát triển thành chiến tranh nhân dân giải phóng dân tộc, và cuối cùng với chiến thắng Bạch
Đằng lịch sử do Ngô Quyền lãnh đạo, cuộc đấu tranh bền bỉ của nhân dân ta đã giành được thắng lợi vẻ
vang.
III. VĂN HOÁ VIỆT NAM THỜI ĐỘC LẬP
Trên mảnh đất Việt Nam ngày nay, từ thế kỷ X đến năm 1858, ba nền văn hoá ở thiên niên kỷ đầu công
nguyên đã phát triển theo ba hướng khác nhau.

14
Nền văn hoá Óc Eo ở đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, sau thế kỷ thứ VIII, dường như chỉ còn ánh
hào quang, không còn được nhắc nhở trong tư liệu và thư tịch nữa.
Trên dải đất Trung Bộ, từ thế kỷ XV, Chăm Pa đã chấm dứt sự tồn tại của mình như một nhà vương quốc.
Cư dân Chăm Pa trở thành một tộc người trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Nền văn hoá Chăm Pa trở
thành nền văn hoá của một tộc người trong nền văn hoá đa tộc người Việt Nam.
Bởi vậy, khi nói về văn hoá thời độc lập / tự chủ, là nói về nền văn hoá Đại Việt.
Thời tự chủ của quốc gia Đại Việt kéo dài gần một thiên niên kỷ, từ năm 938 đến năm 1858. Đây là thời
kỳ có nhiều biến đổi tự thân của nội bộ quốc gia.
- Các vương triều thay thế nhau trị vì đất nước, xây dựng một quốc gia tự chủ: nhà Ngô (939 - 967), nhà
Đinh (967 - 981), nhà Tiền Lê (981 - 1010), nhà Lý (1010 - 1225), nhà trần (1226 - 1400), nhà Hậu Lê (1427
- 1527), nhà Mạc (1527 - 1592), Trịnh - Nguyễn (1592 -1788), Tây Sơn (1778 - 1802), tên nước Đại Việt
được dùng tới đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn (1802 - 1945), khi Gia Long lên ngôi, tên nước được đổi là Việt
Nam.
- Trong thời kỳ Đại Việt, nước ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc: chống giặc Tống, giặc
Nguyên Mông, giặc Minh, giặc xiêm, và giặc Thanh xâm lược.
- Cùng với những biến động trong lịch sử, đất nước ta cũng trải qua một quá trình phát triển về phương
Nam. Đến giữa thế kỷ XVIII, việc khai phá miền Nam Bộ đã cơ bản hoàn thành. Sau năm 1786 và năm
1802, đất nước Việt Nam đã có một lãnh thổ thống nhất từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau.
- Có ba lần phục hưng văn hoá dân tộc trong thời kỳ độc lập:
+ Lần thứ nhất vào thời Lý Trần.
+ Lần thứ hai vào thời Hậu Lê thế kỷ XV.
+ Lần thứ ba vào cuối thế kỷ XVIII.
1. Đặc điểm văn hoá thời Lý - Trần
a. Hệ tư tưởng chủ đạo trong ứng xử với thời cuộc là việc dung hoà Nho, Phật, Đạo, trong đó nổi trội là
Phật giáo và Nho giáo. Đây là thời kỳ 'tam giáo đồng nguyên'.
- Phật giáo tồn tại và phát triển với tư cách là một đạo và là tác nhân của khối đoàn kết dân tộc. Đạo Phật
thời này đã nhập thế và Việt hoá, phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Phật giáo thời này cũng đã tác
động đến tư tưởng, tâm lý, phong tục và nếp sống của nhân dân. Nó ảnh hưởng to lớn đến văn học nghệ
thuật, trong đó có lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc. Đặc biệt trong điêu khắc, hình ảnh con rồng thời này khác
hẳn các giai đoạn về sau.
- Nho giáo trong thời kỳ Lý Trần được sư dụng như là học thuyết thiết lập trật tự trong xã hội. Chế độ
giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo bắt đầu được coi trọng. Năm 1070, nhà Lý dựng Văn Miếu, mở
Quốc Tử Giám. Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài. Dần dần Nho giáo đã có địa vị
trong xã hội. Nhà Trần, cùng với việc củng cố tư tưởng Nho giáo, đã chính quy hoá chế độ thi cử. Năm
1247, nhà Trần đặt danh hiệu Tam khôi, dành cho ba người thi đỗ xuất sắc trong các kỳ thi đình. Qua thi cử,
tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo. Nho sĩ và tư tưởng nho giáo ngày càng tăng lên trong triều, lấn át tư
tưởng Phật giáo.
b. Nền văn hoá bác học bắt đầu hình thành, gắn với sự hình thành của đội ngũ trí thức Phật giáo và Nho
giáo. Các trí thức thời Lý chủ yếu là nhà sư, đến đời Trần chủ yếu là nhà nho. Thơ văn tất nhiên ảnh hưởng
hệ tư tưởng Phật giáo và Nho giáo, song lại có những áng văn mang tính nhân văn và giá trị văn hoá sâu sắc,
như: Nam quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt), Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn)...
Tư tưởng độc lập cũng thúc đẩy sự phát triển văn tự - chữ Nôm. Chữ Nôm được đưa vào sáng tác văn
học, bên cạnh văn học chữ Hán. Các tác giả có thơ Nôm thời kỳ này là Trần Nhân Tông với Cư trần lạc đạo
phú và Đắc thử lâm tuyền thành đạo ca; Mạc Đĩnh Chi với Giáo tử phú; Huyền Quang với Vịnh hoa yên tự
phú, Nguyễn Thuyên với Phi sa tập (tập thơ vừa chữ Nôm vừa chữ Hán).
Cùng với văn học là sự ra đời và phát triển của các ngành nghệ thuật như chèo, tuồng.
2. Đặc điểm văn hoá thời Hậu Lê
a. Năm 1400, nhà Hồ lên thay thế nhà Trần.
Đến năm 1407, giặc Minh xâm lược Đại Việt, đặt nền đô hộ và đổi tên nước ta thành quận Giao Chỉ. Nhà
Minh thi hành chính sách cai trị tàn bạo nhằm thủ tiêu nền độc lập của Đại Việt.
Năm 1418, Lê Lợi tụ nghĩa, phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn, tổ chức cuộc kháng chiến 10 năm chống quân
nhà Minh, giành lại độc lập cho Tổ quốc. trang sử mới của đất nước được mở ra, văn hoá dân tộc bước vào
thời kỳ phục hưng lần thứ hai.

15
b. Thành tựu văn hoá:
- Thành tựu văn hoá lớn nhất của thời Hậu Lê là sự ra đời của bộ luật Hồng Đức / Lê triều hình luật. Bộ
luật này là thể hiện bước phát triển quan trọng của việc xây dựng nhà nước pháp quyền thời phong kiến.
- Giáo dục: giáo dục thời Hậu Lê được chú trọng mở mang. Giáo dục lấy Nho giáo làm chuẩn mực, chế
độ đào tạo Nho sĩ được xây dựng theo một xu hướng rất chính quy nhằm tuyển chọn hiền tài, bổ nhiệm vào
bộ máy nhà nước. Để khuyến khích học hành đỗ đạt, nhà nước đặt ra lễ xướng danh, lễ vinh quy và lễ khắc
tên mỗi người thi đỗ tiến sĩ vào bia đá dựng ở Văn Miếu, gọi là bia tiến. Hệ thống quan lại của nhà Lê đều
được tuyển lựa hầu hết qua thi cử. Chính vì vậy, Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của nhà Hậu
Lê.
- Văn hoá ngôn từ, nhiều tác phẩm chữ Nôm vẫn không ngừng ra đời và phát triển. Với Quốc Âm thi tập
(254 bài), Nguyễn Trãi được khẳng định là người mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam.
- Ở phương diện khoa học cũng có những tác phẩm tiêu biểu, như Lập thành toán pháp (Lương Thế Vinh),
Đại thành toán pháp (Vũ Hữu).
- Nghệ thuật: hai thể loại sân khấu là tuồng và chèo, đã đạt đến sự ổn định về mặt nghệ thuật, được thể
hiện trong cuốn Hý phường phả lục (Lương Thế Vinh) - tác phẩm lý luận đầu tiên về kịch hát cổ truyền. Về
nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc, một phần thể hiện ở hình tượng con rồng. Sự tác động của hệ thống tư
tưởng Nho giáo của triều đình đã chuyển hoá hình tượng con rồng từ chỗ là biểu tượng cho nguồn nước của
cư dân nông nghiệp thành biểu tượng cho quyền uy của phong kiến. Ở nông thôn, đình làng mỗi làng quê,
nơi thờ thần làng cũng mang chức năng mới - Công sở của làng xã, nơi ban bố chính lệnh của nhà nước.
3. Đặc điểm văn hoá thời cuối thế kỷ XVIII đến năm 1858
a. Nét đặc trưng của lịch sử thời kỳ này sự phân liệt về chính trị một cách gay gắt, sự xung đột Lê Mạc,
Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài với các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đời sống dân chúng khổ sở dẫn đến nhiều
cuộc khởi nghĩa của nông dân.
Sự thống nhất đất nước buổi đầu do công lao của Nguyễn Huệ, sau đó là nhà Nguyễn của vua Gia Long, đã
tạo cho văn hoá giai đoạn này một diện mạo khá đa dạng.
b. Sự mục ruỗng của triều đình phong kiến chứng tỏ sự sụp đổ của hệ tư tưởng Nho giáo. Tuy nhiên, giai
cấp phong kiến, từ trong tiềm thức vẫn giữ Nho giáo làm kỷ cương cho đời sống xã hội, nhất là ở thời nhà
Nguyễn (từ vua Gia Long tới Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức). Mặc dù vậy, Nho giáo vẫn không có được
vị thế như thế kỷ XV.
Bắt đầu từ thế kỷ XVI, một tôn giáo mới du nhập vào nước ta, trở thành một bộ phận trong đời sống tư
tưởng Việt Nam. Đó là Kitô giáo.
c. Ki tô giáo vào Việt Nam đã dẫn đến sự ra đời của chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ thời kỳ đầu gắn liền với
việc giảng đạo, truyền đạo, với vị giáo sĩ được tôn là 'ông tổ chữ quốc ngữ' - AlếcxăngđơRốt. Năm 1649 -
1651, Alếc xăngđơRốt đã công bố cuốn từ điển Việt - Bồ - La tại Rôma, đã khẳng định sự xuất hiện chính
thức của chữ quốc ngữ- chữ Việt Latinh. Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ sẽ đưa sự phát triển văn hoá lên một
bước mới.
d. Sự phát triển của văn hoá nghệ thuật, trong đó có văn học chữ Nôm phát triển mạnh. Những tác phẩm
Truyện Kiều (Nguyễn Du), thơ Hồ Xuân Hương, Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), thơ của Bà
Huyện Thanh Quan; những sáng tác dân gian cũng phát triển mạnh. Kiến trúc đình làng thế kỷ XVI - XVII
phát triển mạnh, làm cho vị trí Thành hoàng được xác định chắc chắn tại các làng quê.
e. Một đặc điểm lịch sử trong thời kỳ này là sự mở rộng cương vực về phía nam, dẫn đến sự hình thành
Đàng Trong để phân biệt với Đàng Ngoài.
Đàng Trong là vùng đất mới của người Việt. Trước khi người Việt đặt chân đến, ở đây đã có một nền văn
hoá 'tiền Việt' phát triển khá rực rỡ. Đó là nền văn hoá Chăm Pa. Trong quá trình cộng cư, người Chăm và
người Việt đã giao lưu văn hoá tự nguyện, hoà bình. Do đó, văn hoá của người Việt ở Đàng Trong, về cơ bản
vẫn đảm bảo tính thống nhất.
IV. VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI THỰC DÂN PHÁP XÂM LUỢC
1. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Trong vòng gần 10 năm, từ 1858 đến 1867, các
tỉnh miền Đông và miền Tây Nam bộ lần lượt bị chiếm và bị đặt dưới ách thống trị của người Pháp. Đến
năm 1872, quân Pháp đánh ra Bắc bộ, và đến năm 1883, triều đình nhà Nguyễn phải ký với thực thực dân
Pháp hiệp ước ''Hiệp định hoà bình'' tại Huế. Với hiệp ước này, toàn bộ đất nước Việt Nam đã bị đặt dưới
ách thống trị của người Pháp.

16
2. Trong khi triều đình Huế liên tục cắt đất cho giặc và cuối cùng đã đầu hàng thực dân Pháp, công nhận
ách thống trị của thực dân Pháp ở Việt Nam, thì nhân dân Việt Nam cùng các sĩ phu yêu nước đã liên tục
đứng lên chống Pháp ở khắp ba miền. Tất cả các phong trào yêu nước chống Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc,
tuy rất kiên cường anh dũng nhưng đều bị thất bại. Khi việc bình định Việt Nam đã căn bản hoàn thành, thực
dân Pháp bắt đầu tiến hành công cuộc khai thác thuộc địa.
3. Đặc trưng văn hoá của thời kỳ này là sự tiếp xúc, giao lưu văn hoá tây phương (Pháp), và đối tượng
trực tiếp tiếp xúc là các tầng lớp sĩ phu. Còn ở các làng quê thì ảnh hưởng của sự giao lưu rất ít. Tầng lớp sĩ
phu - những người nhạy cảm với văn hoá đương thời, đã phân hoá thành ba thái độ ứng xử khác nhau:
- Chống lại sự giao tiếp, chống lại văn hoá phương Tây
- Chấp nhận sự giao tiếp, đầu hàng thực dân về mặt chính trị, cố học lấy chữ Pháp, văn hoá Pháp để ra
làm quan cho chính quyền thuộc địa.
- Chủ động tích cực giao lưu với văn hoá Pháp để tìm đường giải phóng dân tộc.
4. Kết quả của việc giao lưu văn hoá thời kỳ này thể hiện ở các lĩnh vực:
- Văn hoá vật chất: sự phát triển đô thị, công nghiệp và giao thông; sự phát triển của kiến trúc đô thị theo
kiểu Tây phương; trang phục; những tiện nghi sinh phù hợp với lối sống đô thị có nguồn gốc phương Tây...
- Văn hoá tinh thần: sự ra đời và phát triển nhanh chóng của báo chí, của văn học chữ quốc ngữ gắn với sự
xuất hiện những thể loại văn học mới có nguồn gốc phương tây (tiểu thuyết, thơ mới), những quan điểm
nghệ thuật mới (chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tả chân, phương pháp miêu tả và phân tích tâm lý...). Bối
cảnh lịch sử, văn hoá thời này đã thúc đẩy sự phát triển của bộ phận văn học yêu nước chống thực dân Pháp
xâm lược. Đó là các nhà thơ - chí sĩ: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương...
Về sau các nhà hoạt động chính trị như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng đã dùng ngòi bút của mình tố
cáo chế độ thực dân, cổ vũ nhân dân đấu tranh cho độc lập, cho tiến bộ xã hội. Trước Cách mạng Tháng tám,
bộ phận nhà văn thuộc chủ nghĩa tả chân đã có những tác phẩm phê phán sắc sảo xã hội của chế độ thực dân
như: Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Chí Phèo (Nam Cao), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng)...
V. VĂN HOÁ VIỆT NAM TỪ SAU NĂM 1945 ĐẾN NAY
1. Ngày 2/9/1945, nước Việt Nam Dân Cộng Hoà ra đời, chấm dứt hơn 80 năm đất nước bị thực dân Pháp
xâm lược. Lịch sử Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng tám đã trải qua nhiều biến động lớn lao. Đó là trong
vòng một nửa thế kỷ XX, Việt Nam đã phải tiến hành liên tiếp hai cuộc chiến trang giải phóng dân tộc và
thống nhất đất nước.
2. Đặc điểm văn hoá thời kỳ này:
- Người lao động trở thành người làm chủ / chủ thể văn hoá có hệ tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin. Văn
hoá truyền thống, văn hoá chuyên nghiệp, giao lưu văn hoá theo sự định hướng của Đảng Cộng sản Việt
Nam, từ các văn kiện như, ''Đề cương văn hoá Việt Nam'', (1943), ''Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt
Nam'' (1948); các nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cũng như các Nghị quyết Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng...
- Hệ tư tưởng xã hội / hệ văn hoá - hệ tư tưởng Mác - Lênin.
- Văn hoá truyền thống, văn hoá chuyên nghiệp đều phát triển, có sự giao lưu mạnh mẽ với văn hoá nhân
loại.

Bài 4. NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
Ngôn ngữ là sản phẩm tư duy đặc thù của dân tộc. Nước ta có 54 dân tộc cũng là có 54 tiếng nói khác
nhau, với cuộc sống tinh thần và tập quán xã hội khác nhau. Theo ngôn ngữ văn hoá, các dân tộc được xếp
vào 8 nhóm văn hoá ngôn ngữ tộc người.
I. DÂN TỘC VÀ NHÓM NGÔN NGỮ TỘC NGƯỜI
1. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Việt - Mường:
Việt, Mường, Thổ, Chứt.
2. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Môn - Khơ Mer
Ba Na, Brâu, Bru - Vân Kiều, Co, Chơ Ro, Cơ Ho, Cơ Tu, Gié - Triêng, Hrê, Kháng, Khơ Mer, Khơ Mú,
Mạ, Mảng, Mnông, Ơ Đu, Tà Ôi, Rơ Măm, Xinh Mun, Xơ Đăng, Xtiêng.
3. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Tày - Thái
Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Tày, Thái.
4. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Mông - Dao
17
Dao, Mông, Pà Thẻn.
5. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Ka Đai
Cờ Lao, La Chí, La Ha, Pu Péo.
6. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo
Chăm, Chu Ru, Ê Đê, Gia Rai, Rag Lai.
7. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán
Hoa, Ngái, Sán Dìu.
8. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Tạng - Miến
Cống, Hà Nhì, La Hủ, Lô Lô, Phù Lá, Si La.
Theo các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, lịch sử ngôn ngữ Việt Nam có một nền tảng chung là ngôn ngữ Đông
Nam Á, đồng thời có một lịch sử phát triển lâu dài, và có nguồn đa nguồn. Lịch sử phát triển tiếng Việt trải
qua ba giai đoạn. Đó là:
- Tiền Việt - Mường.
- Việt - Mường chung.
- Tiếng Việt độc lập.
Sắc thái đặc thù của ngôn ngữ Việt Nam là sự giao thoa, tiếp xúc đan xen giữa những yếu tố nội sinh với
những bồi đắp ngoại sinh. Lịch sử đã trộn các yếu tố ấy ở vùng lòng chảo Bắc Bộ và vùng vịnh cổ Hà Nội
để tạo nên tiếng Việt / kinh phong phú và thanh tao, được thể hiện trong văn hoá giao tiếp cùng cách sử dụng
ngôn từ của người Việt Nam.
II. CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
- Vừa cởi mở vừa rụt rè:
Đặc trưng này bắt nguồn từ văn hoá làng xã với hai đặc trưng cơ bản là tính cộng đồng và tính tự trị, tôn
ti. Làng xã người Việt là những không gian văn hoá đóng kín, và ở đó, mỗi cá nhân đều cảm thấy thoải mái
rong cộng đồng quen thuộc, bởi ở cộng đồng này, họ hành xử theo những quy tắc đã có sẵn. Tuy nhiên, khi
đi ra ngoài cộng đồng quen thuộc đó, họ sẽ tở nên lúng túng vì không định vị được chính xác vị thế của
mình, do đó mà mất tự tin, dẫn đến việc rụt rè, tự khép mình lại.
- Ứng xử thiên về tình cảm:
Ảnh hưởng chủ yếu của văn hoá sông nước và tính cộng đồng làng xã.
- Trọng danh dự:
Tuy nhiên trọng danh dự thái quá nên mắc bệnh sĩ diện. Đặc điểm này cũng khiến cho người Việt rất sợ dư
luận và thường sống dựa theo dư luận.
- Cẩn trọng, giữ ý trong giao tiếp để giữ gìn sự hoà thuận:
Không biểu lộ cảm xúc, nguyện vọng hay nhu cầu trước mặt người khác. Đặc điểm này nhiều khi dẫn đến
thái độ vòng vo, cân nhắc thái quá trong giao tiếp.
- Thiếu tính quyết đoán:
Đây là hệ quả của việc giữ gìn ý tứ và cân nhắc thái quá trong giao tiếp.
- Hệ thống nghi thức lời nói phong phú với các đặc điểm như trọng tình, khiêm cung, lịch sự, phù hợp với
các quan hệ xã hội.
III. CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN TRONG NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ VIỆT NAM
Văn hoá ứng xử / giao tiếp của người Việt đã được kết tinh lại trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Nghệ thuật
sử dụng ngôn từ của người Việt có những đặc trưng cơ bản như sau:
- Tính ước lệ cao: hay diễn đạt bằng các con số biểu trưng, ước lệ: ba thu, nói ba phải, ba mặt một lời,
chín tầng mây...
- Tính cân xứng, so sánh và tương phản cao, tạo nên kiểu từ, câu đối ứng: Trèo cao / ngã đau; Ăn vóc /
học hay; Đời cha ăn mặn / đời con khát nước...
- Giàu tính nhịp điệu và tiết tấu - đậm chất thi ca.
- Giàu chất biểu cảm - sản phẩm của nền văn hoá trọng tình. Chất biểu cảm biểu hiện đậm ở mặt từ ngữ.
Đó là một từ, bên cạnh yếu tố gốc có sắc thái nghĩa trung hoà, thường có nhiều biến thể với những sắc thái
nghĩa biểu cảm. Ví dụ: màu xanh (trung tính), sẽ còn có: xanh rì, xanh rờn, xanh lè, xanh rợn, xanh ngắt,
xanh um, xanh lè...; các từ láy mang sắc thái biểu cảm mạnh cũng rất phát triển ở tiếng Việt. Ví dụ: nhỏ
(trung tính), sẽ còn có: nhỏ nhoi, nhỏ nhen, nhỏ nhặt, nhỏ nhắn... Về ngữ pháp, tiếng Việt có một hệ thống
hư từ biểu cảm rõ rệt, đã góp phần làm tăng cường hệ thống phương tiện biểu cảm cho tiếng Việt, như: à, ư,
nhỉ, nhé, chăng, chớ, hở, sao, chứ...

18
- Linh hoạt và mềm dẻo, do ảnh hưởng từ văn hoá sông nước và văn hoá giao tiếp. Đặc điểm này, trước
hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp ngữ nghĩa hoạt động linh hoạt và có khả năng khái quát cao; trong lời nói,
tính linh hoạt bộc lộ ở chỗ người Việt ưa dùng cấu trúc động từ - trong một câu có bao nhiêu hành động thì
có bấy nhiêu động từ. Điều này khác với ngôn ngữ phương Tây - ưa thích dùng danh từ. Tính linh hoạt, năng
động còn là nguyên nhân khiến tiếng Việt thiên về dùng cấu trúc chủ động, kể cả những câu bị động cũng bị
'hoán đổi' theo cấu trúc chủ động.
Như vậy, có thể nói rằng, giao tiếp của người Việt đã phần nào minh chứng cho nền văn hoá trọng tình và
văn hoá sông nước Việt Nam.

