Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 74

ÔN TẬP

NGỮ VĂN
LỚP 9

1
TRUYỆN KIỀU
- Nguyễn Du-
A. GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM.
I. TÁC GIẢ NGUYỄN DU.
II. TRUYỆN KIỀU.
B. CHỊ EM THÚY KIỀU
I/ GiỚI THIỆU ĐOẠN TRÍCH
1. Vị trí : Nằm trong phần 1: Gặp gỡ và đính ước, ngay sau đoạn giới thiệu về gia đình họ
Vương.
2. Chủ đề: Khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều.
3. Bố cục: 4 phần
- Phần 1: 4 câu đầu: Giới thiệu chung vẻ đẹp của 2 chị em Thúy Kiều.
- Phần 2: 4 câu sau: Vẻ đẹp của Thúy Vân.
- Phần 3: 12 câu tiếp: Vẻ đẹp của Thúy Kiều.
- Phần 4: 4 câu còn lại: Giới thiệu về cuộc sống của hai chị em.
II/PHÂN TÍCH
1. Giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều
* Về nhan sắc:
- Giới thiệu Thúy Kiều, Thúy Vân: “Đầu lòng hai ả tố nga”  là hai cô con gái đầu lòng nhà
họ Vương. Trong đó, Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em. Từ “tố nga” cho thấy cả 2 đều là
những người con gái đẹp.
- Phép tiểu đối “Mai cốt cách/ Tuyết tinh thần” cùng hình ảnh ước lệ là “mai”, “tuyết” gợi hình
dung: cốt cách của 2 nàng thanh cao như loài hoa mai, tinh thần trong sáng như tuyết.
- Vẻ đẹp cả hai đều đạt đến độ hoàn mĩ “mười phân vẹn mười”.
* Về cuộc sống:
- Hai chị em có cuộc sống phong lưu, êm đềm “Phong lưu rất mực hồng quần”
- Cả hai đều ở độ tuổi cập kê (tuổi đang yêu) “Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê”
- Họ đều là những người con gái đức hạnh “Tường đông ong bướm đi về mặc ai”.
2. Vẻ đẹp của Thúy Vân
- Trước hết, tác giả giới thiệu khái quát vẻ đẹp của Thúy Vân qua từ “trang trọng”, là vẻ đẹp
cao sang, quý phái.
- Tiếp theo, tác giả sử dụng bút pháp ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực để miêu
tả vẻ đẹp của con người: khuôn trăng, nét ngài, hoa, ngọc, mây, tuyết. Tác giả còn sử dụng phép
liệt kê để miêu tả cụ thể, chi tiết vẻ đẹp của Thúy Vân: khuôn mặt, nét mày, nụ cười, giọng nói,
mái tóc, làn da  Gợi liên tưởng: khuôn mặt tròn trịa như trăng, lông mày đậm như nét ngài,

2
nụ cười tươi như hoa, giọng nói trong như ngọc, mái tóc mềm mại, bồng bềnh hơn mây và làn
da trắng hơn tuyết. Đó là một vẻ đẹp phúc hậu.
- Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa qua từ “thua”, “nhường”: “Mây thua nước toc tuyết
nhường màu da” => Tác dụng:
+ Gợi vẻ đẹp của Thúy Vân: thiên nhiên cũng phải chịu thua, nhường bước trước nhan sắc của
nàng.
+ Đây cũng là bức chân dung thể hiện tính cách và số phận: là người con gái có tính cách dịu
dàng, đoan trang, phúc hậu và có cuộc đời bình lặng, suôn sẻ.
3. Vẻ đẹp của Thúy Kiều
* Nhan sắc:
- Trước hết, tác giả giới thiệu khái quát vẻ đẹp của Thúy Kiều qua hai từ “sắc sảo”, “mặn mà”:
nàng sắc sảo về trí tuệ, nhan sắc; mặn mà về tâm hồn. Tuy “mỗi người một vẻ” nhưng Thúy
Kiều đẹp và có tài hơn Thúy Vân.
- Khác với Thúy Vân, Nguyễn Du mô tả rất cụ thể, chi tiết; còn đối với Thúy Kiều, ông chỉ tập
trung miêu tả đôi mắt theo lối điểm nhãn “Làn thu thủy nét xuân sơn”
- Tác giả sử dụng bút pháp ước lệ với những hình ảnh ẩn dụ “làn thu thủy”, “nét xuân sơn”,
gợi hình dung đôi mắt của Thúy Kiều trong, long lanh, sâu thẳm như làn nước mùa thu, đôi
lông mày mềm mại, duyên dáng như nét núi mùa xuân.
=> Đôi mắt không chỉ gợi tả vẻ đẹp bên ngoài mà còn thể hiện hiện phần tinh anh trong tâm
hồn, trí tuệ.
- Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa qua từ “ghen”, “hờn”:
+ Gợi hình dung: nhan sắc của Kiều lộng lẫy hơn hoa, dáng diệu thướt tha, uyển chuyển hơn
liễu. Nhan sắc ấy khiến thiên nhiên phải đố kị, ghen hờn.
+ Phép nhân hóa cũng dự đoán về tính cách sắc sảo và số phận trắc trở, sóng gió của Kiều:
thiên nhiên sẽ tìm cách vùi dập cuộc đời Thúy Kiều, nàng sẽ long đong, trắc trở trong đường
đời.
+ Điển tích “nghiêng nước nghiêng thành” đã khái quát vẻ đẹp của Thúy Kiều, đó là vẻ đẹp
khiến cho thành nghiêng, nước mất.
* Tài năng:
- Kiều rất thông minh, đó là trí tuệ thông minh thiên bẩm “Thông minh vốn sẵn tính trời”.
- Tài năng của Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm của xã hội phong kiến. Nàng giỏi cả 4
môn: cầm, kì, thi, họa nhưng đặc biệt là tài chơi đàn (cầm), nó đã trở thành “nghề riêng”, ăn
đứt, hơn hẳn. Tài năng ấy khiến những người đi qua cuộc đời Kiều như Kim Trọng, Thúc Sinh,
Từ Hải đều rất say mê. Đến cả một kẻ tàn độc như Hồ Tôn Hiến cũng phải “nhăn mày rơi
châu”.
- Kiều còn biết sáng tác cung đàn “Bạc mệnh” để bày tỏ sự đồng cảm với những người xấu số,
phận mỏng. Cung đàn ấy không chỉ thể hiện tài năng của Thúy Kiều mà còn nói lên vẻ đẹp tâm
hồn của nàng: một người có trái tim đa sầu, đa cảm,
=> Vẻ đẹp của Kiều đó là sự kết hợp của sắc, tài và tình.
3
KIỀU Ở LẦU NGƯNG BÍCH.
(Trích “Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
I. GIỚI THIỆU ĐOẠN TRÍCH.
1. Vị trí: - Đoạn trích nằm trong phần II “Gia biến và lưu lạc”
- Sau khi biết Tú Bà và Mã Giám Sinh lừa gạt, Kiều uất ức định tự vẫn. Sợ mất vốn, Tú Bà vờ
hứa hẹn đợi Kiều bình phục sẽ gả nàng cho một người chồng tử tế. Mụ đưa Kiều ra giam lỏng ở
lầu Ngưng Bích song thực chất là để thực hiện một âm mưu mới đê tiện, tàn bạo hơn.
2. Nội dung: Cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.
3. Bố cục: Ba phần:
- 6 câu đầu: Cảnh ngộ và nỗi niềm của Kiều.
- 8 câu tiếp: Nỗi nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều.
- 8 câu cuối: Tâm trạng của Kiều qua cách nhìn cảnh vật.
II. DÀN Ý PHÂN TÍCH.
1. Sáu câu đầu: Cảnh ngộ và nỗi niềm của Kiều.
Sau sóng gió dập vùi, lầu Ngưng Bích là chốn yên thân tạm thời của Thúy Kiều:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung”
- Hai chữ “khóa xuân” (khóa kín tuổi thanh xuân) đã nói lên hoàn cảnh đáng thương, xót xa của
Kiều: bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
- Không gian nơi lầu Ngưng Bích hiện lên qua những hình ảnh ước lệ:
+ Cụm từ “non xa”, “trăng gần” gợi liên tưởng: từ lầu Ngưng Bích Kiều nhìn núi thấy xa, nhìn
trăng thấy gần. Hình ảnh này vừa gợi không gian dài, rộng, cao, sâu đến vô tận đồng thời gợi
lầu Ngưng Bích chơ vơ giữa mênh mông trời nước.
+ Câu thơ “Bốn bề bát ngát xa trông” có sáu chữ nhưng cả sáu đều gợi không gian rộng lớn đến
rợn ngợp.
+ cát vàng, cồn nọ, bụi hồng…có thể là hình ảnh tả thực không gian nơi lầu Ngưng Bích nhưng
cũng có thể là hình ảnh ước lệ gợi tả sự hoang vắng, thiếu dấu hiệu của cuộc sống con người.
 Cái vắng lặng, lạnh lẽo của thiên nhiên và cái mênh mông của vũ trụ đã làm nổi bật nỗi cô
đơn của Kiều.
- Phép tiểu đối trong cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi vòng thời gian tuần hoàn khép kín. Từ
sớm đến khuya Kiều không có ai bầu bạn, tâm tình. Nàng chỉ biết làm bạn với mây, với đèn,
những vật vô tri vô giác

4
 Như vậy không chỉ không gian mà cả thời gia cũng giam hãm cuộc đời Kiều trong nỗi cô
đơn tuyệt đối.
- Quang cảnh ấy đã khơi gợi trong lòng Kiều bao tâm trạng:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
+ Từ một người con gái tiết giá sạch trong, Kiều bị mã Giám Sinh lừa gạt và có thể bị đẩy vào
chốn lầu xanh nhơ nhớp. Trong hoàn cảnh đó Kiều thấy “bẽ bàng” , xấu hổ, tủi thẹn.
+ Cụm từ “như chia tấm lòng” diễn tả nỗi niềm chua xót, tan nát trong cõi lòng Kiều.
 bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình kết hợp hệ thống hình ảnh ước lệ, ngôn ngữ giàu sắc thái
biểu cảm, Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh thiên nhiên mênh mông, vắng lặng. Và trên nền
khung cảnh ấy là hình ảnh nàng Kiều lẻ loi, cô độc với bao nỗi niềm.
2. Tám câu tiếp: Nỗi nhớ Kim Trọng và cha mẹ
a. Nỗi nhớ Kim Trọng.
- Đặt nỗi nhớ người yêu lên trước, điều đó thể hiện sự tinh tế của Nguyễn Du trong việc khắc
họa tâm lí nhân vật: + Kiều ở độ tuổi “cập kê”, mốitinhf đầu vừa chớm nở thì tan vỡ
+ Kiều đang đứng dưới ánh trăng khuya nên nàng nhớ đến đêm trăng hẹn thề cùng Kim Trọng.
+ Kiều đã hi sinh mối tình đầu trong sáng để bán mình chuộc cha nên phần nào nàng đã làm
tròn chữ hiếu mà dang dở với chữ tình. Cái mặc cảm của một kẻ phụ tình luôn thường trực
trong suy nghĩ của Kiều nên nàng nhớ tới Kim Trọng trước.
* Tâm trạng của Kiều:
- Nói về nối nhớ của Kiều, Nguyễn Du không dung từ “nhớ” mà dung từ “tưởng”
+ “Tưởng” là hình dung, tưởng tượng, đó là nỗi nhớ da diết, kỉ niệm xưa như đang hiện hữu,
sống động trước mắt Kiều.
+ Nhớ về Kim Trọng, Kiều nhớ tới kỉ niệm về đêm trăng thề nguyền hẹn ước, Thúy Kiều và
Kim trọng đã uống chén rượu thề nguyền hẹn ước bên nhau. Đó cũng là đêm trăng đẹp nhất
trong cuộc đời Kiều.
- Kiều còn tưởng tượng ở nơi xa kia Kim Trọng cũng đang ngóng chờ mình trong vô vọng “Tin
sương luống những rày trông mai chờ”
- Kiều nhớ về Kim Trọng trong nỗi đau đớn, xót xa:
“Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
+ “Tấm son” là hình ảnh ẩn dụ chỉ tấm lòng thủy chung, son sắt.
+ Câu thơ có hai cách hiểu:
 Đó là lời khẳng định: dù có cách xa nhưng tấm lòng thủy chung son sắt của Kiều không hề
phai nhạt
 Câu thơ còn là câu hỏi tu từ thể hiện nỗi day dứt, xót xa của Kiều. Kiều đã bị Mã Giám
Sinh lừa gạt, tấm lòng son đã bị vùi dập, hoen ố, không biết bao giờ mới gột rửa được

5
* Bốn câu thơ còn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của Kiều: một người tình thủy chung và vị tha.
 Bằng nghệ thuật độc thoại nội tâm, qua bốn câu thơ, tác giả Nguyễn Du vừa làm nổi bật
tâm trạng của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích vừa cho ta thấy tấm lòng thủy chung đáng trân trọng
của Thúy Kiều.
b. Nỗi nhớ cha mẹ.
- Nghĩ tới cha mẹ, Kiều xót xa “Xót người tựa cửa hôm mai”
+ Chữ “xót” diễn tả chính xác tấm lòng của Kiều dành cho cha mẹ.
+ Nàng xót xa khi hình dung cảnh cha mẹ sớm chiều tựa cửa ngóng chờ tin con.
- Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” và điển tích “Sân Lai” đã nói lên nỗi day dứt khôn nguôi,
tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng không thể chăm sóc, nâng giấc cho cha mẹ. Nàng lo lắng
không biết giờ đây ai là người chăm sóc cha mẹ khi thời tiết đổi thay.
- Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa gợi khoảng thời gian xa cách qua bao mùa mưa nắng vừa
gợi sự tàn phá của thời gian đối với con người và cảnh vật mà sự đổi thay lớn nhất là “gốc tử
đã vừa người ôm” tức là cha mẹ đã già yếu.
 Lần nào nhớ về cha mẹ Kiều cũng day dứt, ân hận vì đã phụ công ơn sinh thành dưỡng dục
của cha mẹ. Nỗi nhớ trong đoạn trích này bộc lộ qua hình thức độc thoại nội tâm nên càng
chân thực, cảm động  nàng là người con hiếu thảo.
 Nỗi nhớ Kim Trọng và cha mẹ đã nói lên nhân cách đáng trọng của Kiều. Lúc này, Kiều
mới là người đáng thương nhất. Nhưng nàng đã quên đi cảnh ngộ của bản thân mình để hướng
tình cảm vào những người thân yêu. Qua đó ta thấy Kiều là người tình thủy chung, người con
hiếu thảo và rất mực vị tha.
3. Tám câu cuối: Tâm trạng của Kiều qua cách nhìn cảnh vật.
* Mọi cảnh vật qua đôi mắt Kiều đều gợi lên nỗi buồn da diết:
+ Ngôn ngữ độc thoại nội tâm và điệp ngữ “Buồn trông” được sử dụng đặc sắc.
+ Cụm từ “Buồn trông” được lặp lại bốn lần ở đầu mỗi câu sáu, mỗi lần lặp lại lại mở ra một
nỗi buồn khác nhau
 Tạo âm hưởng trầm buồn. Điệp ngữ ấy là đệp khúc của đoạn thơ và cũng là điệp khúc của
tâm trạng, diễn tả nỗi buồn vô hạn đang trào dâng lớp lớp trong lòng Kiều.
* Tác giả sử dụng cụm từ “Buồn trông” chứ không phải “Trông buồn”. “Buồn trông” tức là
nỗi buồn từ trong lòng người, tràn qua đôi mắt, thấm đẫm vào cảnh vật . Trong tám câu cuối,
tác giả đã sử dụng thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình (tả cảnh nhưng ngụ ý gửi gắm tâm
trạng, tình cảm của con người).
- Cảnh đầu tiên: “Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”
+ Cảnh vật được khắc họa vào lúc chiều tà- thời gian nghệ thuật muôn thuở gợi nỗi buồn nhớ.
Trong không gian rộng lớn nơi cửa bể , Kiều chỉ thấy thấp thoáng một cánh buồm đơn độc
phía xa xa.
+ Cảnh vật ấy cùng đại từ phiếm chỉ “ai” và câu hỏi tu từ chất chứa nỗi buồn, nỗi nhớ nhà, nhớ
quê da diết, khắc khoải. Cánh buồm lẻ loi kia còn thể hiện tâm trạng cô đơn trong lòng Kiều.
6
- Cảnh thứ hai: “Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
+ Hai câu thơ gợi hình ảnh một dòng nước chảy mạnh, xiết. Trên dòng nước ấy, xuất hiện cánh
hoa mỏng manh trôi vô định.
+ dòng nước, cánh hoa là hình ảnh ẩn dụ cho dòng đời và thân phận của người con gái lưu lạc
như Kiều. Những hình ảnh đó kết hợp với câu hỏi tu từ thể hiện tâm trạng thấp thỏm, lo lắng
cho số phận mỏng manh, nổi trôi của mình. Kiều không biết cuộc đời mình sẽ đi đâu, về đâu!
- Cảnh thứ ba: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
+ Không còn là thảm cỏ tươi non mơn mởn, tràn đầy sức sống như trong bức tranh phong cảnh
ngày xuân. Ở đây là thảm cỏ “rầu rầu”, héo úa; từ chân mây tới mặt đất là một màu xanh nhàn
nhạt đến đơn điệu . Nét vẽ “nội cỏ”, “chân mấy” gợi không gian vô cùng rộng lớn.
+ Cảnh ấy được nhìn qua tâm trạng cô đơn, chán nản đến tuyệt vọng của Kiều trước một cuộc
sống buồn tẻ, đơn điệu.
- Cảnh cuối: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
+ Một bức tranh thiên nhiên dữ dội và đầy biến động: một cơn gió mạnh cuốn nơi cuối duềnh,
tiếng sóng ầm ầm kêu réo khi thủy triều lên. Những con sóng ấy đang bủa vây xung quanh
Kiều.
+ Tiếng sóng dữ dội là hình ảnh ẩn dụ cho sóng gió, bão tố của cuộc đời. Bức tranh thiên nhiên
phản ánh tâm trạng kinh sợ, hãi hùng của Kiều khi nghĩ đến những tai ương đang chực bủa vây,
đổ ập xuống cuộc đời nàng.
- Tác giả cũng khéo léo sử dụng nhiều từ láy: xa xa, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm 
vừa gợi tả cảnh vật vừa bộc lộ tâm trạng của Kiều.
 Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động.
Cảnh ấy diễn tả bức tranh tâm trạng từ nỗi nhớ nhà, cô đơn đến lo lắng, chán nản, tuyệt vọng và
kinh sợ hãi hùng. Tám câu thơ cuối là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc
của Nguyễn Du.
* Giá trị nhân đạo của đoạn trích:
- Niềm cảm thương sâu sắc cho cảnh ngộ,thân phận và nỗi niềm của Thúy Kiều.
- Khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của nhân vật.