Bài 5. NHÀ CỬA - KIẾN TRÚC


Đối với người làm nông nghiệp, ngôi nhà là cái tổ ấm, với các chức năng: chức năng cư trú, chức năng xã
hội và chức năng kinh tế. Người Việt khẳng định: có an cư thì mới lạc nghiệp, và nhất dương cơ nhì âm phần
là vậy.
I. NHÀ CỬA CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG
Quy mô, kết cấu và hình thức của ngôi nhà nhìn chung nhỏ bé, đơn sơ và mang tính tôn ti. Nguyên nhân: do
luật pháp nhà nước phong kiến quy định, đồng thời còn là do môi trường tự nhiên của Việt Nam quy định.
1. Nhà của người Việt/ Kinh
Nhà của người Việt / kinh xây dựng trên những miền có địa hình và khí hậu khác nhau sẽ có những khác
biệt để thích ứng với môi trường sống. Nhà cửa vùng đồng bằng miền Bắc chau chuốt, trang nhã nhưng
không kém phần vững chắc và duyên dáng hơn các vùng khác. Ngôi nhà gắn bó với thiên nhiên, tạo cảm giá
gần gũi giữa con người với môi trường tự nhiên.
Nhà cửa của người Việt ở những nơi đầu sóng ngọn gió, hàng năm phải chịu sự chà sát của bão gió liên
tục, như các tỉnh từ Quảng Ninh xuống Thái Bình, thì căn nhà phải thu mình gọn, bám chặt vào đất, nên
ngôi nhà đã giảm đi sự trang trí thanh thoát trang nhã mà chỉ giữ lại những gì thật cần thiết, đảm bảo tránh
gió bão từ miền đông vào. Ngôi nhà vùng này đặc biệt chú ý đến sự gia cố phần khung và mái nhà để trụ
được trước gió bão. Toàn bộ ngôi nhà tạo sự vững chắc về chiều ngang nên nó như lùn xuống, ì ra chắc nịch.
Còn nhà ở miền trung, nơi rất gần biển thì các tiêu chuẩn phải đạt tới là giản dị, chắc chắn. Nhà ở vùng Nam
Bộ, một vùng đất trẻ / mới, đất rộng người thưa, sông nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt, vật liệu xây
nhà là những thứ có sẵn trong vùng như cây tràm, cây đước, lá buông, lá dừa, vừa có khả năng chịu mặn vừa
linh hoạt. Nhìn chung nhà cửa có vẻ tạm bợ so với các vùng miền khác.
Tóm lại, nhà cửa của cư dân Việt từ truyền thống cho đến hiện đại, từ đồng bằng cho đến ven biển, từ Bắc
vào Nam có sự phát triển với những sắc thái riêng song vẫn nằm trong phạm trù dân gian với ý thức thích
ứng tốt nhất với môi trường tự nhiên, nên cũng cho nhiều bài học quý giá trong việc xây dựng một nền kiến
trúc đậm đà bản sắc dân tộc.
2. Nhà của các dân tộc khác.
Ngoài tộc Việt, Việt Nam còn có 53 dân tộc anh em sinh sống trên vùng lãnh thổ Việt Nam, trong số đó,
nhiều dân tộc đã đạt được trình độ kỹ thuật trong việc xây dựng nhà cửa, góp phần làm nên bản sắc của tộc
người.
Nhà cửa của các dân tộc ít người nhìn chung có xu hướng vươn cao và xoè rộng nhằm thích ứng với môi
trường rừng núi nhiều khí ẩm, thú dữ. Do đó ngôi nhà ở thích hợp là nhà sàn - căn nhà có khả năng khai thác
được nhiều thuận lợi cũng như khắc phục được nhiều khó khăn do môi trường tự nhiên tác động.
2.1. Nhà dân tộc Mường
Nhà người Mường truyền thống là nhà sàn, với khung nhà làm bằng gỗ hoặc tre, mái lợp cỏ tranh hoặc
lợp nứa hay lá cọ. Vách nhà được thưng bằng ván gỗ hoặc bằng phên nứa đan lại. Khung nhà được giữ chắc
do có lắp một cái cựa gà (nét đặc biệt của nhà sàn Mường) nhằm khoá kèo kẹp chặt chiếc đòn tay ở phía trên
đầu cột cái vào quá giang.
Trong nhà chia làm hai nửa theo chiều ngang, phần nhà ngoài, nơi giành cho nam giới, nơi tiếp khách và
cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, thuộc nửa bên trái; phần nhà trong - nửa bên phải có bếp giành cho nữ. Dọc
theo nhà thì phía trước gọi là bên dưới, phía sau gọi là bên trên - nơi có bàn thờ. Các sinh hoạt trong nhà đều
diễn ra trên sàn. Dưới gầm sàn là chuồng gia súc và để các công cụ sản xuất. Nhà có hàng rào và cửa ngõ.
Ngày nay, người Mường có xu hướng chuyển từ nhà sàn sang nhà trệt. Còn những ngôi nhà sàn truyền thống
cũng rời chuồng gia súc ra khỏi gầm sàn.
19
2.2. Nhà dân tộc Thái
Nhà sàn Thái là một công trình kiến trúc mang nét đẹp rất riêng của người Thái.
Hướng nhà thường là hướng của cả bản. Đó là hướng của cộng đồng nguời sống, gắn với nguyện vọng về
cuộc sống no đủ, bình an, đoàn kết của cộng đồng ngươì Thái. Nhà sàn Thái có hai loại, gắn với hai nhóm
tộc người là Thái trắng và Thái đen. Người Thái trắng có nhà sàn ’khai điêng’, người Thái đen có nhà sàn
’phăng đin’. Hai kiểu nhà này có những đặc điểm chung là: nhà có bốn mái. Ngoài mái trên và mái dưới ở
phía trước và phía sau có hình chữ nhật, còn lại hai mái ở hai đầu hồi che cho gian đầu và thân sàn. Bốn mái
gặp nhau ở các kèo góc tạo ra một đầu hồi, gọi là hang con mèo (hông meo) làm chỗ cho hồn người chết bay
lên trời.
Nhà sàn truyền thống có mái nhà giống như mai con rùa hoặc chiếc thuyền úp. Trên mái nhà, ở hai đầu
hồi có ’khau cút’ vút cao, vừa mang dấu ấn dân tộc, vừa cho biết vị trí xã hội của chủ nhà, đồng thời cũng là
nẹp giữ cho đầu hôid khỏi bị tốc.
Nhìn trên đại thể, nhà sàn Thái có hình con rùa đứng rụt cổ, các chân rướn thẳng, phù hợp với truyền thuyết
của người Thái rằng rùa đã lấy thân mình làm mẫu cho người học làm nhà. Sự trang trí các bộ phận của nhà
như mái nhà, thân nhà, cầu thang, đều mang hơi thở và dấu ấn cảnh quan núi rừng và trình độ nghệ thuật của
người Thái, xứng đáng là tác phẩm nghệ thuật dân gian.
2.3. Nhà dân tộc Chàm (Chăm)
Theo tập quán, làng Chàm được lập trên vùng đất có núi ở phía nam, sông ở phía bắc, có gờ cao phía tây
và thoải dần về phía đông. Người Chàm dựng nhà trong một khuôn viên hình chữ nhật, gắn bó với cộng
đồng làng. Trong mỗi khuôn viên của gia đình Chàm có đủ bốn ngôi nhà: nhà tục (Thang dơ), nhà cặp đôi
(thang mơ- dâu), nhà bếp (thang gìn) và nhà kho (thang tôn). Một số gia đình còn có thêm nhà ngang (thang
cần) và nhà lớn (thang pì - nài).
Nhà tục là ngôi nhà truyền thống được xây dựng trước tiên trong khuôn viên, gồm ba gian dựng gần góc
đông bắc, hướng nhà là hồi phía trước và phải có cửa sinh nhìn về phía tây và của tử hướng nam để khi nhà
có tang thì rước xác người chết ra bằng cửa này. Thước để dựng nhà là chiều dài từ khuỷ đến mút ngón tay
giữa của ông chủ ngôi nhà. Gỗ làm nhà tục không xẻ, các cấu kiện lắp ghép bằng cách buộc dây rừng. Nhà
tục sẽ được nhường cho con gái đầu khi có chồng.
Nhà bếp ở góc tây bắc, kiểu thức theo nhà tục nhưng quy mô nhỏ hơn, cửa nhà bếp nhìn thẳng vào cửa
sinh nhà tục.
Nhà kho dựng ở phía tây khuôn viên, bé nhỏ như cái chòi nhưng sàn rất cao để chứa lương thực và đồ dùng
vặt.
Nếu có nhà ngang thì nhà ngang dựng trước nhà tục nhưng xoay ngang thước thợ với nhà tục, rộng hai
gian một chái để chứa đồ vặt và xay thóc giã gạo. Riêng nhà lớn thì chỉ những gia đình khá giả mới có, có
cửa trước nhìn về hướng nam, hướng cửa tử, nên chỉ người già mới được ở. Kiểu dáng nhà ngang giống nhà
của người Việt.
Nhìn chung, những kiểu nhà truyền thống của người Chàm có quy định nghiêm ngặt nhưng đơn giản và
kỹ thuật còn nguyên thuỷ. Trái lại, những toà tháp Chàm từ nhiều thế kỷ trước để lại lại được xây dựng ở
trình độ kỹ thuật và mỹ thuật cao.
Mỗi khu tháp Chàm là một đài kỷ niệm tôn giáo hoặc vua chúa anh hùng của vương quốc được xây dựng
trên đồi cao, mở cửa về hướng đông - hướng của sự sống mà cúng là hướng của thần thánh theo quan niệm
của người Chàm. Mỗi khu tháp là một quần thể kiến trúc, điêu khắc, trong đó có một cây tháp chính to, cao
hơn cả xây ở giữa, xung quanh có nhiều kiến trúc phụ. Các tháp xây trên mặt bằng gần như vuông, ba phía
có cửa giả, chỉ phía đông có cửa ra vào, tường tháp dày, lòng tháp rỗng lên cao thu lại rồi bít kín. Vật thờ
trong tháp có thể là tượng thần, chân dung quốc vương hoặc linga bằng đá. Vật liệu xây tháp là gạch, trong
và ngoài đều chín đỏ thẫm, không thấy mạch kết dính nhưng kết dính rất chặt. Trang trí mặt ngoài tháp là
phù điêu bằng đá, hoặc được chạm trực tiếp trên mặt gạch thành những tác phẩm nghệ thuật quyến rũ và
đậm màu sắc Chàm.
2.4. Nhà dài dân tộc Ê Đê
Cơ sở dẫn đến sự ra đời của các ngôi nhà dài là các gia đình lớn mẫu hệ.
Ngôi nhà dài Ê Đê là nhà sàn, khung tre gỗ, mái lợp nhọn lợp tranh. Bộ khung nhà dài chỉ có cột, dầm,
quá giang, xà dọc, mà không có kèo. Ngôi nhà dài Ê Đê có hình dạng giống nhà hình thuyền trên các trống
đồng Đông Sơn, khiến có nhà nghiên cứu đã liên hệ và đưa ra giả thuyết về mối liên hệ của tổ tiên người Ê
Đê xa xưa với biển, với cư dân vùng Nam Đảo.

20
Không gian trong ngôi nhà dài được chia làm hai phần- phần nhà ngoài (gah) ở phía bắc và phần nhà
trong (ôk) ở phía nam. Chức năng phần nhà ngoài: tiếp khách, tiến hành các nghi lễ phong tục, tổ chức các
sinh hoạt công cộng của đại gia đình mẫu hệ, có khi còn là chỗ ăn ở của những người đàn ông chưa vợ.
Ngoài ra ở nhà ngoài còn bày những ’ghế khách’, ’ghế trống’ giành cho nhạc công; chiêng, trống, những vò
rượu cần, những vũ khí, những xương đầu thú săn được hay gia súc làm lễ hiến sinh. Mỗi cột trong ngôi nhà
gắn với một phương và một đối tượng. Đó là các cột: cột chủ (phía đông), cột trống (phía tây); trong bộ vì
có cột khách (cột phía đông) và cột chiêng (cột phía tây). Trang trí chạm khắc phần nhà ngoài rất đẹp, thể
hiện dấu ấn mẫu hệ rõ nét.
Phần nhà trong được ngăn ra thành từng phòng nhỏ dành cho các cặp vợ chồng. Bếp nấu ăn chung được
làm trước cửa buồng ngủ chủ gia đình. Các cặp vợ chồng ăn riêng thì có bếp nhỏ trước buồng mình. Phía
sau nhà dài là kho lúa.
2.5. Nhà rông Tây Nguyên
Nhà rông là ngôi nhà chung của cả buôn làng, có giá trị nghệ thuật cao về kiến trúc, là một biểu tượng của
mỗi buôn làng Tây Nguyên.
Quy mô nhà Rông to lớn với kiểu thức độc đáo chỉ có ở Tây Nguyên. Vật liệu làm nhà là vật liệu được kiếm
tại chỗ, tạo nên bộ khung gỗ, vách ván, và mái tranh như nhà dân.
Giữa các ngôi nhà đơn sơ của dân làng, nhà rông nổi bật lên sừng sững với bộ mái vươn cao dựng đứng như
lưỡi rìu sắc bén lật ngược chọc lên trời.
Hai mái đầu hồi hình tam giác cân nhọn vút, góc ở đỉnh rất hẹp; hai mặt trước và sau gần giống hình thang
cân; cạnh bên cong lõm, bờ nóc hơi vồng lên ở giữa. Cạnh mái chạy bốn xung quanh nhà rông được cắt xén
rất bằng, mặt mái lợp tranh mịn, mượt óng, ngà vàng, phần trên cùng của mái cài thành những băng hoạ tiết
trang trí to chắc. trên bờ nóc cũng có trang trí. Trước nhà rông là một sàn gỗ không mái tạo thành một tiền
sảnh rộng, hai bên mặt trước sàn có hai trụ gỗ chấn hai bên cầu thang. Cầu thang là cả một đoạn thân cây gỗ
đẽo bảy bậc, lên tận cùng được vuốt uốn cong trang nhã.
Nhà rông chỉ ba gian nhưng do các cột đều lẩn ra giáp vách nên tạo thành một không gian thông thống.
Trong nhà, nhiều bếp lửa xếp thành hàng và luôn luôn đượm khói; có các khu vực để chiêng, trống, có nơi
để treo vũ khí và những bộ xương, da thú rừng; trên phên vách giắt các loại lông chim đẹp và sừng thú quý -
sản phẩm săn bắn của dân làng.
Cùng tính chất như nhà rông là nhà gươi của dân tộc Cơ Tu.
2.6. Nhà mả (mồ) Tây Nguyên
Làm nhà mả /mồ của một số dân tộc Tây Nguyên, tiêu biểu là người Ba Na, người Gia Rai, và người Ê Đê
là một việc làm lớn, quan trọng.
Cơ sở dẫn đến việc làm nhà mồ là từ niềm tin của các dân tộc rằngngưòi chết sẽ vĩnh viễn đi về thế giới
của mình ở rất xa, không còn liên qua gì đến người sống nữa. Nhưng khi còn sống, họ đã gắn bó mật thiết
với gia đình và cộng đồng, nên khi mới chết, người sống lưu luyến và thương tiếc họ, cho họ tạm trú trong
nhà mả ở nghĩa địa phía tây của làng một thời gian để chăm sóc người chết một lần cuối. Sau thời gian đó,
đồng bào làm lễ ’bỏ mả’ để trả người chết về với tự nhiên, không còn cúng theo nghi lễ thờ phụng tổ tiên.
Nhà mả chỉ có một gian. Mỗi nhà mả là một tổng thể kiến trúc - điêu khắc - trang trí, bố trí trên một mặt
bằng rộng chừng 50m2, theo hướng đông - tây - hướng quy định cho người chết. Người ta tin rằng với nhà
mả đẹp và đầy đủ tiện nghi, người chết sẽ an tâm và vui vẻ ra đi mà không trở lại quấy rầy người sống. Tổng
thể nhà mả thể hiện tình cảm nhân đạo của cộng đồng, gia đình giành cho người chết.
II. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA KIẾN TRÚC DÂN GIAN TRUYỀN THỐNG
1. Khai thác vật tư tại chỗ, sơ chế đơn giản mà hiệu quả cao
Nhà cửa của người Việt Nam dù nhà tranh hay nhà ngói thì vật liệu xây dựng đều là vật liệu sẵn có trong
thiên nhiên. Kiến trúc nhà linh hoạt, chú trọng nhất là bộ khung nhà sau đó là mái che, nên vật liệu làm
những bộ phận này đều phải qua sơ chế để tăng độ bền của ngôi nhà.
Ngôi nhà không cần đến sự tham gia của kim loại. Khi cần đóng đinh cho một vài bộ phận, người ta dùng tre
già vót nhọn giống đinh sắt; khi cần tháo dễ dàng và không bị han rỉ.
2. Khai thác và chế ngự thiên nhiên
Khai thác vật liệu làm nhà từ trong thiên nhiên, sơ chế theo kỹ thuật và kinh nghiệm, đó cũng là bước chế
ngự thiên nhiên. Chế ngự thiên nhiên còn thể hiện ở chỗ phải thích ứng với khí hậu của thiên nhiên - vừa
khai thác tối ưu mặt thuận lợi cũng như hạn chế được nhiều mặt thiệt hại từ thiên nhiên. điều này trước hết

21
thể hiện ở cấu trúc ngôi nhà. Tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam về mặt cấu trúc là nhà cao, cửa rộng. Ngoài ra
còn phải tuân theo những quy định mang tính kiêng cữ.
Một số kiêng cữ phổ biến như xem tuổi chủ nhà, chọn đất và hướng nhà (Lấy vợ hiền hoà / Làm nhà
hướng nam) ..., những kiêng cữ khi chọn vật liệu, những lễ thức từ lúc khởi công cho đến khi vào nhà, tuy
mang màu sắc tín ngưỡng nhưng thể óc thẩm mỹ và nguyện vọng về cuộc sống bình an, no đủ của người
Việt Nam trong ngôi nhà.
3. Cách thức kiến trúc
Được thể hiện bằng cây thước tầm. Đó là một thân tra bổ đôi, dài hơn chiều cao của cột cái, trong lòng
máng vạch những ký hiệu cho phép xác định kích thước của các bộ phận ngôi nhà. Thước tầm được cấu tạo
dùng chung cho mọi nhà nhưng thước nhà nào chỉ nhà ấy dùng, bởi kích thước được tính bằng đốt ngón gốc
ngón tay út của chủ nhà. Do đó, thuóc tầm còn là vật xác định quyền sở hữu ngôi nhà của chủ nhân. Chính
vì vậy, nó được gìn giữ cho đến hết đời ngôi nhà.
4. Kiến trúc là cả một tổng thể
Ngôi nhà của người Việt Nam có sự cân đối giữa kiến trúc với môi trường xung quanh. Một kiến trúc đầy
đủ, lý tưởng phải là ''nhà trên ao dưới'', ''nhà trước vườn sau'', ''nhà có bụi chuối đằng sau, rặng cau đằng
trước'', ''có sự gắn bó nhà ngói cây mít''. Nhà có địa trạch ăn mạch với địa thế để cuộc sống yên vui. Tuỳ vào
thổ cư rộng hay hẹp mà thiên nhiên xung quanh nhà được sắp xếp hợp lý ''thuận mắt'', vừa có giá trị kinh tế,
vừa có giá trị thẩm mỹ. làm cho ngôi nhà trở thành một bộ phận nổi bật của thiên nhiên, tất cả gắn bó với
nhau để phục vụ con người ở mức cao nhất.
Ngôi nhà của người Việt được bố trí theo chiều ngang, xung quanh thông thoáng, người trong nhà luôn
thấy gần gũi với ngoại cảnh. Và không thể thiếu trong mỗi gia đình là bàn thờ tổ tiên được đặt ở vị trí trang
trọng nhất và thiêng liêng nhất, mà mọi hoạt động đều lấy đó làm trung tâm.
Ngôi nhà của người Việt còn mang ý nghĩa xã hội, phản ánh một quan niệm thẩm mỹ trong nếp sống nông
thôn và xã hội nông nghiệp.

BÀI 6. TÍN NGƯỠNG


Dân tộc nào cũng có tín ngưỡng. Lịch sử tín ngưỡng gắn chặt với lịch sử xuất hiện, hình thành và phát
triển các dân tộc. Bản thân tín ngưỡng phát triển từ đa thần sang độc thần. Quá trình này gắn với lịch sử phát
triển của xã hội loài người từ xã hội nguyên thuỷ sang xã hội văn minh.
- Đa thần tin vào vạn vật hữu linh. Nhìn chung, tín ngưỡng đa thần hướng niềm tin vào đối tượng thiên
nhiên, không gắn với chính kiến xã hội.
- Độc thần nghĩa là chỉ tin vào một thần. Hiện tượng này được gọi là tôn giáo. Cùng với xã hội loài người
bước vào thời kỳ văn minh, nhân loại hiện nay có ba tôn giáo lớn, tranh giành ảnh hưởng đến nhân loại và
cạnh tranh sự độc tôn với nhau. Đó là Phật giáo - xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI trước công
nguyên. Cùng với thời gian và lịch sử, từ Ấn Độ, Phật giáo truyền sang Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên
và một số nước ở Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam; Kitô giáo - xuất hiện ở Italia vào năm thứ nhất công
nguyên. Và từ đất Tây Dương đó, tôn giáo này lan truyền lên phía Bắc, chiếm lĩnh cả lãnh thổ châu Âu. Rồi
theo thời gian và bối cảnh phát triển của các nước châu Âu, Kitô giáo tràn sang các vùng miền khác trên thế
giới; Islam giáo - xuất hiện muộn hơn so với hai tôn giáo trên, thế kỷ thứ VI ở vùng Trung Đông. Và từ nơi
này, Islam giáo phát triển xâm nhập cả thế giới Ả Rập, Bắc Phi rồi ngược lên Thổ Nhĩ Kỳ, lên vùng Trung Á
và về phía Đông Nam Á (các nước Malayxia, Inđônêxia).
Ở Việt Nam, khi nói đến tín ngưỡng / tín ngưỡng dân gian là nói đến sự biểu thị niềm tin đa thần, có nghĩa
là niềm tin, lòng ngưỡng mộ và các hoạt động bày tỏ niềm tin, lòng ngưỡng mộ đối với các thế lực siêu
nhiên ngoài con người. Không chỉ là tâm linh, tín ngưỡng dân gian Việt Nam còn là một thành tố cấu thành
nên bộ mặt văn hoá Việt Nam truyền thống, góp phần củng cố khối đoàn kết dân tộc trong quá trình dựng
nước và giữ nước.
1. TÍN NGƯỠNG MẶT TRỜI
Nền kinh tế nông nghiệp trồng cấy lúa nước là chính, người Việt phụ thuộc nhiều vào nước và ánh sáng, đó
là cơ sở hình thành tín ngưỡng mặt trời và các hiện tượng tự nhiên có liên quan. Tín ngưỡng mặt trời hình
thành từ thời văn hoá Đông Sơn. Dấu ấn tín ngưỡng thể hiện trên tất cả các mặt trống đồng, ở vị trí trung
tâm trang trọng nhất, gắn với việc cầu mưa của cư dân nông nghiệp thời Đông Sơn. Về sau này mặt trời /
ông trời vẫn luôn là vị thần tối cao được mọi người tôn xưng là Ngọc Hoàng thượng đế - cai quản cả vũ trụ.
22
Tục thờ mặt trời với tư cách là vị thần ánh sáng sau này có mờ đi, nhưng những biểu thị văn hoá của tục
thờ này thông qua các trò chơi phong tục thì đã phản ánh rõ dấu vết của tín ngưỡng. Đó là các trò chơi đánh
phất, vật cù, cướp cầu, ném giỏ... có mặt ở rất nhiều lễ hội cầu mưa ở vùng trung châu Bắc Bộ và Thanh
Nghệ. Với tình cảm gia đình, người Việt gọi mặt trời với thái độ gần gũi tôn kính - Ông Trời. Còn Ngọc
Hoàng thượng đế ở trên cao là chỗ dựa tinh thần để người dân tin vào công lý, chân lý ở mọi phán xét cuối
cùng. Với tư cách này, mặt trời được tôn là Ông Cao Xanh.
2. TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
Với cư dân nông nghiệp, ngoài ánh kỹ thuật, cây giống và ánh sáng, các yếu tố của tự nhiên khác là mây,
mưa, sấm, chớp cũng có vai trò quan trọng không kém. Vì thế mà các yếu tố này được người Việt xem là các
vị Nữ thần - bà đỡ của nghề nông. Các Bà được thờ phụng và tôn vinh thành các Mẫu. Khi Phật giáo có mặt
ở Việt Nam, các Mẫu đã hoá thân vào Phật đài trở thành các vị Bụt của hệ thống tín ngưỡng Tứ pháp: Pháp
Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện. Các vị Tứ Pháp, theo huyền thoại, có chung bà mẹ là Phật Mẫu Man
Nương.
Sau hệ thống Tứ Pháp là tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ - các vùng không gian mà con người nông nghiệp
quan hệ, được biểu thị bằng Mẫu thượng Thiên, Mẫu thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa (công chúa Liễu
Hạnh được hoá thân làm Mẫu Địa / Thánh Mẫu che chở con người trên mặt đất.).
Trên cơ sở tín ngưỡng thờ Mẫu, người Việt đã tin và sống theo triết lý ''Phúc đức tại Mẫu''.
3. TÍN NGƯỠNG TỔ TIÊN
Đây là tín ngưỡng của nhiều dân tộc Đông Nam Á và là nét đặc thù của khu vực văn hoá này. Tuy nhiên ở
người Việt, nó gần như một thứ tôn giáo dân tộc / Đạo Tổ tiên / Đạo Nhà, và được coi như truyền thống đạo
đức dân tộc. Sự biểu hiện / biểu thị của tín ngưỡng tổ tiên ở cả ba cấp cộng đồng trong cấu trúc xã hội, đã
khẳng định chức năng và giá trị của tín ngưỡng này.
3.1. Cấp độ quốc gia
- Tổ tiên là người sáng lập ra đất nước: Vua Hùng.
- Là những vị có công với nước dù huyền thoại hay thực tế: Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu
Hạnh, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo... Trong số này, bốn nhân vật huyền thoại - Tản Viên, Thánh Gióng,
Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh được dân gian tôn thờ là Tứ Bất Tử. Đó là những biểu tượng cho sức mạnh liên
kết của cộng đồng trong làm ruộng và đánh giặc, biểu trưng cho khát vọng xây dựng một cuộc sống phồn
thịnh và hạnh phúc.
3.2. Cấp độ làng xã
Cả cộng đồng làng cùng cộng mệnh với nhau vì có chung một ông Tổ làng - Thần Thành hoàng. Đó là vị
thần cai quản, che chở, định đoạt phúc hoạ, thịnh suy cho cả làng, được cả làng tin tưởng với tình cảm
thiêng liêng kính cẩn. Thành hoàng được thờ phụng từ cuối thế kỷ XV, gắn với sự lên ngôi của Nho giáo - hệ
tư tưởng / hình thái ý thức của xã hội phong kiến từ thời Hậu Lê. Những đối tượng sau đây được các làng
quê Việt Nam tôn làm Thành Hoàng:
- Những vị thần trong huyền thoại và cổ sử.
- Những anh hùng võ tướng có công đối với các triều đại.
- Những nhà khoa bảng, những ông quan thanh liêm, những vị có công khai hoang lập ấp, mở mang cơ
nghiệp, những công chúa, hoàng hậu đã có công lao giúp đỡ dân làng.
- Người chết bất đắc kỳ tử, người hành khất, người ăn trộm. Việc suy tôn những đối tượng này là một cáh
bộc lộ nguyện vọng muốn được sống yên lành.
Thành hoàng được thờ ở đình làng - một công trình kiến trúc thường được xây dựng ở đầu làng, trên thế đất
đẹp nhất; trong việc dựng đình, hướng đình được đặc biệt chú ý, bởi hướng đình cũng liên quan đến sự thịnh
suy của làng. Điều này được ca dao phản ánh:
Toét mắt là tại hướng đình
Cả làng toét mắt chứ mình em đâu.
Đình làng là nơi trú sở của Thành hoàng - vị thần đứng đầu làng, là Tổ làng, nên các thần khác phải đứng
sau Thành hoàng trong những ngày lễ hội.
Các ngày lễ Thành hoàng hàng năm là:
+ Lễ kỳ yên (cầu an): thường tổ chức vào tháng Giêng, tháng 7 để cầu mong cho làng được sống thanh
bình, yên ổn.
+ Lễ Khai hạ: khai hạ nghĩa là bắt đầu ngày vui đầu năm, phải chờ ngày lễ này mới khai trống, khai
mõ, đánh chiêng, làng mới được bắt đầu động thổ.

23
+ Lễ hạ điền: hạ điền có nghĩa là xuống đồng. Ngày ấy cúng Thành hoàng xong thì ông Thủ chỉ (hay
còn gọi là ông Tiên chỉ) - người đứng đầu làng sẽ tự thân cày ruộng ở thửa ruộng trước đình làng. Chỉ vài
đường cày mang ý nghĩa tượng trưng cho hoạt động nông nghiệp của dân chúng trong làng.
+ Lễ sắp ấn: Tổ chức vào dịp cuối năm để thay mũ áo mới cho Thành hoàng và cho các vị thần khác
trong làng.
Lễ cúng tế được tổ chức ở đình, thể hiện nghiêm trang và quy mô. Việc lễ bái mô phỏng theo quy cách
của lễ tiết cung đình, đúng theo tinh thần ’Hương đảng tiểu triều đình’. Các vị hương chức đầu phải mặc áo
gấm thụng, đội mão ra làm lễ. Có phân công tiến tửu (dâng rượu), độc chúc (đọc văn khấn). Các phường bát
âm phục vụ theo nghi lễ bài bản. Trống đánh, cờ mở, tạo một quang cảnh vô cùng náo nhiệt. Có làng tổ chức
vui chơi giữa cuộc tế lễ hoặc ngay sau đó. Vui chơi giữa cuộc có hát cửa đình, vui chơi sau đó là các trò đu,
trò vật và các tích chèo.
Nhiều làng mở hội vào dịp này với những trò diễn mà mục đích / ý nghĩa là diễn cho vị Tổ làng xem
những kết quả hoạt động của dân làng trong năm. Những làng mà Thành hoàng là một nhân vật giỏi võ thuật
hay có sở trường về một môn nghệ thuật thì trong ngày lễ hội, dân chúng cũng phải diễn lại sự tích cho thần
xem. Nhiều lại còn giữ lại một số tục lễ gọi là hèm. Sau những nghi thức cúng bái ở đình, Thành hoàng được
rước kiệu đi quanh làng. Kiệu Thành hoàng bao giừo cũng đi trước kiệu các vị thần khác. Đám rước có khi
diễn ra trên quy mô tổng, huyện.
Thành hoàng giữ vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của làng như vậy, nên vào đời vua Lê Anh Tông
(1572), triều đình đã ra lệnh sưu tập và soạn ra thần tích Thành hoàng để vua ban sắc phong thần.
3.3. Cấp độ gia đình (gia tộc)
Tổ tiên của gia đình, dòng họ là người có công sinh dưỡng và khai sáng ra dòng họ.
Cơ sở vật chất để biểu hiện ý niệm thờ Tổ Nhà là Bàn thờ (gia đình) và Nhà thờ Họ / Nhà tờ Tổ (Từ
đường) với cuốn tộc phả (dòng họ).
Nghi thức thờ cúng Tổ tiên thể hiện ở ngày giỗ. Ngoài ngày này, Tổ tiên còn được lễ bái trong các ngày lễ
tết, sóc vọng, trong những sự kiện vui mừng cũng như những biến cố buồn của gia đình.
Ý nghĩa cơ bản của đạo thờ Tổ tiên của người Việt là ý nghĩa giáo dục. Thờ Tổ tiên dấy lên lòng hiếu
thảo, nuôi dưỡng lòng biết ơn, thực hiện đạo lý ’uống nước nhớ nguồn’.
4. TÍN NGƯỠNG PHỒN THỰC
Ý thức về nòi giống đã dẫn đến sự hình thành tín ngưỡng phồn thực. Đây cũng là một tín ngưỡng phổ biến ở
khu vực Đông Nam Á - vùng văn hoá, văn minh lúa nước. Sự khác nhau thể hiện ở những biểu thị văn hoá ở
mỗi nước.
Ở Việt Nam, tín ngưỡng phồn thực từng tồn tại suốt chiều dài lịch sử, với hai dạng biểu hiện: thờ cơ quan
sinh dục và thờ hành vi giao phối / thiêng liêng hoá hành vi tính giao. Nguyên do của tục thờ bắt nguồn từ
phương thức sinh tồn và điều kiện sống của người Việt thủa xưa. Khi chưa có sự trợ giúp của khoa học, kỹ
thuật, con người lao động và sống thuần bằng tri thức kinh nghiệm, nên khó có thể khắc phục tình trạng
người hiếm của mọn. Để nuôi ước vọng dân đông, vật thịnh, người xưa, bằng kinh nghiệm trực quan đã
nhận thấy / cho rằng: sự đơm hoa kết trái của cây cối, sự sinh con đẻ cái của con vật, con người phải qua
hoạt động tính giao của giống đực với giống cái. Đây cũng chính là cơ sở tâm linh của tín ngưỡng phồn thực
Việt Nam, một tín ngưỡng được duy trì cho mãi đến giáp Cách mạng Tháng tám 1945. Dấu ấn của nó thể
hiện đậm trên các biểu tượng vật thể, hàm chứa chiều sâu văn hoá làng và tạo cho văn hoá dân tộc những nét
đặc sắc để góp cho kho tàng văn hoá nhân loại. Dấu ấn tín ngưỡng phồn thực đối với chúng ta ngày nay đã
trở thành dấu son đáng trân trọng, bởi đó là văn hoá cổ truyền của dân tộc.

Bài 7. LỄ HỘI
1. KHÁI NIỆM
Lễ hội là hoạt động tinh thần của cộng đồng, là hình thức sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng truyền thống. Lễ hội
của các dân tộc là sự phản ánh nhận thức liên quan đến tập quán sản xuất, đến các hoạt động tập thể của
cộng đồng. Lễ hội còn là dịp để nhớ về cội nguồn dân tộc.
Lễ hội bao gồm hai bộ phận: lễ và hội.
- Lễ là các nghi lễ, lễ thức được biểu thị qua việc đọc các bài văn tế, hành vi cúng tế, các động tác lạy, đọc
tụng... Gắn với lễ có đối tượng thờ / vật thờ, lễ vật dâng cúng và các nghi thức lễ. Tóm lại, lễ là một hệ

24
thống nghi thức, hành vi, động tác theo các quy định chặt chẽ, ổn định của truyền thống văn hoá lễ nghi, đã
trở thành di sản trong đời sống sinh hoạt lễ hội của nhân dân.
- Lễ là hành vi thể hiện lòng tin, sự tôn kính của một tập thê cộng đồng người đối với đối tượng được tín
ngưỡng - đối tượng có tác động sâu sắc trong đời sống tâm linh của họ. Lễ còn mang ý nghĩa thể hiện sự trật
tự, sự chiêm tưởng của con người đối với thần linh. Với những đối tượng tín ngưỡng là những nhân vật lịch
sử, văn hoá thì hành vi lễ còn mang tính chất thể hiện lòng tôn kính, biết ơn người đã có công đối với đát
nước.
- Ở mỗi địa phương khác nhau thường có những lễ hội khác nhau, gắn với nhân vật tín nguỡng cũng khác
nhau, đúng như câu tục ngữ của người Việt: ’Trống làng nào làng ấy đánh / Thánh làng nào làng ấy thờ’.
- Căn cứ vào mục đích và nội dung của lễ, thấy có ác loại lễ hội sau:
+ Lễ hội nghề nghiệp.
+ Lễ hội kỷ niệm các anh hùng dựng nước và giữ nước.
+ Lễ hội tôn giáo và văn hoá.
- Hội: Bao gồm các trò diễn, trò chơi dân gian hết sức phong phú, xưa gọi là ’bách hí’, tức nhiều trò vui.
Hội được sinh ra từ lễ, có đặc điểm căn bản là vui: ’Vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tơi xem hội’. Nói cách
khác, nếu bản chất của lễ là thiêng thì bản chất của hội là vui. Các trò chơi, trò diễn trong lễ hội, phần lớn
bắt nguồn từ những ước vọng thiêng liêng của cư dân nông nghiệp. Đó là:
+ Các trò chơi, cuộc thi xuất phát từ ước vọng cầu mưa: Các trò chơi thi tiếng nổ, mô phỏng tiếng sấm
nhắc trời làm mưa (thi đốt pháo, đi thuyền đốt pháo, đánh pháo đất).
+ Các trò thể hiện tư tưởng phồn thực: cướp cầu thả lỗ, đánh đáo, ném còn, nhún đu.
+ Các trò thể hiện ước vọng luyện rèn sự khéo léo: thi nấu cơm, thi luộc gà, thi dệt vải, thả diều.
+ Các trò nhằm mục đích luyện rèn sức khoẻ: đấu vật, kéo co.
- Thời gian mở lễ hội: Tập trung vào hai mùa trong năm: mùa xuân và mùa thu.
2. MỘT SỐ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
2.1. Lễ hội chùa
Lễ hội chùa ở Việt Nam có hai dạng. Đó là lễ hội chùa gắn với sinh hoạt thuần tuý Phật giáo và lễ hội
chùa gắn với hội xuân dân tộc
2.1.1. Lễ hội chùa với sinh hoạt thuần tuý Phật giáo
Ở dạng lễ hội chùa này có: lễ Phật đản, lễ Phật thành đạo và lễ Vu Lan. Ngoài ra, trong chùa còn có lễ
’Tam nguyên’. Lễ Tam nguyên bao gồm ba lễ hội riêng:
- Lễ Thiên quan tích phúc tổ chức vào rằm tháng Giêng, mục đích là cầu trời ban phúc lành, chăm lo cuộc
sống cho con người: ’Lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng Giêng’.
- Lễ Địa quan xá tội tổ chức vào rằm tháng bẩy, mục đích hướng chúng sinh hành lễ để xả ác tòng thiện.
Lễ trùng và hoà nhập với lễ Vu Lan
- Lễ Thuỷ quan giải ách tổ chức vào rằm tháng mười, gắn với hy vọng là lấy nước để rửa hết tai ương.
- Các lễ hội thuần tuý là sinh hoạt Phật giáo, gồm: lễ Phật đản - kỷ niệm ngày sinh của Phật, tổ chức vào
rằm tháng tư âm lịch hàng năm, gắn với một nghi thức quan trọng là tắm Phật bằng nước thơm, khăn lau đỏ,
sau đó xé ra chia cho mọi người để lấy khước; lễ Phật thành đạo tổ chức vào rằm tháng chạp để ghi nhớ
ngày Phật thành Bậc Giác ngộ (Bụt, Phật). Tóm lại, hai lễ này là để kỷ niệm những mốc lớn trong cuộc đời
đức Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. Qua đó mọi người như nhận thấy mỗi chúng sinh đều có Phật tính trong
mình, ai cũng có thể thành Phật nếu tu hành tinh tấn, như lời Đức Phật rằng: ’Ta là Phật đã thành, chúng sinh
là Phật đã thành’.
Còn lễ Vu Lan là lễ cúng cô hồn và phổ độ quần sinh, tiến hành vào rằm tháng bẩy, được kết hợp với lễ
Địa quan xá tội, nhằm nêu cao tấm gương về đạo hiếu, và vạch ra con đường tội lỗi và diệt trừ tội lỗi, mà tất
cả đều xuất phát từ chữ Tâm, nhân duyên quả báo.
Các lễ trên đều là lễ trọng Phật giáo. Về hình thức được tổ chức giản dị, cốt ở lòng thành kính. Lễ vật
dâng cúng chỉ có hương hoa với nghi thức ’Lục cúng’ được thể hiện theo quy định nghi lễ nhà Phật. Chính
nghi thức dâng ’lục cúng’ này đã được nâng thành nghệ thuật múa, đó là múa hoa đăng, hay còn gọi là múa
’Lục cúng hoa đăng’.
Điều quan trọng ở những lễ hội nêu trên là sự chuyển tải Phật Pháp, thắp sáng đuốc tuệ để xua đi sự u
minh trong con người.
2.1.2. Lễ hội chùa với hội xuân dân tộc

25
Đó là các lễ hội được vẫn được tổ chức tại chùa, nhưng còn gắn với hội vui của làng, của vùng. Lễ hội
loại này gồm một số lễ hội phản ánh một lớp văn hoá cổ sơ gắn với những tín ngưỡng dân gian, và một số
khác là hội chơi, hội xuân của dân tộc, của tuổi trẻ. Đó là những lễ hội gắn với những nghi lễ cầu mưa ở
những ngôi chùa thờ Tứ Pháp vùng Bắc bộ, gắn với hội đua thuyền ở chùa Keo Thái Bình, cũng là cầu mưa.
Cầu mưa cũng là cầu mùa.
Lễ hội chùa còn gắn với những sinh hoạt văn nghệ, như hội làng quan họ Bắc Ninh. Ở đây hội làng cũng là
hội chùa. Hội hát quan họ có thể diễn ra trênsân đình, bến bãi, và cả trên sân chùa nữa. Sinh hoạt văn hoá ở
những chùa vùng đồng bằng nhưng lại có những núi đá thì hội chùa còn gắn với tục chơi hang, chơi núi -
một phong tục chơi xuân xa xưa của dân tộc. Chẳng hạn như hội chùa Thầy (Hà Tây), một công trình kiến
trúc nghệ thuật nổi tiếng, người đi chùa cũng là đi hội vãn cảnh, thăm hang, thăm núi. Và trai thanh, gái lịch
cũng nhớ hội chùa Thầy vì nơi đây có hang Cắc Cớ, để trai gái từng nhóm lên núi, xuống hang thoả mãn
tình cảm tuổi trẻ, đúng như câu ca được truyền tụng từ lâu:
Gái chưa chồng nhớ hang Cắc Cớ
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy
Hội chùa có thời gian dài nhất, với không gian rộng nhất là hội chùa Hương (Hà Tây). Hội kéo dài ba
tháng mùa xuân, song nhộn nhịp nhất là từ giữa tháng giêng đến cuối tháng hai. Trẩy hội chùa Hương để lễ
Phật, lễ Mẫu, đề cầu tự, cầu lộc, cầu tài, và tất nhiên để chiêm ngưỡng cảnh đẹp kỳ thú của Hương Sơn
Một vùng non nước bao la
Rằng đây lạc quốc hay là Đào Nguyên
Hương Sơn là chốn non tiên
Bồng Lai mà ở giữa miền non tiên
2.2. Lễ hội đền
Đền là nơi thờ thần. Đó là những nhân vật lịch sử hoặc huyền thoại được tôn vinh là anh hùng dân tộc;
thần có thể là những vị thần tín ngưỡng dân gian.
2.2.1. Lễ hội đền với việc thờ các anh hùng dân tộc
- Lễ hội đền Hùng, biểu thị của tín ngưỡng Tổ tiên dân tộc. Trẩy hội đền Hùng (ngày mười tháng ba) là trở
về với cội nguồn dân tộc..
- Lễ hội đền Gióng tổ chức vào ngày mùng chín tháng tư, tại xã Phù Đổng (Hà Nội), để kỷ niệm kỳ công
giết giặc Ân xâm lược, để nhớ về hào khí của dân tộc, để từ đây xây dựng truyền thống bất khuất, quật
cường của dân tộc. Từ việc gợi lại truyên thống xa xưa, hội Gióng góp phần xây dựng tư cách văn hoá cho
mỗi người con dân nước Việt như câu ca dao địa phương còn truyền với tính giáo dục được khẳng định:
Ai ơi mùng chín tháng tư
Không đi hội Gióng cũng hư mất đời
- Nếu Thánh Gióng là anh hùng huyền thoại, thì phổ biến trong lịch sử dân tộc lại là các anh hùng lịch sử
đã tạo những kỳ tích trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc. Các ngôi đền thờ các vị anh hùng có ở khắp nơi,
như các đền thờ Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo. Lễ hội với ý nghĩa kỷ niệm, tưởng nhớ hai nhân vật lịch sử
này là:
+ Đền Hạ Lôi (Mê Linh, Vĩnh Phú), được tổ chức vào ngày 6 tháng giêng, tương truyền là nhằm kỷ
niệm ngày yến hạ khao quân của Hai Bà.
+ Đền Hát Môn (Hà Tây), nơi xuất phát cuộc khởi nghĩa và là nơi diễn ra chiến thắng lớn của Hai Bà,
cũng là nơi Hai Bà trầm mình trở thành bất tử.
+ Đền Kiếp Bạc tổ chức lễ hội từ ngày 15 đến 20 tháng Tám vào dịp giỗ Trần Hưng Đạo, nhằm ôn lại
cuộc đời và sự nghiệp hiển hách của Trần Hưng Đạo.
- Lễ hội Đền Đô - Đền Lý Bát Đế thờ tám vị vua nhà Lý ở Đình Bảng, tổ chức vào ngày 15 tháng Ba để
kỷ niệm ngày vua Lý Thái Tổ đăng quang.
2.2.2. Lễ hội đền với việc thờ thần theo tín ngưỡng dân gian
- Lễ hội các đền thờ thần sông, thần núi
- Lễ hội đền thờ Tứ Trấn (4 phía bảo vệ kinh thành Thăng Long từ thời nhà Lý, trong đó có đền Voi Phục
ở phía tây thờ Linh Lang - thần sông, và đền Kim Liên ở phía Nam thờ Cao Sơn - thần núi. Đó là hai vị thần
dân tộc phụ trách hai bộ phận Sơn Hà / Đất Nước.
- Lễ hội đền thờ thần Trống đồng, tổ chức vào ngày 25 tháng 3.
- Lễ hội các đền, phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh, như lễ hội Phủ Giầy.
2.3. Lễ hội đình

26
Đình là nơi thờ Thành hoàng, vị thần bảo trợ, định đoạt phúc hoạ thịnh suy cho cả làng. Đình làng đã trở
thành gương mặt văn hoá của cả làng - mái đình, bến nước, cây đa đã trở thành biểu tượng của làng quê Việt
/ quê hương.
Lễ hội đình làng là lễ tế Thành hoàng làng để cầu xin sự bảo trợ cho người an vật thịnh. Lễ tế diễn ra uy
nghi, sang trọng với nghi thức đã được quy định chung cho tất cả các làng. nếu làng nào có hèm đặc biệt thì
giữa cuộc lễ có những động tác diễn lại một cách nghệ thuật các hoạt động đặc biệt của Thành hoàng, chẳng
hạn như hoạt động múa nõ nường, tục chém lợn, tắt đèn, ôm cột đình...
Phần hội ở đình là hội xuân, là nơi diễn ra tất cả các trò chơi vui kể cả các trò ở hội đền và hội chùa cũng
có ở hội đình. Tất cả các trò chơi vui ở đình tạo cho không khí hội náo nhiệt, thắt chặt thêm tinh thần cộng
đồng, sự bình đẳng. Qua hội đình, người dân được cân bằng nhịp sống lao động nặng nhọc với giải trí, vui
chơi.
Lễ hội đình làng là một hình thức sinh hoạt văn hoá thường kỳ, trong trọng mà náo nức, có ý nghĩa giáo
dục các thế hệ dân làng noi theo người xưa và gắn bó với người hiện tại, đồng thời vừa là sự giải toả căng
thẳng, mệt nhọc để thăng hoa văn hoá.
2.4. Lễ hội thiên chúa giáo
Lễ thức Thiên chúa giáo có hai dạng: lễ thường và lễ trọng. Lễ thường gồm có lễ chầu lượt biểu thị sự tôn
kính mình Thánh và lễ diễn ra tại nhà thờ xứ đạo vào ngày của Chúa / ngày chúa nhựt (chủ nhật). Vào ngày
này, các giáo dân đến nhà thờ nghe linh mục rao giảng về một số chủ điểm như về Đức tin, Đức khiêm
nhường, Cầu cho các linh mục, Kính chuác các chân phúc Việt Nam. Lễ thường chỉ có phần lễ. Lễ trọng mới
là lễ hội vì có cả hai phần là lễ và hội.
2.4.1. Lễ rước Thánh Quan thầy xứ
Với các làng Công giáo, Thánh Quan thày xứ được xem là Thành hoàng của xứ họ đạo và địa phận. Cuộc
rước lễ diễn ra náo nhiệt, trang nghiêm, rầm rộ, uy nghi với đầy đủ các nghi trượng của lễ hội truyền thống
người Việt.
2.4.2. Các lễ trọng trong mùa chay và mùa vọng
- Mùa chay (cuối tháng hai, kết thúc vào nửa đầu tháng tư còn gọi là mùa thương khó kỷ niệm những sự
kiện chúa Giê Su chịu nạn rồi sống lại, gồm các lễ: lễ tro, lễ kính thánh cả Guse, lễ truyền tin, lễ lá, lễ kỷ
niệm Chúa tử nạn, lễ Phục sinh.
- Mùa vọng từ cuối tháng 11 đến lễ Giáng sinh ngày 25 tháng 12, là mùa giáo dân đón chờ ngày Chúa Giê
Su thấy trần thế làm người.
2.4.3. Múa hát tháng hoa Đức Mẹ
Lễ diễn ra vào các ngày chủ nhật của tháng năm, là lễ múa hát và dâng kiệu hoa, rước kiệu hoa bày tỏ sụ
cung kính và lòng thành đối với Đức Mẹ.
2.4.4. Lễ rước Thánh thể.
Diễn ra ở nhà thờ xứ họ đạo và địa phận, rất trang nghiêm và náo nhiệt. về hình thức, lễ cơ bản giống lễ
rước Thánh Quan thày xứ.
Như vậy, lễ hội Thiên chúa giáo là những sinh hoạt văn hóa của một bộ phận khá đông là giáo dân của nước
ta, là sự cố kết cộng đồng cùng chung một tín ngưỡng tôn giáo. Ở các lễ hội này, chúng ta gặp lại nhiều yếu
tố của văn hoá dân tộc truyền thống như khăn xếp, áo thụng xanh, lọng, các nghi trượng của lễ hội, các làn
điệu dân ca, các nhạc cụ dân tộc. Những lễ hội này ca ngợi Chúa và Đức mẹ, qua đó cũng gián tiếp đề cao
đạo đức dân tộc. Đây cũng là những dịp nghỉ ngơi, giải trí tích cực trong chu kỳ nhịp điệu đan xen với lao
động sản xuất.

Bài 8. VĂN NGHỆ DÂN GIAN


I. KHÁI NIỆM
Văn nghệ dân gian là tiếng nói của người bình dân phản ánh cuộc sống, ước vọng của mình thông qua nghệ
thuật, văn chương. Trong văn nghệ dân gian có sự tổng kết kinh nghiệm cuộc sống lao động sản xuất, có cái
nhìn của đạo đức luân lý trong gia đình, cộng đồng xã hội, có cả lời than thân trách phận của những số phận
mồ côi nghèo khổ, của những thân phận làm dâu khổ sở...
Văn nghệ dân gian của các dân tộc Việt Nam rất phong phú và đa dạng và độc đáo, đã góp phần tạo nên
diện mạo và bản sắc văn hoá dân tộc. Văn nghệ dân gian gồm nhiều loại hình, ở đây, chúng ta chỉ tìm hiểu
hai loại hình là diễn xướng dân gian và tạo hình dân gian.
27
II. DIỄN XƯỚNG DÂN GIAN
1. Âm nhạc / nhạc cụ cổ truyền
Việt Nam có nhiều nhạc cụ thuộc ba bộ: bộ gõ, bộ dây và bộ hơi, trong đó các nhạc cụ thuộc bộ gõ có
nguồn gốc lâu đời nhất và phổ biến nhất.
1.1. Bộ gõ: gồm cồng, chiêng, trống cái, trống cơm, trống đồng, đàn đá.
1.2. Bộ dây: gồm đàn bầu (độc huyền cầm), đàn nhị, đàn tam thập lục, đàn tỳ bà, đàn nguyệt, đàn tranh
(thập lục), đàn t/rưng.
1.3. Bộ hơi: Khèn và sáo.
2. Diễn xướng dân gian
2.1. Các thể loại dân ca
Các thể loại dân nước ta rất phong phú. Miền đất nào cũng có những làn điệu dân ca độc đáo.
- Hát ru: ru em, ru con ba miền.
- Hò: hò sông nước và hò cạn.
- Hát quan họ (Bắc Ninh), hát xoan (Phú thọ), hát đúm (Hưng Yên), hát ví, hát dặm (Nghệ Tĩnh); ca
Huế; hát bài chòi (miền Trung) và các làn điệu lý (miền Nam).
- Hát trống quân, hát xẩm, hát chầu văn, hát ca trù.
Sau đây chúng ta tìm hiểu một vài thể loại dân ca tiêu biểu của ba miền Bắc - Trung - Nam.
a. Hát quan họ: xuất xứ từ Kinh Bắc (Bắc Ninh).
Lề lối tổ chức theo tùng canh gọi là canh quan họ. Tham gia canh quan họ là các ’liền anh’, ’liền chị’. Hát
quan họ thường là hát đôi (đôi nam, đôi nữ) và hát đối. Hát đôi được phân công người ’hát chính’ và người
’hát luồn’. Quan họ có tới 200 làn điệu, trong đó có những là điệu đặc sắc như bài ’Giã bạn’.
b. Hát trống quân:
Cũng là một hình thức hát đối đáp nam nữ, diễn ra ở một số vùng nông thôn Bắc bộ. Không gian hát
thường ở đình làng hoặc đầu xóm, vào những đêm trang sáng. Người hát chia làm hai phe là phe nam và phe
nữ. Có một chiếc thùng được úp ngược xuống một cái hố đào nông, trên đáy thùng có miếng gỗ để làm căng
sợi dây thép mắc sang hai bên. Hai đầu dây buộc vào hai cái cọc đóng chắc xuống đất. Trên tay nguời hát
cầm một que cứng dài khoảng một gang tay gõ vào sợi dây để bật ra tiếng ’thùng thình’. Hình thức hát là
một bên hỏi va một bên đáp, với diễn trình như sau: hát chào, hát mừng, hỏi quê quán rồi hát đối đáp. Lối
hát có cả ứng tác, đối đáp tinh nghịch. Hát trống quân tạo không khí vui nhộn và say mê cho cả người hát
lẫn người xem.
c. Hát ví (dặm) Nghệ Tĩnh:
Là lối hát đối đáp trong lao động. Có những loại hát ví sau: ví phường vải, ví đò đưa, ví phường củi, ví
phường nón, ví phường gặt, ví phường cấy. Các cuộc hát ví có khi kéo dài mấy ngày. Nhiều đôi nam nữ đã
nên vợ nên chồng từ lối hát này. Lối hát này thu hút cả thanh niên lẫn người già.
d. Hát xẩm:
Là điệu hát rong của những người mù tài năng có tâm tư góp tiếng đàn, tiếng hát của mình với cuộc đời,
đồng thời cũng là cách kiếm sống duy nhất của họ. Người hát xẩm vừa hát vừa đàn, thường có vợ hoặc con
dắt đi. Các bài hát thường mang tính tự sự, toát lên tâm hồn, tính cách người Việt: quý trọng nghĩa tình, lẽ
phải và đạo đức. Bài hát xẩm tiêu biểu là xẩm ’Thập ân".
e. Hò Huế:
Là đặc sản văn nghệ dân gian xứ Huế, còn gọi là ca Huế. Hò Huế rất đa dạng, gắn bó với lao động sản
xuất, đậm chất trữ tình. Sự đa dạng của hò Huế thể hiện ở nhiều làn điệu hò, thể hiện ở các môi trường diễn
xướng: trên cạn, dưới nước, ru con, đưa linh...
g. Hát bài chòi:
Là đặc sản văn nghệ của miền Trung, đặc biệt là vùng Bình Định. Thoạt kỳ thuỷ, bài chòi vốn là một trò
chơi của nhân dân Bình Định trong những ngày tết mùa xuân, được kết hợp với những làn điệu dân ca địa
phương. Điệu hò bài chòi về sau được kết hợp với những yếu tố trình diễn. Những người lo việc sóc bài,
chia bài gọi là anh hiệu. Anh hiệu thường là những người có giọng hát tốt, có tài sáng tác những câu thơ ứng
với các con bài.
Ví dụ như các câu thơ trong con bài Nhì nghèo chẳng hạn. Những anh hiệu dần dần chuyên nghiệp hoá và
sống bằng nghề hò bài chòi trong ngày tết, làm cho bài chòi trở thành một hình thức diễn xướng sinh hoạt
dân gian, từng làm say mê nhiều người.
Rủ nhau đi đánh bài chòi