7
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
(Trích hồi thứ 14)
- Ngô gia văn phái-
I. TÁC GIẢ- TÁC PHẨM.
1. Tác giả:
- Là nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai - Hà Tây (cũ), trong đó có hai
tác giả chính là Ngô Thì Chí (1753 - 1788) làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống và Ngô Thì Du
(1772- 1840) làm quan dưới triều Nguyễn.
- Họ là những cây bút trung thực, có tư tưởng tiến bộ, đã phản ánh một cách chân thực , sống
động những sự kiện lịch sử dân tộc.
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ- hoàn cảnh sáng tác:
- Xuất xứ: Hồi thứ 14/17 hồi của tác phẩm, ghi lại sự kiện vủa Quang Trung ra bắc đại phá
quân Thanh.
- Hoàn cảnh sáng tác: ra đời trong khoảng 30 năm cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX, là giai
đoạn chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, bão táp phong trào nông dân nổ ra
ở khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn.
b. Thể loại:
- Thể chí - một lối văn ghi chép sự vật, sự việc.
- Xét theo phương diện nghệ thuật: kết cấu, giọng điệu, xây dựng nhân vật…thì tác phẩm thuộc
vào loại tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi.
c. Nhan đề: ghi chép về sự thống nhất của vương triều nhà Lê.
d. Nội dung:
Với quan điểm lịch sử đúng đắn, niềm tự hào dân tộc, các tác giả đã tái hiện chân thực hình
ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh và sự
thảm bại của quân tướng nhà Thanh, số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
e. Tóm tắt:
- Ngày 24/11/1788, Nguyễn Huệ biết tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, ông rất giận, định
thân chinh cầm quân đi ngay.
- Ngày 25/12/1788, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu là Quang Trung, tự mình đốc suất đại
binh tấn công ra Bắc.
- Ngày 29 đến Nghệ An:
+ Hỏi ý kiến La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp về việc đánh giặc
+ Tuyển quân, duyệt binh, kén lính, đọc lời phủ dụ
- Ngày 30, hội quân với Sở, Lân và Ngô Thì Nhậm tại Tam Điệp:
+ Tha tội Sở và Lân, khen Ngô Thì Nhậm có kế sách hay
+ Mở tiệc khao quân, chia quân làm 5 đạo, hẹn mùng 7 Tết vào Thăng Long ăn mừng
+ Đêm 30 Tết, bí mật vượt sông Gián, tiêu diệt đồn tiền tiêu.
8
- Ngày 3 Tết hạ đồn Hà Hồi
- Mờ sáng mùng 5 Tết hạ đồn Ngọc Hồi. Giữa trưa hôm ấy, Quang Trung tiến binh đến Thăng
Long, rồi kéo vào thành  Tôn Sĩ Nghị và vua Lê sợ mất mật, vội vã cùng nhau chạy trốn
II. PHÂN TÍCH.
1. Hình tượng người anh hùng dân tộc Quang Trung- Nguyễn Huệ.
a. Là người có hành động mạnh mẽ quyết đoán:
- Nhận được tin giặc chiếm Thăng Long, ông không hề nao núng “định thân chinh cầm quân đi
ngay”
- Trong khoảng thời gia rất ngắn, vua Quang Trung đã làm được nhiều việc lớn: tế cáo trời đất
lên ngôi hoàng đế, tự mình đốc suất lại đại binh ra Bắc, gặp gỡ người cống sĩ ở huyện La Sơn
là Nguyễn Thiếp để hỏi kế sách, tuyên mộ quân sĩ và”mở cuộc duyệt binh lớn” ở Nghệ An,
đích thân “dụ tướng sĩ”, định kế hoạch tấn công đúng vào dịp tết Nguyên Đán…Và cả kế
hoạch đối phó và nhà Thanh sau chiến thắng.
b. Là người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén.
* Sáng suốt trong việc lên ngôi: Trước biến cố lớn của đất nước, Nguyễn Huệ lên ngôi là điều
cần thiết để chính vị hiệu, yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người, tập hợp sức mạnh đoàn kết
đánh đuổi giặc Thanh.
* Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta
và địch (thể hiện qua lời phủ dụ).
- Khẳng định chủ quyền của dân tộc “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ
ràng,phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị”
 khẳng định quân Thanh xâm lược nước ta là hành động phi nghĩa.
- Tố cáo tội ác của giặc phương Bắc “ Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta bụng
dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp nước ta, giết hại nhân dân, vơ
vét của cải…”
 Khơi dậy lòng căm thù quân giặc
- Nhắc lại truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta “ Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời
Tống có Đinh Tiên Hoàng, đời Minh có Lê Thái Tổ… thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều
chỉ đánh một trận là thắng ”
 Khơi dậy niềm tự hào dân tộc, nhắc nhở tướng sĩ noi theo gương của người xưa và tiếp thêm
niềm tin chiến thắng.
- Kêu gọi tinh thần đoàn kết, đồng tâm hiệp lực, tạo nên sức mạnh để chiến thắng kẻ thù xâm
lược “Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực,
để dựng nên công lớn”
- Quang Trung đã dự kiến được việc Lê Chiêu Thống về nước có thể làm cho một số người
phù Lê thay lòng đổi dạ với mình nên ông đã ra kỉ luật nghiêm minh để răn đe những kẻ có
mưu đồ phản bội “Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị
giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo ta là không nói trước”
 Lời phủ dụ như một bài hịch ngắn gọn, có lí, có tình, động viên, khích lệ quân lính dốc toàn
tâm, toàn lực cho cuộc chiến đấu
* Sáng suốt trong việc dùng người và xét đoán bề tôi.
- Ông đánh giá Ngô Thì Nhậm là người “túc trí đa mưu” nên đã để Ngô Thì Nhậm ở lại Thăng
Long trợ giúp cho Sở, Lân – những người “hữu dũng vô mưu”
- Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, lẽ thường “quân thua chém tướng”, nhưng Quang Trung
không những không trị tội Sở, Lân mà còn ngợi khen, điều đó có ý nghĩa:

9
+ Ông rất hiểu việc rút quân của hai vị tướng giỏi này: để bảo toàn lực lượng, khiến cho địch
chủ quan.
+ Giữ lại được tướng giỏi, quân sĩ nể phục, từ đó mà trung thành với nhà Tây Sơn.
- Quang Trung đánh giá cao Ngô Thì Nhậm là người có tài ăn nói nên tính đến việc sử dụng
Ngô Thì Nhậm làm công việc ngoại giao với nhà Thanh.
 Vua Quang Trung là bậc minh quân, hiểu tướng sĩ, khen chê đúng người đúng việc.
* Quang Trung là người có ý chí quyết chiến quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng
- Quang Trung tự tin vào tài cầm quân của mình, tin vào tướng lĩnh và tin vào chính nghĩa của
dân tộc, nên mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà ông đã chắc thắng
và dự kiến cả ngày chiến thắng: “ Phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày
có thể đuổi được người Thanh”
- Đang ngồi trên lưng ngựa, vua Quang Trung đã nói về kế sách ngoại giao và kế hoạch 10
năm sau hòa bình. Ông đoán quân Thanh là nước lớn, khi thua, ắt sẽ thẹn mà lo mưu báo thù.
Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt. Nên tính tạo ra khoảng thời gian hòa bình để
chuẩn bị “Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu
quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng.”
* Quang Trung là bậc kì tài về quân sự - có tài thao lược, dụng binh như thần.
- Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn khiến chúng ta kinh ngạc. Vừa
hành quân, vừa đánh giặc mà khởi binh từ 25 tháng chạp đến mùng 5 Tết đã tiến vào giải phóng
kinh thành Thăng Long.
- Quang Trung chỉ huy một đội quân lớn, hành quân trên một chặng đường dài nhưng khi ra đến
Thăng Long vẫn đảm bảo được sức quân, đảm bảo được bí mật. Điều đó thể hiện cái tài của
người cầm quân.
- Ông cũng rất giỏi trong việc kén tướng chỉ huy, có chiến thuật linh hoạt, ít hao tổn binh lực.
+ Đêm 30 Tết, đêm tối trời, quân địch chủ quan, vượt sông Gián để tiêu diệt toàn bộ đồn tiền
tiêu của giặc
+ Đêm 3 Tết hạ đồn Hà Hồi bằng lối đánh nghi binh, nghĩa quân chiến thắng vẻ vang mà
không tốn vũ khí.
+ Mờ sáng mùng 5, hạ đồn Ngọc Hồi bằng những tấm ván phủ rơm dấp nước nên binh lính tiến
sát đồn Ngọc Hồi an toàn.
+ Ngay trưa ngày mùng 5, tấn công luôn vào kinh thành Thăng Long để tránh viện binh của
giặc.
 Quang Trung chính là sức mạnh, là nội lực của nghĩa quân Tây Sơn, là bậc kì tài về quân sự
của dân tộc ta.
* Hình ảnh vị vua lẫm liệt trong chiến trận
- Là vua nhưng Quang Trung không cầm quân trên danh nghĩa mà là một tổng chỉ huy chiến
dịch thực sự: ông trực tiếp kén lính, hoạch định kế hoạch và tự mình thống lĩnh mũi tiên phong.
- Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy này, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh những trận
thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù khiến kẻ thù phải khiếp vía.
- Vua Quang Trung cưỡi voi, dẫn đầu đoàn quân, mặc tấm áo bào màu đỏ sạm đen khói thuốc
súng đi trong cảnh khói tỏa mù trời là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho vẻ đẹp của người anh
hùng trong văn học trung đại.
2. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống
a. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh.
- Tướng: + Sầm Nghi Đống sợ hãi thắt cổ tự vẫn.

10
+ Tôn Sĩ Nghị thì “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn
bọn lính kị mã của mình chuồn trước qua cầu phao”.
- Quân thì lúc lâm trận ai nấy đều rụng rời sợ hãi xin ra hàng hoặc bỏ chạy tán loạn, giày xéo
lên nhau mà chết; đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa.
 Cả một đội binh hùng tướng mạnh, mấy chục vạn người diễu võ dương oai giờ đây chỉ còn
biết tháo chạy “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi”
* Nguyên nhân thất bại:
- Tướng: + kiêu căng, chủ quan: bỏ ngoài tai những lời cảnh báo của vua Lê, chỉ lo ăn chơi,
hưởng lạc.
+ bất tài, hèn nhát: chưa đánh đã chạy
 Miêu tả sự đại bại của quân Thanh với nhịp điệu nhanh, mạnh, gấp gáp; giọng điệu hả
hê, sung sướng  đó là niềm vui chiến thắng kẻ thù xâm lược.
b. Số phận thảm bại của bọn vua tôi phản nước hại dân:
- Lê Chiêu Thống và bề tôi đã vì lợi ích riêng mà “cõng rắn cắn gà nhà”, nên không còn tư
cách của bậc quân vương, phải chịu đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh và phải chịu số phận bi
thảm của kẻ vong quốc: vội vã cùng bề tôi thân tín đưa thái hậu ra ngoài, chạy bán sống bán
chết “luôn mấy ngày không ăn”. Khi đuổi kịp được Tôn Sĩ Nghị chỉ còn biết “nhìn nhau than
thở, oán giận chảy nước mắt.”
 Tác giả miêu tả cuộc tháo chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống với nhịp điệu chậm, có lúc
dừng lại miêu tả giọt nước mắt của người thổ hào; giọng điệu ngậm ngùi chua xót  bởi
các tác giả vốn là cựu thần của nhà Lê, chịu ơn sâu nghĩa nặng của nhà Lê nên không thể
không ngậm ngùi trước sự sụp đổ của một vương triều mà họ đã từng thờ phụng.

11
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

(PHẠM TIẾN DUẬT)


A. KIẾN THỨC CƠ BẢN:
I. Tác giả
- Phạm Tiến Duật(1941-2008), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ
- Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư Phạm Hà Nội, năm 1964, Phạm Tiến Duật gia
nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương
mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước.
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường
Sơn.
- Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.
II.Tác phẩm:
1. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ viết năm 1969, thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra rất ác liệt trên con
đường chiến lược Trường Sơn.
- Bài thơ được tặng giải nhất cuộc thi thơ cuả báo Văn nghệ năm 1969 và được đưa vào
tập thơ “Vầng trăng quầng lửa”của tác giả.
2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:
* Nội dung: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã khắc hoạ một
hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc hoạ nổi bật hình cảnh
những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì chống Mĩ, với tư thế hiên ngang, tinh thần
lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.
* Nghệ thuật: Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở
chiến trường, ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn.
* Ngôn ngữ giản dị: vừa có đời sống thường ngày, vừa có chiến trường. Mang tính khẩu
ngữ, gần với đời thường. Giọng điệu văn xuôi
B. PHÂN TÍCH BÀI THƠ:

12
I. Những nét độc đáo, khác lạ của bài thơ:
1. Nhan đề: dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng thu hút người đọc ở cái vẻ lạ độc đáo của
nó.
- Làm nổi bật hình ảnh toàn bài : những chiếc xe không kính.
- Hai chữ bài thơ thêm vào cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác
giả muốn nói về chất thơ của hiện thực khốc liệt thời chiến tranh, chất thơ của tuổi trẻ hiên
ngang, dũng cảm.
- > Nhan đề đã góp phần thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm: ca ngợi những chiến sĩ
lái xe Trường Sơn với tâm hồn lạc quan, trẻ trung, hiên ngang, dũng cảm vượt lên trên
khó khăn, gian khổ của cuộc chiến.
2. Hình ảnh những chiếc xe không kính gây sự chú ý khác lạ được đưa ra thực đến
trần trụi vẫn băng băng ra chiến trường.
a. Xưa nay, hình ảnh tàu xe vào thơ thường được mĩ lệ hoá, lãng mạn hoá nhưng Phạm
Tiến Duật đưa một hình ảnh đến trần trụi “những chiếc xe không kính”. Tác giả giải thích
nguyên nhân cũng rất thực bằng hai câu thơ rất gần với văn xuôi lại có giọng thản nhiên như lời
nói thường ngày, càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
b. Câu thơ thứ 2 nhắc lại hai lần chữ “bom” với những động từ mạnh “giật”, “rung”
khiến cho “kính vỡ đi rồi” càng tăng gấp bội sự dữ dội của cuộc chiến đấu.
c. Càng đi sâu vào chiến trường, những chiếc xe lại bị bom đạn chiến tranh làm chúng
biến dạng, méo mó, trần trụi hơn. Điệp ngữ “không có” kết hợp với biện pháp tu từ liệt kê
“kính, đèn mui”, có xước gợi tả những chiếc xe ngày càng méo mó, biến dạng đến trần trụi,
đồng thời giúp chúng ta hình dung được mức độ khốc liệt của chiến trường:
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,”
- Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở
Trường Sơn. Thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để người lái xe bộc
lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thế lớn lao của họ là lòng dũng cảm, tinh thần bất
chấp gian khổ, khó khăn.
d.Hình ảnh này không hiếm trong chiến tranh nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với nét
ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa vào thành
hình tượng thơ độc đáo của thời kì chiến tranh chống Mĩ.
3. Giọng điệu và ngôn ngữ: Giọng thơ rất gần với lời nói thường, có những câu như văn
xuôi thưởng như khó chấp nhận trong một bài thơ “Không có kính không phải vì xe không có
kính” “Không có kính, ừ thì có bụi”, “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”... Nhưng đay lại
chính là nét độc đáo tạo nên một giọng điệu ngang tàng, trẻ trung, sôi nổi, tinh nghịch, tự nhiên,
thể hiện cái hiên ngang, bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm của các anh lính lái xe Trường Sơn.
II. Hình ảnh người lính lái xe:
a.Tư thế ung dung, hiên ngang, tinh thần dũng cảm lạc quan (k1,2)
13
K1: - Hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì chiến tranh chống
Mĩ được khắc hoạ đậm nét trong bài thơ. Hình ảnh của họ được miêu tả gắn liền với những
chiếc xe, đồng thời cũng nổi bật lên trong toàn bài.
- Tác giả giải thích nguyên nhân ra đời của những chiếc xe không kính rất thực bằng hai câu thơ
rất gần với văn xuôi lại có giọng thản nhiên như lời nói thường ngày, cho ta thấy sự hóm hỉnh,
vui đùa của những người lính lái xe. Đồng thời điệp ngữ “Không có kính” nhấn mạnh hình ảnh
nhưng chiếc xe không có kính chắn gió,
càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
- Câu thơ thứ 2 nhắc lại hai lần chữ “bom” với những động từ mạnh “giật”, “rung” khiến cho
“kính vỡ đi rồi” càng tăng gấp bội sự dữ dội của cuộc chiến đấu.
- Đồng thời với hình ảnh của những chiếc xe không kính độc đáo là hình tượng đẹp đẽ của
những người lái xe xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước.
- Ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính, người chiến sĩ có cảm giác căng thẳng,
đầy thử thách, song họ không hề run sợ hoảng hốt. Trái tim họ hiện ra trong tư thế ung dung,
hiên ngang, tự tin, tự hào.
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Kết cấu thơ 6 chữ với nhịp 2/2/2 đều đặn, điệp từ “nhìn”, chữ “ung dung” đảo lên đầu
làm nổi bật tư thế ấy. “Nhìn thẳng” là cái nhìn có vẻ trang nghiêm, buất khuất không thẹn với
đất, với trời, nhìn thẳng vào mọi gian khổ hi sinh mà không hề run sợ, né tránh. Dường như ở
phía trước, cả không gian, đất trời thu vào tầm mắt cảu họ, và cái đích họ muốn đưa xe tới
chính là nơi chiến trường khói lửa. Cái nhìn thật ngang tàng, phóng khoáng. Cái nhìn ấy soi
sáng niềm lạc quan, thể hiện đúng tâm thế của một thời kì lịch sử “tiếng hát át tiếng bom”
- Cùng với tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe là tầm quan sát cao rộng với điệp
từ “nhìn”, “thấy” biểu hiện sự tập trung cao độ, một tinh thần trách nhiệm cao nhưng đồng
thời cũng thể hiện tâm hồn lãng mạn, bình thản, chủ động chiêm ngưỡng và tận hưởng vẻ đẹp
của thiên nhiên qua ô cửa kính vỡ.
K2: - Những người lính lái xe là chủ nhân của những chiếc xe không kính nên khi miêu
tả về họ, nhà thơ đã khắc hoạ họ với những ấn tượng, cảm giác cụ thể, sinh động khi ngồi trên
những chiếc xe không kính trong tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Trên những chiếc xe
không kính, người lính có những cảm giác, ấn
tượng thật đặc biệt.:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.”

14
- Xe không kính giúp con người và thiên nhiên như có điều kiện gần gũi nhau hơn. Trước
hết là gió – “gió vào xoa mắt đắng” – gió được nhân hóa và chuyển đổi cảm giác một cách đầy
ấn tượng. Xe chạy nhanh, gió thổi mạnh làm mắt cay, mắt đắng hay gió chính là những ng bạn
đến bên những người chiến lái xe xoa dịu những “đôi mắt đắng” vì những đêm trường thức
trắng chạy xe? Sự nguy hiểm đã trở thành sự thân mật thú vị giữa con người và thiên nhiên.
- H/ả “sao trời”, “cánh chim” “như sa như ùa vào buồng lái” rất thực, rất mộng, rất thi vị. Bút
pháp so sánh cùng các động từ mạnh: “sa, ùa” góp phần diễn tả tốc độ phi thường của những
chiếc xe quân sự như đang bay đi, lướt nhanh trong bom đạn. Hình ảnh “con đường chạy thẳng
vào tim” tả cái cảm giác xúc động khoan khoái khi cho xe phóng nhanh.
- Sự phối kết hợp khá nhiều biện pháp nghệ thuật: điệp từ, ẩn dụ, so sánh... cùng với nhịp thơ
dồn dập, nhanh gấp, giọng điệu thơ khỏe khoắn tràn đầy niềm lạc quan đã khắc họa nổi bật hình
ảnh người chiến sĩ lái xe với tâm thế tự tin làm chủ hoàn cảnh, ung dung, tự tại bao quát đất trời
thiên nhiên, hoà hợp với thiên nhiên vũ trụ
- Đặc biệt hình ảnh “Con đường chạy thẳng vào tim” là một khái quát đặc sắc của con đường
trái tim. Đường Trường Sơn, con đường giải phóng miền Nam, chính là con đường của trái tim.
Những câu thơ trên hé lộ diện mạo tinh thần thầm kín của người chiến sĩ, họ đang có tiến về
phía trước để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
b, Tinh thần dũng cảm lạc quan, coi thường gian khổ hiểm nguy (Khổ 3,4).
- Trước những thử thách mới người chiến sĩ không nao núng, càng bình tĩnh, tự tin dũng cảm,
lạc quan hơn. Những câu thơ dí dỏm, tinh nghịch, mang đầy sức trẻ của những chàng trai “xẻ
dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Với giọng điệu ngang tàng đùa tếu nghịch ngợm, cách nói “ừ
thì” đầy thách thức đã thể hiện rõ thái độ coi thường hiểm nguy của các anh

Không có kính, ừ thì có bụi,


Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo


Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
- Con đường Trường Sơn thời chống Mĩ là con đường đầy khó khăn, gian khổ. Hình ảnh “bụi’”
trong câu thơ đầu phải chăng là sự tượng trưng cho khó khăn mà những người lính gặp phải khi
ngồi trong buồng lái “không có kính”
- Đặc biệt, biện pháp tu từ so sánh “Bụi phun tóc trắng như người già” hết sức gợi hình và gọi
cảm. Nó giúp ta hình dung được mái tóc xanh của những chàng lính trẻ tuổi muồi tám, đôi
mươi bị bụi phủ trắng xóa “như người già”. Đồng thời nó cũng gợi tả cụ thể khó khăn mà người

15
lính lái xe phải đối mặt. Nhưng dường như sự khó khăn khốc liệt ấy chỉ làm nền giúp cho sự
dũng cảm, tinh nghịch, tếu táo của người lính được thể hiện rõ hơn.
- Cái hay và đặc sắc của nhà thơ Phạm Tiến Duật được thể hiện trong khổ thơ này chính là việc
ông sử dụng hai câu đầu để nói về hiện thực khốc liệt, còn hai câu tiếp lại nói lên tinh thần lạc
quan, dũng cảm chiến thắng mọi hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt của người lính lái xe: “Chua
cần rửa… ha ha”. Hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc” và “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
cho ta cảm nhận rõ sự trẻ trung, tinh nghịch, thản nhiên, đậm chất lính giúp ta thêm yêu và cảm
phục những người lính cụ Hồ dũng cảm.
.- Xe không có kính nên khó khăn thử thách cứ dồn dập đến với người lính lái xe, hết “bụi phun
tóc trắng như ng già” lại dến “mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”, mặc dù vậy người lính lái xe
vẫn không hề nao núng trước thử thách thậm chí họ còn như đang thách thức với mọi hoàn
cảnh. Tác giả đã sử dụng điệp cấu trúc câu “Không có kính ừ thì ...chưa cần” và trong các chi
tiết “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha” hay “lái trăm cây số nữa” kết hợp với giọng
thơ đầy tinh nghịch đã bộc lộ rõ chất lính trẻ trung.
- Giữa đường Trường Sơn đầy bom đạn, đèo dốc, gió bụi, mưa có thể gây bao khó khăn nhưng
những người lính cụ Hồ vẫn bình thản, dũng cảm đưa xe tiến về phía trước. Tình cảnh của các
anh được miêu tả rất chân thực nhưng người chiến sĩ đã bình thường hoá cái không bình thường
đó và vượt lên cùng tất cả sự cố gắng, cùng tinh thần trách nhiệm cao: “Chưa cần thay, lái trăm
cây số nữa”. Họ chấp nhận gian khổ như một điều tất yếu, khó khăn không mảy may ảnh hưởng
đến tinh thần của họ.
- Những chiến sĩ lái xe là những chàng trai trẻ vui tính, hóm hỉnh với những hình
ảnh tinh nghịch “Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18, đôi mươi gợi cảm giác nhẹ nhõm, thanh thản xua tan những
khó khăn, nguy hiểm trên đường.
c.Tâm hồn sôi nổi của tuổi trẻ, tình đồng chí, đồng đội sâu sắc. ( K5,6)
- Không những bình tĩnh, dũng cảm, lạc quan mà các anh còn biết đoàn kết gắn bó với
nhau trong một tình đồng chí đồng đội thắm thiết: “Những chiếc xe…vỡ rồi”
- Họ không chỉ có một chiếc xe mà là “tiểu đội xe không kính” - một cộng đồng như gắn
kết với nhau qua bom lửa khó khăn. Và họ đã trở nên gần gũi thân mật hơn qua “cửa kính vỡ
rồi”
- Con đường giải phóng miền Nam là con đường đi tới chính nghĩa, họ càng đi càng có
thêm nhiều bạn: “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”. Họ có thể “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
mà không cần mở cửa xe, thoải mái, tự hào và thắm tình đồng đội. Chỉ một cái bắt tay cũng ấm
lòng, đủ động viên nhau, cảm thông với nhau. Cái bắt tay truyền cho nhau cả tâm hồn, tình
cảm. Tình cảm ấy thắm thiết như ruột thịt, như anh em trong gia đình.
- Những phút giấy ghỉ ngơi của người lính cũng được tác giả ghi lại hết sức tự nhiên,
chân thực:“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời – Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Chúng
ta bắt gặp một cách định nghĩa về gia đình thật lạ, thật tếu hóm và tình cảm thật sâu nặng,
thiêng liêng. Nó giúp con người xích lại gần nhau trong những cái chung: chung bát, chung
đũa, nắm cơm, bếp lửa, chung hoàn cảnh, chung con đường với vô vàn thách thức nguy hiểm
phía trước.

16
- Từ láy “chônh chênh” rất gợi hình và gợi cảm, nó giúp ta hình dung ra cảm giác đầy
thú vị của những người lính lái xe, lúc nghỉ, lúc ngủ vẫn cứ ngỡ còn lắc theo nhịp xe. Từ láy
“chông chênh” có nghĩa là đu đưa, không vững chắc, gợi ra hình ảnh con dường gập ghềnh khó
đi. Qua đó, nó cũng thể hiện sự khó khăn, gian khổ trên con đường ra trận của những người lính
lái xe.
- Điệp ngữ “lại đi” gợi nhịp sống thường nhật cũng là để diễn tả sức mạnh của tiểu đội xe
không kính. Đoàn xe cứ nối tiếp nhau ra trận, nó như khẳng định không có khó khăn nào của kẻ
thù có thể ngăn cản nổi bước tiến các anh.
- Khổ thơ kết thúc bằng hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” thật nhẹ nhàng thanh thản. “Trời
xanh thêm”- đó là mục đích chiến đấu của các anh, nó dường như luôn thường trực trong tâm
hồn của họ, chứa chan bao hi vọng, lạc quan. Cách sử dụng nhiều thanh bằng làm cho lời thơ
trở nên lãng mạn. Hai câu thơ góp thêm vào để diễn tả hoàn cảnh kháng chiến khó khăn và
niềm lạc quan, tin tưởng của những người lính lái xe.
c. Ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ thể hiện ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Đó chính là động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức mạnh phi thường của
người lính để họ vượt lên tất cả, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự huỷ diệt, tàn phá.
- Khổ thơ cuối tạo nên kết cấu đối lập, bất ngờ, sâu sắc, đối lập giữa hai phương diện vật
chất và tinh thần, giữa vẻ bên ngoài và bên trong của chiếc xe. Trải qua mưa bom bão đạn,
những chiếc xe ban đầu không có kính, càng đi sâu vào chiến trường, nó càng bị bom Mĩ làm
cho biến dạng đến trần trụi, méo mó hơn:
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước”
- Với biện pháp liệt kê, điệp ngữ “không có” được nhắc lại 3 lần nhấn mạnh sự thiếu
thốn đến trần trụi của những chiếc xe, còn cho ta thấy mực độ ác liệt của chiến trường.
- Nhưng điều kì lạ là không có gì có thể cản trở được sự chuyển động kì diệu của những
chiếc xe trơ trụi ấy vẫn băng ra chiến trường. Tác giả lí giải bất ngờ và chí lí: “Chỉ cần trong xe
có một trái tim”. Mọi thứ của xe có thể không còn nguyên vẹn, chỉ cần vẹn nguyên trái tim
người lính – trái tim vì miền Nam – thì xe vẫn chạy, “tất cả cho tiền tuyến”. Đó không chỉ là sự
ngoan cường, dũng cảm vượt lên mọi gian khổ ác liệt mà còn là sức mạnh của tình yêu nước.
- Bom đạn của quân thù có thể làm biến dạng cái xe nhưng không đè bẹp được tinh thần,
ý chí chiến đấu của những người lính lái xe. Xe vẫn chạy không chỉ vì có động cơ máy móc mà
còn có một động cơ tinh thần “Vì miền Nam phía trước”.
- Đối lập với tất cả những cái “không có” ở trên là một cái “có”, đó là trái tim – sức
mạnh của người lính, sức mạnh con người đã chiến thắng bom đạn kẻ thù. “Trái tim” là hình
ảnh hoán dụ để chỉ người lính lái xe và cũng là ẩn dụ cho tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu
giải phóng Miền Nam của những người lính..
- Trái tim đã thay thế cho tất cả những thiếu thốn “không kính, không đèn. không mui”,
hợp nhất với người chiến sĩ lái xe thành một cơ thể sống không gì tàn phá, ngăn trở được. Trái
tim trở thành nhãn tự bài thơ, cô đúc ý toàn bài, hội tụ vẻ đẹp của người lính và để lại cảm xúc
sâu lắng trong lòng người đọc.

17
III. Thành công về nghệ thuật:
- Ngôn ngữ và giọng điệu bài thơ là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Phạm Tiến Duật,
góp phần khắc hoạ hình ảnh người chiến sĩ lái xe.
- Ngôn ngữ bài thơ giản dị, ngồn ngộn chất sống, đời sống chiến trường, vừa làm giàu
thêm chất liệu thơ ca vừa thể hiện chân thực hình ảnh người lính lái xe. Lời thơ gắn với
lời văn xuôi, lời đối thoại, lời nói thường nhưng vẫn giàu chất thơ. Chất thơ toát lên từ
những hình ảnh độc đáo; từ vẻ hiên ngang, sôi nổi, trẻ trung của người lính; từ những ấn
tượng cảm giác cụ thể của họ khi ngồi trên những chiếc xe không kính.
- Ngôn ngữ đó góp phần tạo nên giọng điệu ngang tàng có cả chất tinh nghịch phù hợp với
đối tượng miêu tả - những chàng lái xe trên những chiếc xe không kính.
- Thể thơ kết hợp linh hoạt giữa thể 7 chữ với thể 8 chữ, có chỗ 6 hay 10 chữ tạo cho bài
thơ một điệu thơ gắn với lời nói tự nhiên, sinh động, góp phần tạo nên chất thơ mới,
giọng điệu mới của thơ ca chống Mĩ. Nó bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới c uả
thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm.
IV. Cảm nghĩ về thế hệ trẻ thời kh áng chiến chống Mĩ qua hình ảnh người lính
trong thơ. So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ này với bài Đồng chí:
- Thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ là thế hệ sống rất đẹp, rất anh hùng. Họ ý thức sâu
sắc về sứ mệnh lịch sử của mình, trong gian khổ hi sinh vẫn phơi phới lạc quan. Như lời
nhà thơ Tố Hữu đó là thế hệ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy
tương lai”hay “Đi chiến trường như trảy hội mùa xuân” hay “Mưa bom bão đạn lòng
thanh thản”. Chính vì vậy, mãi mãi các thế hệ người Việt vẫn tự hào, khâm phục và biết
ơn những người con anh hùng ấy.
- Những người lính trong “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” cho thấy
hình ảnh người lính trong hai thời kì chống Pháp và chống Mĩ có những nét chung: lòng
yêu nước, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc; thái độ bất chấp mọi
khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, sống lạc quan, có tình đồng chí đồng đội thắm thiết.
Tuy nhiên, ở mỗi bài thơ hình ảnh người lính lại có những nét riêng:
- “Đồng chí” thể hiện hình ảnh người lính hầu hết ở xuất thân từ nông dân, từ thân phận nô
lệ nghèo khổ mà đi vào kháng chiến với muôn vàn khó khăn thiếu thốn. Cách mạng
chính là sự giải thoát cho số phận đau khổ tối tăm của họ. Hiếm có sự ung dung tự tại
nhưng lại rất đoàn kết gắn bó thương yêu nhau.
- Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, người lính đi vào cuộc chiến đấu với ý thức
giác ngộ về lí tưởng độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Họ ý thức sâu sắc về
trách nhiệm của thế hệ mình. Họ sống trẻ trung, yêu đời, lạc quan, tự tin. Hình ảnh của
họ được thể hiện trong một thời điểm quyết liệt và khẩn trương hơn. Đó là một thế hệ
anh hùng, hiên ngang, mạnh mẽ.