28
Để cho con khóc đến lòi ruột ra.
h. Các điệu lý Nam Bộ:
Lý là những bài hát của làng quê. Những bài hò quê mùa của miền Trung miền Nam không phải là hò thì
được gọi là lý. Nam bộ là kho tàng vô tận về lý, trong đó có lý giao duyên - một thể dân ca, tình ca với nội
dung tâm tình, rất thông dụng, được mọi người ưa thích.
2.2. Nghệ thuật sân khấu cổ truyền
a. Hát chèo:
Chèo là đặc sản văn nghệ dân gian của nhân dân vùng châu thổ Bắc bộ và trung du Bắc bộ, gắn với môi
trường diễn xướng ở nông thôn, tong các dịp hội hè, đình đám. Cơ sở hình thành hát chèo là từ các điệu dân
ca, dân vũ, múa hát tôn giáo vùng đồng bằng sông Hồng. Chèo định hình và thịnh vượng trong những thế kỷ
XV, XVI. Những vở chèo cổ được lưu truyền đến ngày nay như: Quan Âm Thị Kính, Trương Viên, Lưu
Bình - Dương Lễ. Nội dung các tíhc chèo cổ hầu hết kể về số phận bi thương của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến; xen vào đó là những tiếng cười châm biếm, đả kích vò trật tự phong kiến của các vai hề áo ngắn
và hề áo dài/ áo chùng. Xưa chèo diễn xướng ở sân đình, trong các dịp hội hè đình đám, nên gọi là chèo sân
đình, còn những người hát chèo thì gọi là phường chèo.
Đầu thế kỷ XX, chèo vào đô thị, diễn trên sân khấu có phông màn, cảnh, đèn điện, nên sự ước lệ khác hẳn
lối diễn ước lệ khi còn là chèo sân đình. Cũng trong thời gian này, do ảnh hưởng của thị hiếu tầng lớp tiểu
thị dân và xu hướng thương mại hoá trong nghề hát nên chèo bị tha hoá, nghệ thuật trở nên hỗn tạp, dẫn đến
sự ra đời phong trào chèo văn minh, tức là hình thức chèo pha tuồng, pha hát tây. Tiếp theo là sự ra đời của
phong trào chèo cải lương của Nguyễn Đình Nghị - hình thức theo khuynh hướng tả thực của sân khấu kịch
nói phương Tây du nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ XX. Chèo cải lương đã làm mất đi nhiều lối diễn ước lệ
truyền thống của chèo cổ. Sau cách mạng tháng Tám 1945, hình thức diễn xướng này mang tên gọi là chèo
hiện đại - có các đoàn hát chuyên nghiệp, có kịch bản viết về các tích dân gian và lịch sử, và về đề tài hiện
đại.
b. Hát tuồng:
Tuồng là đặc sản văn nghệ của miền Trung và miền Nam, được hình thành do ảnh hưởng của hí khúc
Trung Quốc qua quân lính nhà nguyên bị giữ làm tù binh dưới thời nhà Trần (thế kỷ XIII). Tuồng phát triển
mạnh ở Đàng Trong vào những thế kỷ XVII, XVIII, XIX. Những vở tuồng cổ đặc sắc còn đến ngày nay là:
Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Châu Dương Tử. Theo trật tự thời gian và nội dung vở diễn, có thể phân ra các
loại tuồng: tuồng cổ, tuồng cung đình, tuồng đồ, tuồng văn thân, tuồng tân thời và tuồng hiện đại/ tuồng
cách mạng.
Tuồng là nghệ thuật mang tính cổ điển, là tác phẩm văn chương bác học. nghệ thuật biểu diễn mang tính
ước lệ cao và có những quy phạm chặt chẽ trong các lối nói, hát, múa và hoá trang.
c. Múa rối nước:
Là loại hình sân khấu gắn bó với thiên nhiên, lao động sản xuất trồng cấy lúa nước. Đó là một loại hình
mang tính tổng hợp rất cao của nhiều loại hình nghệ thuật dân gian khác. Múa rối nước có truyền thống từ
lâu đời (có từ thời nhà Lý). Nhà của các diễn viên điều khiển rối nước gọi là Thuỷ đình. Chương trình biểu
diễn rối nước khá phong phú và đa dạng. Bên cạnh các trò thuộc về đề tài sản xuất như : Tứ dân (ngư, tiều,
canh, độc) là các trò thuộc về những sinh hoạt văn hoá, như các nhóm trò vật, đua leo thang, đánh kiếm, đua
ngựa; có cả những trích đoạn các tích chèo tuồng cổ, các trò lễ nghi hội hè, các trò diễn tích lịch sử như Hai
Bà Trưng, Lê Lợi, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo... Nhân vật quen thuộc trong rối nước truyền thống là chú Tễu
(người đảm nhiệm vai trò giáo đầu vở diễn) - hình ảnh tiêu biểu của người nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Các
tiết mục rối nước thường nhắn gọn, luôn thay đổi, được kết hợp với âm nhạc, pháo hoa, lửa đuốc... phản
quang trên mặt nước nên càng tăng phần hấp dẫn.
d. Cải lương:
Là loại hình kịch hát dân tộc ra đời vào đầu thế kỷ XX ở Nam Bộ. Tiền thân của hát cải lương là hình thức
ca ra bộ (ca thể hiện / minh hoạ bằng điệu bộ). Điệu hát chủ chốt của nghệ thuật cải lương là điệu ca vọng cổ
nổi tiếng - điệu nhạc vua của sân khấu cải lương, bắt nguồn từ bài Dạ cổ hoài lang, tác giả là Cao Văn Lầu.
Khởi thuỷ mỗi câu vọng cổ có hai nhịp, nên gọi là Dạ cổ nhịp đôi, sau mở ra thành Dạ cổ nhịp tư (mỗi câu
bốn nhịp), rồi nhịp tám... sau Dạ cổ nhịp tám lại được mở thành bản nhịp 16 và đổi tên là vọng cổ. Vọng cổ
nhịp 16 tiếp tục phát triển thành nhịp 32, 64, nhưng từ 20 câu rút lại thành 6, rồi 4 câu. Có thể giữa hai cặp
của 4 câu vọng cổ xen vao một bài lý, hoặc tân nhạc.

29
Cải lương phát triển mạnh trong khoảng 10 năm, từ 1920 - 1930, với nhiều ban gánh và nghệ sĩ tên tuổi
lừng danh còn lưu danh đến tận bây giờ.
Nghệ thuật truyền thống Việt Nam có những đặc trưng cơ bản sau:
- Tính biểu trưng: Thiên về biểu đạt nét tinh thần, nhấn mạnh nội dung tư tưởng.
- Tính biểu cảm: Đậm chất trữ tình.
- Tính tổng hợp: Các loại hình nghệ thuật cùng tham gia trong một loại hình.
- Tính linh hoạt: Diễn viên đượ phép sáng tạo trong khi diễn và có mối giao lưu mật thiết với người
xem.
III. NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH
- Tạo hình là thuật ngữ dùng để chỉ hai loại hình nghệ thuật có liên quan mật thiết, chặt chẽ với nhau là hội
hoạ và điêu khắc, được thực hiện trên các chất liệu: đá, đất, gỗ, kim loại, giấy.
1. Điêu khắc:
Từ đá người Việt đã sáng tác những tượng Phật như tượng A Di Đà ở chùa Phật Tích (Hà Bắc); từ đất,
gốm đã xuất hiện ở Việt Nam từ lâu đời (cách đây một vạn năm) và có những thành công; từ chất liệu kim
loại, người Việt đã sáng tác rất nhiều tác phẩm chạm khắc tinh tế trên trống đồng, thạp đồng và các đồ đồng
khác; với vật liệu gỗ, người Việt đã làm nên những pho tượng Phật kiệt xuất như tượng Phật Bà nghìn mắt,
nghìn tay, tượng các vị La Hán, tượng Tổ ở chùa Tây Phương... và rất nhiều phù điêu chạm nổi ở đình làng.
2. Hội hoạ:
Hội hoạ của người Việt Nam được thể hiện trên gỗ và giấy. Từ vật liệu gỗ, người Việt Nam làm được
khảm trai, khảm xà cừ, đặc biệt là làm tranh sơn mài. Ngày nay, với sự phát triển của tri thức và công nghệ,
người Việt Nam còn làm được sơn mài trên cả kim loại, giấy bìa, tre và nứa.
Giấy là vật liệu nhanh bị huỷ hoại, nên đến ngày nay chỉ còn hai dòng tranh dân gian là tranh Đông Hồ và
tranh Hàng Trống. Đây là hai dòng tranh nổi tiếng, mà sản phẩm được làm ra từ những chất liệu của đồng
quê.
- Tranh Hàng Trống là hoạ phẩm của một số phường tranh ở Hà Nội. Đặc trưng của tranh Hàng Trống là
tranh thờ, ví như các bức tranh: Bạch hổ, Hắc hổ, Ngũ hổ, Đức Thánh Trần. Ngoài ra còn một số mẫu khác
về đề tài sinh hoạt. Tranh Hàng trống được in trên giấy trắng.
- Tranh Đông Hồ diễn tả nhiều đề tài trong đời sống xã hội cổ truyền: Có tranh tả cảnh sinh hoạt (Ngư -
Tiều - Canh - Độc, cảnh cày bừa, gặt hái, cảnh vui chơi trong ngày hội...), tranh châm biếm (đánh ghen, đám
cưới chuột, đồ cóc, hứng dừa), tranh thiên nhiên (tứ quý), tranh về đề tài lịch sử (Hai Bà Trưng, Đinh Tiên
Hoàng, Quang Trung...), tranh kể truyện dân gian (Thạch Sanh, Lục Vân Tiên, Nhị Độ Mai, Truyện Kiều).
Ngoài hai dòng tranh truyền thống trên, người Việt Nam, trong quá trình giao lưu tiếp xúc với văn hoá
phương Tây, đã tiếp thu thể loại tranh mới / hiện đại là tranh sơn dầu. Với loại hình mới này, các nghệ sĩ Việt
Nam đã tạo nên nhiêu bức tranh sơn dầu tuyệt tác, gắn với tên tuổi các hoạ sĩ sơn dầu nổi tiếng như: Tô
Ngọc Vân, Nguyễn Gia trí, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn, Bùi Xuân Phái...
Nghệ thuật tạo hình truyền thống của Việt Nam có một số đặc trưng cơ bản sau:
- Các sản phẩm được tạo ra tuân thủ theo một nguyên lý và mục đích chung, thống nhất là chú trọng về tư
tưởng, tinh thần, nên gợi nhiều hơn tả, nói khác đi là chú trọng vào nội dung tư tưởng hơn hình thức.
- Nguyên lý và mục đích đó đã quy định thủ pháp nghệ thuật là phóng to, thu nhỏ và mô hình hoá, bất
chấp yêu cầu về tính hợp lý của hiện thực. Các thủ pháp nghệ thuật đó nhằm nêu bật nội dung tư tưởng,
hướng sự chú ý của người xem vào tính triết lý, tính nhân sinh của nghệ thuật. Các bức tranh như Đám cưới
chuột, tranh Tứ linh, tranh Bát vật, tranh Ngũ hổ, tranh Tam đa... là những minh chứng tiêu biểu cho nguyên
lý và thủ pháp nghệ thuật đó.

Bài 9. PHONG TỤC TẬP QUÁN


I. KHÁI NIỆM
Phong tục tập quán Việt Nam rất đa dạng. Đó là các ứng xử xã hội được hình thành trong quá trình lịch sử,
đã qua sư lựa chọn sàng lọc của dân tộc và sự thử thách của thời gian, có cả sự học tập và giao lưu với các
dân tộc khác. Vì vậy, những gì còn tồn đọng đến ngày nay, về cơ bản đều là những tinh hoa được dân tộc
khẳng định và chấp nhận.
II. LỄ TIẾT

30
Lễ tiết là một bộ phận văn hoá truyền thống Việt Nam, bao gồm việc tổ chức những nghi lễ, hội hè theo một
khuôn mẫu nhất định vào những thời điểm tự nhiên quay vòng theo chu kỳ - theo bốn mùa xuân, hạ, thu,
đông. Ý nghĩa cơ bản của lễ tiết là thể hiện ý tưởng về trường tồn cuộc sống, sự khao khát của con người về
thiên địa hài hoà ban cho người an vật thịnh. Lễ tiết mang ý nghĩa biểu tượng đó là sự thể hiện cuộc sống tái
sinh lặp đi lặp lại trong vòng quay của vũ trụ và sự bất tận của thời gian. Lễ tiết gắn liền với khái niệm thời
gian, phản ánh ý niệm của dân tộc về sự phân đoạn thời gian đó, vì thế nó phần nào trở thành bộ phận của ý
thức hệ dân tộc, thể hiện bản sắc dân tộc sâu đậm.
Lễ tiết Việt Nam có xuất xứ từ Trung Quốc song phần nào đã được Việt hoá - nó là là kết quả hỗn dung
của lễ hội Việt Nam cổ truyền với ảnh hưởng của truyền thống lễ tiết Trung Hoa.
Chữ Tết là biến âm từ chữ Tiết (chữ Hán). Lễ tết (tiết) gồn hai phần: cúng ông bà tổ tiên (lễ) và ăn uống
bù cho những ngay làm lụng vất vả (tết). Ngày lễ tiết quan trọng nhất trong năm là ngày tết Nguyên Đán -
ngày mở đầu một năm mới đối với người Á Đông trong đó có dân tộc Việt Nam.
1. Tết Nguyên Đán
Nguyên là bắt đầu, Đán là buổi sớm mai. Tết Nguyên Đán tức là tết bắt đầu năm mới, người Việt gọi vắn
tắt là “Tết’’. Tuy chưa xác định người Việt có tục ăn tết từ bao giờ, song có thể thấy rõ tục đón năm mới
chắc phải có từ xa xưa, rồi qua giao lưu ảnh hưởng phong hoá của Phương Bắc , người Việt cũng tiến hành
đón năm mới vào ngày Nguyên Đán - ngày 1 âm lịch hàng năm.
Tết Nguyên Đán bắt đầu từ lúc Giao thừa gắn với lễ Trừ tịch. Tuy nhiên, công việc chuẩn bị cho tết thì đã
được tiến hành từ lâu trước thời điểm đó. Công việc lo tết bắt đầu rộ lên vào khoảng giữa tháng Chạp, với
một nghi lễ quan trọng là lễ Táo Quân, còn gọi là chạp ông Công, được tiến hành voà ngày 23 tháng Chạp
hàng năm. Dân gian cho rằng ngày này Táo quân sẽ lên chầu trời để tâu về việc làm ăn, cư xử của mỗi gia
đình với Ngọc Hoàng. Người Việt tin rằng ông Táo có quyền năng với mỗi gia đình và báo cáo hàng năm
của vua Bếp rất quan trọng đối với sự thịnh suy của gia chủ trong thời gian tiếp theo. Do vậy nhiều gia đình
cúng ông Táo rất linh đình. Về tính chất, có thể nói lễ cúng này là nghi lễ tống cựu, đồng thời cũng là khai
tết. Tục này đáng giữ gìn vì nó nhắc nhở mọi người cả năm nên ăn ở phúc đức để năm sau, đời sau có phúc
lộc nhiều hơn, mặt khác cần phải trân trọng cội nguồn của sự sống là Thần Lửa.
Sau ngày tết Táo Quân, không khí tết với các tục lệ chào đón năm mới bắt đầu. Việc biếu tết cũng như trả
hết nợ nần được tiến hành trước giao thừa. Tết xưa, trước sân đình và nhà, tới chiều 30 tết, không bao giờ
thiếu cây nêu - vốn gốc gác xa xưa là cây vũ trụ đón mặt trời, đón mùa xuân, sau chuyển hoá thành ’’cây
mốc’’ báo hiệu đất có chủ, ma quỷ không được đến trú ngụ hay quấy phá. Cũng trong chiều ngày 30 tết đó,
các gia đình đi viếng mộ gia tiên, mời gia tiên về ăn tết.
Thời điểm quan trọng nhất của tết Nguyên Đán là đêm giao thừa với lễ trù tịch. ’’Trừ’ là trao lại chức
quan, ’’tịch’’ là ban đêm. Lễ trừ tịch cử hành lúc giao thừa là khoảng thời gian giao nhau giữa năm cũ và
năm mới, mục đích để tiễn vị thần năm cũ, đón vị thần năm mới, gọi là thần / Ông Hành Khiển Các gia đình,
vào thời điểm gần 1 giờ, bày cỗ ngoài sân để cúng.
Ý nghĩa của lễ Trừ tịch / cúng giao thừa về sau còn mang thêm màu sắc mới. Nhiều người quan niệm lễ
cúng này là cúng chúng sinh. Dù là cúng thần thời gian hay cúng chúng sinh thì tục lệ này vẫn mang ý nghĩa
triết học - nhân văn tốt đẹp.
Tối giao thừa xưa, người Việt có tục đốt pháo với ý nghĩa là tiễn năm cũ đi đồng thời để trừ ma quỷ. Ngày
nay tục đốt pháo không còn nữa.
Sau lễ cúng giao thừa là lễ cúng Thổ Công, tức vị thần cai quản trong nhà, thường được gọi là Đệ nhất gia
chi chủ.
Các nghi lễ trên kết thúc và năm mới vui vẻ hội hè bắt đầu.
Sau phần nghi lễ chính thức tại nhà, người ta có thể đi ra khỏi nhà đi hái lộc. Người ra khỏi nhà trở về đầu
tiên hay người đến thăm đầu tiên sau giao thừa là người xông nhà (đạp đất). Người Việt tin rằng, người xông
nhà tốt vía sẽ đem lại tài lộc, do đó thường coi tuổi và mong những người hợp tuổi, tốt vía xông nhà mình.
Cùng với tục xông nhà là những kiêng kỵ nhằm tránh đi những điều không may/ giông trong năm mới, như
tục kiêng quét nhà vì sợ quét cả thần Tài đi.
Ngày tết vui vẻ nhưng không quên người đã khuất, nhất là tổ tiên, ông bà ông vải. Người Việt, ngày 30 tết
đón ông bà về ăn tết thì đến ngày mồng 3 làm lễ hoá vàng, gọi là ngày cúng tiễn ông vải. Ngày này phải tiến
hành các thủ tục là đơm mâm, hoá vàng để tiễn.
Hướng về năm mới với những điều tốt đẹp, người Việt Nam trong dịp tết còn có tục mở đầu công việc
năm mới. Tuỳ theo nghề nghiệp khác nhau sẽ có những cách thức khác nhau. Tuy nhiên, lễ quan trọng nhất

31
là lễ hướng tới hoạt động nông nghiệp của người Việt Nam. Đó là lễ Tịch điền và lễ Thượng nguyên. Và đến
lễ Thượng nguyên, tết Nguyên đán mới thật sự kết thúc. Một năm cũ chính thức qua đi, một năm mới bắt
đầu với một chu kỳ lao động mới với biết bao lo âu mới và niềm vui mới.
2. Tiết Thanh minh và ngày hàn thực
Trong đời sống văn hoá người Á Đông, thanh minh là lễ tiết hàng năm, được tổ chức vào ngày mùng ba
tháng ba âm lịch, có ý nghĩa đặc biệt: Thanh là khí, Minh là sáng sủa - Thanh minh là khí trong trẻo và sáng
sủa. Đó là ngày nhớ về cội nguồn. Đối với người Việt Nam, ngày Thanh minh là ngày Tảo mộ, với những
công việc: thăm viếng mộ phần gia tiên, dọn dẹp phát quang, làm cơm cúng tại các phâng mộ hoặc tại nhà
để nhớ về nguồn cội của mình.
Tết Hàn thực có xuất xứ Trung Quốc vào ngày mồng ba tháng ba âm lịch. Hàn thực có nghĩa là ăn đồ
lạnh. Ngày này người Việt Nam thường ăn bánh trôi bánh chay.
Tết Thanh minh là một tập tục cổ truyền đáng trân trọng và giữ gìn, bởi nó nhắc con người trần thế nhớ về
khởi thuỷ của mỗi kiếp người, nhắc ta sống thế nào để giống nòi mãi trường tồn trong vòng quay của vũ trụ
bao la.
3. Tết Đoan ngọ
Tết Đoan ngọ tổ chức vào ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch. Người Trung Quốc cũng có ngày này để tưởng
nhớ về Khuất Nguyên, một vị trung thần nước Sở. Tuy có ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa, nhưng ngày này
của người Việt Nam không hề dính líu hay nhắc nhở đến vị trung thần Khuất Nguyên của Trung Quốc. Ngày
tết Đoan Ngọ ở Việt Nam dân gian gọi là ngày giết sâu bọ nhằm bảo vệ mùa màng, sức khoẻ con người.
4. Tết Trung nguyên
Tết Trung nguyên được tổ chức vào ngày rằm tháng 7, người xưa cũng gọi ngày này là ngày xá tội vong
nhân hay ngày cúng cô hồn. Giới tăng ni, Phật tử thì gọi là ngày lễ Vu Lan
Theo tín ngưỡng, người Việt cho rằng rằm tháng bảy là ngày xá tội vong nhân, nghĩa là bao nhiêu tội nhân
dưới âm phủ, ngày hôm đó được tha tội hết. Bởi vậy, trên dương thế mọi gia đình đều làm lễ cúng cô hồn.
Còn ở chùa thì tổ chức lễ cúng gọi là lễ cúng Thập loại chúng sinh và đọc Văn chiêu hồn của Nguyễn Du.
Về bản chất, lễ này là một lễ mang ý nghĩa tốt, thể hiện một tình thương không vụ lợi đến mọi kiếp người
khốn khổ.
Tóm lại: Lễ tiết là một bộ phận đời sống văn hoá quan trọng của người Việt. Thông qua các lễ tiết, người ta
gắn mình với thiên nhiên, với vũ trụ, với cộng đồng, giữ gìn mối quan hệ với quá khứ, dòng dõi và liên kết
với nhau để hướng tới những chu kỳ tiếp theo của vòng quay vũ trụ luân hồi. Cội nguồn sâu xa của lễ tiết
Việt Nam phần lớn đều bắt rễ từ cuộc sống lao động và sáng tạo của cư dân nông nghiệp lúa nước từ bao đời
nay. Người ta không chỉ có lao động vất vả quanh năm, mà còn phải vui chơi giải trí, phải thoả mãn những
nhu cầu về thế giới tâm linh của mình. Và chính trong lĩnh vực này, lễ tiết có ý nghĩa to lớn, là một tục đẹp,
đồng thời là một bộ phận hữu cơ không thể thiếu của đời sống văn hoá tinh thần con người Việt Nam.
III. HÔN LỄ.
Hôn lễ là một lễ thức quan trọng nằm trong phông cảnh nghi lễ đời người, mà biểu hiện là việc lập gia đình
của đôi trai gái. Lễ cưới, biểu hiện sự ra đời một gia đình mới được coi là gốc của vạn phúc, nên được trân
trọng và tổ chức chu đáo.
Trong đời sống tinh thần của người Việt, cưới là một việc hệ trọng trong cuộc đời mỗi con người. Dân gian
có câu:
Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay
Phần lớn các nghi lễ của người Việt chịu ảnh hưởng của tục lệ Trung Quốc. Theo tục lệ của Trung Quốc
thì có 6 lễ trong hôn nhân (lục lễ).
1/ Nạp thái: kén chọn.
2/ Vấn danh: hỏi tên tuổi, ngày sinh cô gái.
3/ Nạp cát: chấp nhận sự đính ước.
4/ Nạp tệ: lễ ăn hỏi, đưa sính lễ đến nhà gái.
5/ Thỉnh kỳ: xin lễ cưới, định ngày cưới.
6/ Thân nghinh: cưới - đón dâu.
Sáu lễ trên dần đần được người Việt Việt hoá còn ba lễ chính:
1/ Lễ chạm ngõ: gồm nạp thái và vấn danh.
2/ Lễ ăn hỏi: gồm nạp cát và thỉnh kỳ, trong đó có tục nộp sêu sau khi ăn hỏi.