18
ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
- Huy Cận -
I. TÁC GIẢ - TÁC PHẨM:
1. Tác giả: - Huy Cận (1919 – 2005), tên thật là Cù Huy Cận, quê: Hà Tĩnh.
- Ông là gương mặt xuất sắc của nền thi ca Việt Nam hiện đại:
+ Trước cách mạng tháng Tám, Huy Cận nổi tiếng trong phong trào Thơ mới với tập “Lửa
thiêng” (1940), đề tài mang cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế.
+ Sau cách mạng tháng Tám: Thơ Huy Cận đã có nhiều tìm tòi, vẫn là nguồn cảm hứng về
thiên nhiên, vũ trụ song tràn đầy niềm vui.
- Các tác phẩm tiêu biểu: Lửa thiêng (1940), Trời mỗi ngày lại sáng (1958).
- Ông được nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996.
2. Tác phẩm:
a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác:
- Xuất xứ: trích trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958)
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ sáng tác năm 1958
+ Là thời kì miền Bắc đang đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, kiến thiết đất nước và chi viện
cho miền Nam.
+ Là kết quả của chuyến đi thực tế dài ngày tại Hạ Long – Quảng Ninh.
b. Chủ đề: Qua việc khắc họa cảnh đoàn thuyền ra khơi , bài thơ là khúc hát ca ngợi cảnh thiên
nhiên đất nước giàu đẹp và cuộc sống lao động của con người trong thời kì mới.
c. Thể thơ: 7 chữ
d. Mạch cảm xúc: Theo trình tự thời gian và không gian của hành trình ra khơi đánh bắt cá: mở
đầu là cảnh ra khơi lúc hoàng hôn, tiếp theo là cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển đêm và kết
thúc bài thơ là cảnh đoàn thuyền trở về lúc bình minh huy hoàng.
19
II. PHÂN TÍCH.
1. Khổ 1,2: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn.
a. Cảnh biển trời lúc hoàng hôn. “Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”
- Tác giả sử dụng phép tu từ so sánh “mặt trời”- một sự vật lớn lao, kì vĩ của thiên nhiên với
“hòn lửa” – sự vật ấm áp, gần gũi với con người  gợi vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ của thiên nhiên,
mặt trời như một quả cầu lửa khổng lồ, nhuộm đỏ cả một vùng biển.
- Nghệ thuật nhân hóa kết hợp với ẩn dụ qua các hình ảnh “sóng cài then” “đêm sập cửa” gợi
sự liên tưởng thú vị: vũ trụ là một ngôi nhà lớn, màn đêm là cánh cửa khổng lồ còn những con
sóng lăn tăn là những chiếc then cài.
 Qua hai câu đầu ta thấy thiên nhiên không còn hoang sơ bí hiểm mà thật gần gũi với cuộc
sống của con người.
b. Cảnh đoàn thuyền ra khơi: Màn đêm mở ra khép lại một ngày. Giữa lúc vũ trụ chuyển sang
trạng thái nghỉ ngơi thì người ngư dân lại bắt đầu đi vào hoạt động.
- Từ “đoàn thuyền” gợi không khí làm ăn tập thể. Những người ngư dân ra khơi với cả một
“đoàn thuyền” chứ không phải một hai chiếc lưa thưa rời rạc.
- Phó từ “lại” vừa cho thấy nhịp vận hành đều đặn của đoàn thuyền, hàng ngày họ ra khơi và
hôm nay họ “lại” ra khơi vừa miêu tả hoạt động đối lập giữa hoạt động của vũ trụ với hoạt động
của con người.
- “Câu hát căng buồm” là hình ảnh đặc sắc:
+ Phép nói quá, ẩn dụ gợi liên tưởng thú vị: câu hát của người ngư dân hòa cùng sức gió, làm
căng cánh buồm đẩy con thuyền ra khơi được nhanh hơn.
+ Hình ảnh này còn diễn tả khí thế phơi phới, mạnh mẽ, niềm lạc quan của những con người
được làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời.
- Nội dung lời hát:
+ “Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng”: lời hát của người ngư dân là lời cầu mong biển lặng,
sóng êm, gặp nhiều luồng cá mới  niềm mong ước này phản ánh nét đẹp tâm hồn, tấm lòng
đôn hậu của những con người từng trải qua nhiều sóng gió trên biển khơi.
+ Phép so sánh “Cá thu biển Đông như đoàn thoi” gợi hình ảnh cá đi lại trên biển nhanh,
nhiều, tấp nập như đoàn thoi. “dệt biển” “dệt lưới” là những hình ảnh nhân hóa đem đến cho
người đọc liên tưởng: cá đi lại trên biển nhiều thành cá “dệt biển”, cá vào lưới nhiều thành cá
“dệt lưới”  Những hình ảnh này chính là lời ca ngợi sự giàu đẹp của biển quê hương.
- Từ “ta” cất lên đầy tự hào, đó là niềm tự hào của những con người được làm chủ thiên nhiên
và làm chủ cuộc đời mình.
- Thành phần gọi đáp và cũng là phép nhân hóa qua từ “ơi” ở cuối bài thể hiện sự thân thiết
giữa con người với thiên nhiên.
 Cảnh ra khơi thật huy hoàng, qua đó thể hiện tình yêu con người và niềm tin vào cuộc sống
của nhà thơ Huy Cận.
2. Khổ 3,4,5,6: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển đêm.
20
a. Khổ 3: Cảnh đoàn thuyền đang lướt đi trên biển đêm và người ngư dân giăng lưới đánh
bắt cá.
* Hình ảnh đoàn thuyền đang lướt đi trên biển đêm được tác giả khắc họa qua hai câu thơ :
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
 Bút pháp lãng mạn cùng phép tu từ nói quá, ẩn dụ trong gợi liên tưởng thú vị: con thuyền ra
khơi mà có gió làm lái, có trăng làm buồm, đang lướt đi giữa mây cao với biển bằng. Con
thuyền vốn nhỏ bé trước biển cả bao la bỗng trở nên lớn lao, kì vĩ sánh ngang tầm thiên nhiên
vũ trụ.
* Hai câu sau là hình ảnh người dân chài đang ra khơi đánh bắt cá:
- Những người ngư dân “ra đậu dặm xa”, giữa sóng to gió lớn để đánh bắt cá chứ không làm ăn
ven bờ. Chi tiết này phản ánh lòng dũng cảm với khát vọng chinh phục biển khơi.
- Việc sử dụng nhiều từ thuộc trường từ vựng chỉ hoạt động của con người: ra, đậu, dò, dàn
đan, vây giăng đã góp phần thể hiện khí thế lao động hăng say, khẩn trương cùng những động
tác thuần thục, khéo léo của con người.
- Cảnh đánh bắt cá được khắc họa như một trận đánh qua các từ “dàn đan” “thế trận” “vây
giăng”: Trong trận đánh ấy, biển cả là ngư trường, thuyền lưới là vũ khí và mỗi người ngư dân
là một chiến sĩ.
 Huy Cận đã biến công việc đánh bắt cá vốn nặng nhọc thành bài ca lao động.
b. Khổ 4: Ca ngợi sự giàu đẹp của biển khơi.
- Sự giàu có của biển khơi được thể hiện qua các phép tu từ đặc sắc:
+ Phép liệt kê tên của các loài cá: nhụ, chim, đé, song. Đây là tên của những loài cá quý mang
lại giá trị kinh tế.
+ Hình ảnh ẩn dụ “Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” gợi liên tưởng cá song mình dài có nhiều
vạch dọc hoặc các chấm đen hồng trông như “đuốc đen hồng”
- Biển Việt Nam không chỉ giàu mà còn rất đẹp:
+ Những từ gợi màu sắc như “lấp lánh, đen, hồng, vàng chóe” khiến cảnh biển hiện lên như
một bức tranh sơn mài đẹp lộng lẫy.
+ Hình ảnh nhân hóa “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” là hình ảnh đẹp. Ánh trăng in xuống
mặt nước, những con cá quẫy đuôi như những nàng tiên đang nhảy múa, cá quẫy đuôi như quẫy
ánh trăng tan ra.
+ Biển đêm hiện lên như một sinh vật đại dương “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”, mỗi nhịp
sóng như một nhịp thở. Hình ảnh nhân hóa khiến cho cảnh biển thêm sinh động.
c. Khổ 5: Cảnh gõ thuyền gọi cá vào lưới.
- Nhìn đàn cá vào lưới, người ngư dân cất cao tiếng hát: “Ta hát bài ca gọi cá vào”. Câu thơ gợi
sự thân thiết, giao hòa giữa con người với thiên nhiên đồng thời thể hiện niềm vui , sự phấn
chấn và tình yêu lao động của con người.

21
- “Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao” là hình ảnh thơ vô cùng lãng mạn, bay bổng: trong đêm
trăng sáng, ánh trăng in xuống mặt nước, sóng xô bóng trăng gõ vào mạn thuyền. Trăng đã hòa
cùng con người trong công cuộc lao động. Đây là hình ảnh đầy chất thơ làm đẹp thêm công
việc đánh bắt cá vốn nặng nhọc.
- Phép so sánh trong hai câu cuối thể hiện tấm lòng của người ngư dân với biển cả.
“Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”.
Từ bao đời nay biển bao dung như người mẹ, nuôi sống con người, cho con người nhiều cá
tôm. Câu thơ thể hiện lòng tự hào, niềm biết ơn sâu nặng của người ngư dân với biển quê
hương.
d. Khổ 6: Bức họa khỏe khoắn về người dân chài.
Trên bầu trời, sao đã mờ, người ngư dân kéo lưới cho kịp trời sáng. Cảnh kéo lưới được miêu
tả vô cùng ấn tượng. Con người trở thành trung tâm của bức tranh lao động với nét tạo hình gân
guốc, khỏe khoắn
- “Kéo xoăn tay” : người ngư dân đứng nghiêng người, choãi chân, dồn sức mạnh vào đôi cánh
tay rắn chắc kéo những mẻ lưới nặng trĩu. “Chùm cá nặng” là hình ảnh ẩn dụ gợi tả một mẻ cá
bội thu.
- Trong khoang, màu bạc của vảy cá, màu vàng của đuôi cá lấp lánh dưới ánh sáng của rạng
đông “lóe rạng đông”. “Bạc, vàng” vừa gợi tả màu sắc sáng đẹp, vừa gợi sự giàu có của biển
khơi. Đó cũng là món quà vô giá của bà mẹ biển khơi ban tặng cho những đứa con cần cù, dũng
cảm.
- “Lưới xếp, buồm lên, đón nắng hồng”: ánh bình minh lên cũng là lúc con người kéo lưới, căng
buồm trở về. Câu thơ gợi sự nhịp nhàng giữa hoạt động của thiên nhiên và hoạt động của con
người.
3. Khổ 7: Cảnh đoàn thuyền trở về lúc bình minh.
- Câu hát mở đầu khổ thơ: “Câu hát căng buồm với gió khơi”: kết cấu đầu cuối tương ứng cho
thấy câu hát đã theo người ngư dân trong suốt cuộc hành trình:
+ Họ hát khi ra khơi với niềm lạc quan tin tưởng
+Họ hát khi đánh cá trên biển đêm với niềm hăng say hào hứng
+Và khúc hát ấy cũng theo người ngư dân trở về lúc bình minh, đó là khúc khải hoàn ca ngợi
ca chiến thắng của con người.
- Một hình ảnh cũng được lặp lại, đó là mặt trời: “Mặt trời đội biển nhô màu mới”
+ Mặt trời trong khổ đầu là mặt trời của thiên nhiên trong buổi hoàng hôn
+ Ở khổ cuối, đó cũng là mặt trời của thiên nhiên trong buổi bình minh khi đoàn thuyền trở về.
Nhưng khi kết hợp với hình ảnh “nhô màu mới” thì “mặt trời” còn gợi liên tưởng về một cuộc
sống mới, tươi sáng, huy hoàng đang chào đón những người lao động.
- Câu thơ “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” là hình ảnh nhân hóa, hoán dụ. “Đoàn thuyền”
chạy đua với thiên nhiên. Đoàn thuyền ấy cũng là những người ngư dân. Và trong cuộc chạy
đua ấy, con người đã chinh phục thiên nhiên, chiến thắng thiên nhiên.
22
- Câu thơ cuối là hình ảnh đặc sắc “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”: dưới khoang thuyền,
mắt cá được ánh mặt trời chiếu rọi cũng trở nên lấp lánh như muôn ngàn mặt trời nhỏ. Vần
“Ơi” kết thúc bài thơ tạo âm hưởng vang xa, lan rộng.
 Cảnh đoàn thuyền trở về trong buổi bình minh thật đẹp, chất chứa cả niềm vui của những
con người lao động mới, những người vừa được làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời mình.

BẾP LỬA
Bằng Việt
I. TÁC GIẢ, TÁC PHẨM.
1. Tác giả:
- Bằng Việt (1941) quê ở Hà Nội.
- Thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
- Thơ Bằng Việt có giọng điệu thủ thỉ, tâm tình.
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
- Xuất xứ: Bài thơ được in trong tập Hương cây- Bếp lửa, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu
Quang Vũ.
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác vào năm 1963, khi ấy tác giả đang là sinh viên
ngành Luật ở LiênXô (cũ).
b. Chủ đề: Bài thơ gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời
thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà, cũng là đối với gia
đình, quê hương, đất nước.
c. Thể thơ, phương thức biểu đạt:
- Thể thơ: Tự do.
- Phương thức biểu đạt: biểu cảm kết hợp với tự sự, miêu tả.
d. Nhan đề: “Bếp lửa” là hình ảnh độc đáo, sáng tạo, xuất hiện 10 lần, trở thành hình tượng
trung tâm, xuyên suốt bài thơ. Đó là hình ảnh vừa mang nghĩa tả thực vừa mang nghĩa biểu
tượng:
- Nghĩa thực: + là cái bếp được bà nhóm lên mỗi sớm chiều để chăm chút cho cháu.

23
+ là hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong bức tranh nông thôn Việt Nam thời xưa.
- Đó còn là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng:
+ bếp lửa luôn gắn liền với bà, bà nhóm bếp để chăm chút cho cháu  là hình ảnh biểu tượng
cho tình yêu thương và phẩm chất của bà.
+ bếp lửa còn là biểu tượng cho quê hương, đất nước- một đất nước còn vất vả gian lao nhưng
ấm áp tình người.
 Nhan đề góp phần làm nổi bật chủ đề bài thơ: ca ngợi tình bà cháu và rộng ra là tình yêu quê
hương đất nước.
e. Mạch cảm xúc của bài thơ: Bài thơ mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kí ức
tuổi thơ thời kì khó khăn, gian khổ sống bên bà. Từ kỉ niệm đó, người cháu thấu hiểu và có
những suy ngẫm sâu sắc về bà và về bếp lửa; kết thúc bài thơ là nỗi nhớ của cháu trong hiện tại.
 Như vậy mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm mà nâng lên
thành suy ngẫm.
II. DÀN Ý PHÂN TÍCH.
1.Khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa – khơi nguồn cảm xúc.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
- Điệp ngữ “một bếp lửa” được lặp lại hai lần với giọng điệu sâu lắng  gợi liên tưởng bếp
lửa được khơi dần lên trong kí ức của cháu, làm nổi bật hình ảnh xuyên suốt toàn bài.
- Tác giả sử dụng những từ láy giàu sắc thái biểu cảm:
+ Chờn vờn: Từ láy tượng hình vừa gợi ngọn lửa bập bùng, tỏa sáng trong bếp vừa gợi liên
tưởng hình ảnh ấy luôn chập chờn trong tâm trí cháu.
+ ấp iu: Gợi đôi bàn tay bà nhẹ nhàng, khéo léo vun vén để ngọn lửa luôn cháy lên trong bếp. Từ
này cũng gợi tấm lòng chăm chút của người nhóm lửa, giữ lửa.
- Nghĩ về bếp lửa, cháu lại nghĩ đến bà và thấy “thương bà biết mấy nắng mưa” : nắng mưa
không chỉ là hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt mà còn là hình ảnh ẩn dụ chỉ những khó khăn
gian khổ mà đời bà phải trải qua.
 Tình thương của cháu dành cho bà dạt dào mà giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm
lòng, sự thấu hiểu đến tận cùng những nỗi vất vả, nhọc nhằn lam lũ của đời bà.
 Ba câu thở mở đầu diễn tả cảm xúc trào dâng cùng những kí ức, hồi tưởng về bếp lửa, về bà;
là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của bà. Hình ảnh bếp lửa đã đánh
thức dòng hồi tưởng của người cháu- một cách khơi nguồn vô cùng tự nhiên.
2. Hồi tưởng những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà.
a. Là kỉ niệm về tuổi thơ gian khổ, nhọc nhằn.
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

24
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
- Là kỉ niệm về nạn đói.
+ Những chi tiết “mùi khói”. “Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”, “khói hun nhèm mắt” đều
gợi về nạn đói năm 1945. Đó là dấu ấn buồn thảm, kinh hoàng của cả dân tộc.
+ Từ láy “mòn mỏi” được tách ra thành “đói mòn đói mỏi” gợi cái đói dai dẳng, triền miên
kéo dài không dứt và mỗi lần nhớ lại cháu đều thấy “sống mũi còn cay”. Đó là cay vì khói bếp
nhưng cũng là nỗi xúc động nghẹn ngào của cháu khi nhớ về kỉ niệm đau thương  đó là sự
hòa quyện giữa quá khứ và hiện tại. Điều này cho ta thấy khói bếp có sức ám ảnh kì lạ lay động
cả thể chất và tâm hồn của người cháu.
- Kỉ niệm về 8 năm kháng chiến sống cùng bà.
+ Đó là kí ức về những năm tháng giặc tàn phá xóm làng “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy
rụi”, bố mẹ đi công tác xa; bà con, làng xóm đỡ đần hai bà cháu “dựng lại túp lều tranh”
+ Dòng hồi tưởng gắn liền với âm thanh của tiếng chim tu hú. Tiếng chim quen thuộc của đồng
quê mỗi độ hè về bỗng trở nên thân thương trong kí ức tuổi thơ. Âm thanh da diết, khắc khoải
ấy vừa gợi tình cảnh vắng vẻ, côi cút của hai bà cháu vừa làm thức dậy những hoài niệm nhớ
mong “Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/ Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
b. Cháu hồi tưởng về tuổi thơ được sống trong tình yêu thương của bà.
- “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa” ứng với chiều dài cuộc kháng chiến chống Pháp của
dân tộc. Tám năm cháu sống với bà là một quãng thời gian cháu nhận được tình yêu thương, sự che
chở của bà. Tám năm ấy dù vô cùng khó khăn nhưng tràn đầy tình yêu thương.
“Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”.
+ Điệp từ “bà- cháu” được lặp lại 4 lần, xuất hiện song hành  gợi tình bà cháu quấn quýt bên
nhau.
+ Phép liệt kê những việc làm, hành động của bà dành cho cháu “ bà kể chuyện”, “bà bảo cháu”,
“bà dạy cháu”, “bà chăm cháu” vừa diễn tả tình yêu thương vô bờ bến của bà dành cho cháu đồng
thời thể hiện lòng biết ơn của cháu với bà: từ con chữ đầu tiên đến những bài học làm người đầu đời
của cháu đều do một tay bà dạy bảo.
- Trong những năm tháng chiến tranh ấy, bố mẹ công tác xa, giặc tàn phá xóm làng nhưng bà vẫn
vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách, bà dặn cháu:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”
Bà đã trở thành điểm tựa vững vàng cho con cháu, bà nhận hết phần khó khăn, gian khổ về mình.
Đó là người bà giàu tình yêu thương và đức hi sinh. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, việc
làm của bà cũng là biểu hiện của lòng yêu nước, bà đã trở thành hậu phương vững chắc để các con
nơi tiền tuyến yên tâm công tác.

25
 Bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố biểu cảm với tự sự và miêu tả, thông qua dòng hồi
tưởng, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp của bà – một người phụ nữ tảo tần, giàu tình yêu thương và đức
hi sinh. Qua đó người đọc cũng cảm nhận được lòng biết ơn và nỗi nhớ thương vô hạn của cháu đối
với bà.
3. Khổ 5,6: Suy ngẫm về bà và về bếp lửa.
a. Suy ngẫm về bà.
* Suy ngẫm về cuộc đời bà.
- Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
+ Điệp từ “rồi” kết hợp với hai mốc thời gian “sớm” , “chiều” và phó từ “lại” gợi hình ảnh
người bà tần tảo, mỗi sớm, mỗi chiều nhóm bếp để chăm sóc cháu.
+ Điệp ngữ “Một ngọn lửa” với kết cấu song hành khiến giọng thơ ngân vang mạnh mẽ, bộc
lộ niềm xúc động, tự hào của cháu về bà và về bếp lửa.
+ Trong câu thơ đầu, “bếp lửa” là hình ảnh cụ thể mang ý nghĩa tả thực. Đến hai câu sau, hình ảnh
ấy đã chuyển hóa thành “ngọn lửa”. Đây là hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa biểu tượng, khái quát : là
ngọn lửa của tình yêu thương vô bờ bến mà bà dành cho cháu, là ngọn lửa của niềm tin mãnh liệt, bất
diệt mà bà truyền cho cháu.
+ Dấu chấm lửng ở cuối đoạn thơ cho thấy còn biết bao ngọn lửa ăm ắp tình yêu thương nữa đã và
sẽ được thắp lên trong lòng bà.
 Bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người giữ lửa, ngọn lửa của tình yêu thương và niềm
tin!
- Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.
+ Từ láy “Lận đận” (vất vả, cực nhọc) kết hợp với cụm từ “biết mấy nắng mưa” vừa gợi sự
trôi chảy của thời gian vừa là hình ảnh ẩn dụ về cuộc đời khó khăn, vất vả với bao nỗi lo toan
của bà.
+ “Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ” là một khoảng thời gian dài. Trong suốt cuộc đời, bà
luôn giữ thói quen dậy sớm, nhóm bếp, chăm chút, lo toan.
 bà là người phụ nữ tảo tần, chịu thương chịu khó, đó là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam
truyền thống, giàu tình yêu thương và đức hi sinh.
* Suy nghĩ về công việc nhóm bếp của bà:
Bà không chỉ nhóm bếp bằng đôi bàn tay già nua gầy guộc mà còn nhóm lên bằng tất cả tấm
lòng đôn hậu:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

26
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.
- Điệp từ “Nhóm” được nhắc lại 4 lần ở đầu mỗi câu thơ nhằm khẳng định, nhấn mạnh giá trị lớn
lao của công việc mà bà đã làm.
- Từ “Nhóm” trong đoạn thơ là từ nhiều nghĩa:
+ Nghĩa gốc (trong câu thứ nhất và câu thứ ba): là hành động làm cho lửa bén và cháy lên trong
bếp, là công việc hàng ngày của bà.
+ Nghĩa chuyển (trong câu thứ hai và câu thứ tư): là khơi dậy. Bà đã khơi dậy trong cháu những
tình cảm cao quý, đó là tình yêu thương đoàn kết xóm làng, là tình yêu quê hương đất nước. Bà còn
khơi dậy lên trong cháu những kí ức tuổi thơ đẹp đẽ mà mỗi lần nhớ lại cháu đều thấy bồi hồi xúc
động.
 Như vậy, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa.
b. Suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa.
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng- bếp lửa!
- Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với cấu trúc đảo tính từ “kì lạ” “thiêng liêng” thể hiện sự ngỡ ngàng,
ngạc nhiên, xúc động của cháu khi khám phá ra những điều kì lạ và thiêng liêng về bếp lửa.
+ “Kì lạ” vì bếp lửa bà được nhen lên không chỉ bằng những nhiên liệu bình thường mà
còn bằng tình yêu thương, niềm tin của bà.
+ “Thiêng liêng” vì bếp lửa luôn hiện hữu cùng người bà- người phụ nữ Việt Nam với vẻ
đẹp tần tảo, nhẫn nại và đầy tình yêu thương. Bếp lửa không chỉ là hình ảnh thân thuộc
được bà nhóm lên mỗi sớm chiều mà còn là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho tình yêu thương,
phẩm chất của bà; là hình ảnh gợi nhắc về quê hương, một đất nước còn vất vả gian lao
nhưng ấm áp tình người. Bếp lửa ấy có sức lan tỏa, sưởi ấm và nâng đỡ tâm hồn cháu trong
suốt cả cuộc đời.
4. Nỗi nhớ da diết, khôn nguôi.
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...
- Khổ thơ nói về hoàn cảnh của đứa cháu trong hiện tại: cháu đã lớn khôn, đã được bay cao, bay
xa, đến với những chân trời rộng mở. Dấu chấm giữa dòng thơ thứ nhất như khép lại dòng hồi
tưởng, diễn tả cảm xúc nghẹn ngào, mở ra dòng cảm xúc của hiện tại.
- Điệp từ “có”, “trăm” kết hợp với nghệ thuật liệt kê: ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui
trăm ngả mở ra một thế giới vô cùng rộng lớn và mới mẻ. Người cháu đã có cuộc sống mới,
đầy đủ, tiện nghi với bao niềm vui mới.
- Từ “Nhưng” ở đầu câu thứ ba như một lời khẳng định: cháu vẫn khôn nguôi nhớ về bà và bếp
lửa. Bà và quê hương chính là điểm tựa để người cháu vững chắc trên bước đường đời.

27
- Câu hỏi tu từ và dấu chấm lửng ở cuối bài thơ đã thể hiện nỗi nhớ khắc khoải, thường trực,
đau đáu của cháu về bà- đó cũng chính là nỗi nhớ quê hương, nhớ cội nguồn. Nỗi nhớ ấy vượt
qua mọi thời gian và không gian.
 Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa triết lí sâu xa, thầm kín: những gì thân thiết nhất của tuổi thơ
mỗi con người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc
đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là một biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự
gắn bó với gia đình, quê hương, đất nước.

LÀNG (Kim Lân)


I) TÁC GIẢ- TÁC PHẨM.
1.Tác giả
- Tên thật : Nguyễn Văn Tài (Bút danh Kim Lân). Sinh năm 1921, quê ở Từ Sơn- Bắc Ninh
- Ông là nhà văn có sở trường về truyện ngắn, có sáng tác đăng báo từ trước Cách mạng tháng
Tám.
- Kim Lân am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân → Truyện của ông
thường viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân.
2) Tác phẩm
a) Hoàn cảnh sáng tác:
Năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, người dân phải tản cư.
b) Chủ đề : Ca ngợi tình yêu làng, yêu nước của những người nông dân trong thời kì kháng
chiến chống Pháp.
c) Tóm tắt truyện: Trong kháng chiến, ông Hai - người làng chợ Dầu, buộc phải rời làng .
Sống ở nơi tản cư, lòng ông day dứt nhớ về quê hương. Ngày nào ông cũng ra phòng thông tin
theo dõi tình hình chiến sự và làng Dầu. Bao nhiêu là tin thắng trận khiến ruột gan ông cứ múa
cả lên. Một hôm, ông Hai nghe tin làng Dầu làm Việt gian theo giặc, lòng ông đau xót và nhục
nhã vô cùng. Ông không dám đi đâu, chỉ ru rú ở nhà. Nghe bất cứ ai nói chuyện gì, ông cũng
nơm nớp lo sợ. Bà chủ nhà đã đuổi khéo gia đình ông. Ông Hai lâm vào hoàn cảnh bế tắc:
không thể về làng vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, cũng không thể đi đâu khác- không
đâu người ta chứa người làng chợ Dầu Việt gian. Cuối cùng ông đã quyết định không về làng
28
nữa, làng đã theo Tây thì phải thù. Ông thường tâm sự với đứa con út để nỗi buồn vơi đi phần
nào. Mấy ngày sau, ông nghe tin cải chính về làng kèm theo cái tin nhà ông bị Tây đốt nhẵn.
Ông lão lật đật chạy đi báo cái tin ấy với tất cả mọi người.
d) Ngôi kể: Ngôi thứ ba nhưng điểm nhìn di chuyển vào nhân vật ông Hai:
 Tác dụng
- Tạo tính khách quan, đi sâu vào diễn biến tâm lý nhân vật một cách cụ thể và tinh tế.
- Bao quát được tất cả các đối tượng để các nhân vật đánh giá lẫn nhau, tạo cái nhìn nhiều chiều
về nhân vật chính.
- Dễ dàng thay đổi không gian kể.
e) Tình huống:
- Ông Hai rất yêu và tự hào về ngôi làng Chợ Dầu của mình nhưng một hôm ông bỗng nghe tin
làng mình theo giặc.
- Đang trong tâm trạng đau đớn, tủi nhục thì ông nghe tin cải chính: làng Dầu vẫn là làng kháng
chiến.
 Ý nghĩa:
+ Là chi tiết thắt nút, mở nút để câu chuyện được phát triển.
+ Góp phần bộc lộ vẻ đẹp của nhân vật ông Hai…
+ Góp phần thể hiện chủ đề của truyện.

g) Ý nghĩa nhan đề:


- “Làng Dầu” là một danh từ riêng, chỉ một ngôi làng cụ thể. Nếu đặt tên truyện là “Làng Dầu”
thì vấn đề tác giả đề cập chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp của một ngôi làng.
- “Làng” là danh từ chung, chỉ mọi ngôi làng trên khắp đất nước. Cách đặt tên nhan đề là
“Làng” cho thấy truyện đã khai thác một vấn đề, một tình cảm bao trùm, phổ biến, mang tính
khái quát, đó là tình yêu làng, yêu nước của người nông dân trên khắp mọi miền đất nước.
 Nhan đề góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm …
II) PHÂN TÍCH.
1) Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai
a. Trước khi nghe tin làng Dầu theo giặc.
- Vì cuộc kháng chiến, ông Hai phải rời làng đi tản cư. Ở đó, ông vẫn không nguôi nhớ về làng:
Ông nằm nghĩ vẩn vơ và nhớ về những ngày cùng được anh em tham gia kháng chiến “đào
đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…” → Ông nhớ làng da diết, nỗi nhớ ấy gắn với công việc
kháng chiến
- Hàng ngày, ông thường ra phòng thông tin nghe đọc báo để theo dõi tình hình chiến sự của đất
nước và làng Dầu.
+ Nghe chẳng sót câu nào: ông không biết chữ nhưng vẫn rất ham tin tức
+ Khi nghe tin quân ta chiến thắng ở nhiều nơi ông rất vui và tự hào “ruột gan ông lão cứ múa
cả lên” nghe tin nào ông cũng bình luận sôi nổi
+ Ông luôn hỏi thăm tin tức về làng Chợ Dầu
29
→ Ông Hai có tấm lòng với đất nước và cách mạng và canh cánh nỗi nhớ làng da diết
b. Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc
* Khi nghe tin:
- Trong thâm tâm ông luôn nghĩ làng mình trung thành với cách mạng nên khi nghe tin, ông lão
sững sờ và đau đớn, nhà văn miêu tả nhân vật để bộc lộ tâm trạng
+ Cổ họng ông lão “nghẹn ắng cả lại, da mặt tê rân rân”
+ Ông lão “lặng đi, không thở được”
→ Tin bất ngờ và quá sức tưởng tượng
- Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông hỏi lại: liệu có thật không hở bác? bởi ông vẫn hi vọng
đó chỉ là tin đồn thất thiệt.
- Nhưng khi người đàn bà tản cư khẳng định, ông xấu hổ, đứng dậy, vươn vai đánh trống lảng
để đi về: Hà, nắng gớm, về nào…
* Trên đường về nhà,: ông cúi gằm mặt xuống mà đi trong nỗi xấu hổ, sợ người ta hỏi đến và
ông lo lắng khi “thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà”
* Về đến nhà:
- Ông “nằm vật ra giường” trong nỗi chán nản đến tuyệt vọng.
- Nhìn lũ con “nước mắt ông lão cứ giàn ra”  Hình thức ngôn ngữ độc thoại nội tâm cùng
hàng loạt những câu hỏi tu từ đã khắc họa tâm trạng đau khổ, tủi thân về thân phận của mình và
các con. Ông thương lũ con còn bé mà đã mang tiếng là người làng Việt gian.
- Rồi ông thấy căm giận những người dân ở lại làng đã can tâm theo giặc. Sự căm giận ấy lên
đến cao độ, buột thành lời đối thoại “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi
làm cái giồng Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”
- Nhưng ông vẫn nghi ngờ và kiểm điểm từng người bởi trong lòng ông vẫn có một niềm tin
mãnh liệt về tinh thần kháng chiến của những người làng Dầu.
- Khi nghĩ đến lời của người đàn bà tản cư với chi tiết về thằng Chánh Bệu thì ông lại đau đớn
khẳng định “ Ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì? Không có lửa làm sao có
khói?”.
+ Ông dằn vặt, xót xa, tự hỏi rồi lại tự trả lời và xót xa, tủi nhục “Chao ôi! Cực nhục chưa! Cả
làng Việt gian”
+ Ông lo lắng cho mình và cho những người đồng hương “Rồi đây biết làm ăn buôn bán ra
sao…”
 Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế với hình thức ngôn ngữ độc thoại nội tâm, độc thoại
cùng những câu cảm thán, câu hỏi tu từ; tác giả Kim lân đã làm nổi bật tâm trạng ngổn ngang,
rối bời, đau xót của nhân vật ông Hai. Qua đó ta thấu hiểu thêm tình cảm sâu sắc của ông đối
với làng quê, với đất nước.
* Mấy ngày hôm sau:
- Ông không ra ngoài và tiếp xúc với ai, bỏ thói quen ra phòng thông tin, bởi ông sợ người ta
hỏi mình

30
- Cứ hễ thấy dăm ba người tụ tập hay những tiếng như “Việt gian”, “cam nhông” là ông lại
chột dạ, lo lắng và nghĩ người ta đang nói chuyện của mình “Thôi, lại chuyện ấy rồi”
 Tác giả đã diễn tả cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên cùng với nỗi
đau xót tủi nhục của ông Hai trước tin làng mình theo giặc.
* Nỗi lo lắng của ông đã trở thành sự thật khi mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi.
+ Trong ông diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt. Ông thoáng nghĩ: “Hay là về làng”
+ Vừa nghĩ là ông lại phản đối ngay, vì về làng là phản bội cụ Hồ và ông quyết định dứt khoát:
“Làng thì yêu thật,nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”
 Bản thân ông rất yêu làng. Nhưng khi có sự đấu tranh lựa chọn làng và nước, ông đã chọn
đất nước, cách mạng. Tình yêu nước, tinh thần ủng hộ kháng chiến còn lớn hơn và bao trùm
tình yêu làng.
* Tuy đã quyết định dứt khoát nhưng tình cảm của ông Hai vẫn hướng về làng dầu với nỗi
nhớ thương thường trực. Ông đành giãi bày tâm trạng, nỗi lòng mình với con trai út ( Ông
không thể trò chuyện với những người hàng xóm vì lúc này họ đang căm ghét, khinh bỉ những
người dân làng Dầu. Ông cũng không thể trò chuyện với vợ vì mỗi lần nhắc đến điều đó bà Hai
lại khóc, những giọt nước mắt của bà chỉ càng làm cho ông thêm rối trí. Chỉ có thằng Húc còn
nhỏ dại, sự ngây thơ của nó sẽ làm cho lòng ông dịu lại)
- Ông hỏi con: “Thế nhà con ở đâu?” hay “Thế con có muốn về làng không?” chính là muốn
xác nhận mình vẫn là thành viên của làng Dầu và muốn đứa con của mình nhớ về quê hương,
cội nguồn.
- Dù đang bị nghi ngờ, bị đẩy vào nỗi uất ức, tủi nhục đến tột cùng nhưng ông Hai vẫn một lòng
ủng hộ kháng chiến, cách mạng và cụ Hồ. Vẫn một mực mong mỏi, tin tưởng tấm lòng mình sẽ
được “xét soi”
- Tấm lòng trung thành với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là cụ Hồ được thể hiện
qua câu nói như một lời thề “Anh em đồng chí…đơn sai”
 Bằng hình thức ngôn ngữ đối thoại, độc thoại; người đọc đã cảm nhận được tình yêu làng
tha thiết, mãnh liệt của ông hai. Tình cảm ấy gắn liền với tình yêu nước, tinh thần ủng hộ kháng
chiến. Đó là sự hòa quyện giữa tình cảm truyền thống với những tình cảm mới mẻ của những
người nông dân trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

c. Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng vẫn là làng kháng chiến
- Ông tươi vui, rạng rỡ hẳn lên → ông rất vui và sung sướng. Tác giả miêu tả ngoại hình để bộc
lộ tâm trạng “cái mặt buồn thỉu….rạng rỡ hẳn lên”
- Ông mua quà cho lũ trẻ con
- Ông lại đi khoe làng bị cháy, khoe nhà ông bị đốt nhẵn  Chi tiết tưởng như vô lí nhưng lại
phù hợp với tâm trạng của ông lúc này bởi đó là bằng chứng duy nhất chứng tỏ làng ông vẫn là
làng kháng chiến  Niềm vui của ông Hai là niềm vui của người nông dân coi danh dự ngôi
làng hơn giá trị vật chất của cá nhân. Đó là niềm vui của người vừa giữ được tình làng vừa trọn
vẹn nghĩa nước.

2) Hình ảnh những người nông dân khác


31
- Anh dân quân tự vệ và mọi người xem thông tin → những người dân không thờ ơ với cách
mạng
- Người đàn bà đi tản cư → căm ghét những kẻ làm Việt gian theo giặc.
- Bà Hai là người phụ nữ tần tảo, sợ, lo lắng cho gia đình. Khi nghe tin làng theo Tây, bà cũng
buồn nhưng kín đáo hơn.
- Mụ chủ nhà rất chua ngoa, đanh đá, tham lam, hay soi mói, cạnh khóe. Khi nghe tin làng Dầu
theo giặc, bà cũng căm ghét, không cho gia đình ông Hai ở nữa. Nhưng khi nghe tin cải chính,
bà ta cũng sung sướng từ đáy lòng, mời gia đình ông ở lại.
- Thằng Húc -con ông Hai- mới có mấy tuổi nhưng cũng biết ủng hộ cách mạng, ủng hộ cụ Hồ,
cảm nhận được sự xấu hổ…
 Những người nông dân này đều có một lòng yêu nước căm thù giặc. Họ góp phần làm nổi
bật vẻ đẹp của nhân vật chính và làm nổi bật chủ đề tác phẩm.

LẶNG LẼ SA PA
- Nguyễn Thành Long-
II. TÁC GIẢ - TÁC PHẨM.
1. Tác giả: Nguyễn Thành Long (1925-1991) quê ở Quảng Nam, viết văn từ thời kháng chiến
chống Pháp, là cây bút chuyên về truyện ngắn và kí.
2. Tác phẩm
a) Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác:
- Xuất xứ: Trích trong cuốn “Giữa trong xanh” (1972).
- Hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác năm 1970, thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt trên cả
hai miền Nam - Bắc. Tác giả viết sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai.
b) Chủ đề: Qua câu chuyện kể về những nhân vật không tên, tác giả muốn ngợi ca những người lao
động hăng say lao động, cống hiến âm thầm lặng lẽ cho đất nước: Trong cái lặng lẽ, vắng vẻ của
núi cao Sa Pa, nơi nghe tên người ta chỉ nghĩ đến sự nghỉ ngơi, vẫn có bao người ngày đêm làm
việc miệt mài, say mê dâng hiến tuổi trẻ và tình yêu cho đất nước.
c) Thể loại: Truyện ngắn.
d) Tình huống truyện: cuộc gặp gỡ tình cờ giữa anh thanh niên ở trạm khí tượng Yên Sơn với ông
hoạ sĩ già và cô kĩ sư trẻ trên đỉnh Yên Sơn cao 2.600m.
 ý nghĩa :+ để cho mạch truyện được phát triển tự nhiên.
+ tạo thuận lợi để tác giả khắc hoạ chân dung nhân vật một cách tự nhiên.
+ góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm (…)
e) Ngôi kể : Truyện sử dụng ngôi kể thứ 3 nhưng điểm nhìn di chuyển vào nhân vật ông hoạ sĩ.