32
3/ Lễ cưới: gồm nạp tệ và thân nghinh.
Trong hôn lễ / lẽ cưới của người Việt Nam, có một vài lễ thức hoàn toàn là của người Việt, mang đậm
phong vị dân tộc. Đó là:
- Lễ lại mặt: lễ diễn ra sau khi cô dâu làm dâu được ba ngày. Sang ngày thứ tư, cặp vợ chồng mới phải dắt
nhau về nhà gái để lễ gia tiên, tục gọi là lễ lại mặt hay lễ tứ hỉ, nếu ngay ngày hôm sau đã về thì gọi là nhị hỉ.
Lễ lại mặt xưa có mục đích để cô dâu tỏ chữ hiếu với cha mẹ, mặt khác còn có ý nghĩa thông báo rằng cô ấy,
chị ấy đã làm toại nguyện nhà chồng và chồng. Trường hợp có trục trặc thì trong lễ lại mặt bố mẹ cô dâu
cũng sẽ được biết thông qua lễ vật của chú rể mang về (thủ lợn bị cắt mất một tai có nghĩa là cô dâu không
còn trong trắng nữa).
- Lễ nộp cheo: là một nghi lễ phụ trong đám cưới nhưng nhất thiết phải có. Ca dao, tục ngữ cổ có những
câu:
- Có cưới mà chẳng có che
Nhân duyên trắc trở như kèo long đanh.
- Nuôi lợn thì phải băm bèo
Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng.
- Cheo có làng, cưới có họ
Tất cả những đều nhằm chứng minh một tục lệ riêng có ở Việt Nam là lễ nộp cheo. Nghĩa là một cuộc kết
hôn muốn được công nhận là chính thức, ngoài lễ cưới ra, phải có lễ cheo. Cheo là để làng xóm công nhận,
còn cưới chỉ mới là công bố trong hai họ mà thôi. Có thể hiểu như ngày nay các cặp vợ chồng phải đăng ký
trước uỷ ban để pháp luật công nhận. Cũng như vậy, xưa lễ cheo là để chứng minh rằng tại đơn vị cộng đồng
ấy có thêm một gia đình mới, một thành phần trong khối cộng đồng. Muốn được cộng đồng công nhận thì
cặp vợ chồng phải chứng tỏ ý thức xây dựng cộng đồng. Lễ cheo là bằng chứng của ý thức ấy. Như vậy, lễ
nộp cheo là một thủ tục như thể nằm ngoài cuộc hôn thú nhưng không thể không có.
Tóm lại, phong tục hôn nhân của người Việt Nam có những nghi tiết mang đậm phong vị dân tộc, phù hợp
với phương thức sinh tồn là nông nghiệp trồng cấy lúa nước. Hôn lễ đã đáp ứng được hai nhu cầu cơ bản là
duy trì dòng dõi và phát triển nguồn nhân lực.
IV. TANG LỄ
'Tang' là một từ gốc Hán, có nghĩa là công việc phải làm với người mới chết. Những công việc ấy được chia
làm hai giai đoạn: giai đoạn mới chết đến khi táng và giai đoạn tiếp sau khi táng, gồm 'để trở', cúng các tuần,
cúng giỗ, cải táng... Tất cả được gọi là tang lễ hay tang chế. Nói chung, lễ tang hay tang chế là những công
việc được nghi thức hoá của người sống đối với người chết, bao gồm cả việc tống táng và truy tưởng.
Các nghi thức lễ tang của các dân tộc không giống nhau bởi quan niệm về cái chết của mỗi tộc người, mỗi
tôn giáo khác nhau. Người Việt, trong đời sống tâm linh của mình cũng có những quan niệm cùng những
nghi lễ cho người chết theo quan niệm sinh là ký tử là quy - sống gửi, thác mới thật là về thế giới bên kia,
một thế giới cũng hao hao như thế giới bên này (thế giới của người sống. Vì vậy, người Việt thường có câu
'dương sao âm vậy' (trần sao, âm vậy). Từ quan niệm ấy mà người Việt đã ứng xử với người qua đời bằng
những lễ thức như sau:
1. Tang chế
Tang chế là chế độ để tang. Dưới thời phong kiến, tang chế ở nước ta không chỉ là phong tục mà còn
thuộc luật tư pháp (công dân), được thể hiện rõ ràng trong các bộ luật Hồng Đức và luật Gia Long.
Luật Hồng đức và luật Gia Long, hai bộ luật cổ chịu ảnh hưởng lớn của các bộ luật Trung Hoa, nên về
tang chế cũng chịu ảnh hưởng, có nghĩa là chịu ảnh hưởng cái nền đạo hiếu của Nho giáo. Tuy nhiên như thế
không có nghĩa là người Việt không cải biến, không Việt Nam hoá. Theo chế độ để tang của người Việt thì
tang có 5 bậc dài ngắn khác nhau, tuỳ thuộc sự thân sơ, và được người xưa viết thành bài thơ có nhan đề
"Ngũ phục thi'.
Tang cha tang mẹ tang chồng
Ba năm sồi vải tỏ lòng xót xa
Anh em, cô ruột, ông bà
Xa là chú, bác gần là trưởng tôn
Tang cháu ruột, tang các con
Với tang dâu trưởng đều tròn một năm
Tang chín tháng kể ra liền
Chị em cô ruột xa miền ngoại gia

33
Vợ cháu ruột, anh họ ta
Cùng tang các cháu thảy đà đại công (9 tháng)
Đích tôn thừa trọng ba đông
Bác họ, anh họ 'tiểu công' lâu gì (5 tháng)
Tang cha mẹ vợ, cậu gì
Dưới thì cháu chắt, lệ 'ty ma' còn (3 tháng)
Vợ chúng tôn, vợ điệt tôn
Cũng trong ba tháng cho tròn tình thương
Con nuôi, mẹ đẻ lấy chồng
Chiếu trong kinh lễ không tang rành rành.
Trong dân gian thì có câu:
Chồng cô vợ cậu chồng dì
Trong ba người ấy chết thì không tang
Như thế, trong năm loại tang thì tang cha mẹ là tang trọng/ đại tang. Cơ sở ấn định thời hạn tang xuất phát
từ quan niệm của Nho giáo.
Cùng với tang chế là tang phục. Tang phục không phải được dùng trong suốt thời kỳ có tang, mà chỉ trong
các dịp sau đây:
- Ngày nhập quan.
- Ngày chôn cất.
- Ngày thứ 49 sau khi chết.
- Ngày thứ 100
- Và lần cuối cùng khi làm lễ hết tang.
Nhưng trong thời kỳ cư tang, dù không phải hàng ngày mặc tang phục, người chịu tang cũng không được
ăn mặc và trang sức xa xỉ, vải vóc sang trọng, màu sắc loè loẹt hay rực rỡ, để biểu thị sự tưởng nhớ, nỗi
buồn rầu của mình.
2. Lễ tang
Đó là những nghi thức cúng lễ, chôn cất người chết. Các nghi thức tang có thể chia thành ba phần
- Lúc lâm chung: những công việccủa người sống phải làm đối với người hấp hối / chết.
- Chuẩn bị đưa đám: gồm những công việc: lập tang chủ, lễ mộc dục (tắm gội cho người chết), lễ phạn
hàm (bỏ cơm, tiền vào miệng người chết), lễ khâm liệm (mặc quần áo mới; bọc vải cho người chết sau khi
đã tắm rửa), lễ thành phục (phát tang và khóc), chọn huyệt (chọn hướng huyệt để người chết phù hộ cho con
cháu).
- Đưa đám và chôn cất: đưa đám - đưa linh cữu đến tận chỗ chôn. Đoàn tống táng được bố trí như một
đám rước, với các nghi trượng: nhà táng, phường bát âm, đối trướng, gậy chống của con trai (nếu là đưa đám
cha mẹ), bát cơm quả trứng. Các lễ thức sau khi chôn cất xong gồm: lễ thành phần, lễ phản khốc và các lễ
trọng sau:
+ Lễ ngu: lễ cúng ba ngày
+ Lễ cúng tuần thất thất: cúng 49 ngày (lễ tiết thuộc Phật giáo).
+ Lễ tốt khốc (thôi khóc): cúng 100 ngày (lễ tiết thuộc Nho giáo).
+ Lễ tiểu tường: lễ giỗ đầu (lễ tiết thuộc Nho giáo).
+ Lễ đại tường: hết tang (lễ tiết thuộc Nho giáo).
3. Một số nghi trượng trong lễ tang
1/ Nhà táng: xưa để chôn đi cùng với người chết. Nhà táng có hai tác dụng: để che đi cỗ linh cữu, tạo ấn
tượng thẩm mỹ, tranh sự hãi hùng cho người quan sát; làm vật chôn theo (hoá) để người chêt có nhà ở theo
quan niệm 'dương sao âm vậy'.
2/ Phường bát âm: trong đám tang, phường bát âm có chức năng:
- Tấu nhạc thờ khi nhập quan, nhất là về đêm khuya; miền Bắc thường có kèm theo kể chuyện về công
lao người đã chết theo giọng thập ân (kể 10 ơn của cha mẹ).
- Tấu nhạc mỗi khi có người đến phúng viếng.
3/ Đối trướng: những tấm vải màu đỏ trên viết những câu đối (đối) hay 4 hoặc 5 chữ Hán to (trướng) tỏ
lòng thương tiếc người quá cố. Đối trướng phần lớn do khách hay bà con thân thuộc phúng viếng với ý
nghĩa là biểu tượng của sự chia buồn, mặt khác cũng làm vơi nhẹ đi sự nặng nề của tang tóc.

34
4/ Gậy chống của con trai: gậy tang dùng cho hạng đại tang - tang cha mẹ, với nghi thức chống là cha
đưa mẹ đón.
5/ Bát cơm quả trứng: bát cơm quả trứng (kèm đôi đũa bông) được dùng trong cúng cơm hàng ngày, khi
mới mất cũng như hết tuần 49. Những thứ này một mặt là biểu tượng của sự phồn sinh, mặt khác còn là sự
biểu thị người chết đi vào một sự sống khác.
Tóm lại, lễ tang là sự biểu hiện mối quan hệ giữa người sống với người chết, nói khác đi là thái độ của
người ta trước một hiện tượng tự nhiên là sự chết, là sự chống trả của con người với tự nhiên. Và những ứng
xử trong lễ tang của người Việt là sự hỗn dung ảnh hưởng của ba tôn giáo: Nho, Phật, Đạo với tín ngưỡng
dân tộc là đạo Tổ tiên.

Bài 10. CÁC SẮC THÁI VĂN HOÁ TỘC NGƯỜI


Việt Nam từ khi lập nước, tiền thân là các quốc gia Văn lang, Âu Lạc, thì ngày nay các nhà nghiên cứu
còn nhận thấy các dấu hiệu là cư dân các quốc gia đó mang những sắc thái tộc người khác nhau. Trên các di
vật của văn hoá Đông Sơn, đặc biệt là trên trống đồng Đông Sơn, người ta nhận thấy sự khác biệt về các
hình thức trang trí, cách thức ăn mặc, trang sức, các kiểu tết tóc, búi tóc của người phụ nữ... Cộng đồng của
người Việt cổ (Lạc Việt), chủ nhân văn hoa Đông Sơn, rất có thể là tổ tiên xã xưa của các tộc người nói ngôn
ngữ Môn - Khơ Me, Việt - Mường, Tày - Thái sau này.
Sau công nguyên, nhất là thời kỳ phong kiến tự chủ (thế kỷ X - XIX) cùng với sự củng cố và mở rộng
cương vực về phí Nam, nhiều tộc người đã gia nhập vào thành phần các đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Ở miền núi phía Bắc, ngoài các tộc người bản địa sinh sống lâu đời, thì càng ngày càng có nhiều nhóm tộc
người có nguồn gốc từ phương Bắc đến định cư sinh sống, đó là các dân tộc: Dao, Mông, Hoa, Cờ Lao, Sán
Chay, Lô Lô, Hà Nhì, Gáy, Ngái, Nùng... đến nước ta vào những thời kỳ khác nhau. Các tộc kể trên thường
không cư trú theo khu vực riêng mà sinh sống xen cài với các tộc người đã ở từ trước, tạo nên bức tranh tộc
người và văn hoá hết sức đa dạng.
Ở phía Nam, cùng với quá trình Nam tiến và mở rộng bờ cõi của quốc gia Đại Việt, dần từ thời nhà Lý
đến nhà Nguyễn, cương vực Việt đã mở rộng dần từ sông Gianh đến Nam Bộ ngày nay. Thực tế là quá trình
thực dân / đi tìm đất sinh sống của người Việt và sự mở rộng quốc gia của các triều đại Đại Việt tuy cùng
hướng nhưng không phải là một, mà thường là người Việt di cư đến tìm đất trước, sau đó nhà nước phong
kiến mới 'hợp thức hoá' về cương vực quốc gia sau. Quá trình này cũng đã tạo điều kiện cho các tộc người
phía Nam gia nhập vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trước hết là người Chăm, Khơ Me, các tộc người
nói ngôn ngữ Môn - Khơ Me ở Trường Sơn (Bru - Vân Kiều, Cơ Tu, Tà Ôi, Hrê...) và sau cùng là các tộc ở
Tây Nguyên: Ba Na, Xơ Đăng, Gia Rai, Ê Đê, Mnông, Mạ, Xtiêng...).
Như thế, cho tới nay, trải qua quá trình mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, cùng với việc củng cố và
mở rộng cương vực quốc gia, thì thành phần tộc người của cư dân sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam ngày
một đa dạng. Theo thống kê thành phần tộc người thì nước ta có 54 dân tộc / tộc người với những sắc thái và
bản sắc văn hoá dân tộc hết sức đa dạng. Vậy các sắc thái tộc người được thể hiện như thế nào?
Sắc thái văn hoá tộc người được thể hiện trên ba cấp độ:
1/ Văn hoá nhóm ngôn ngữ tộc người.
2/ Văn hoá tộc người.
3/ Văn hoá nhóm địa phương tộc người.
I. VĂN HOÁ NHÓM NGÔN NGỮ TỘC NGƯỜI
Từ góc độ tộc người, nhiều nhà nghiên cứu đã nhận đinh Việt Nam như một Đông Nam Á thu nhỏ. Điều này
hàm nghĩa: Ở Việt Nam có gần như đầy đủ các tộc người đại diện cho các nhóm ngôn ngữ - tộc người lớn
của Đông Nam Á như: Môn - Khơ Me, Tày - Thái, Việt - Mường, Mông - Dao, Nam Đảo, Hán, Tạng -
Miến.
Việc phân chia các tộc người vào các nhóm ngôn ngữ cơ bản dựa vào cứ liệu ngôn ngữ và để nghiên cứu
mối quan hệ về nguồn gốc và mối quan hệ ngôn ngữ. Tuy nhiên, ngôn ngữ cũng là một bộ phận văn hoá tộc
người, nếu không muốn nói là bộ phận rất quan trọng. Mặt nữa, từ mối quan hệ nguồn gốc ngôn ngữ, cũng
tạo nên những tương đồng về đời sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của các tộc người trong một
nhóm ngôn ngữ tộc người ấy.
Những nét cơ bản nhất về đặc trưng văn hoá, cuộc sống, tinh thần và tập quán xã hội của từng nhóm văn
hoá - ngôn ngữ tộc người, được trình bày dưới đây.
35
1. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Việt - Mường
- Nhóm Việt - Mường là nhóm ngôn ngữ tộc người lớn nhất của nước ta, gồm các dân tộc: Việt, Mường,
Thổ, Chứt. Dân tộc Chứt sống ở miền núi Quảng Bình; dân tộc Kinh sinh sống tập trung ở đồng bằng châu
thổ các dòng sông lớn từ Bắc tới Nam, ở các thành phố lớn, thị xã, thị trấn, thị tứ và các trục đường giao
thông trên mọi miền của Tổ quốc; dân tộc Mường sống tập trung ở tỉnh hoà Bình, Thanh Hoá, rải rác ở Sơn
La, Phú Thọ và Hà Tây; dân tộc Thổ sống tập trung ở miền núi Nghệ An.
- Hoạt động kinh tế: Người Chứt và người Thổ sống chủ yếu bằng nghề nương rẫy; nguời Mường sống
chủ yếu bằng nghề ruộng nước; người Việt sống hoàn toàn chủ yếu bằng làm ruộng nước.
- Các giá trị văn hoá nền tảng/ văn hoá tinh thần
+ Tiếng Kinh (Việt) là tiếng phổ thông của cả nước, phát triển đến trình độ có chữ viết - chữ gốc La
tinh. Các dân tộc khác chưa có chữ.
+ Tín ngưỡng: tín ngưỡng đa thần, người Kinh ngoài tín ngưõng dân gia thì còn chịu ảnh hưởng tư
tưởng Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo. Ở một số vùng, người Kinh còn theo đạo Ki tô (Christian).
+ Lễ hội: phong phú. Người Kinh có lễ hội làng, lễ hội vùng và cả dân tộc.
+ Văn nghệ dân gian: các dân tộc nhóm Việt - Mường có kho tàng truyện cổ tích, dân ca, ca dao, tục
ngữ phong phú. Riêng dân tộc Mường có cuốn ’Mo - sử thi dân tộc Mường’ được đánh giá là di sản vô giá
của dân tộc Mường nói riêng và của văn hoá Việt Nam nói chung.
+ Văn hoá xã hội: gia đình của các dân tộc nhóm văn hoá - ngôn ngữ Việt - Mường là gia đình phụ
quyền.
2. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
- Gồm 21 dân tộc: Khơ Me, Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho, Hrê, Co, Mnông, Xtiêng, Bru - Vân Kiều, Tà Ôi,
Cơ Tu, Gié Triêng, Brâu, Rơ Măm, Mạ, Mảng, Chơ Ro, Khơ Mú, Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu. Đây là các
nhóm bản địa ở Việt Nam và Đông Dương. Ở Việt Nam, các tộc người nhóm này cư trú tập trung nhất ở
đồng bằng sông Cửu Long, miền núi Đông Nam Bộ, các tỉnh Tây Nguyên, dọc Trường Sơn và một số ít ở
Tây Bắc.
- Hoạt động kinh tế, trừ người Khơ Me là ruộng nước và chài lưới, các tộc người còn lại chủ yếu sống
bằng nghề làm rẫy, trồng lúa nương.
- Các giá trị văn hoá nền tảng / văn hoá tinh thần
+ Tiếng nói của một số dân tộc đã có chữ viết: người Khơ Me có văn tự cổ gốc Sanscrit. Một số dân tộc
ở Tây Nguyên như Ba Na, Mnông, Cơ Ho, Mạ đã có chữ viết nhưng là chữ do người Pháp xây dựng, trên cơ
sở chữ cái La tinh.
+ Tín ngưỡng tôn giáo: rất đa dạng. Người Khơ Me ở đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu theo đạo
Phật. Người Khơ Me có tục lệ là nam thanh niên được coi là người lớn khi đã tu ở chùa từ một đến ba năm.
Trong thời gian tu, người đi tu được học chữ, học giáo lý của Phật, học lao động sản xuất.
Các dân tộc nhóm Môn - Khơ Me có tín ngưỡng đa thần. Giàng là tên gọi chung để chỉ các vị thần. Đó là
các thần núi, thần sông, thần lửa, thần bến nước... Những hoạt động mở đầu năm sản xuất đều phải báo và
xin phép Giàng mới được thực hiện.
+ Lễ hội: có nhiều lễ hội gắn với hoạt động sản xuất, sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng. Cư dân Môn - Khơ
Me ở Nam Bộ có các ngày lễ Chon chnam thmay - đón năm mới, lễ Óc bom bóc - cúng trăng, lễ Vi sa ka
ban chia - lễ Phật đản...
Các lễ hội nổi tiếng ở Tây Nguyên là lễ hội bỏ mả (Pơ thi), lễ cúng Giàng, trong lễ cúng Giàng có tục đâm
trâu mang ý nghĩa hiến sinh; có cả lễ hội mang tư tưởng phồn thực như lễ mở đầu mùa gieo hạt trên nương
rẫy của người Khơ Mú.
+ Vốn văn nghệ dân gian của các dân tộc nhóm Môn - Khơ Me đồ sộ, phong phú về thể loại lẫn chất
lượng. Về dân ca đã có hàng chục làn điệu khác nhau; nhạc cụ dân gian Tây Nguyên rất độc đáo; già làng
Tây Nguyên hay kể Khan / sử thi cho con cháu nghe ở nhà Rông. Một số dân tộc có bộ luật tục đồ sộ. Các
dân tộc ở Tây Nguyên có tập quán làm tượng nhà mồ nhằm thể hiện tình cảm của người sống với người đã
chết.
+ Văn hoá xã hội: các dân tộc có tập quán hôn nhân một vợ một chồng, cư trú bên nhà chồng là chính.
Tuy nhiên có một số dân tộc lại có tục cặp vợ chồng luân phiên cư trú ở hai bên với ý giúp cho bố mẹ mỗi
bên một thời gian, như các dân tộc: Xơ Đăng, Xtiêng, Brâu.
3. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Tày - Thái

36
- Đây là nhóm ngôn ngữ lớn ở Đông Nam Á và Trung Quốc, có vai trò quan trọng trong tiến trình lịch sử
và văn hoá của khu vực. Ở Việt Nam gồm có các dân tộc: Thái, Tày, Bố Y, Lào, Lự, Nùng, Giáy, Sán Chay,
cư trú ở các tỉnh Việt Bắc và Tây Bắc, dọc biên giới Việt - Trung và Việt - Lào.
- Nghề nghiệp chính của cư dân Tày - Thái là làm ruộng nước ở các thung lũng và trồng trọt cạn trên các
sườn đồi.
- Các giá trị văn hoá nền tảng/ văn hoá tinh thần:
+ Tiếng nói của người Thái đã phát triển đến trình độ có chữ viết (chữ Phạn Ấn Độ). Tiếng Thái còn là
tiếng phổ thông của miền Tây Bắc và miền núi Thanh Hoá, Nghệ An. Tiếng Tày, Nùng - tiếng phổ thông của
Việt Bắc, vốn cũng có chữ viết gốc từ chữ Hán và được các trí thức dân tộc Tày - Nùng hoá thành Nôm Tày,
Nôm Nùng, trước khi có bộ chữ Tày, Nùng La tinh do nhà nước xây dựng năm 1961.
+ Tín ngưỡng cư dân nhóm Tày - Thái là tín ngưỡng đa thần, trọng tâm là thờ tổ tiên. Người Thái, Tày,
Nùng còn chịu ảnh hưởng của Khổng giáo, Đạo giáo và Phật giáo.
+ Cư dân Việt Bắc và Tây Bắc có nhiều ngày lễ hội được tổ chức tưng bừng: lễ hội hang Bua (Nghệ
An), lễ Xên bản, Xên mường ở Tây Bắc, lễ hội Lùng tùng ở Việt Bắc...
+ Kho tàng văn hoá dân gian của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái rất phong phú và đa dạng, phổ
biến là các loại hình truyền thuyết, truyện cổ, ca dao, tục ngữ, thành ngữ, truyện thơ. Nhiều thể loại văn học
dân gian đã được biên soạn, ấn hành như Nam Kim Thị Đan, Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, Sóng chụ xon
xao, Khun Lú nàng Ủa... Các làn điệu dân ca đặc trưng là hát Sli (Tày) và hát Lượn (Nùng), là những nét
văn hoá độc đáo của vùng Tây Bắc và Việt Bắc.
+ Văn hoá xã hội: gia đình các dân tộc nhóm Tày - Thái là gia đình phụ quyền. Trong tục cưới xin,
người Thái có nét khác so với các dân tộc khác, đó là có tục cưới hai lần. Cưới lần đầu là để ở rể, cưới lần
thứ hai mới được đưa vợ con về bên nhà chồng và làm nhà ở riêng.
4. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Mông - Dao
- Nhóm này gồm các dân tộc: Mông, Dao và Pà Thẻn, có nguồn gốc phương Bắc. Cư dân sống ở vùng
cao Việt Bắc và Tây Bắc, chủ yếu ở các tỉnh biên giới Việt - Trung và Việt - Lào.
- Hoạt đồng kinh tế: nghề nghiệp chính của cư dân Mông - Dao là trồng trọt cây lương thực trên khô cạn.
- Các giá trị văn hoá nền tảng/ văn hoá tinh thần:
+ Tiếng Mông được sử dụng rộng rãi trên vùng cao. Người Mông, trước khi có chữ Mông La tinh do
nhà nước xây dựng, đã dùng chữ Hán để ghi chép gia phả và sách cúng, văn tự, ruộng đất. Người Dao, trước
khi có chữ Dao La tinh, có chữ Nôm Dao để ghi chép sách cúng và gia phả.
+ Tín ngưỡng của các dân tộc nhóm Mông - Dao là tín ngưỡng đa thần, trọng tâm cũng là thờ tổ tiên.
Tuy nhiên, biểu thị văn hoá thờ tổ tiên ở các dân tộc khác nhau. Người Mông không đặt bàn thờ tổ tiên trong
nhà nhưng rất cơi trọng quan hệ dòng họ. Người Dao thờ tổ tiên là Bàn Vương. Người Dao còn chịu ảnh
hưởng của đạo Nho và đạo Giáo (một biểu hiện ảnh hưởng của Đạo giáo). Trong những năm gần đây, một số
vùng đồng bào theo đạo Tin lành.
+ Lễ hội: các dân tộc mở nhiều lễ hội vào mùa xuân, thể hiện đậm nét đặc trưng dân tộc. Người Mông
có những lễ hội nổi tiếng như lễ Gầu Tào - lễ cầu tự và trả ơn sau khi cầu tự đã có con, lễ Nào xồng - lễ cúng
ăn thề bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ mùa màng và bảo vệ trị an trong bản làng. Người Dao, ngoài lễ hội
Bàn Vương là lễ lớn nhất, được tổ chức hàng năm với nghi lễ trang nghiêm và ý thức sâu sắc về cội nguồn
tổ tiên, còn có lễ /tục Cấp sắc cho nam thanh niên đến tuổi thành niên và còn là lễ cấp đèn cho làm thầy
cúng, và lễ Nhàng chầm đao / nhảy chầm đao mà thực chất là ngày hội của nam thanh niên rèn luyện võ
nghệ hàng năm, với vũ khí là dao bằng gỗ.
+ Vốn văn nghệ dân gian của các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ này rất đa dạng, chủ yếu tập trung ở
người Mông và người Dao. Đó là những bài ca văn vần phổ biến; những bài ca dân ca trữ tình cũng như
những tiếng hát than thân trách phận, phận làm dâu khổ sở, phận mồ côi nghèo đói. Dân tộc Mông có những
nhạc cụ độc đáo là khèn bè, khèn lá, đàn môi, đặc biệt là sáo mông - một biểu tượng tình cảm của tình yêu
đôi lứa... Người Dao có điệu hát dân ca ’Páo dung’ là nức lòng các chàng trai, cô gái.
+ Văn hoá xã hội: gia đình các dân tộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao là gia đình phụ hệ nhỏ. Quan niệm
dòng họ của người Mông và người Dao rất sâu sắc. Đặc trưng quan hệ dòng họ của người Mông là ’cùng họ
cùng ma’. Người Dao trong quan hệ dòng họ cũng rất được quan tâm. Họ dùng hệ thống tên đệm giữ họ và
tên để phân biệt vai vế, thế hệ giữ những người cùng họ.
Trong hôn lễ, người Mông và người Dao có tục đón dâu độc đáo. Người Mông có tục đón dâu là trước khi
cô dâu bước qua ngưỡng cửa vào nhà chồng, bà mẹ chồng cầm chân gà cào cào vào lưng cô dâu. Còn người

37
Dao có tục cô dâu phải rửa chân trước khi bước vào nhà chồng. Hai hiện tượng khác nhau nhưng cùng
chung một ý nghĩa, đó là động tác tách ma nhà cô dâu ra khỏi cô dâu và để cho ma nhà chồng quản lý cô dâu
mới.
5. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo
- Nhóm văn hoá ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo gồm các tộc: Chăm, Ê Đê, Gia Rai, Rag Lai, Chu Ru, sống
tập trung ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
- Hoạt động kinh tế: Bộ phận sống ở đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ là ruộng và đánh cá, bộ phận
sống ở miền núi làm nương rẫy là chính.
- Các giá trị văn hoá nền tảng / văn hoá tinh thần: những giá trị về ngôn ngữ văn hoá hình thành trong lịch
sử của các dân tộc nhóm này một mặt gắn với lịch sử giao lưu văn hoá, mặt khác còn gắn với bối cảnh môi
sinh của đồng bào, rất đa dạng.
+ Tiếng nói của một người Chăm đã phát triển đến trình độ có chữ viết; tiếng Ê Đê, Gia Rai là tiếng
nói phổ thông của một vài khu vực.
+ Tín ngưỡng: các dân tộc thuộc nhóm văn hoá ngôn ngữ này thờ cúng đã thần, tin vào vạn vật hữu
linh. Những vị thần có vị thế quan trọng trong đời sống tâm linh của đồng bào, thường xuyên phải cúng bái
để cầu xin sự bảo hộ trong các hoạt động lớn là thần núi, thần sông, thần bến nước, thần lửa. Với người
Chăm, tôn giáo ngự trị trong đời sống của họ là đạo Hồi và một số ít theo đạo Bà Ni. Người dân rất đề cao
nữ thần. Vị thần sáng thế, Thánh Mẫu của người Chăm được họ sùng bái là Thần Mẹ Pô Na gar.
+ Lễ hội: các dân tộc có nhiều lễ hội với các nội dung: lễ hội liên quan đến sản xuất nông nghiệp, như:
lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng (người Chăm); lễ gieo hạt lúa, lễ
thức tỉnh ruộng rẫy, lễ nhập thóc vào kho... (dân tộc Ê Đê và Gia Rai). Bên cạnh lễ hội liên quan đến nông
nghiệp, các dân tộc cũng có những lễ hội tín ngưỡng văn hoá, đó là: lễ hội đua voi, lễ bỏ mả (Tây Nguyên),
lễ hội ka tê, lễ hội Tháp Bà (người Chăm).
+ Văn nghệ dân gian các dân tộc nhóm văn hoá ngôn ngữ này thật phong phú và đặc sắc. Người Ê Đê
có sử thi bất hủ Đam San, người Gia Rai có sử thi Xinh Nhã. Các dân tộc ở Tây Nguyên có những bộ luật
tục bằng văn vần. Người Chăm có làn điệu dân ca và nhạc dân gian thấm đượm sự tiếp nối chất văn hoá cổ
truyền văn hoá đạo Hồi. Những tháp Chàm và phong cách nghệ thuật tượng đá tròn là những di sản nghệ
thuật sống mãi của văn hoá Chăm, văn hoá Việt Nam và văn hoá nhân loại.
Trên cao nguyên đó là những tượng nhà mồ làm bằng gỗ- biểu hiện tình cảm của người sống với người đã
khuất, gây nhiều ấn tượng sâu sắc cho các nhà nghiên cứu và thưởng thức nghệ thuật dân tộc. Nhạc cụ của
các dân tộc cũng khá đa dạng, độc đáo, được chế tạo từ cây lồ ô. Trong số các loại nhạc cụ, có đàn đá Khánh
Sơn / Thạch cầm nổi tiếng trên thế giới.
+ Văn hoá xã hội: gia đình các dân tộc thuộc nhóm văn hoá ngôn ngữ này là gia đình mẫu hệ. Trong
hôn nhân, các dân tộc Ê Đê và Gia Rai tồn tại tục nối nòi (nối dây) tương đối phổ biến.
6. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán
- Thuộc nhóm ngôn ngữ này có các tộc Hoa, Ngái, Sán Dìu, có nguồn gốc Trung Quốc, cư trú ở thành phố
Hồ Chí Minh, các thị xã, thị trấn thuộc các tỉnh ven biên giới Việt - Trung.
- Hoạt động kinh tế: đa số cư dân làm nghề buôn bán (người Hoa), một số khác làm ruộng rải rác ở các
miền quê từ đồng bằng ven biển đến trungdu và miền núi.
- Các giá trị văn hoá nền tảng/ văn hoá tinh thần:
+ Các dân tộc thuộc nhóm này dùng chữ Hán (chữ Trung Quốc) làm văn tự cho mình. Ở những nơi
đông người Hoa đều có mở trường dạy Trung văn.
+ Tín ngưỡng: Thờ đa thần gắn với quan niệm vạn vật hữu linh, trọng tâm là thờ tổ tiên, thờ Thành
hoàng, thờ những người có công khai phá đất đai và tổ sư nghề nghiệp. Người Hoa còn chịu ảnh hưởngmạnh
của tư tưởng Khổng giáo, Đaoh giáo và Phật giáo.
+ Lễ hội: Các dân tộc nhóm ngôn ngữ Hán có nhiều lễ tết đặc trưng dân tộc, phản ánh những hoạt động
sản xuất của đồng bào, như Tết Đoan ngọ (5/5 âm lịch) của người Sán Dìu (là ngày đi hái thuốc nam để
dành chữa bệnh trong năm), của người Hoa (là ngày lễ tết các ông tổ sư nghề nghiệp). Đặc trưng trong lễ hội
của đồng bào là thường tổ chức múa sư tử.
+ Văn nghệ dân gian của các dân tộc nhóm ngôn ngữ Hán rất đặc sắc, đáng chú ý là những làn điệu dân
ca mang tính đặc trưng dân tộc rõ nét. Người Hoa có hình thức hát sơn ca ’Sán cố’, người Ngái có hát
’Sường cô’, đó là kiểu hát dân ca được thể hiện trong các dịp lễ hội mùa xuân, trong đám cưới, trong các
buổi hát giao duyên giữa trai gái các bản làng với nhau. Nhạc cụ có tù và, kèn, sáo, thanh la.