32
 Tác dụng :
- Đảm bảo tính khách quan, vẻ đẹp của nhân vật hiện lên qua cái nhìn nhiều chiều của các nhân
vật.
- Dễ dàng thay đổi không gian kể.
- Đan xen những lời bình luận, đánh giá thể hiện quan điểm của nhân vật ông hoạ sĩ về con người,
cuộc sống và về nghệ thuật.
g) Nhan đề : Nhan đề có cấu trúc đảo, đảo từ “lặng lẽ” lên trước từ “Sa Pa” nhấn mạnh sự lặng
lẽ.
- Từ láy “lặng lẽ” vừa gợi hình, vừa gợi cảm, lặng lẽ cả bề ngoài cảnh vật và cả bên trong công
việc của con người nơi đây.
+ “Lặng lẽ” đi với địa danh Sa Pa, người đọc tưởng như câu chuyện chỉ nói về một vùng đất yên
tĩnh, thơ mộng. Nhưng trong cái yên lặng đó có những con người ngày đêm miệt mài, say mê với
công việc của mình, âm thầm cống hiến tuổi trẻ cho quê hương, đất nước.
+ “Lặng lẽ” mà không hề “lặng lẽ” bởi nhiệt huyết tuổi trẻ luôn sôi động trong trái tim, suy nghĩ
và hành động của họ  nhan đề góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm (…)
II. PHÂN TÍCH.
1. Nhân vật anh thanh niên:
a) Vị trí của nhân vật: Là nhân vật chính, anh không xuất hiện ở đầu tác phẩm mà hiện ra trong
cuộc gặp tình cờ với ông họa sĩ, cô kĩ sư và qua lời giới thiệu của bác lái xe.
- Dù anh chỉ xuất hiện trong chốc lát nhưng cũng đủ để mọi người ghi nhận một “kí họa
chân dung về anh rồi anh lại khuất lấp vào trong mây mù bạt ngàn với cái lặng lẽ của Sa Pa”.
b) Hoàn cảnh sống và làm việc:
- Anh thanh niên 27 tuổi, sống và làm việc một mình trên đỉnh núi cao, quanh năm suốt tháng chỉ
có cây cỏ, mây núi, là người “cô độc nhất thế gian”
- Công việc của anh: làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu, chuyên đo gió, đo mưa, đo nắng,
đo chấn động mặt đất, dự báo thời tiết => Công việc tỉ mỉ đòi hỏi phải chính xác, có tinh thần trách
nhiệm cao (nửa đêm, đúng giờ … dù mưa tuyết, gió lạnh đến thế nào cũng phải trở dậy, ra ngoài
trời làm công việc quy định)
- Sự vắng vẻ, heo hút của nơi ở, sự đơn điệu trong công việc … là thử thách thực sự đối với tuổi trẻ
vốn khát khao bầu trời rộng, khát khao hành động, khám phá. Nhưng thử thách lớn nhất đối với
chàng trai ấy là vượt qua sự cô đơn  anh đã vượt qua được tất cả để sống một cuộc sống đẹp, có
ích cho đời.
c ) Phẩm chất tốt đẹp:
* Tấm lòng yêu đời, yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc của mình.
- yêu đời: Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần nhưng anh vẫn biết sắp xếp,
lo toan cuộc sống riêng của mình một cách ngăn nắp, ổn định:
+ Căn nhà của anh thật gọn gàng, ngăn nắp “Một ngôi nhà ba gian sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách,
biểu đồ, thống kê…”

33
+ Anh trồng hoa. Một vườn hoa với đủ sắc màu giữa vùng núi cao khiến cô kĩ sư phải “ồ” lên một
cách thích thú. Vướn hoa ấy thể hiện tâm hồn tươi mát, mộng mơ, tình yêu cuộc sống của anh
thanh niên.
+ Anh còn nuôi gà, việc làm ấy vừa thêm thực phẩm vừa tạo không khí gia đình vui tươi, đầm ấm.
+ Anh coi sách là người bạn giúp anh mở mang tri thức, hiểu biết về thế giới rộng lớn.
 Đó là một lối sống giản dị mà đẹp đẽ khiến anh quên đi hoàn cảnh một mình nơi núi cao.
- Yêu nghề: Đã mấy năm sống trên đỉnh Yên Sơn bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, công
việc hàng ngày là đo gió, đo mưa,… nhiều đêm phải đối chọi với gió tuyết và lặng im (…) Đó thực
sự là một thử thách đối với chàng trai trẻ (vốn thích hành động và những chân trời rộng). Vậy mà
anh vẫn rất yêu công việc của mình.
+ Điều đó được thể hiện trong qua suy nghĩ rất đẹp của anh về công việc “Huống chi việc của
cháu gian khổ thế đấy, chứ vất nó đi, cháu buồn đến chết mất,…”. Với anh:
 Công việc là bạn: khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?
 Công việc là sợi dây gắn kết anh với mọi người: công việc của cháu còn gắn liền với bao anh
em đồng chí dưới kia.
 Công việc là niềm vui: chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất,…
- Anh thấy hạnh phúc khi công việc của mình có ý nghĩa, đóng góp vào sự nghiệp chung của đất
nước. Khi biết được một lần do phát hiện kịp thời một đám mây khô mà không quân ta bắn rơi
nhiều máy bay Mĩ trên cầu Hàm Rồng, anh thấy mình “thật hạnh phúc”…
- Có tinh thần trách nhiệm cao với công việc:
+ Công việc mỗi ngày của anh là “Đo gió, đo mưa, đo nắng…” nhằm dự vào việc báo trước thời
tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất và chiến đấu. Công việc này đòi hỏi sự tỉ mỉ, chính xác và có tinh
thần trách nhiệm cao.
+ hàng ngày anh phải báo “ốp” vào đúng các giờ: 4h sáng, 11h trưa, 7h chiều. Nhưng gian khổ
nhất là vào lúc 1h sáng “Rét, bác ạ”; xách đèn ra vườn, gió, bão tuyết ào xô tới, như muốn quét
đi…Vậy mà suốt4 năm, anh chứaai một giờ ốp nào.
 Điều đó chỉ có ở những con người có tình yêu và tinh thần trách nhiệm cao với công việc.
* Anh có lòng hiếu khách đến nồng nhiệt, luôn quan tâm đến người khác một cách chu đáo.
- Lòng hiếu khách: + Ngay từ những phút gặp gỡ ban đầu, lòng mến khách, nhiệt tình của anh đã
gây được thiện cảm tự nhiên đối với người họa sĩ và cô kĩ sư. Niềm vui được đón khách dào dạt
trong lòng anh, toát lên từ nét mặt, cử chỉ (dẫn chứng).
+ Anh hồ hởi đón mọi người lên thăm nhà, hồn nhiên kể về công việc, cuộc sống nơi núi cao Sa Pa
lặng lẽ, anh trân trọng từng phút giây của cuộc gặp gỡ, chính anh đã giật mình nói to đầy tiếc rẻ
“Trời ơi, chỉ còn có 5 phút”.
+ Khi chia tay, anh bối rối, xúc động, giúi vội làn trứng rồi “quay mặt đi”
- Anh chân thành, gần gũi và luôn quan tâm đến tất cả mọi người:
+ Bác lái xe đã trở thành người bạn thân tình của anh. Anh chu đáo nhớ cả việc vợ bác vừa ốm dậy
và gửi củ tam thất làm quà cho bác.
+ Anh hái một bó hoa rực rỡ tặng người con gái chưa hề quen biết. Lúc chia tay còn biếu bác họa
sĩ và cô kĩ sư giỏ trứng để ăn đường.

34
 Đó là những biểu hiện của một tấm lòng tận tình, đáng quý.
* Anh là người rất khiêm tốn.
- Luôn cảm thấy đóng góp của mình thật bình thường, nhỏ bé so với người khác: trong khi mọi
người ngưỡng mộ độ cao 2600m của anh thì với anh, được làm ở độ cao trên 3000m như anh bạn
trên đỉnh Phan-xi-păng mới là lí tưởng.
- Anh ngượng ngùng khi ông họa sĩ phác thảo chân dung mình. Con người khiêm tốn ấy hào hứng
giới thiệu cho ông họa sĩ những người mà theo anh đáng để vẽ hơn mình. Đó là ông kĩ sư vườn rau
vượt qua bao khó khăn, vất vả để tạo ra những củ su hào to lớn, ngon hơn cho người dân miền Bắc.
Là anh cán bộ nghiên cứu sét suốt 11 năm chuyên tâm nghiên cứu lập ra bản đồ sét để tìm ra những
mỏ tài nguyên cho đất nước…
Bằng cốt truyện nhẹ nhàng, chân thực, tác giả đã khắc họa được chân dung nhân vật chính
với những nét đẹp đáng quý. Anh thanh niên là hình ảnh tiêu biểu cho những con người ở Sa Pa, là
chân dung người lao động mới.
2. Các nhân vật khác.
a. Những người đi qua Sa Pa ( vài trò: làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật chính)
* Nhân vật ông họa sĩ:
- Vai trò: Tuy không kể bằng ngôi thứ nhất nhưng hầu như người kể chuyện đã nhập cái nhìn và
suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để quan sát và miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của
truyện. Đây cũng là nhân vật để tác giả gửi gắm những quan niệm về cuộc sống, về con người và
nghệ thuật.
- Ông họa sĩ là nghệ sĩ chân chính, một người yêu nghề tha thiết:
+ Ông khao khát kiếm tìm cái đẹp đích thực trong cuộc sống. Vì thế mà đã sắp về hưu nhưng ông
vẫn tiến hành một chuyến đi đầy gian khổ để khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa.
+ Ngòi bút như là một quả tim nữa của ông vì suối đời ông chỉ đi và vẽ, ông khao khát sáng tạo
nghệ thuật. Lúc nào ông cũng trăn trở phải vẽ được cái gì mà suốt đời mình thích.
+ Ngay từ phút đầu gặp gỡ, bằng cả sự từng trải nghệ thuật và khao khát tìm cái đẹp của cuộc sống,
ông đã nhận ra vẻ đẹp từ tâm hồn anh thanh niên và thực sự thấy bối rối, xúc động “Vì họa sĩ đã
bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, ôi, một nét đẹp thôi cũng để khẳng định một
tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác,…”
+ Ông phát hiện ra vẻ đẹp mới ở Sa Pa, đẹp hơn cả thiên nhiên Sa Pa, đó là vẻ đẹp từ tâm hồn con
người ở Sa Pa. Và ông cảm nhận được anh thanh niên chính là đối tượng khơi nguồn cho cảm xúc.
Ông họa sĩ muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên bằng nét bút kí họa, và “ người con trai ấy đáng
yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá.Với những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh. Và về
những điều anh suy nghĩ…”.
 Từ ông, ta thấy được mục đích của người làm nghệ thuật là tìm ra cái đẹp tiềm ẩn trong cuộc
sống, trong con người.
- Ông yêu cuộc sống, yêu con người:
+ Chính bằng tình yêu cuộc sống, ông đã phát hiện và xúc động trước vẻ đẹp của thiên nhiên Sa
Pa…Thiên nhiên Sa Pa như đẹp đến hai lân trong văn bản…
+ Tình yêu con người giúp ông cảm nhận được vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên cũng như vẻ
đẹp của những con người nơi Sa Pa lặng lẽ. Vì thế ông đã hứa: “Chắc chán rồi tôi sẽ trở lại”
35
* Nhân vật cô kĩ sư:
- Góp phần làm câu chuyện thêm hấp dẫn và làm nổi bật vẻ đẹp của anh thanh niên. Cô đã điểm
một nét vẽ nhẹ nhàng, duyên dáng vào câu chuyện.
- Cô là kĩ sư trẻ mới ra trường, hăng hái xung phong lên Lào Cai công tác. Vừa trải qua cuộc đời
học trò chập hẹp, bước vào cuộc sống bát ngát mới tinh, cái gì cũng làm cô háo hức. Khát khao bầu
trời cao rộng, cô có thể đi bất kì đâu, làm bất kể việc gì.
- Mới bước vào đời, cô gặp anh thanh niên tựa như một tấm gương, tự soi để tự hiểu mình, nghĩ về
mối tình nhạt nhẽo mà cô đã chối bỏ.
- Ôm bó hoa được tặng, lắng tai nghe câu chuyện của anh thanh niên rồi trầm ngâm lặng lẽ, cô xúc
động khi nhìn thấy trang sách anh thanh niên đọc để trên bàn, cô bàng hoàng nhận ra con đường đi
cho mình, càng vững tin vào con đường mình đã chọn và đang đi.
=> Làm bừng dậy những tình cảm lớn lao khi phát hiện ra ánh sáng đẹp đẽ tỏa ra từ cuộc sống và
tâm hồn con người khác.
- Cô biết ơn anh thanh niên không chỉ vì bó hoa anh đã tặng cho cô mà còn bởi “một bó hoa nào
khác nữa”: bó hoa vô hình ấy chính là những nhận thức mới mẻ về cuộc đời, về con người, là nhiệt
huyết tuổi trẻ mà anh thanh niên đã truyền cho cô, vì thế cô bỗng thấy “hàm ơn” người con trai
giản dị giữa nơi rừng núi lặng lẽ này.
 Nhân vật cô kĩ sư góp phần tạo chất thơ cho câu chuyện
* Nhân vật bác lái xe:
- Bác như một nhân vật dẫn chuyện nhưng làm ta khó quên. Bác rất vui tính, cởi mở, nhiệt tình với
khách.
-Nhân vật này đã dẫn dắt truyện, kích thích sự tò mò cho ông họa sĩ và cô kĩ sư, sơ lược về anh
thanh niên trước khi 2 người gặp anh “… Tôi sắp giới thiệu với bác một người cô độc nhất thế
gian. Thế nào bác cũng thích vẽ hắn …”.
=> Góp phần làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên  Đây là thủ pháp rất thành công
trong việc xây dựng nhân vật chính.
b. Những nhân vật ở Sa Pa.
(Đây là những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của
anh thanh niên  góp phần làm nổi bật chủ đề tác phẩm.)
* Ông kĩ sư vườn rau : hàng ngày ông ngồi ngoài vườn chăm chú quan sát ong lấy mật, thụ phấn
cho hoa rồi tự tay cầm que thụ phấn cho hàng vạn cây su hào để hạt giống làm ra tốt hơn, tạo ra cây
su hào to hơn, ngọt hơn cho nhân dân miền Bắc.
* Anh cán bộ nghiên cứu sét : Mười một năm ròng túc trực để chờ sét, luôn ở trong tư thế “sẵn
sàng suốt ngày chờ sét”, quên cả hạnh phúc riêng để hoàn thành bản đồ sét, giúp tìm tài nguyên
cho đất nước.
* Anh bạn đồng nghiệp của anh thanh niên trên đỉnh Phan-xi-păng cao hơn 3000m
 Những nhân vật này dù được giới thiệu gián tiếp và xuất hiện rất ít trong tác phẩm nhưng họ đã
tạo thành cái thế giới những con người như anh thanh niên, những con người miệt mài lao động
khoa học trong lặng lẽ mà khẩn trương vì lợi ích của đất nước, vì cuộc sống của mọi người. Cuộc
sống của họ lặng lẽ mà nhân ái biết bao !
3. Thiên nhiên Sa Pa
36
- Thiên nhiên Sa Pa là một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn và góp phần tạo nên chất trữ
tình cho câu chuyện.
- Hình ảnh thiên nhiên Sa Pa mang vẻ đẹp thơ mộng, độc đáo, kì lạ.
+ Đó là nơi núi cao, thác đổ trắng xóa, với mây, nắng, gió, sương đều rất lạ.
+ Sự bắt đầu của Sa Pa là những rặng đào ven đường hay những đàn bò lang cổ có đeo chuông la
đặc trưng hữu tình của cuộc sống muôn màu, muôn vẻ nơi đây. Hình ảnh rừng cây đầu mùa bao
bọc lấy nhau “Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc
dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu
xanh của rừng”.
+ Nhất là vẻ đẹp của nắng khiến cảnh sắc thêm lộng lẫy “Nắng bây giờ bắt đầu len tới, đốt cháy
rừng cây”, “nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng
chiếu làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ và làm cho cô gái cảm thấy mình rực rỡ theo”. Người ta
cảm thấy như bị cuốn đi theo nhịp chạy của mây hay đầy xúc cảm trong sự cuốn hút của nắng.
 Chỉ là những nét phác họa nhưng cảnh thiên nhiên hiện lên đẹp như những bức tranh, đẹp đến
hai lần- cái đẹp tự nhiên của nó và cái đẹp qua tâm hồn người nghệ sĩ của họa sĩ.
- Thiên nhiên đẹp làm nền tôn thêm vẻ đẹp của con người nơi đây. Những đỉnh Yên Sơn, Phan-xi-
păng cao vời vợi gợi nghĩ tới những con người ở tầm cao của sự cống hiến và hi sinh. Cái hừng
hực của nắng, của gió gợi đến nhiệt huyết hừng hực cháy của con người lao động nơi đây. Thiên
nhiên thơ mộng, trong sáng như tâm hồn những con người ở Sa Pa trong sáng, mộng mơ.
4. Chất trữ tình trong truyện.
* Trước hết, chất trữ tình thể hiện qua nhan đề tác phẩm: nhan đề gợi một Sa Pa rất yên bình. Nhan
đề kết thúc với hai thanh bằng và âm mở “a” tạo sự nhẹ nhàng, ngân vang.
* Chất trữ tình thể hiện qua tình huống truyện:
- Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ, không hẹn trước giữa ông họa sĩ, cô kĩ sư trẻ và anh thanh niên.
- Tình huống không có mâu thuẫn, xung đột, cao trào mà rất nhẹ nhàng.
* Chất trữ tình được gợi lên từ bức tranh thiên nhiên Sa Pa truyệt đẹp. (Tham khảo thiên nhiên Sa
Pa).
* Chất trữ tình tỏa ra từ cuộc sống và vẻ đẹp của con người nơi đây.
- Cuộc sống ở Sa Pa: bình lặng, không ồn ào, chan hòa, gần gũi thiên nhiên (cuộc sống lành
mạnh, khoa học, dung dị mà đầy chất thơ của anh thanh niên)
- Vẻ đẹp của những con người ở Sa Pa (chủ yếu qua nhân vật anh thanh niên):
+ Yêu công việc, có đam mê, có lí tưởng sống cao đẹp, với quan niệm về hạnh phúc thật giản dị
+ Đức tính khiêm tốn, thành thật, sợ cởi mở, hiếu khách.
- Tình người ở Sa Pa: thể hiện qua tình cảm quý mến, chân thành giữa anh thanh niên với bác lái
xe, sự đón tiếp nồng hậu của anh thanh niên với ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ.
* Chất trữ tình được gợi lên từ ngôn ngữ gợi hình gợi cảm, những hình ảnh đầy chất thơ, giọng
điệu nhẹ nhàng, nhịp kể chậm rãi (dẫn chứng)
 “Lặng lẽ Sa Pa” là một bài thơ văn xuôi.

37
DÀN Ý 2 VỀ ANH THANH NIÊN
a. Anh thanh niên là người có suy nghĩ đẹp:
* Suy nghĩ về công việc:
- Anh yêu công việc tới mức trong khi mọi người ái ngại cho cuộc sống cao tới 2.600m của anh thì
anh lại ao ước được làm việc ở độ cao trên 3.000m như anh bạn trên đỉnh Phan-xi-păng Với anh,
như vậy mới là lý tưởng.  là con người không sợ khó khăn gian khổ, luôn khao khát được chinh
phục những đỉnh cao.
- Anh coi công việc là bạn. Anh từng nói : “Khi ta làm việc, ta và công việc là đôi, sao gọi là một
mình được”.
- Công việc là sợi dây liên kết anh với những anh em, đồng chí khác “Huống chi công việc của
cháu còn gắn liền với bao anh em đồng chí dưới kia”.
- Công việc còn là niềm vui của anh, nếu “ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”
=> Chính tình yêu, niềm say mê đối với công việc đã giúp anh vượt qua được nỗi cô đơn trong
công việc và cuộc sống một mình ở độ cao trên 2.600m.
* Suy nghĩ về hạnh phúc: Đơn giản nhưng thật đẹp ! Khi biết một lần do anh phát hiện kịp thời
đám mây khô mà không quân ta bắn rơi nhiều máy bay Mĩ trên cầu Hàm Rồng. Từ hôm đó, anh
thấy mình “thật hạnh phúc”.
=> Như vậy, với anh, hạnh phúc không phải là đem lại niềm vui cho cá nhân mà là được sống,
được cống hiến cho sự nghiệp chung của đất nước. Anh là một con người mới, tiêu biểu cho lớp
thanh niên “Đâu cần thanh niên có. Đâu khó có thanh niên”.
* Suy nghĩ về cuộc sống:
- Anh gắn bó với sự nghiệp của đất nước và có trách nhiệm với cuộc đời. Đất nước có chiến tranh,
anh xin ra mặt trận. Không được ra trận thì anh xung phong làm công tác khí tượng trên đỉnh núi
cao.
 Với anh, sống là phải cống hiến. Anh đã từng trăn trở “mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình
vì ai mà làm việc”.
- Cuộc sống của anh không cô đơn buồn tủi như người khác nghĩ, anh biết tự tạo niềm vui cho
chính mình. Anh coi sách là bạn, để chuyện trò, để mở rộng tầm nhìn và kiến thức.
 Chính những suy nghĩ đẹp này đã khiến cho anh thêm yêu cuộc sống, yêu con người, thấy
“cuộc đời đẹp quá !” giúp anh có nghị lực để vượt qua khó khăn, để sống một cuộc sống thật ý
nghĩa.
b. Là người có hành động đẹp:
*Trong công việc : - Mặc dù chỉ có một mình, không người giám sát nhưng anh thanh niên đã
vượt qua hoàn cảnh khắc nghiệt để làm việc một cách tự giác, nghiêm túc và tinh thần trách nhiệm
cao.
- Hàng ngày, anh phải “ốp” vào đúng các giờ: 4h, 11h, 19h, gian khổ nhất là vào lúc 1h sáng. Vậy
mà trong suốt 4 năm, anh không sai một giờ “ốp” nào. Chính bằng tình yêu nghề và tinh thần trách
nhiệm cao, anh đã rất giỏi nghề, thạo nghề. Nhiều hôm không nhìn máy, chỉ cần nhìn gió lay lá hay
nhìn sao trên trời, anh có thể “nói được mây, tính được gió ”.
* Trong ứng xử : Biết quan tâm đến mọi người. Khi mọi người lên thăm, anh tặng cô kĩ sư bó hoa
làm quen, chuẩn bị cho mọi người làn trứng để ăn đường.
38
 Đó là những hành động đẹp.
c. Anh là người có phong cách sống đẹp:
* Anh có nếp sống đẹp: là thanh niên lại sống một mình trên đỉnh núi cao nhưng anh tự tạo cho
mình một đời sống tinh thần vô cùng phong phú.
- Căn nhà của anh thật gọn gàng, ngăn nắp “Một ngôi nhà ba gian sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách,
biểu đồ, thống kê…”
- Anh trồng hoa. Một vườn hoa với đủ sắc màu giữa vùng núi cao khiến cô kĩ sư phải “ồ” lên một
cách thích thú. Vướn hoa ấy thể hiện tâm hồn tươi mát, mộng mơ, tình yêu cuộc sống của anh
thanh niên.
- Anh còn nuôi gà, việc làm ấy vừa thêm thực phẩm vừa tạo không khí gia đình vui tươi, đầm ấm.
- Anh coi sách là người bạn giúp anh mở mang tri thức, hiểu biết về thế giới rộng lớn.
* Là người cởi mở, chân thành, luôn chu đáo, quan tâm tới người khác.
- Là người cởi mở, chân thành: + Ngay từ những phút gặp gỡ ban đầu, lòng mến khách, nhiệt tình
của anh đã gây được thiện cảm tự nhiên đối với người họa sĩ và cô kĩ sư. Niềm vui được đón khách
dào dạt trong lòng anh, toát lên từ nét mặt, cử chỉ (dẫn chứng).
+ Anh hồ hởi đón mọi người lên thăm nhà, hồn nhiên kể về công việc, cuộc sống nơi núi cao Sa
Pa lặng lẽ, anh trân trọng từng phút giây của cuộc gặp gỡ, chính anh đã giật mình nói to đầy tiếc rẻ
“Trời ơi, chỉ còn có 5 phút”.
+ Khi chia tay, anh bối rối, xúc động, giúi vội làn trứng rồi “quay mặt đi”
- Anh chân thành, gần gũi và luôn quan tâm đến tất cả mọi người:
+ Bác lái xe đã trở thành người bạn thân tình của anh. Anh chu đáo nhớ cả việc vợ bác vừa ốm dậy
và gửi củ tam thất làm quà cho bác.
+ Anh hái một bó hoa rực rỡ tặng người con gái chưa hề quen biết. Lúc chia tay còn biếu bác họa
sĩ và cô kĩ sư giỏ trứng để ăn đường.
 Đó là những biểu hiện của một tấm lòng tận tình, đáng quý.
* Anh là người rất khiêm tốn.
- Luôn cảm thấy đóng góp của mình thật bình thường, nhỏ bé so với người khác: trong khi mọi
người ngưỡng mộ độ cao 2600m của anh thì với anh, được làm ở độ cao trên 3000m như anh bạn
trên đỉnh Phan-xi-păng mới là lí tưởng.
- Anh ngượng ngùng khi ông họa sĩ phác thảo chân dung mình. Con người khiêm tốn ấy hào hứng
giới thiệu cho ông họa sĩ những người mà theo anh đáng để vẽ hơn mình. Đó là ông kĩ sư vườn rau
vượt qua bao khó khăn, vất vả để tạo ra những củ su hào to lớn, ngon hơn cho người dân miền Bắc.
Là anh cán bộ nghiên cứu sét suốt 11 năm chuyên tâm nghiên cứu lập ra bản đồ sét để tìm ra những
mỏ tài nguyên cho đất nước…
 Chỉ bằng một số chi tiết và xuất hiện trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi 30 phút nhưng anh thanh
niên hiện lên với những vẻ đẹp đáng quý: suy nghĩ đẹp, hành động đẹp và phong cách sống đẹp.

39
CHIẾC LƯỢC NGÀ

Nguyễn Quang Sáng


A. Tác giả
 Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới - An Giang;
 Là cây bút viết nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim;
 Các sáng tác của ông chủ yếu viết về cuộc sống, con người Nam Bộ trong 2 cuộc kháng
chiến cũng như trong hòa bình.
 Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

B. Tác phẩm
I. Hoàn cảnh sáng tác:
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966, khi tác giả đang hoạt động ở chiến trường
Nam Bộ. Đây cũng là thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt.
II. Chủ đề:
Ngợi ca tình cha con cảm động và sâu nặng trong hoàn cảnh éo le, khắc nghiệt của chiến
tranh.
III. Thể loại: truyện ngắn
IV. Tình huống truyện:

40
Có 2 tình huống tạo nên sự hấp dẫn cho câu chuyện:
 Người cha trở về sau 8 năm hai cha con xa cách, nhưng thật trớ trêu, người con từ chối cha
quyết liệt và khi nhận ra cha cũng là lúc họ phải chia tay. (Tình huống cơ bản).
 Ở căn cứ, người cha đã dồn tất cả tình yêu thương vào việc làm chiếc lược ngà tặng con
nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà đầy ý nghĩa đó cho con.
→ Ý nghĩa:
- Tình huống thứ nhất bộc lộ tình yêu thương mãnh liệt của con với cha. Còn tình huống thứ
hai lại thể hiện tình cảm sâu sắc của cha với con.
- Cả 2 tình huống tạo nên ý nghĩa: ca ngợi tình cha con trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

V. Nghệ thuật kể chuyện


- Lựa chọn người kể chuyện trong vai trò người bạn thân thiết của ông Sáu không chỉ là người chứng kiến
khách quan và kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật bộc lộ rõ tư tưởng, chủ đề truyện.
- Người kể hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo cảm xúc của mình đồng thời chủ động xen vào những
ý kiến bình luận tạo câu chuyện trở nên đáng tin cậy.

VI. Ý nghĩa nhan đề “Chiếc lược ngà”:


 Chiếc lược ngà là cầu nối tình cảm của 2 cha con ông Sáu.
 Chiếc lược ngà là kỉ vật của người cha vô cùng yêu con, để lại cho con trước lúc hi sinh.
 Qua đó khẳng địnhtình cha con là tình cảm thiêng liêng không gì chia cắt được.

VII. Tóm tắt:


 Ông Sáu phải xa nhà đi kháng chiến, mãi đến khi đứa con 8 tuổi ông mới được về thăm nhà,
thăm con.
 Mấy ngày đầu do vết sẹo trên mặt khiến ông khác với tấm hình chụp ở nhà nên bé Thu nhất
quyết không nhận cha.
 Nghe bà ngoại giải thích về vết sẹo, bé Thu đã nhận ra ba mình, tình cảm cha con trỗi dậy
nhưng đó cũng là lúc ông Sáu phải ra đi.
 Ở khu căn cứ, người cha đã dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm cho
con gái một chiếc lược chải tóc bằng ngà. Lúc hấp hối - do bị trúng đạn máy bay Mĩ - ông đã
nhờ bác Ba chuyển chiếc lược đó cho con.
XIII. Phân tích:
1. Nhân vật bé Thu: yêu thương cha sâu sắc
a. Diễn biến tâm lí, tình cảm của bé Thu trước khi nhận ra ông Sáu là cha:
 Sau nhiều năm xa cách, ông Sáu khao khát được gặp con nhưng ngay trong giờ phút gặp lại ở
bến xuồng, nghe tiếng gọi tên mình, bé Thu: “giật mình tròn mắt nhìn”. Nó ngơ ngác, lạ lùng,
mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!”=> Một phản ứng tự nhiên của trẻ
nhỏ khi gặp tình huống bất ngờ. Điều đó thể hiện tâm trạng sợ hãi của Thu.
 Trong 3 ngày phép ngắn ngủi, ông càng xích lại gần thì bé Thu càng xa lánh.
- Mẹ bảo gọi ba vào ăn cơm thì nó lại nói trống.
41
- Có tình huống tưởng chừng như bé Thu không thể ương bướng được nữa, ấy thế mà nó vẫn
quyết liệt. Đó là lúc cơm sôi, một mình nó không thể tự nhắc nồi để chắt nước. Cứ ngỡ vào
hoàn cảnh ấy, cô bé sẽ cần đến sự giúp đỡ và sẽ nhượng bộ nhưng nó vẫn kiên quyết không
chịu cất lên tiếng gọi ba. Nó bướng bỉnh tự làm một công việc nguy hiểm và quá sức.
- Khi bị ông Sáu đánh, nó vùng vằng bỏ ăn chèo xuồng về bên ngoại. Lúc cởi dây xuồng, nó
còn cố ý khua dây xích kêu rổn rảng để tỏ ý bất bình.
→ Nhưng sự ương ngạnh của bé Thu hoàn toàn không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến
tranh, nó còn quá nhỏ để có thể hiểu được những tình thế éo le, khắc nghiệt. Và người lớn cũng
không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường. Vì vậy, thái độ quyết liệt
đó lại là bản lĩnh kiên định=> trong tính cách của cô bé. Thu yêu cha sâu sắc đến nỗi nếu ai
không giống cha nó trong ảnh thì nó không nhận. Chính sự kiên định, quyết liệt này là cái mầm
làm nên cá tính cứng cỏi, ngoan cường của cô giao liên giải phóng về sau.
b. Thái độ và hành động của Thu khi nhận ra cha:
 Trong buổi sáng cuối cùng, trước lúc ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé
Thu đã đột ngột thay đổi.
- Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi ba. Đó là tiếng gọi xé lòng sau bao ngày kìm nén trong lồng
ngực nó.
- Nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc và dang tay ôm chặt lấy cổ ba nó, nó
hôn lên ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó
nữa.=> Hành động vội vã cuống quýt, hối hả như thể hiện tình cảm với ba. Tình cảm ấy nó cố
kìm nén trong suốt 8 năm nay như vỡ òa, chân thành , mãnh liệt và trong đó gửi gắm cá sự
chuốc lỗi vì nó đã làm ba buồn. Điều đó chứng tỏ một tình cảm trọn vẹn, thủy chung của em
dành cho ba.
- Bé Thu nhận ra cha vì được bà ngoại giải thích. Sự nghi ngờ bấy lâu được giải tỏa và ở Thu
nảy sinh một trạng thái như là sự ân hận “Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại
thở dài như người lớn”. Vì thế, trong giờ phút chia tay, tình yêu và nỗi nhớ người cha nó nhất
mực tôn thờ bùng cháy. Nhưng thật cảm động và đau đớn, đó là tiếng gọi ba đầu tiên của bé
Thu và cũng là tiếng gọi lần cuối cùng bởi sau đó ông Sáu hi sinh.
- Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống đặc sắc với cốt truyện chặt chẽ với những yếu tố bất
ngờ nhưng rất hợp lý, truyện đã tạo hứng thú cho người đọc.Cách khai khác tâm lí nhân vật rất
tinh tế và chính xác, tác giả đã diễn tả tình cảm xúc động của Thu với người cha yêu dấu vô
cùng chân thực. Tính cách kiên định mạnh mẽ của Thu miêu tả sinh động mà gần gũi. Điều đó
thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng của nhà văn với con người và tình người
→ Qua câu chuyện, chúng ta thấy được Thu là một cô bé bướng bỉnh, cứng cỏi, tình cảm của
bé dành cho cha thật sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi.
2. Nhân vật ông Sáu: yêu con sâu sắc

42
 Truyện không chỉ thể hiện tình cảm của bé Thu đối với cha mà còn ca ngợi tình phụ tử thiêng
liêng nơi ông Sáu.
 Những ngày chưa gặp con ông Sáu thương nhớ con vô cùng. Ông khao khát được gặp con,
được sống trong tình yêu của con.
a. Trong giây phút gặp lại con
- Tâm trạng của ông hồi hộp náo nức đến lạ kỳ
- Xuồng chưa cập bến, ông đã nhảy vội lên bờ…gọi chới với=> Khao khát cháy bỏng muốn
được ôm con, sống trong tình cha con.
- Khi bé Thu không nhận cha, ông đau đớn như bị cắt đi một phần cơ thể hai tay buông thõng
như bị gãy.
b. Trong suốt 3 ngày phép:
- Suốt ngày ông không đi đâu cả, chỉ ở nhà vỗ về con, tìm mọi cách chỉ để mong bé Thu cất
tiếng gọi ba.
- Khi bé Thu hất cái trứng cá, không giữ được bình tĩnh, ông Sáu đã vung tay đánh vào mông
nó. Người đọc vẫn hiểu được rằng, đằng sau phút nóng giận ấy là trái tim tràn đầy tình yêu
thương, là khao khát đến cháy lòng một cử chỉ, một câu nói yêu thương của đứa con.
c. Tình yêu thương con của ông bộc lộ mạnh mẽ, sâu sắc nhất khi ở căn cứ:
- Ông luôn ân hận, dày vò vì đã trót đánh con.
- Khi tìm được khúc ngà để làm được chiếc lược theo lời hứa với con, ông vui mừng, hớn hở
như một đứa trẻ được quà.
- Ông thận trọng, tỉ mỉ, cố công như một người thợ bạc để cưa từng chiếc răng lược rồi gò
lưng tẩn mẩn khắc từng nét chữ Yêu nhớ tặng Thu, con của ba. Ông đã kiên nhẫn làm công việc
này bằng tất cả sức mạnh của tình phụ tử.
- Chưa kịp trao cho con gái chiếc lược ngà thì người cha ấy đã hi sinh. Nhưng hình như chỉ có
tình cha con là không thể chết được, không đủ sức trăng trối điều gì, ông thu hết chút tàn lực
cuối cùng để đưa tay vào túi móc cây lược đưa cho bác Ba, nhờ bác chuyển lại cho bé Thu.Một
hành động thể hiện tình cha con vô cùng thiêng liêng và không gì chia cắt được
→ Có thể nói, đó là điều trăng trối không lời, nó thiêng liêng hơn cả một di chúc bởi nó là ước
nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử.
Cách xây dựng tình huống truyện hợp lý, lối kể chuyện hấp dẫn, tự nhiên cùng giọng thân mật
gần gũi khiến người đọc hình dung được tình cảm cha con trong hoàn cảnh ngặt nghèo, éo le vô
cùng trân trọng. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam bộ làm nổi bật được tình
cảm yêu thương và niềm hạnh phúc của người cha dành cho con gái yêu thật sâu sắc..

43
MÙA XUÂN NHO NHỎ
- Thanh Hải -

I. TÁC GIẢ- TÁC PHẨM.


1. Tác giả
- Thanh Hải (1930-1980), tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê ở Huế.
- Ông tham gia hoạt động văn nghệ từ cuối cuộc kháng chiến chống Pháp và là người sớm có
mặt trong phong trào văn hóa - văn nghệ giải phóng miền Nam.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác: sáng tác vào tháng 11/1980:
- 5 năm sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất.
- Khi đó tác giả đang lâm trọng bệnh và không bao lâu sau thì ông qua đời.
b. Chủ đề.
- Bài thơ thể hiện niềm lạc quan, tình yêu cuộc sống, gắn bó với đất nước, với cuộc đời và ước
nguyện cống hiến chân thành, được là một “mùa xuân nho nhỏ” góp vào mùa xuân lớn của đất
nước.
 Mối quan hệ giữa hoàn cảnh sáng tác với chủ đề bài thơ: Bài thơ được sáng tác vào
năm 1980, đất nước đã thống nhất và xây dựng cuộc sống mới nhưng còn vô vàn khó khăn,
thử thách; vì thế những ước nguyện cống hiến chân thành trong bài thơ càng thêm có ý
nghĩa. Bài thơ sáng tác lúc tác giả lâm trọng bệnh nhưng vẫn tràn đầy niềm lạc quan và
tình yêu cuộc sống.