38
+ Văn hoá xã hội: gia đình các dân tộc này là gia đình phụ hệ. Người Hoa dựng vợ gả chồng chủ yếu
theo nhóm địa phương (đồng hương - Quảng Châu, Triều Châu chẳng hạn). Theo phong tục, cô dâu và chú
rể phải ăn đủ 100 miếng trầu, có nhưvậy vợ chồng mới sống ’bách niên giai lão’. Đối với hôn nhân của con
gái, ông cậu có vai trò quan trọng.
Các dân tộc nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán tuy có nguồn gốc Trung Hoa nhưng di cư sang Việt Nam đã số
vào thời kỳ nhà Minh suy đồi và nhà Thanh cầm quyền, đã được coi là các dân tộc thiểu số của Việt Nam,
được hưởng các quyền lợi và nghĩa vụ như các dân tộc thiểu số khác. Bản sắc văn hoá dân tộc của họ được
tôn trọng, giữ gìn và phát huy.
7. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Tạng - Miến
Nhóm ngôn ngữ này bao gồm các dân tộc: hà Nì, Phù Lá, La Hủ, Lô Lô, Cống và Si La, sinh sống dọc
theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào, thuộc các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La.
- Hoạt động kinh tế: cư dân sống bằng nghề phát nương làm rẫy, trồng luá nương là chính. Ngoài ra, việc
thu hái lượm lâm thổ sản có vai trò quan trọng trong cuộc sống của đồng bào.
- Các giá trị văn hoá nền tảng/ văn hoá tinh thần:
+ Các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ này thường dùng tiếng Mông, tiếng Thái làm ngôn ngữ giao tiếp
xã hội. Tiếng nói chưa phát triển đến chữ viết. Để có văn tự ghi chép sách cúng và gia phả, trước đây đồng
bào sử dụng chữ Hán, ngày nay là chữ quốc ngữ.
+ Tín ngưỡng: tín ngưỡng của đồng bào là tín ngưỡng đa thần, tin vào vạn vật hữu linh, rất tôn thờ các
hiện tượng tự nhiên, với quan niệm các hiện tượng tự nhien đều có hồn. Người La Hủ quan niệm trong mỗi
con người có 12 linh hồn, một hồn chính ở trong bếp của nhà, một hồn trú ngụ trong người, còn mưòi hồn
kia nhập vào các hiện tượng tự nhiên. Người Lô Lô thờ thần Kết Dơ - vị thần cai quản vũ trụ bao la, tạo ra
con người, và thần Mít Dơ là thần cai quản mặt đất, che chở cho con người. Trong nhà đồng bào thờ cúng tổ
tiên.
+ Lễ hội: lễ hội của các dân tộc nhóm ngôn ngữ này rất đa dạng và phong phú. Người La Hủ tổ chức ăn
tế, lễ hội mừng mùa màng sau khi thu hoạch xong ngô, lúa. Trong lễ hội của người La Hủ không bao giời
thiếu các điệu múa khèn và hát dân ca. Trước kia, người Si La,người Hà Nhì, người La Hủ tổ chức cúng bản
vào cuối tháng giêng, tháng hai. Đồng bào có phong tục cứ 7 năm lại tổ chức cúng gọi hồn lúa.
+ Văn nghệ dân gian: các dân tộc nhóm Tạng - Miến có kho tàng văn hoá dân gian phong phú. Người
Lô Lô có các đặc sản văn nghệ nổi tiếng là trống đồng và các điệu đánh trống đồng, các làn điệu dân ca, dân
vũ đặc sắc gắn với nội dung sinh hoạt cũng như nghi lễ (đám tang, đám cưới). Người Cống có làn điệu dân
ca được hát vào dịp tháng năm, là dịp vui chung của cả bản, trong đó có bài dân ca tiễn con gái về nhà chồng
của rất đặc sắc, chứa đựng tâm hồn văn học sâu sắc. Người Si La có nhiều thể loại dân ca, tình ca, sử ca,
gồm nhiều bài hát kể về sự tích ngày xưa của dân tộc. Người Phù Lá có nhiều truyện cổ đặc sắc ca ngợi tình
đoàn kết dân tộc, đấu tranh chống bạo tàn. Người Hà Nhì có các trường ca - Đất người Hà Nhì, Đời sống
người Hà Nhì, và các truyện thơ dài về đám cưới, là những áng thơ rất đặc sắc.
+ Văn hoá xã hội: gia đình các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ này là gia đình phụ hệ. Theo tục lệ, sau
khi kết hôn, người vợ phải đổi họ sang tên họ của nhà chồng. Người La Hủ cũng có tục ở rể có thời hạn. Hết
hạn ở rể, luác đón dâu về, người mẹ chồng ra cửa đón và lấy một nắm gạo xoa lên lưng cô dâu, sau đó, cô
dâu dùng tay phải, chú rể dùng tay trái bứt đứt sợi chỉ tráng dăng ngang trước cửa từ trước, rồi cùng nhau
bước vào nhà. Dân tộc Cống có tục đón dâu cũng khá độc đáo là dì của chú rể phải vào buồng cõng cô dâu
ra. Một vài dân tộc có tục anh trai chết, em trai lấy chị dâu làm vợ.
8. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Ka Đai
- Nhóm văn hoá ngôn ngữ này gồm các dân tộc: Cờ Lao, La Chí, La Ha và Pu Péo, nói ngôn ngữ gần với
ngôn ngữ Tày - Thái. Các dân tộc này đều sống ở vùng cao Việt Bắc và Tây Bắc. Dân tộc nào cũng có dân
số ít.
- Hoạt động kinh tế: nguồn sống chính của cư dân là làm ruộng bậc thang, nương trồng ngô hoặc lúa cạn,
và trồng lúa nước.
- Các giá trị văn hoá nền tảng/ văn hoá tinh thần:
+ Tiếng nói của các dân tộc trên chỉ dùng trong giao tiếp gia đình và nội bộ tộc người. Trong giao tiếp
xã hội rộng hơn, họ dùng tiếng phổ thông trong vùng. Tiếng nói của các dân tộc này chưa có chữ viết.
+ Tín ngưỡng: các dân tộc có tín ngưõng đa thần, đặc biệt sùng bái các thần tự nhiên, như thần núi, thần
sông, thần rừng già thần mô đất, thần tảng đá, thần nương rẫy... Thờ tổ tiên là phổ biến. Người Pu Péo quan

39
niệm trên trời và dưói đất đều có người. Người trên trời đeo dao gỗ vào cổ, người đươi đất đeo dao gỗ vào
kheo chân.
+ Lễ hội: rất đa dạng, tổ chức hàng năm vào dịp hoa ban nở. Vào dịp này, người La Ha tổ chức lễ mừng
xuân. trong dịp lễ tế, người Pu Péo tổ chức lễ Pạt Ong (ép nước để mở đầu vụ sản xuất).
+ Văn nghệ dân gian: khá phong phú. Người La Chí có làn điệu dân ca nổi tiếng - Ni Ca, có truyện kể
về nguồn gốc loài người, nguồn gốc cộng đồng. Nhạc cụ có đàn tính, đàn lá, trống chiêng. Người Pu Péo có
chuyện kể về nạn đại hồng thuỷ, quả bầu mẹ, có kho tàng tục ngữ khá phong phú. Người la Ha cũng có vốn
văn nghệ dân gian quý giá, nhưng được thể hiện chủ yếu bằng tiếng Thái.
+ Văn hoá xã hội: gia đình các dân tộc này là gia đình phụ hệ. Người Cờ Lao, người Pu Péo trong hôn
nhân không lấy người cùng họ. Người phụ nữ La Ha thì sau khi lập gia đình phải đổi họ theo gia đình nhà
chồng. Nếu chồng chêt, người vợ goá không được trở lại nhà bố mẹ đẻ mà phải ở lại với con tria lớn hoặc
với họ hàng nhà chồng, hoặc đi bước nữa.
Tục đón dâu của các dân tộc ít người này cũng khá độc đáo. Với người Pu Péo, trong bữa cơm trình báo tổ
tiên để đón dâu, rể mới, cả nhà phải ăn bốc, cơm và thức ăn đựng trên một cái nong. Ở người Cờ Lao, bên
cạnh việc cưới theo nghi lễ chính thức còn có tục ’kéo vợ’. Người Cờ Lao xanh trong ngày cưới, chú rể mặc
áo xanh, quấn khăn đỏ qua người, cô dâu khi vào đến cổng nhà trai phải búi tóc ngược trên đỉnh đầu và phải
giẫm vỡ một cái bát, một cái muôi (vá) gỗ mà nhà trai đã để sẵn ở đó mới được vào cổng.
Như vậy, từ góc độ các nhóm lớn ngôn ngữ tộc người, Việt Nam đã phần nào thể hiện được tính đa dạng
của cả khu vực Đông Nam Á, như là một Đông Nam Á thu nhỏ.

Bài 11. CÁC SẮC THÁI VĂN HOÁ ĐỊA PHƯƠNG / KHÔNG GIAN VĂN
HOÁ VIỆT NAM
Văn hoá Việt Nam không chỉ giàu có về sắc thái văn hoá tộc người, mà còn giàu có cả về sắc thái địa
phương nữa.
Nghiên cứu vấn đề sắc thái văn hoá địa phương, các nhà nghiên cứu đã nhìn nhận từ góc độ lý thuyết
vùng văn hoá.
Theo kết quả nghiên cứu hiện nay, nước ta có 6 vùng văn hoá.
- Vùng văn hoá Việt Bắc.
- Vùng văn hoá Tây Bắc.
- Vùng văn hoá đồng bằng / châu thổ Bắc Bộ.
- Vùng văn hoá Trung Bộ.
- Vùng văn hoá Tây Nguyên.
- Vùng văn hoá Nam Bộ.
I. VÙNG VĂN HOÁ VIỆT BẮC
Vùng văn hoá Việt Bắc gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên.
Đây là vùng rừng núi, có biên giới quốc gia với Trung Quốc, cùng là nơi cư trú tập trung của các dân tộc
Tày - Nùng.
Địa hình Việt Bắc có những dãy núi lớn hình cánh cung như Ngân Sơn, Bắc sơn, Đông Triều, có cả những
ngọn núi cao như Phja Bjoóc (Bắc Kạn), Tây Côn Lĩnh (Hà Giang), rừng núi có nhiều gỗ quý và các loại
động vật khác nhau; có những cánh đồng lòng chảo như cánh đồng Nước Hai (Cao Bằng), Thất Khê (Lạng
Sơn) và nhũng thung lũng ven các sông lớn nhỏ trong vùng; có những dòng sông đi vào lịch sử, thơ văn như
sông Lô, sông Gâm, sông Cầu, sông Bằng, sông Kỳ Cùng; có hồ Ba bể rất lớn và nổi tiếng cả nước, đi vào
huyền thoại. Khí hậu vùng Việt Bắc có thể chia thành hai vùng: vùng thấp - nhiệt đới và vùng cao - ôn đới.
Việt Bắc cũng là nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa đông bắc, nên mùa đông ở đây rất lạnh.
Vùng văn hoá Việt Bắc có những di tích lịch sử nổi tiếng như Pác Bó, Tân Trào, Kim Bình, Định Hoá...
và những danh thắng như Ba Bể, Mẫu Sơn, Tam Thanh...
Cư dân sống ở vùng Việt Bắc chủ yếu là người Tày và người Nùng. Đây cũng là hai dân tộc đã gắn bó với
vùng này từ lâu đời. Do đó có thể nói, vùng văn hoá Việt Bắc là vùng văn hoá Tày - Nùng. Điều này đã được
hình thành từ lâu trong lịch sử. Ngoài ra, vùng này còn là nơi sinh sống của các dân tộc khác có dân số ít
hơn cư dân Tày - Nùng, như Mông, Dao, Lô Lô, Sán Chay...

40
Vốn xa xưa người Tày và người Nùng cùng nguồn gốc. Người Tày còn có tên là ’cần slửa khao’ - người áo
trắng; người Nùng được gọi là ’cần slửa đăm’ - người áo đen.
Dân tộc Tày - Nùng, từ buổi bình minh của xã hội văn minh nước ta, đã hướng về văn minh châu thổ sông
Hồng cùng cư dân Lạc Việt, lập nên nhà nước Âu Lạc. Và suốt quá trình lịch sử sau này, cư dân Việt Bắc mà
chủ yếu là cư dân Tày - Nùng đã gắn bó số phận của mình với nhà nước phong kiến Việt Nam. Mặt khác,
các triều đại phong kiến Việt Nam cũng rất có ý thức củng cố quan hệ này.
Các yếu tố địa - văn hoá nêu trên đã hình thành nên văn hoá vùng Việt Bắc, với những sắc thái riêng biệt, thể
hiện trong các lĩnh vực sau:
1. Hoạt động kinh tế:
Cư dân Việt bắc sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng nước và chăn nuôi gia súc. Các vùng lòng chảo, các
thung lũng là nơi được đồng bào khai khẩn. Các dòng sông suối thì được tận dụng, đắp đập, đào mương dẫn
nước vào ruộng, hoặc làm những cọn nước đưa nước từ lòng sông lên cao tới hàng chục mét để lấy nước
tưới ruộng. Người Tày - Nùng ở Việt Bắc còn trồng nhiều cây công nghiệp và cây ăn quả trên các sườn đồi,
như cây hồi, cây bông, cây quýt, cây hồng, cây nhãn, cây vải.... Ngoài ra ngành thủ công dệt, đan lát, rèn,
gốm, mộc cũng phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật.
Trong việc canh tác kiếm sống, người Việt Bắc vừa phát triển theo hướng phát triển văn hoá nước (làm
ruộng nước, cọn nước, đào ao, đắp ruộng, đắp đập...), vừa phát triển văn hoá khô cạn (làm nương trồng cây
ăn quả, cây công nghiệp trên các núi đồi), tạo thành dấu nối giữa miền xuôi và miền ngược. Trong cuộc sống
của đồng bào, kinh tế hái lượm săn bắn có vị trí quan trọng.
2. Đơn vị xã hội:
Người Tày - Nùng cư trú thành bản. Bản dựa vào sườn đồi, núi để tiện cho sản xuất. Ruộng ở phía trước
bản, sau bản là nương hoặc rừng cây công nghiệp, cây ăn quả. Mỗi bản có miếu thờ Thổ công. Bản là đơn vị
xã hội cơ sở của người Tày - Nùng, có đủ các mối quan hệ xã hội, kinh tế, văn hoá.
3. Đời sống vật chất:
Người Tày - Nùng chủ yếu ở bằng nhà sàn. Bộ quần áo được may bằng vải bông, do chính cư dân tự sản
xuất ở tất cả các khâu. Màu truyền thống của bộ quần áo là màu chàm, màu được gắn với truyền thuyết về
lòng chung thuỷ trong tình yêu đôi lứa. Bộ quàn áo của đàn ông gồm áo ngắn xẻ ngực, cài cúc và quần chân
què. còn phụ nữ Tày - Nùng mặc áo 5 thân, cài cúc dưới nách phải, áo dài đủ để chùm hết thân người, mặc
quần, đầu đội khăn chít mỏ quạ, thắt lưng vải. Trang sức có khuyên tai, vòng cổ, vòng chân, vòng tay, xà
tích. Chất liệu trang sức bằng bạc, vừa đẹp, vừa có tác dụng kỵ gió.
Người tày - Nùng ăn cơm rau là chính, thịt cá thuờng chỉ dùng khi đãi khách quý hoặc vào các dịp lễ, tết,
hội... các món ăn thường xào, rất ít luộc, dùng gạo nếp để làm xôi, bánh cúng và ăn. Ăn ngày ba bữa. Uống
rượu rất phổ biến.
4. Sinh hoạt tinh thần:
- Tiếng Tày - Nùng thuộc ngôn ngữ Tày - Thái. Trong lịch sử, tiếng Tày - Nùng đã phát triển đến chữ viết.
Từ thời cổ đại đã xuất hiện chữ Nôm Tày - Nôm Nùng trên cơ sở cải tiến chữ Hán, sau này xuất hiện chữ La
tinh.
- Tín ngưỡng của người Tày - Nùng chủ yếu thờ tổ tiên, thờ cúng đa thần và chịu ảnh hưởng của Khổng
giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Người ta tin vào thần linh thổ địa, thần núi, thần sông, thần đất, thần nước, tin
vào số mệnh. Ảnh hưởng của Khổng giáo thể hiện trong nếp sống và quan hệ tôn ti, trật tự thành viên trong
gia đình cũng như quan hệ xóm giềng. Ảnh hưởng của Đạo giáo thể hiện ở việc cúng bắt tà ma, trừ quỷ của
những người hành nghề cúng bái như mo, then, tào, pựt. Người Tày - Nùng quan niệm có con ma ác ’pji
mằn lằn’ chuyên làm hại người
- Văn học dân gian của cư dân Tày - Nùng rất đa dạng, phong phú, nổi bật là các làn điệu dân ca như Sli,
lựon; truyện thơ dài hàng trăm câu và các bài cúng, ngoài ra còn có đồng dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố...
Lễ hội của đồng bào nổi tiếng là hội lùng tùng (hay lồng tồng). Hội lùng tùng thể hiện nét sinh hoạt văn hoá
tinh thần mang tính cộng đồng sâu sắc của bản, vùng. Sinh hoạt văn hoá trong các lễ hội có ném còn, đánh
quay, đánh yến, trình diễn võ thuật, làm ảo thuật... Người Tày - Nùng cũng có nền y học dân gian truyền
thống quý giá, chữa được một số bệnh nan y.
5. Quan hệ xã hội:
Đứng đầu thiết chế cổ truyền của bản là già làng. Đó là người hiểu biết về lệ làng, phép nước, có đức, có
tài để ứng xử, xử lý tốt các mối quan hệ. Tổ chức xã hội trên làng là nước (gọi là Mường). Gia đình người
Tày - Nùng là gia đình phụ hệ. Con trai có quyền thừa kế tài sản của bố mẹ. Con gái đi lấy chồng có thể

41
mang theo của hồi môn nhưng không phải là bất động sản. Trong cưới hỏi, người Tày - Nùng tin vào số. Số
hợp mới lấy nhau, số không hợp thì không được lấy. Phải chọn ngày lành tháng tốt tổ chức đám cưới. Nam
nữ được tự do tìm hiểu, yêu thương nhưng lễ dẫn cưới phải có sự đồng ý của bố mẹ đôi bên. Ông mối có vai
trò quan trọng từ khi dạm hỏi đến khi tổ chức xong lễ cưới. Theo phong tục, sau khi cưới xong, ông bà mối
trở thành bố mẹ nuôi của cô dâu. Người Tày - Nùng có tục nhận nuôi con nuôi. Con nuôi cũng có nghĩa vụ
với bố mẹ nuôi như bố mẹ đẻ, ngượic lại, bố mẹ nuôi cũng quan tâm con nuôi như con đẻ của mình.
Tang ma của người Tày - Nùng được tổ chức rất nghiêm túc, thể hiện những nghi lễ, quan niệm liên quan
đến tín ngưỡng dân gian. Trong lễ tang, lễ tế đưa linh hồn người chết về với tổ tiên, thể hiện chữ hiếu của
con cái đối với bố mẹ rất được đề cao.
Tóm lại, Việt Bắc là một vùng văn hoá gắn liền với gương mặt văn hoá của hai dân tộc Tày, Nùng. Tuy có
những nét riêng biệt, đặc thù nhưng không vì thế mà làm giảm sự thống nhất trong đa dạng của văn hoá Việt
Nam.
II. VÙNG VĂN HOÁ TÂY BẮC
Tây Bắc được ví là hòn ngọc của Tổ quốc, xứ sở của hoa ban, của Điện Biên lịch sử, của các dân tộc Thái,
Mông, Khơ Mú, Xinh Mun, Lào, Lựu, La Hủ, Si La... Vùng văn hoá Tây Bắc bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai
Châu, một phần của Hoà Bình, Lào Cai, Yên Bái và miền núi Thanh Hoá, Nghệ An. Đây là vùng có nhiều
rừng núi trùng điệp nhất nước, có những ngọn núi cao nhât nước như ngọn Phan xi phăng, cao 3142m, Yam
Phình, cao 3096m, Pú Luông, cao 2983m;Tây Bắc là nơi có những cao nguyên rộng lớn như cao nguyên
Mộc Châu, cao nguyên Tả Phình... và còn co những cánh đồng lòng chảo nổi tiếng đi vào câu ca dân gian:
nhất Thanh, nhì Lò, tam Tấc, tứ Than, như là niềm tự hào của Tây Bắc. Tây Bắc cũng là nơi đầu nguồn của
những dòng sông lớn như sông Đà, sông Mã. Khí hậu Tây Bắc là khí hậu nhiệt đới nhưng ở vùng cao ngả
sang á nhiệt đới. Tây Bắc không chịu ảnh hưởng trực tiếp của giáo lạnh thổi đến từ Đông bắc tới nhưng lại
chịu ảnh hưởng trực tiếp của những con gió nóng thổi từ phía Tây. Giao thông đi lại không mấy thuận tiện.
Tây Bắc có những địa danh lịch sử gắn với thời đại như Điện Biên Phủ, có nhà máy thuỷ điện sông Đà, có
Sa Pa với cảnh đẹp nổi tiếng.
Tây Bắc được xem như là một ngôi nhà lớn có hai tầng: tầng một / vùng thấp, là nơi cư trú chính của các
dân tộc Thái, Lào, Lự, tuy nhiên, văn hoá Thái được xem là gương mặt văn hoá vùng thấp Tây Bắc; và tầng
hai/ vùng cao, nơi cư trú của các dân tộc Mông, Dao, Hà Nhì, Si La, Khơ Mú, gương mặt văn hoá tiêu biểu
của vùng cao Tây Bắc chính là văn hoá Mông, Dao.
A. Vùng văn hoá tầng thấp Tây Bắc
1. Hoạt động kinh tế:
Ở vùng thấp Tây Bắc, người Thái, Mường, Lào, sống bằng nghề làm ruộng nước là chính. Ruộng được
khai khẩn tư những thung lũng lòng chảo Mường Thanh (Điện Biên), Mường Lò (Nghĩa Lộ), Mường Tấc
(Phù Yên), Mường Than (Than Uyên) và trong thung lũng các dòng sông. Giống lúa truyền thống gần với
lúa nếp. Kỹ thuật trồng lúa nước của người Thái đạt đến trình độ cao. Hệ thống thuỷ nông mương, phai, lái,
lịn, cọn nước được hình thành từ lâu đời.
Ngoài cây lúa nước, trên các sườn đồi, đồng bào còn trồng các loại ngô, khoai, sắn, các loại đậu, đỗ, bầu,
bí. Cây công nghiệp, cây ăn quả phổ biến là cây bông và cây xoài. Nghề thủ công của người Thái nổi bật
nhất là nghề dệt vải và nghề đan lát. Họ tự túc vải đủ cho các nhu cầu làm quần áo, chăn, màn, rèm... Người
Thái chăn nuôi trâu bò làm sức kéo và ăn thịt; nuôi lợn, vịt, gà, chó, cá ruộng, ngựa để vừa phục vụ cúng bái
vừa làm thức ăn tiếp khách. Theo tập quán, con gái Thái đi lấy chồng phai mang theo của hồi môn bắt buộc
là chăn, nệm, gối cho gia đình nhà chồng, vì thế, con gái Thái thường rất giỏi thêu và biết thêu từ khi còn
nhỏ tuổi. Người Thái cũng có nhiều kinh nghiệm khai thác lâm thổ sản. Rau rừng, măng rừng tham gia vào
bữa ăn hàng ngày. Ở vùng Tây Bắc, việc trao đổi hàng hoá chưa có truyền thống.
2. Đơn vị xã hội:
Người Thái cư trú thành bản. Bản của người Thái được dựng ở các chân núi, sườn núi và cư trú theo kiểu
mật tập. Các nhà trong bản thường được xây dựng rất gần nhau, giữa các nhà chỉ có lối đi lại chứ không có
vườn như nhà cửa của các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Bắc.
3. Đời sống vật chất:
Nhà cửa của người Thái được làm bằng gỗ, tre, nứa, lá. Trên đầu hồi nhà Thái đen có ’’khau cút’’. Sàn
nhà cao khoảng 1,6m. Hai phía đầu hồi đều có cầu thang đi lên nhà gọi là chán (sàn) và quản. Khách quen,
nam giới lên nhà theo thang bên đầu quản; khách lạ và phụ nữthường đi thang bên chán vào nhà.Việc bố trí
chỗ ở trong nhà hết sức chặt chẽ. Tính từ đầu quản sang đầu chán, dọc theo vách phía sau nhà là chỗ để thờ,

42
chỗ ngủ của bố mẹ; chỗ ngủ của con gái lớn và vợ chồng trẻ ở cuối dãy. Con trai lớn trước khi đi ở rể ngủ ở
quản. Giữa nhà, dọc theo đòn nóc có hai bếp. Bếp đun nước và sưởi đặt ở đầu quản, đây cũng là khu vực
tiếp khách nam giới. Bếp nấu cám lợn, nấu ăn, đồ xôi đặ ở đầu chán. Xung quanh bếp này là chỗ tiếp khách
nữ.
Quần áo Thái may bằng vải bông, nhuộm màu chàm. Bộ trang phục của nam giới đơn giản, có áo ngắn xẻ
ngực, cài cúc và quần chân què. Bộ trang phục phụ nữ có váy, xửa cỏm (áo), khăn piêu đội đầu. Xửa cỏm bó
sát lấy người, chiếc khăn piêu thêu hoa văn màu đỏ, làm tăng vẻ đẹp của người phụ nữ. Đồng bào dùng nón
lá tre để che nắng, che mưa.
Người Thái có truyền thống ăn cơm nếp, rau. Người Thái có câu:
’’Khảu, nặm dú năng đin
Cắm kin dú năng pá’’
Nghĩa là:
’’Cơm nước ở mặt đất
Thức ăn ở trong rừng’’.
Cách chế biến đồ ăn thức uống của người Thái có những nét riêng biệt. Cơm xôi đồ trên cái ninh, mỗi
ngày đồ một lần ăn cả ngày. Rau xanh thường ăn sống, chấm muối giã tỏi ớt; rau có nhiều chất chát, đắng.
Người Thái cung có nhiều cách chế biến thịt cá đậm tính dân tộc như món lạp, món nước chấm “nặm pạ’’,
cá ăn gỏi, ăn nướng... Người Thái có tục uống rượu cần “lảu xá’’ và cả rượu chưng cất. Tục mời rượu rất
nhiệt.
4. Sinh hoạt tinh thần:
Tiếng Thái thuộc hệ ngôn ngữ Tày - Thái, cùng hệ ngôn ngữ với tiếng Tày - Nùng, gần với tiếng Lào và
Thái Lan và là thứ tiếng phổ thông ở vùng thấp Tây Bắc và miền núi của các tỉnh Hoà Bình, Thanh Hoá,
Nghệ An. Tiếng Thái đã phát triển đến trình độ có chữ viết.
Tín ngưỡng của người Thái thuộc tín ngưỡng nguyên thủy, tin vào đa thần, coi mọi vật đều có linh hồn và có
nhiều loại thần khác nhau. Đồng bào quan niệm, con người có đến 80 hồn; 30 hồn đằng trước; 50 hồn đằng
sau (xam xếp khoăn mang nả, hả xíp khoăn mang lăng). Người chết là chết phần xác, còn phần hồn về sống
với tổ tiên.
Người Thái có tầng lớp thầy cúng, chuyên cúng chữa bệnh cho người ốm, mà theo quan niệm của Thái đó
là đưa âm binh đi đánh đuổi tà ma, quỷ. Người Thái coi con “phi phông’’ là con ma chuyên làm hại người.
Người Thái có nhiều ngay lễ xên bản, xên mường để cầu mong trời đất, thần linh phù hộ cho dân làm ăn
thuận lợi, cầu cho mưa thuận gió hoà, sâu bọ, dã thú không phá hoại mùa màng. Ngày lễ đã trở thành ngày
hội với các phần vui chơi tập thể như ném còn, múa tập thể. Con gái Thái vốn nổi tiếng là múa dẻo và đẹp.
Vốn văn nghệ dân gian của người Thái rất phong phú. Những truyện truyền miệng lâu đời như sóng chụ
son sao, Khun lú nàng ủa, trở thành những di sản tinh thần sống mãi với lịch sử dân tộc. Làn điệu dân ca nổi
tiếng của người Thái là hát “khắp’’. Tiếng “khắp’’ luôn mượt mà, đầy tình nhân ái, làm say đắm lòng người.
Y học dân gian Thái cũng khá phát triển. Từ xưa, với các loại lá cây rừng, người Thái đã tự bào chế, chữa
được nhiều thứ bệnh thông thường. Họ đề cao việc phòng ngừa bệnh tật, thể hiện rất rõ trong ăn uống. Họ
thường uống nước lã nhưng lại ít bị bệnh đuờng ruột, có lẽ do dùng nhiều chất chát, cay trong bữa ăn.
Đơn vị xã hội thấp nhất của người Thái là bản (làng). Trong bản có đủ các mối quan hệ xã hội, kinh tế,
văn hoá. Đứng đầu bản là trưởng bản. Gắn với nhà nước là một hệ thống Phìa với chức năng quản lý bản. Tổ
chức trên bản là Mường. Đứng đầu Mường là Anha. Việc quản lý xã hội được thực hiện theo luật tục.
Gia đình người Thái là gia đình phụ hệ. Con trai trong gia đình được thừa kế tài sản cố định, con gái đi lấy
chồng mang theo của hồi môn. Trong hôn nhân, người Thái có tục ở rể có thời hạn. Thông thường, sau khi tổ
chức đám cưới, chú rể phải đến ở rể nhà cô dâu từ đến 3 năm. Trong thời gian ở rể được cùng lao động và
hưởng thụ như mọi thành viên khác trong gia đình bố mẹ vợ. Trong quan hệ gia đình người Thái có mối
quan hệ ba dòng họ rất đáng quan tâm: “Ải nọng’’ - anh em họ nội, “Lúng ta’’ - anh em họ ngoại, “ Nhính
xao’’ - anh em họ nội của gia đình chồng các chị em gái. Mối quan hệ ba dòng họ một mặt có trách nhiệm
với nhau trong cuộc sống hàng ngày, mặt khác và quan trọng hơn là phải có bổn phận giúp nhau trong những
công việc lớn của gia đình như việc cưới, tang, làm nhà mới.
Tang ma của người Thái được thực hiện theo quy trình chặt chẽ, nghiêm túc theo những tục lệ hình thành
từ lâu đời. Họ quan niệm, chết đi là sống ở thế giới bên kia, nên người chết cũng được chia của như người
sống. Người Thái cũng có tục lam nhà mồ, nhà mồ đuợc làm ngay trên mộ của người sống, là nhà sàn. trong
nhà sàn có cả các dụng cụ sinh hoạt như chă, đệm, cuốc, dao... thậm chí còn thả gà, lợn một cách tượng

43
trưng (sau đó bắt lại đem về). Người Thái vừa thực hiện thổ táng, vừa thực hiện hoả táng. Tục hoả táng có lẽ
do ảnh hưởng văn hoá Phật giáo.
Người Thái rất chú ý đến việc dạy dỗ con cái. Công việc giáo hoá này được thực hiện theo một quan niệm
rất cụ thể và nhân văn. Họ có câu:
’’Tặp lục tặp kẻn ta
Tặp ma tặp mậy cậy’’
Có nghĩa:
’’Đánh con đánh bằng mắt
Đánh chó đánh bằng gậy’’
Con gái Thái theo làm nghề của người phụ nữ từ lúc lên 8 - 10 tuổi. Cũng ở tuổi này bắt đầu tập lao động
sản xuất như làm nương, dệt vải... Con trai làm các công việc đồng áng. Đặc biệt, sau khi lấy vợ, trong thời
gian ở rể, bố vợ có trách nhiệm dạy dỗ con rể lao động, làm việc những việc rất cụ thể, từ mài dao, đan gùi...
đến các tập quán, lễ nghi trong ứng xử hàng ngày.
B. Vùng văn hoá tầng cao Tây Bắc
Vùng cao Tây Bắc và Việt Bắc có nhiều dân tộc sinh sống, như người Mông, Dao, La Hủ, Si La... Song
văn hoá tiêu biểu của vùng này là văn hoá Mông và Dao. Cư dân Mông - Dao cư trú và làm ăn trên vùng núi
cao từ 800m đến 1000m so với mặt biển. Đây là vùng ít nước, khí hậu kiểu á nhiệt đới.
Cư dân vùng cao Tây Bắc và cả Việt Bắc sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt cây lương thực trên khô
cạn. Hai loại cây lương thực được trồng phổ biến là cây lúa nương ở Tây Bắc và cây ngô ở Việt Bắc. Đồng
bào có tập quán sống du canh du cư. Ngoài trồng trọt, cư dân vùng cao còn chăn nuôi đại gia súc, gia cầm
như trâu, bò, ngựa; nuôi gia súc, gia cầm như lợn, gà, chó, dê. Việc chăn nuôi nhằm mục đích là cúng bái và
ăn thịt. Bên cạnh đó, ngành nghề thủ công của cư dân vùng cao phát triển đa dạng, gồm nghề dệt, đan lát đồ
mây tre, nghề mộc, và đặc biệt là nghề rèn. Người Mông có kỹ thuật tôi rèn thép rất tốt. Các sản phẩm như
dao, cuốc, lưỡi cày đạt kỹ thuật rất cao.
Sống ở miền núi, môi trường xung quanh là cây rừng, hơn nữa trình độ sản xuất còn thấp nên việc hái
lượm lâm thổ sản và săn bắn có vai trò quan trọng trong cuộc sống của đồng bào.
Nơi cư trú của cư dân vùng cao là các sườn núi, tạo thành các bản làng. ranh giới làng thường rất rộng,
các gia đình trong làng sống rải rác, ít làng sống tập trung.
Nhà ở của cư dân vùng cao là nhà đất, làm bằng gỗ, tranh tre, nứa lá. Nhà thường ba gian, mái nhà thấp,
không có cửa sổ, có một cửa chính ở gian giữa và hai cửa sổ phụ ở hai đầu. Trong nhà người Mông, nơi thờ
là bức vách phía sau gian giữa, đối diện với cửa chính ra vào. Hai gian cạnh, mỗi gian có một bếp: một để
sưởi và nấu cơm nước, một bếp để nấu cám lợn. Việc bố trí chỗ ngủ và sinh hoạt gia đình phù hợp với việc
sử dụng bếp trong nhà: gian bếp là là chỗ ngủ của hai vợ chồng trẻ, gian bên kia là chỗ ngủ của hai ông bà,
gian giữa là nơi sinh hoạt chung của gia đình; ăn cơm, tiếp khách.
Trang phục của người vùng cao may bằng vải lanh. Phụ nữ Mông mặc váy và áo xẻ ngực nhưng không
cài cúc mà gấu áo cho vào trong váy. Cổ áo của phụ nữ Mông là trung tâm trang trí của chiếc áo. Cổ áo rộng
khoảng 15cm, dài khoảng 30cm, được khâu vào áo và treo trên vai như cổ áo bộ đội hải quân. Ngoài váy áo,
trang phục của phụ nữ còn có tạp dề, thắt lưng, khăn đội đầu, xà cạp. Nam giới mặc bộ trang phục như bộ bà
ba. Đồng bào vùng cao thường dùng ô che nắng, che mưa.
Người vùng cao ăn cơm, canh rau. Cơm đựơc nấu một lần vào buổi sáng và để ăn cả ngày. Bữa ăn tổ chức
đơn giản: trên bàn để một rá cơm, độ hai bát canh rau. theo tập quán, người Mông dùng thìa gỗ xúc cơm
trong rá và muác rau ăn, mà không dùng bát con, đũa. Đồ ăn thức uống độc đáo của người vùng cao là mẻn
mén (bột mịn được chế biến từ bột ngô) và thắng cố (lẩu bò, chó, lợn, dê...), đậu răng ngựa.
Tiếng nói phổ thông ở vùng cao là tiếng Mông. Trước đây, ngoài tiếng Mông, do quan hệ kinh tế xã hội,
vùng cao còn dùng tiếng Quan hoả. Ngày nay, tiếng Việt được sử dụng rộng rãi. Tiếng Mông phát triển khá
cao, đủ sử dụng trong sinh hoạt giao tiếp trên vùng cao. Hiện nay, người Mông sử dụng bộ chữ được nhà
nước ta xây dựng trên cơ sở bộ chữ cái la tinh.
Người Mông tin vào đa thần. Các vị thần thường xuyên được cúng bái là thần núi, thần sông, thần trời,
thần đất. Họ phân biệt hai loại ma: ma lành và ma dữ. Ma lành là ma tổ tiên, thường phù hộ ho con cháu làm
ăn, phù hộ sức khoẻ ho mọi người; còn ma dữ chuyên làm hại người. Cả người Mông và người Dao đều tin
có con ma Ngũ hải chuyên làm người ốm đau, làm vật nuôi chết. Theo họ, ma Ngũ hải có ở trong một số gia
đình thuộc dòng dõi nhất định. Gia đình nào bị nghi ngờ có ma Ngũ hải thì quan hệ với cộng đồng và gia
đình rất khó khăn.

44
Trong cộng đồng người Mông vùng cao có tầng lớp thầy cúng chuyên chữa bệnh bằng cách đuổi tà ma,
quỷ quái, dùng các phép phù thuỷ.
Người vùng cao có những lễ hội đặc trưng. Đó là các lễ hội ’Gấu tào’, ’Nào xồng’, ’Nhàng chầm đao’, tổ
chức vào đầu xuân.
Vốn văn nghệ dân gian của các dân tộc vùng cao phong phú và cũng rất độc đáo. Có lẽ, trước đây do chữ
viết không có nên đồng bào sáng tác truyền miệng nhiều. Người vùng cao rất yêu âm nhạc. Các nhạc cụ độc
đáo có khèn bè, khèn lá và đàn môi.
Y học dân tộc vùng cao cũng rất đáng nghiên cứu để ứng dụng. Nhiều bệnh nan y như ruột thừa, hóc
xương được đồng bào chữa bằng lá cây rừng mà khỏi. Người Dao biết rất nhiều cây thuốc.
Xã hội vùng cao trước Cách mạng tháng Tám là xã hội thổ ty. Ở xóm làng phải có ’xéo phải’ và ’mã phài’
cai trị. Người vùng cao, đặc biệt là người Mông, có quan hệ họ hàng rất chặt chẽ, thể hiện ở bổn phận giúp
đỡ nhau trong cuộc sống. Người Mông quan niệm ’cùng họ, cùng ma’ nên đã là người cùng dòng họ, dù mới
gặp nhau cũng coi nhau như người nhà, được sinh đẻ và chết trong nhà nhau. Việc tìm hiểu cách cúng để
nhận họ là việc làm nghiêm túc, mang tính bí mật. Tin nhau mới nói cho nhau biết cách cúng ma của dòng
họ mình.
Gia đình người vùng cao là gia đình phụ hệ nhỏ. Con trai được thừa kế tài sản của bố mẹ, con gái đi lấy
chồng mang theo của hồi môn, của hồi môn nhiều hay ít tuỳ thuộc vào sự giầu nghèo của bố mẹ đẻ.
Tục lệ cưới xin của người Mông được thực hiện theo một quy trình nghiêm ngặt. Con gái đã lấy chồng thì
không được quay trở về ở nhà bố mẹ đẻ ở nữa, vì con ma nhà chồng đã quản lý cô dâu. Người Mông có tục
’háy pù’ (dắt tay bạn gái). Thông thường, trai gái yêu nhau, muốn kết duyên vợ chồng nhưng nhà nghèo, khó
lo đủ bạc trắng, thịt rượu để cưới, thì họ thoả thuận hẹn gặp nhau tại một địa điểm để chàng trai ra dắt tay cô
gái đón về làm vợ. Sau khi dắt tay cô gái về, nhà trai làm thủ tập nhập vào ma nhà chồng và đã ở một đêm
bên nhà chồng nên cô gái không được về nhà bố mẹ đẻ nữa. Sau ’háy pù’, chi phi về đám cưới sẽ giảm đi rất
nhiều.
Người Mông và người Dao đều chung quan niệm chết là về ở thế giới bên kia. Người Mông đưa hồn về
trời, còn người Dao thì đưa hồn người chết về Dương Châu (Trung Quốc). Với người Mông, ngoài làm ma
tươi cho nguời chết còn phải là ma khô. Việc làm ma khô phải cúng bằng trâu, bò, nên đây cũng là gánh
nặng cho con cháu.

Bài 11. CÁC SẮC THÁI VĂN HOÁ ĐỊA PHƯƠNG / KHÔNG GIAN VĂN
HOÁ VIỆT NAM (Phần tiếp theo)
III. VÙNG VĂN HOÁ CHÂU THỔ BẮC BỘ
Nói về vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ là nói về vùng văn hoá tiêu biểu cho cả lãnh thổ, bao gồm thành
phố Hà Nội và các tỉnh: Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam. Đây là vùng đất
bằng phẳng, được tạo thành từ sự bồi đắp cảu các con sông lớn. Do đó, đây là một vùng đất phù sa màu mỡ,
thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp trồng cấy lúa nước. Nhưng vùng này cũng là vùng gặp lũ lụt hàng năm,
nên từ rất sớm đã hình thành những tuyến đê để bảo vệ mùa màng và cuộc sống của cư dân ở đây. Phía đông
châu thổ Bắc Bộ là biển đông, phía tây là núi rừng. Khí hậu vùng châu thổ Bắc Bộ có bốn mùa rõ rệt: mùa
xuân ấm, ẩm, mùa hạ nóng, có mưa bão, mùa thu mát, mùa đông khô lạnh và có gió mùa đông bắc từng đợt.
1. Hoạt động kinh tế:
Cư dân châu thổ Bắc Bộ làm nghề trồng lúa nước là chính. Để mở rộng diện tích canh tác, họ đã quai đê
lấn biển để làm ruộng nước, làm thêm nghề muối và đánh cá biển. Nông dân vùng này còn làm nhiều nghề
thủ công khác nhau và đạt đến trình độ cao như nghề gốm, nghề đúc đồng, nghề dệt chiếu, đệt lụa, làm giấy,
nghề rèn...Châu thổ Bắc Bộ cũng là nơi kinh tế trao đổi sớm phát triển. Thời cổ đại nơi này đã có các trung
tâm buôn bán, đã lưu ấn trong ngôn ngữ dân gian: thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến. Sự hình thành và phát
triển kinh tế trao đổi ở đây gắn liền với vị thế địa kinh tế, tạo nên mô hình cảng - thị (thứ nhất cận thị, thứ
nhì cận giang)
2. Đơn vị xã hội:
Làng của vùng châu thổ Bắc Bộ nằm giữa cánh đồng, trên vùng đất cao, có luỹ tre xanh bao quanh. Ở
trung tâm mỗi làng có đình làng, giếng nước, cây đa, tạo thành một hình mẫu cấu trúc làng quê Việt.
3. Đời sống vật chất:

45
Nhà của nông dân châu thổ Bắc Bộ là nhà đất ba gian, vách đất lợp rơm rạ. Gian giữa dặt bàn thờ và bộ
tràng kỷ với bàn uống nước, hai gian bên là buồng ngủ. Nhà giàu thì làm năm gian. Gần sát nhà ở có nhà
ngang làm nhà bếp và để công cụ sản xuất, có giếng nước và cây cau.
Trang phục của cư dân châu thổ Bắc Bộ là quần áo màu gụ. Xưa, phụ nữ mặc váy, áo dài tứ thân, đeo dải
yếm, chít khăn mỏ quạ, đeo thắt lưng, nam giới mặc quần áo chân què, áo xẻ ngực.
Cư dân châu thổ Bắc bộ ăn cơm tẻ, rau xanh và cá, tôm, tép. Rau xanh thường được nâu, làm thành các
món luộc, dưa cải, dưa cà chấm tương. Châu thổ Bắc bộ cũng là nơi có nhiều loại bánh chế biến từ bột nếp
như bánh dày, bánh chưng, bánh gai ngon nổi tiếng.
Tiếng nói của cư dân châu thổ Bắc Bộ là tiêng Kinh, thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường, nằm trong hệ
ngôn ngữ Nam Á. Tiếng Kinh ở vùng này là tiếng phổ thông của cả nước, được sử dụng chính trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Trong lịch sử, tiếng Kinh đã phát triển đến văn tự. Thời cổ đại là chữ Nôm
(dựa trên nguyên tắc tiếp biến chữ Hán). Sau này tiếng Kinh được ghi bằng ký tự La tinh. Hiện nay, chữ
Kinh La tinh / Việt La tinh là quốc ngữ.
4. Sinh hoạt tinh thần:
Tín ngưỡng cư dân châu thổ Bắc Bộ là tín ngưỡng đa thần, trong đó có tín ngưỡng quan trọng, chủ đạo là
thờ Tổ tiên. Nông dân vùng này chịu ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Làng có chùa, có nhiều
nơi thờ cúng viết bằng chữ Nho, có người hành nghề cúng bái, chữa bệnh, cầu phúc cho người và mùa
màng.
Kho tàng văn học dân gian châu thổ Bắc Bộ rất phong phú và sinh động. Các thể loại từ truyền thuyết đến
truyện cổ, dân ca, ca dao, tục ngữ, truyện trạng... đều có bề dày lịch sử và thấm đẫm chất nhân văn. Văn hoá
bác học ở vùng này có những tác giả rất điển hình như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương...
Lễ hội ở Bắc Bộ rất đa dạng, tổ chức theo mùa và gắn với tín ngưỡng đa thần, cầu mùa. Lễ hội chủ yếu là
hội làng. Nổi bật nhất ở vùng này là lễ Giỗ tổ Hùng Vương (Phú Thọ), lễ hội chùa Hương (Hà Tây), lễ hội
Phủ Giầy (Nam Định) ...
Gia đình người Kinh là gia đình phụ hệ nhỏ. Quan hệ của gia đình có ảnh hưởng của Nho giáo. Con trai
trưởng được thừa kế tài sản. Con trai trưởng phải có trách nhiệm với các em. Quan hệ họ hàng được đặc biệt
coi trọng, họ nội, họ ngoại đều có nghĩa vụ chăm sóc nhau. Dân gian có câu: ’Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú
dù’ để nói về mối quan hệ huyết thống bền chặt giữa các thế hệ với nhau. Lịch sử phát triển xã hội vùng
châu thổ Bắc Bộ là phát triển từ Làng lên Nước.
IV. VÙNG VĂN HOÁ TRUNG BỘ
Trung Bộ là giải đất ven biển, chạy dọc theo chân núi Trường Sơn - Tây Nguyên. Trung Bộ có chiều ngang
đông tây hẹp nhưng chiều dài Bắc Nam lại lớn (từ Quảng Bình đến Bình Thuận hiện nay). Địa hình vùng
này bị chia cắt bởi các đèo là đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cả... Các dòng sông lớn nhỏ vùng này bắt nguồn
từ chân dãy Trường Sơn - Tây Nguyên, chảy theo hướng Đông và đổ ra biển. Do chiều ngang hẹp nên sông
ngắn, do vậy dải đồng bằng hẹp, thay vào đó là những cồn cát, cồn sò, những đầm phá (Tam Giang, Cầu
Hai).
Thuộc dải đất miền Trung còn là các quần đảo lớn nhỏ, nhấp nhô trên biển đông như Hòn Gió, Cồn Cỏ,
Cù Lao Chàm..., trong đó đáng kể nhất là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
1. Hoạt động kinh tế:
Khí hậu miền Trung khá khắc nghiệt: Khô nóng và chịu nhiều bão biển. Cư dân vùng này chủ yếu sống
bằng nghề trồng lúa nước. Tuy nhiên, do gần biển, nên ngoài trồng lúa, đồng bào còn làm nghề biển và trồng
nhiều loại cây ăn quả như nho, mía, bông, dừa.
2. Đơn vị xã hội:
Cư dân miền Trung sống theo từng làng; dân chài tụ cư trên các cồn dọc theo bờ biển tạo thành các xóm
vạn chài, làng biển.
3. Đời sống vật chất:
Nhà ở cư dân là nhà đất, lùn và chắc, lợp rơm rạ, sau là ngói. Bố trí nhà ở vẫn theo truyền thống của
người Việt: gian giữa nhà, nơi trang trọng nhất đặt bàn thờ gia tiên, hai bên là hai buồng ngủ, bếp được đặt
trong nhà ngang, cùng với dụng cụ lao động.
Bữa ăn của cư dân Trung Bộ là cô, rau, cá (cá sông, cá biển. Khẩu vị nhiều chất cay, nhất là các món ăn Huế.
Huế cũng là nơi có nhiều món ăn vốn phục vụ cho quan lại trong triều đình ngày trước vẫn lưu truyền trong
dân cư đến ngày nay.
4. Sinh hoạt tinh thần

46
Sinh hoạt tinh thần của cư dân miền Trung gắn với hai không gian / tiểu vùng là xứ Huế và tiểu vùng Nam
Trung Bộ, nên tất có một số đặc điểm nổi bật, mang sắc thái riêng.
4.1. Xứ Huế, vốn là đất cố đô / kinh đô thời Nguyễn, nên nơi đây còn một số kiến trúc cung đình của thế
kỷ trước, nay được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới, gồm một hệ thống Kinh thành, Hoàng
thành, Tử cấm thành, điện Thái Hoà, Ngọ Môn; là một loạt đền, chùa như chùa Thiên Mụ, Hòn Chén, Từ
Đàm, Diệu Đế, Tuý Vân... là những lăng tẩm như lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiêu Trị, Tự đức, Khải Định.
Các công trình được xây dựng trên một vùng đất khá phù hợp với cảnh quan xứ Huế - nơi có dòng sông
Hương lững lờ, có núi Ngự Bình không cao nhưng thuận mắt cho tầm nhìn; là những đầm phá làm khoảng
đệm êm ái giữa biển và dãy Trường Sơn. Xứ Huế còn có một kho di sản văn hoá dân gian phong phú, đa
dạng và được kế thừa một kho di sản văn nghệ cung đình (trong đó có nhã nhạc đã được UNESCO công
nhận là di sản văn hoá phi vật thể thế giới), nên văn nghệ xứ này tạo cho mình một bản sắc riêng rất Huế...
Đó là nghệ thuật biểu diễn các bài hò Huế, bài Chòi, hát Lý, hát Sắc bùa và những bài ca trên sông Hương.
4.2. Tiểu vùng văn hoá Nam trung bộ là nơi gặp gỡ, tiếp xúc văn hoá Việt - Chăm. Nét nổi bật của văn hoá
Chăm là sự tôn thờ phồn thực, được biểu hiện trên những phù điêu, tượng đá và tháp Chàm. Tháp Chàm có
mặt bằng hình vuông hoặc hình chữ nhật, xây cất bằng gạch không nung. Tháp có thể ba, bốn đến năm tầng,
tầng trên được giật cấp thu nhỏ hơn tầng dưới. Trên góc tháp và đỉnh tháp mỗi tầng đều có một linga, nền và
thân tháp có hình vuông. Theo quan niệm dân gian, hình vuông là Yoni (đất) - âm tính, chỉ sự ổn định, còn
chiếc linga - dương tính ngự trên đỉnh tháp là tượng trưng cho trời - trời, đất giao hoà mới thuận đường phát
triển. Tháp Chàm nổi tiếng ở Nam Trung Bộ là tháp Pô Nagar ở Nha Trang.
Tháp thờ một vị nữ thần Pô Na gar (thần Mẹ xứ sở), vị thần đáng kính nhất. Theo sử sách, Pô Nagar còn
có tên ghi bằng chữ Phạn là Bhagavati - một vị thần của Ấn Độ. Từ khi người Việt vào đây sinh sống, cộng
cư người Việt đã tiếp nhận và thờ phụng nữ thần hết sức cung kính, và gọi bằng cái tên Việt là Thánh Mẫu
Thiên Y a na và thường gọi tắt là Tháp Bà. Hàng năm, lễ hôi Tháp Bà tổ chức vào ngày 23 tháng 3 âm lịch,
thời điểm này gần với tập quán ’giỗ mẹ tháng 3 giỗ cha tháng 8’ của người Việt Bắc Bộ. Tham gia lễ hội
Tháp Bà có cả người Chăm và người Việt. Trong lễ hội, phần diễn xướng nghi lễ cung văn, múa bóng do
người Việt thể hiện; còn người Chăm thể hiện những điệu múa đặc sắc của dân tộc mình. Đây là một hình
ảnh về sự kết hoà hai văn hoá Chăm và Việt - là đặc trưng văn hoá tiêu biểu của vùng này.
V. VÙNG VĂN HOÁ TÂY NGUYÊN
Tây Nguyên là vùng đất cao nguyên đất đỏ, nằm ở phía Tây Nam trung Bộ, có biên giới với hai nước bạn
Lào và Cam Pu Chia. Không kể các dân tộc thiểu số phía Bắc và người Kinh chuyển vào đây sinh sống gần
đây, nơi đây là địa bàn cư trú lâu đời của các dân tộc thuộc hai nhóm Môn Khơ Me và Nam Đảo. Tây
Nguyên có những bình nguyên lớn như Kon Tum, Gia lai, Đắc Lắc, Đức Trọng, Di Linh, Bảo Lộc... Rừng ở
đây cung cấp rất nhiều gỗ quý. Những dòng sông lớn trên cao nguyên này là sông Sêsan, sông Adunpa và
sông Sêpêpốk, trên ba sông này có hệ thống thuỷ điện kiêm thuỷ lợi. Do có biên giới quốc gia với Lào và
Cam Pu Chia, nên văn hoá cao nguyên có sự giao lưu trong lịch sử.
Vùng văn hoá Tây Nguyên trình bày ở đây là văn hoá của cư dân lâu đời trên mặt đất này.
1. Hoạt động kinh tế:
Hoạt động kinh tế của cư dân Tây Nguyên là phát nương làm rẫy, du canh. Cây trồng chính là cây lúa
nương. Cây bông cũng được trồng phổ biến nhằm phục vụ nhu cầu mặc. Tây Nguyên cũng là vùng đất thích
hợp trồng cây cà phê và cây cao su. Những cây công nghiệp này đang phát huy giá trị, có vai trò quan trọng
trong cơ cấu kinh tế của vùng này. Chăn nuôi gia súc ở Tây Nguyên không phát triển. Đồng bào có nuôi trâu
nhưng chủ yếu để làm vật hiến sinh (cúng Giàng). Người Tây Nguyên nuôi voi để phục vụ sản xuất và vận
tải hàng hoá. Dân tộc Mnông ở bản Đôn (Đắc Lắc) nổi tiếng về nghề thuần dưỡng voi. Các ngành nghề thủ
công như đan lát, dệt, phát triển mạnh, nhất là ngành đan lát mây tre rất phát triển, đan nhiều đồ đựng, gùi
rất đẹp. Kinh tế hàng hoá trên cao nguyên chưa phát triển. Tài sản có giá trị với đồng bào là chiêng, cồng,
ché đựng rượu, Kpan (ghế dài...)
2. Đơn vị xã hội:
Người Tây Nguyên cư trú thành Buôn. Buôn thường nhỏ, nhà mỗi gia dình làm tương đối xa nhau. Vai trò
của già làng rất quan trọng trong đời sống xã hội của đồng bào. Tiếng nói của già làng có giá trị đại diện cho
dân làng, được dân tin tưởng nghe theo.
3. Đời sống vật chất:
Nhà ở của cư dân Tây Nguyên là nhà sàn. Đồng bào Ê Đê có truyền thống ở nhà dài. Ngôi nhà công cộng
của cộng đồng à nhà Rông.

47
Trang phục của người Tây Nguyên đơn giản về kiểu cách nhưng rực rỡ về mầu sắc. Bộ trang phục phụ nữ
gồm váy dài và áo chui đầu không tay. Nam giới mặc áo chui đầu và mặc quần, có khi đóng khố cởi trần.
Trang sức của phụ nữ có khuyên tai, vòng cổ, vòng tay. Hoa văn trên trang phục chủ yếu là hoa văn hình
học.
Người Tây Nguyên ăn cơm, rau, chế biến thức ăn khá đơn giản: rau thường ăn luộc, nấu canh, dùng nhiều
ớt cay trong bữa ăn. Trong các dịp lễ hội, tiếp khách, hội ngộ, họ uống rượu cần. Khi có khách đến nhà, họ
mang cơm rau đãi khách.
4. Sinh hoạt tinh thần:
Tiếng nói của đồng bào Tây Nguyên thuộc hai nhóm ngôn ngữ khác nhau: Nam đảo và Môn - Khơ Me.
Tín ngưỡng của người Tây Nguyên là tín ngưỡng đa thần. Các thần có tên gọi chung là Giàng. Lễ cúng
Giàng là lễ cúng phổ biến và lớn nhất ở Tây Nguyên, trong lễ cúng này bao giờ cũng có tục đâm trâu nhằm
hiến sinh cho Giàng.
Lễ hội ở Tây Nguyên đã dạng: cúng trời, cúng đất, cúng hồn lúa, cúng lên nương, cúng nhập hồn lúa vào
kho... trong rất nhiều lễ hội thì lễ hội bỏ mả là lễ hội lớn nhất, là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng văn hoá
cộng đồng. Liên quan đến bỏ mả là tượng nhà mồ (tượng dựng ở nhà mồ). Tượng được tạc bằng gỗ, có
nhiều hình dạng khác nhau, nói lên vị thế của người nằm trong nhà mồ.
Văn học dân gian của các dân tộc Tây Nguyên phong phú và độc đáo. Dân tộc nào cũng có truyện thần
thoại, cổ tích, những làn điệu dân ca... Đặc biệt vùng cao nguyên này rất giàu sử thi và luật tục, thể hiện
dưới dạng văn vần và lưu truyền bằng hình thức truyền khẩu. Đặc điểm sử thi Tây Nguyên là chất anh hùng
ca thể hiện rất mãnh liệt, như chàng Đam San mà dám nghĩ đến việc bắt nữ thần mặt trời về làm vợ. Nhiều
dân tộc ở Tây nguyên có tục kể sử thi cho con cháu nghe: người Ê Đê có Khan, người Ba Na có Hmon,
người Gia Rai có Hri...
Tây Nguyên là vùng đất giàu âm nhạc và phong phú về các loại nhạc cụ., đặc biệt là âm nhạc cồng chiêng.
Hầu như mọi hoạt động tập thể, lễ hội, đón khách quý... đề có cồng chiêng. Cồng chiêng có từng bộ, gia
đình nào cũng có. Cồng chiêng là tài sản của gia đình và là biểu tượng của sự giàu nghèo. Nhà nghèo có một
bộ cồng chiêng, còn nhà giàu thì có nhiều bộ. Một bộ cồng chiêng thường từ 3 đến 15 cái, kèm theo cồng
chiêng còn có trống. Người Tây Nguyên còn quan niệm có thần trong chiêng, trống. Họ cho rằng trống là
biểu tượng cho mặt trời / tính dương, cồng chiêng là biểu tượng của đất / tính âm. Quan niệm này thể hiện
khái niệm nguyên sơ về tính lưỡng hợp.
Trong các lễ hội ở Tây Nguyên có một đặc trưng quan trọng là sự tham gia của cồng chiêng. Do vậy, có
nhà nghiên cứu đã đưa ra thuật ngữ 'văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên' để khái quát hoá đặc điểm nổi bật
nhất của các dân tộc ở Tây Nguyên.
VI. VÙNG VĂN HOÁ NAM BỘ
Nam Bộ, về mặt địa lý chia ra hai miền là miền Tây và miền Đông. Miền Tây là vùng đất châu thổ sông Cửu
Long, có nhiều kênh rạch, đất đai bằng phẳng, màu mỡ do được bồi đắp bằng phù sa của sông Cửu Long.
Miền Đông là vùng đất châu thổ sông Đồng Nai, vùng chân dài của cao nguyên Tây Nam Trung Bộ, nơi có
nhiều núi nhấp nhô xen giữa những đồng bằng, do đó đất đai vùng nỳa kém màu mỡ. Dân Nam Bộ có câu:
’’Miền Tây ăn cá bỏ đầu
Miền Đông nhặt được xóc xâu mang về’’
để nói lên sự kém trù phú của miền Đông so với miền Tây Nam Bộ. Khí hậu ở Nam Bộ một năm chỉ có hai
mùa là mùa mưa và mùa khô.
Về lịch sử vùng đất: Nam Bộ là mảnh đất được khai phá muộn. Người Việt đến thế kỷ XVI mới có mặt ở
vùng đất phì nhiêu nhưng hoang vắng này. Ca dao Nam Bộ đã phản ánh thực tế vùng đất khi người Việt đến
khai hoang lập ấp như sau:
’’Chèo ghe sợ sấu cắn chưn
Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma’’
Vào cuối thế kỷ XVIII có thêm người Hoa đến Nam Bộ. Lúc đó (1679), nhà Minh đã thất bại nhà Thanh,
nên hai tướng nhà Minh là Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch tỏ lòng trung thành với nhà Minh đã
dẫn khoảng 3.000 binh lính cùng vũ khí và người thân, chủ yếu là người Quảng Đông và người Phúc Kiến
sang Việt Nam, và được chúa Nguyễn cho vào ở đất Biên Hoà và Mỹ Tho ngày nay. Người Khơ Mer có thể
có mặt sớm nhất ở Nam Bộ (từ thế kỷ XIII), vào thời kỳ Ăng Co tan rã. Người Chăm có mặt ở Nam Bộ
muộn hơn cả, khoảng vào đầu thế kỷ XIX, chủ yếu ở An Giang và Tây Ninh.

48
Nói đến văn hoá Nam Bộ, người ta thường nói nhấn đến văn hoá đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có
văn hoá của người Khơ Mer.
1. Hoạt động kinh tế
Nghề làm ăn chính của cư dân ở đây là trồng lúa nước, nhưng là gieo xạ lúa chứ không cày cấy như nông
dân ở đồng bằng Bắc Bộ. Bên cạnh việc trồng lúa nước, người Khơ Mer có nghề làm vườn trồng cây trái
nhiệt đới nổi tiếng. Các loại cây trái được trồng nhiều ở đây là soài, bưởi, thanh long, cam, chuối, dứa, dưa
hấu, sầu riêng, chôm chôm... Trái cây vùng này đã trở thành hàng hoá được bán khắp trong nước và được
chế biến để bán ra nước ngoài. Một số dân ven biển chuyên sống bằng nghề đánh bắt hải sản.
2. Đơn vị xã hội:
Cư dân sống tập trung thành làng; nơi cư trú của người Khơ Mer gọi là phum, sóc.
3. Đời sống vật chất:
Nhà cửa vùng này khá sơ sài. Trang phục truyền thống của người Khơ Mer có bộ quần áo bà ba đen với
chiếc khăn rằn ri quàng qua vai, qua cổ. Hiện nay, hầu hết thanh niên mặc âu phục.
Đặc điểm cơ cấu bữa ăn của người Nam bộ là có nhiều món ăn thuỷ sản như tôm, cá, mực...khẩu vị có
nhiều chất cay, ngọt; nước dừa và dừa được dùng phổ biến.
Mìên Tây Nam Bộ lắm kênh rạch nên phương tiện đia lại và vận chuyển có xuồng ba lá, ghe tam bàn,
thuyền “tắc rán’’, “đuôi tôm’’. Phương tiện vận chuyển trên bộ là các xe bò, xe trâu, cộ trâu.
4. Sinh hoạt tinh thần:
Nam Bộ là vùng đất mới được khai phá. Những người đến đây có nguồn gốc “tứ xứ’’: người Việt từ Bắc
vào, người Khơ Mer từ Cam pu chia sang, người Hoa từ Trung Quốc đến. Theo lẽ thường, những người dám
rời bỏ quê hương đi tìm đất mới thường có ý chí cao, can đảm và có cái nhìn rộng mở, tự tin, dám chịu
đựng, sẵn sàng học hỏi và tiếp thu nhằm thích ứng với hoàn cảnh mới. Quả thế, người Nam Bộ rất năng
động, có phong cách tự tin, tự chủ, nhạy cảm với cái mới, tiếp thu nhanh những yếu tố văn hoá mới. Trí thức
Nam Bộ sớm nhận ra giá trị của chữ Việt la tinh nên sớm tiếp thu và sử dụng nó. Họ nhạy cảm với giá trị của
báo chí nên cũng sớm cho ra mắt những tờ báo bằng chữ Việt la tinh. Người Nam Bộ sớm nhận ra giá trị của
kinh tế hàng hoá nên tổ chức buôn bán lớn từ nhiều thập kỷ.
Một nét đặc trưng nổi bật trong đời sống tinh thần của vùng Nam Bộ là sự tồn tại và đan xen lẫn nhau của
nhiều tín ngưỡng. Tôn giáo chủ đạo của Nam Bộ là Phật giáo. Đồng bằng Nam Bộ có tới 400 ngôi chùa.
Phật giáo Nam Bộ chủ yếu là pháiTiểu Thừa. Kiến trúc nhà chùa là những tác phẩm nghệ thuật đẹp mà uy
nghi. Bên cạnh đạo Phật còn có tôn giáo địa phương như Cao Đài, Hoà Hảo, và có những Ông đạo rất riêng
biệt như đạo Dừa, đạo Ngồi, đạo Nằm, đạo Câm.

Bài 12. VĂN HOÁ VIỆT NAM TỪ TRUYỀN THỐNG ĐẾN HIỆN ĐẠI
I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HOÁ VIỆT NAM
- Việt Nam có một vị thế địa văn hoá, địa chính trị khá đặc biệt, ít quốc gia nào có được. Vị thế ấy tạo điều
kiện cho văn hoá Việt Nam đón nhận nhiều luồng giao lưu văn hoá khác nhau. Tuy vậy, nét đặc biệt của văn
hoá Việt Nam lại là sự không chối từ về văn hoá, biểu hiện ở sự cởi mở trong việc tiếp nhận văn hoá nước
ngoài, tiếp thu tinh hoa của mọi nền văn hoá để làm giàu cho văn hoá của mình. Đây cũng là hằng số của
văn hoá Việt Nam trong mọi thời kỳ lịch sử.
- Văn hoá là sự thích nghi và biến đổi tự nhiên. Có thể nói thiên nhiên Việt Nam là điểm xuất phát của văn
hoá Việt Nam. Với môi trường tự nhiên, văn hoá cổ truyền Việt Nam vừa là sự hoà điệu, vừa là sự đấu tranh
với hiên nhiên. Đây cũng có thể xem là một hằng số, một nét hằng xuyên của văn hoá Việt Nam.
- Nhìn từ phương diện xã hội, nông dân, nông nghiệp lúa nước, xóm làng, là ba nhân tố cơ bản của nền
văn minh thôn dã Việt Nam. Tiến trình lịch sử văn hoá Việt Nam đi qua thời gian, trong không gian là trên
cơ sở ba nhân tố cơ bản này.
- Có một nền văn hoá Việt Nam được tạo ra từ nền văn hoá của 54 tộc người trên đất nước Việt Nam.
Điều đó nói lên rằng không gian văn hoá Việt Nam vừa đa dạng, vừa thống nhất, văn hoá Việt Nam là một
nền văn hoá thống nhất trong đa dạng. Đây là một trong những quy luật cơ bản của quá trình hình thành và
phát triển của văn hoá Việt Nam, đồng thời cũng chính là một hằng số của văn hoá Việt Nam.
- Hiện nay, trong văn hoá Việt Nam đang diễn ra những biến đổi phong phú và phức tạp theo hướng
chuyển đổi cấu trúc từ văn hoá truyền thống sang văn hoá hiện đại. Cấu trúc văn hoá hiện đại được hình
thành sẽ là một cấu trúc mang tính chất đa văn hoá. Các lớp cấu trúc văn hoá cổ truyền và hiện đại, các lớp
49
văn hoá bản địa và nước ngoài cùng tồn tại bên nhau, dẫn đến tính chất đa dạng về lối sống của những khu
vực dân cư khác nhau, những tầng lớp xã hội khác nhau, những thế hệ và lứa tuổi khác nhau...
- Cấu trúc văn hoá hiện đại đang hình thành ở Việt Nam cũng mang tính chất của một cấu trúc mở, luôn
luôn có sự giao lưu, trao đổi với những nền văn hoá khu vực và thế giới. Do đó, một mặt nó sẽ không ngừng
được làm phong phú hơn bằng cách tiếp nhận những giá trị mới, mặt khác, những giá trị đã có của nó cũng
luôn luôn có khả năng tự điều chỉnh cho phù hợp với những biến đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại.
II. VĂN HOÁ VÀ PHÁT TRIỂN
Có một thời, người ta đã quan niệm văn hoá là lĩnh vực đứng ngoài kinh tế, bởi cho rằng văn hoá là lĩnh vực
không sinh lợi. Sự phát triển và tăng trưởng của hàng loạt các nước trên thế giới đã khiến nhân loại phải
nhận thức lại vai trò của văn hoá. Năm 1988, Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá Liên Hợp Quốc
(UNESCO) đã tuyên bố để mở đầu thập kỷ thế giới phát triển văn hoá bằng sự nhấn mạnh:
'Kinh nghiệm của hai thập kỷ vừa qua cho thấy trong mọi xã hội ngày nay, bất luận ở trình độ phát triển
kinh tế nào, hoặc xu hướng chính trị và kinh tế nào, văn hoá và phát triển là hai mặt gắn liền với nhau".
Nước nào tự đặt cho mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời môi trường văn hoá thì nhất định sẽ xảy
ra những mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn văn hoá và tiềm năng sáng tạo của nước ấy sẽ bị suy
yếu rất nhiều.'
Xuất phát từ bài học kinh nghiệm của các dân tộc, tiếp nhận thành tựu trí tuệ của thời đại, Đảng và Nhà
nước ta cũng đã có những nhận thức sâu sắc về vai trò của văn hoá trong phát triển:' Kinh tế và văn hoá gắn
liền với nhau hết sức chặt chẽ, kinh tế không tự mình phát triển nếu thiếu nền tảng văn hoá và văn hoá
không phải là sản phẩm thụ động của kinh tế. Phát triển trên cơ sở kết hợp hài hoà kinh tế và văn hoá là sự
phát triển năng động, có hiệu quả và vững chắc nhất'.
Nghị quyết kỳ họp thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã khẳng định văn hoá vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển. Gần đây nhất (năm 1998), nghị quyết Trung ương lần thứ năm khoá VIII
về xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam đã chỉ rõ: ' Phương hướng chung, đồng thời là nhiệm vụ bao
quát của sự nghiệp văn hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết, ý thức độc
lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu
vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng
địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo nên trên đất nước ta đời sống tinh thần
cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển phục vụ đắc lực công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội'.
III. XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tới Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra và thực hiện một đường lối đổi mới toàn diện để
đạt được mục tiêu ’Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh’. Mục tiêu ấy được thực hiện bởi sự
kết hợp cả mấy nhân tố kinh tế, xã hội, và văn hoá trong quá trình phát triển. Việc xây dựng nền văn hoá
Việt Nam hiện đại nhưng đậm đà bản sắc dân tộc phải được đặt trong quá trình ấy mà thực hiện.
Đường lối đổi mới của Đảng khẳng định cơ chế thị trường đang là điều kiện và phương tiện cho sự phát
triển của đất nước. Mặt ưu việt của cơ chế thị trường là đã mở ra những thành quả to lớn cũng như những
triển vọng cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, mặt trái của nó cũng cho thấy nhiều hiện tượng tiêu cực
không thể xem thường, nhất là trên góc nhìn văn hoá học.
Mặt khác, từ quan điểm chiến lược, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, việc mở rộng quan
hệ với bên ngoài là tất yếu. Trong thời đại ngày nay, không có một dân tộc nào có thể tách rời, sống biệt lập
với thế giới. Riêng với văn hoá, tiến bộ cua khoa học công nghệ thông tin lại càng đặt ra việc phát triển văn
hoá không thể tách rời văn hoá thế giới. Hằng số của văn hoá Việt Nam là mở cửa đón nhận truyền thống
văn hoá bốn phương, tiếp nhận cái tốt, cái thích hợp, loại bỏ cái xấu, không thích hợp. Vì thế, nếu mất bản
sắc dân tộc thì cũng mất văn hoá, và khi đã mất văn hoá thì cũng mất luôn dân tộc.
Cổ truyền (truyền thống) - văn hoá - nhân tố mới là quy luật phát triển không ngừng của văn hoá. Cổ
truyền là quá khứ còn lại cho đến ngày hôm nay, văn hoá là cái hiện tại còn nhân tố mới là cái mới xuất hiện.
Theo quy luật phát triển, cái hiện tại sẽ lùi dần về quá khứ, trong đó có những cái tinh, cái đẹp được chắt lọc,
giữ gìn trở thành cái cổ truyền; nhân tố mới cùng với thời gian phát triển thành cái hiện đại, thành văn hoá.

50
Do vậy, việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là việc làm hiện tại có tiếp
nối với cổ truyền và hướng về tương lai, túc là phải kế thừa văn hoá cổ truyền, phát huy những giá trị nhân
văn của văn hoá truyền thống và định hướng phát triển văn hoá cho tương lai.
Kế thừa văn hoá cổ truyền dân tộc là kế thừa những giá trị văn hoá được chắt lọc từ lịch sử hàng ngàn
năm qua nhiều thế hệ. Tinh hoa từ đó được thể hiện trong hoạt động kinh tế, trong văn hoá vật chất, văn hoá
tinh thần... và nhiều biểu tượng văn hoá khác.
Bản chất tiên tiến trong văn hoá thể hiện ở tính nhân bản, ở tính vị tha, ở ý thức xây dựng cộng đồng trong
ứng xử xã hội. Xã hội phát triển, bản chất tiên tiến cũng phát triển. Đó là sự bổ sung hoàn thiện nâng cao giá
trị nhân văn nhân bản, tính vị tha và ý thức xây dựng cộng đồng ngày một cao hơn; đồng thời biết tiếp nhận
những tinh hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới để làm giàu văn hoá Việt Nam.
Bản sắc văn hoá dân tộc là nếp sống của cả dân tộc. Trong nếp sốngcó những điểm được coi là cốt lõi,
tinh tuý cần được bảo tồn và phát huy, nhưng cũng có những điểm yếu, lỗi thời cần phải loại bỏ. Xây dựng
nền văn hoá đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc là phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp tron nếp sống, là sự
lựa chọn có ý thức để kế thừa các truyền thống đó. Mặt khác, khi tiếp nhận những tinh hoa văn hoá nhân
loại, chúng ta cũng phảo biết "Việt Nam hoá" để nó hoà kết được với bản sắc văn hoá Việt Nam.
Kế thừa truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc là một nội dung rất quan trọng trong xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Vấn đề đặt ra là những truyền thống văn hoá nào của dân
tộc được kế thừa? Có thể kể ra một số truyền thống cơ bản sau:
- Truyền thống yêu nước thương nòi.
- Truyền thống yêu lao động và lao động sáng tạo.
- Phong cách giản dị, hợp lý trong đời sống văn hoá vật chất.
- Thừa kế và phát huy tiếng nói và chữ viết dân tộc.
- Kế thừa, bảo tồn và phát huy vốn văn hoá, nghệ thuật dân gian Việt Nam.
- Các phong tục tập quán tốt đẹp.
- Tính thống nhất trong đa dạng của văn hoá Việt Nam.
Nói kế thừa là đã hàm ý nói có ý thức chủ động tiếp nhận tinh hoa văn hoá của nhân loại nhằm xây dựng
nội dung văn hoá mới trên hình thức dân tộc (tính dân tộc).
Như vậy, việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc đòi hỏi chúng ta phải biết
kế thừa vốn văn hoá cổ truyền tốt đẹp, biết chủ động tiếp nhận tinh hoa văn hoá thế giới, biết sử dụng hình
thức nghệ thuật dân tộc để chuyển tải nội dung tiến tiến.
Trong thời đại ngày nay, văn hoá không còn là lĩnh vực riêng biệt, đứng ngoài phát triển. Kinh tế và văn
hoá là những lĩnh vực cốt lõi của sự tồn tại mỗi dân tộc. Muốn xây dựng kinh tế thì phải có con người được
đào tạo, rèn luyện trong một môi trường văn hoá lành mạnh, nhân bản.
Sứ mạng lịch sử của dân tộc Việt Nam hiện nay là xây dựng nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và nền văn
hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Phát triển xuất phát từ văn hoá và hướng tới văn hoá, hướng tới con người, vì sự phát triển và hoàn thiện
con người.
Văn hoá là mặt bằng xuất phát, là động lực, là mục tiêu của phát triển.
Mỗi người Việt Nam khi soi mình vào tấm gương văn hoá dân tộc, khi nhận thức rõ mục tiêu, vị thế văn
hoá đối với phát triển, có thể nhận ra mình là ai, từ đâu tới và sẽ đi tới đâu. Trong bối cảnh của sự phát triển
kinh tế - xã hội hiện nay ở Việt Nam, sự tự ý thức văn hoá đó có ý nghĩa quan trọng để mỗi người Việt Nam
vừa có khả năng hoà nhập được vào sự phát triển chung của thế giới hiện đại, vừa giữ được cho mình một
nhân cách văn hoá có chiều sâu trong lịch sử dân tộc.

51

You might also like