44
c. Thể thơ: 5 chữ.
d. Nhan đề.
- Mùa xuân là ý niệm chỉ thời gian, là mùa đầu tiên của một năm, mùa mà vạn vật sinh sôi nảy
nở, căng tràn sức sống. “Nho nhỏ” là từ láy gợi hình khối=> sự kết hợp của 2 từ gợi hình dung
về một mùa xuân cụ thể với vẻ đẹp riêng.
- Mùa xuân còn là hình ảnh biểu tượng cho những gì đẹp đẽ nhất của cuộc sống và cuộc đời
mỗi con người.
+ Nhan đề thể hiện ước nguyện cao đẹp của nhà thơ: ước nguyện được sống đẹp, sống có ích,
được cống hiến tất cả sự tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường, chỉ là một “mùa xuân nho
nhỏ” góp vào mùa xuân lớn của dân tộc.
+ Nhan đề cũng thể hiện quan điểm về sự thống nhất hài hòa giữa cái riêng và cái chung, cá
nhân và cộng đồng.
 Nhan đề góp phần làm nổi bật chủ đề bài thơ.
e. Mạch cảm xúc: Mở đầu bài thơ là những cảm xúc trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên.
Tiếp theo là những cảm xúc và suy ngẫm trước vẻ đẹp của mùa xuân đất nước và mùa xuân
trong lòng người với ước nguyện được cống hiến. Kết thúc bài thơ là niềm tự hào về quê
hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế.

II. PHÂN TÍCH.


1. Khổ 1. Cảm xúc trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên.
a.Vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên: Đó là bức tranh được vẽ bằng vài nét chấm phá nhưng rất
đặc sắc.
- Bức tranh xuân xứ Huế được chấm phá bằng những hình ảnh chọn lọc và giàu sức gợi: dòng
sông xanh, bông hoa tím, bầu trời cao rộng, giọt long lanh. Đó là những hình ảnh đẹp, là tín
hiệu quen thuộc của mùa xuân.
- Bức tranh được tô điểm bằng màu sắc hài hòa, tươi tắn: đó là màu xanh của dòng sông Hương
thơ mộng, của bầu trời và màu tím biếc của bông hoa- sắc màu rất đặc trưng của xứ Huế thơ
mộng.
- Vang lên trong không gian thanh bình ấy là tiếng chim chiền chiện. Đây là loài chim nhỏ,
thường sống ở nơi vắng vẻ, cánh đồng, khi hót bay vút lên cao; vì thế tiếng hót của nó rất vang
vọng. Âm thanh rộn rã, vang vọng, làm xao động cả không gian. Tiếng hót đấy cũng như hơi
thở, sức sống của mùa xuân.
 Bức tranh mùa xuân thật đẹp.
- Trong hai câu đầu, tác giả sử dụng nghệ thuật đảo động từ “mọc” lên đầu câu “Mọc giữa dòng
sông xanh/ Một bông hoa tím biếc” gợi liên tưởng bông hoa đang từ từ vươn lên trên mặt nước
với sức sống mạnh mẽ.
- Tác giả còn sử dụng nhiều động từ : mọc, hót, rơi, hứng  gợi tả sự vận động, khiến bức
tranh không tĩnh tại mà vận động, sinh sôi.
45
 Bức tranh mùa xuân tươi trẻ, dường như cả bầu trời, mặt đất, dòng sông đều rạo rực, căng
tràn sức sống.
b) Cảm xúc của tác giả.
- Đó là cảm xúc ngỡ ngàng khi phát hiện ra tín hiệu của mùa xuân qua chi tiết “Mọc giữa dòng
sông xanh/ Một bông hoa tím biếc”.
- Trước âm thanh ngọt lành, rộn ràng của tiếng chim chiền chiện, nhà thơ đã thốt lên tiếng gọi
“Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời”.
 Nghệ thuật nhân hóa qua từ cảm thán “Ơi” diễn tả cảm xúc trìu mến, thiết tha, niềm say sưa,
ngây ngất trước vẻ đẹp của mùa xuân.
- Cảm xúc còn được thể hiện trong một động tác trữ tình “Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.
+ “Giọt long lanh” có thể hiểu là giọt sương, giọt mưa xuân, lấp lánh dưới ánh sáng của bầu
trời xuân.
+ Kết hợp với hai câu thơ trước đó, ta có thể hiểu “giọt long lanh” còn là giọt âm thanh của
tiếng chim chiền chiện.
 Âm thanh không bị tan loãng trong không gian mà ngưng đọng lại. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển
đổi cảm giác gợi liên tưởng tác giả không chỉ cảm nhận âm thanh bằng thính giác mà còn cảm
nhận bằng thị giác- có hình khối, màu sắc và cảm nhận bằng xúc giác khi nhà thơ đưa tay ra
hứng.
 Ý thơ thể hiện niềm yêu thương, trân trọng vẻ đẹp cuộc đời của nhà thơ Thanh Hải.

2. Khổ 2, 3: Cảm xúc và suy ngẫm trước vẻ đẹp mùa xuân đất nước.
a. Vẻ đẹp của mùa xuân đất nước.
- Viết về vẻ đẹp của mùa xuân đất nước, nhà thơ đã chọn hình ảnh “người cầm súng” và
“người ra đồng”. Đây là hình ảnh tiêu biểu cho hai nhiệm vụ quan trọng: bảo vệ và xây dựng
đất nước.
- Điệp từ “mùa xuân” vừa tạo nhịp điệu cho đoạn thơ, vừa nhấn mạnh sức xuân đang tuôn tràn
khắp nẻo; từ biên giới, hải đảo xa xôi – nơi những người lính đang chắc tay súng- đến những
cánh đồng- nơi người nông dân đang trồng cấy.
- Từ “lộc” được dùng thật đặc sắc với 2 lớp nghĩa.
+ Nghĩa thực: là chồi non, lộc biếc của mùa xuân.
+ Là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho sự sinh sôi, nảy nở, sự may mắn, tốt lành.
- “người cầm súng” đi liền với hình ảnh “Lộc giắt đầy trên lưng” gợi liên tưởng đến cành lá
ngụy trang trên lưng người lính đồng thời cũng thể hiện ý nghĩa: các anh đã mang đến niềm vui,
niềm may mắn và những mùa xuân yên bình cho đất nước.
- “người ra đồng” cùng hình ảnh “Lộc trải dài nương mạ” gợi liên tưởng đến những nương mạ
xanh non được người nông dân gieo trồng và họ- những “người ra đồng” cũng mang đến niềm
vui, sự may mắn, những mùa xuân ấm no cho đất nước.

46
 Như vậy, không chỉ có mùa xuân thiên nhiên theo về, mà còn có những mùa xuân sinh
thành, nảy nở theo bước chân những người cầm súng, người ra đồng. Mùa xuân của đất nước
được tạo nên bởi những con người bình thường mà vĩ đại.
- Sức sống của mùa xuân đất nước còn được thể hiện ở câu thơ “Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao”.
Điệp cấu trúc “Tất cả như” kết hợp với những từ láy “hối hả, xôn xao” và nhịp thơ nhanh
+ nhấn mạnh sự nhất trí, đồng lòng
+ gợi nhịp sống sôi động, khí thế lao động khẩn trương, náo nức của cả dân tộc trong những
năm tháng hào hùng.
b. Cảm xúc và suy ngẫm (Khổ 3)
- Điệp ngữ “đất nước” tạo nhịp điệu nhịp nhàng đồng thời nhấn mạnh đối tượng được ngợi ca .
- Từ những con người cụ thể, nhà thơ đã suy ngẫm về đất nước trong cảm nhận khái quát của
chiều dài lịch sử “Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao”.
+ Nghệ thuật nhân hóa qua từ “vất vả” và “gian lao” khiến ta hình dung đất nước hiện lên như
một bà mẹ chịu nhiều vất vả, đau thương, đó là đất nước của bốn nghìn năm lịch sử với biết bao
thăng trầm.
+ Đất nước ấy chưa bao giờ bình yêu bởi ngay thời điểm tác giả viết bài thơ này, mặt trận biên
giới phía Bắc và phía Tây Nam vẫn chưa yên tiếng súng.
- Suy ngẫm về đất nước, nhà thơ cũng trao gửi bao niềm tin: “Đất nươc như vì sao
Cứ đi lên phía trước”.
+ Phép so sánh thật hay và giàu ý nghĩa khi sử dụng hình ảnh “vì sao”: “sao” là nguồn sáng lấp
lánh có vẻ đẹp vĩnh hằng vượt qua mọi không gian, thời gian. Đó cũng là hình ảnh ngôi sao
rạng ngời trên lá cờ Tổ quốc.
+ Qua phép so sánh, tác giả thể hiện niềm tự hào về vẻ đẹp và sức sống trường tồn của dân tộc
Việt Nam- một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng kiên cường, bất khuất với bao chiến công.
+ Phụ từ “cứ” kết hợp với cụm động từ “đi lên phía trước” đã thể hiện niềm tin mãnh liệt, niềm
lạc quan vào sức sống bất diệt và khí thế đi lên của dân tộc.
 Khổ thơ thứ 3 như chiếc bản lề khép lại những cảm nhận về vẻ đẹp của mùa xuân đất nước
và mở ra cảm nhận về mùa xuân trong lòng người với ước nguyện cống hiến cho cuộc đời.
3. Vẻ đẹp của mùa xuân trong lòng người: ước nguyện cống hiến.
a. Khổ 4: Từ những cảm xúc về mùa xuân đất nước, nhà thơ đã bày tỏ khát vọng cống hiến cho
cuộc đời “Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”.

47
- Điệp cấu trúc “Ta làm” “Ta nhập” được đặt ở đầu câu vừa nhấn mạnh ước nguyện được cống
hiến.
- Tác giả đã mượn những hình ảnh đẹp, giản dị để bày tỏ ước nguyện đẹp của lòng mình.
+ Ước làm con chim cất cao tiếng hót mang đến cho đời niềm vui.
+ Ước làm bông hoa tỏa hương sắc tô điểm cho đời.
+ Muốn làm một nốt nhạc trầm thật khiêm nhường chứ không phải nốt nhạc cao nổi bật, góp
vào bản hòa ca để ngợi ca quê hương, đất nước.
 con chim, bông hoa hay nốt trầm là những hình ảnh ẩn dụ hay và giàu ý nghĩa, lấy vẻ đẹp
của tự nhiên để bày tỏ ước nguyện đẹp của lòng người, ước nguyện cao quý nhưng rất khiêm
nhường.
- Sự trở lại của hình ảnh con chim, bông hoa tạo kết cấu đối ứng chặt chẽ. Những hình ảnh chọn
lọc ấy mang một ý nghĩa mới:
+ Khẳng định một quy luật tất yếu: sống- cống hiến cho đời là lẽ tự nhiên giống như con chim
phải hót, bông hoa phải tỏa sắc hương.
+ Và cống hiến những gì đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình cho đất nước.
- Cách chuyển đổi đại từ “tôi” sang “ta” là một dụng ý:
+ Tác giả không chỉ nói lên tâm nguyện của riêng mình mà còn nói lên tâm nguyện chung cho
tất cả mọi người.
+ Thể hiện sự hòa nhập giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân với cộng đồng một cách chân
thành, tha thiết.
b. Khổ 5. Là ước nguyện hóa thân vô cùng cháy bỏng: “Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.
- Hai câu đầu: Tác giả ước nguyện được là “Một mùa xuân nho nhỏ” để “Lặng lẽ dâng cho
đời”.
+ “Nho nhỏ” là từ láy thể hiện sự khiêm tốn chân thành, giản dị.
+ “Mùa xuân” là hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa biểu tượng cho vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt
 Ước được làm một “mùa xuân nho nhỏ” nghĩa là ước được sống đẹp, sống có ích, được cống
hiến tất cả sức trẻ của mình nhưng khiêm nhường, chỉ là một “mùa xuân nho nhỏ” góp vào mùa
xuân lớn của dân tộc.
+ Nghệ thuật đảo từ láy “Lặng lẽ” lên đầu câu đã nhấn mạnh ước nguyện được cống hiến âm
thầm, tự nguyện, không đòi hỏi sự đền đáp  Đó là lối sống đẹp đẽ mà mỗi người cần hướng
tới.
- Hai câu cuối: “Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”

48
+ “Tuổi hai mươi” và “khi tóc bạc” là những hình ảnh hoán dụ chỉ giai đoạn lúc tuổi trẻ và khi
về già của con người.
+ Điệp ngữ “dù là” kết hợp với hai mốc thời gian như như một lời hứa, lời khẳng định ước
nguyện được cống hiến bền bỉ, bất chấp thời gian, tuổi tác.
+ Nhà thơ Thanh Hải đã dâng hiến trọn vẹn cả cuộc đời mình cho đất nước: 17 tuổi ông đi bộ
đội, cống hiến tuổi thanh xuân cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ; và đến lúc
cuối đời, ông vẫn không thôi khao khát được cống hiến và chỉ nói đến cống hiến. Đó thực sự là
lí tưởng sống cao đẹp.
4. Khổ cuối: Niềm tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế
- Trước vẻ đẹp của những mùa xuân thiên nhiên, đất nước và lòng người tác giả muốn cất lên
khúc hát ngợi ca quê hương “Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.”
- Ông muốn hát câu “Nam ai” – khúc dân ca có giai điệu buồn thương và khúc “Nam bình” với
giai điệu dịu dàng, trìu mến. Bởi lịch sử đất nước có những trang “vất vả, gian lao” nhưng vẫn
có những mùa xuân yên bình, no ấm.
- Điệp ngữ “Nước non ngàn dặm” gợi không gian rộng lớn, vẻ đẹp hùng vĩ của đất nước, qua
đó bộc lộ niềm tự hào của tác giả về vẻ đẹp của quê hương.
- Kết thúc bài thơ là những âm thanh rộn rã của tiếng “phách tiền”, đó cũng là giai điệu của
cuộc sống mới, sức sống mới của dân tộc.
 Có thể nói bài thơ là một khúc hát tràn đầy niềm lạc quan, tình yêu cuộc sống, yêu đất nước,
con người.
VIẾNG LĂNG BÁC
Viễn Phương
I. TÁC GIẢ - TÁC PHẨM.
1. Tác giả. - Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, sinh năm 1928, quê ở tỉnh An
Giang
- Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những
cây bút có mặt sớm nhất của phong trào văn nghệ giải phóng miền Nam thời chống Mỹ.
- Thơ ông nhỏ nhẹ, giàu chất mộng mơ
2. Tác phẩm.
a. Xuất xứ - hoàn cảnh sáng tác:
- Xuất xứ: in trong tập “ Như mây mùa xuân”(1978)

49
- Hoàn cảnh sáng tác: + Sáng tác năm 1976, một năm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết
thúc thắng lợi, đất nước thống nhất. Tại Hà Nội, lăng Bác vừa được khánh thành.
+ Tác giả cùng đoàn cán bộ miền Nam lần đầu ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác
b. Chủ đề: Bài thơ là niềm xúc động thành kính , lòng biết ơn, niềm tự hào pha lẫn nỗi xót đau
của tác giả khi từ miền Nam ra viếng Bác.
 Cảm xúc này chi phối giọng điệu, nhịp điệu bài thơ: giọng điệu thành kính, trang nghiêm;
nhịp điệu chậm.
c. Thể thơ, phương thức biểu đạt
- Thể thơ: Thơ tám chữ
- Phương thức biểu đạt: Biểu cảm kết hợp với miêu tả.
d. Mạch cảm xúc: Theo trình tự thời gian và không gian của hành trình vào lăng viếng Bác:
Mở đầu là những cảm xúc trước cảnh vật ngoài lăng. Tiếp theo là cảm xúc khi hòa cùng dòng
người vào lăng và khi vào trong lăng. Kết thúc bài thơ là niềm xúc động, lưu luyến khi sắp phải
rời lăng trở về miền Nam.
II. PHÂN TÍCH
1. Khổ 1: Cảm xúc trước cảnh vật ngoài lăng.
* Câu thơ “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” gọn như một lời thông báo, giản dị như một
lời kể nhưng gợi tâm trạng xúc động của một người con từ chiến trường miền Nam sau bao
nhiêu năm mong mỏi bây giờ mới được ra viếng Bác.
- Đại từ “con” là cách xưng hô quen thuộc của người miền Nam, đại từ ấy còn gợi sự gần gũi,
thân thiết, như lời của người con đi xa lâu ngày nay trở về thăm cha.
- Tác giả dùng từ “thăm” thay cho từ “viếng”:
+ Cách nói giảm, giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát.
+ Đó cũng là lời khẳng định: trong tâm thức mọi người, Bác còn sống mãi.
* Đến lăng, trước bao loài cây đặc trưng cho các vùng miền, hình ảnh gây ấn tượng sâu
đậm nhất với tác giả là “hàng tre”
- “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”: + Đó là hàng tre bên lăng mang nghĩa tả thực, hàng
tre ấy gợi sự thân thuộc của làng quê Việt Nam.
+ Từ láy “bát ngát” vừa gợi không gian rộng lớn, vừa thể hiện sức sống mãnh liệt, bất diệt
của hàng tre.
- Trong 2 câu cuối, “hàng tre” là hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa biểu tượng:
50
+ Từ cảm thán “Ôi” bộc lộ cảm xúc ngỡ ngàng, xúc động trước vẻ đẹp của hàng tre.
+ “Bão táp mưa sa” là thành ngữ chỉ những khó khăn, thử thách trong cuộc đời.
+ Cụm từ “đứng thẳng hàng” gợi tư thế hiên ngang, bất khuất.
 Như vậy, “hàng tre” là hình ảnh biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam, dân tộc
Việt Nam: bền bỉ, kiên cường, không chịu khuất phục trước mọi khó khăn, thử thách trong cuộc
đời.
 Tóm lại, khổ thơ thứ nhất thể hiện tình cảm chân thành , giản dị của tác giả đối với Bác; qua
đó bộc lộ niềm tự hào về sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam
2. Khổ 2: Cảm xúc khi hòa cùng dòng người vào lăng viếng Bác.
* Hai câu đầu: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”.
- “mặt trời” trong câu thơ đầu là hình ảnh tả thực, đó là mặt trời của thiên nhiên hàng ngày
mang đến ánh sáng giúp muôn loài thoát khỏi cuộc sống tăm tối.
- “Mặt trời trong lăng” là hình ảnh ẩn dụ ngầm so sánh với Bác Hồ. Bởi Bác chính là người
mang đến ánh sáng cho cách mạng Việt Nam, giúp nhân dân ta thoát khỏi bóng đêm của kiếp
nô lệ lầm than để đến với cuộc đời tự do tràn đầy ánh sáng
 Qua hình ảnh này, tác giả bày tỏ lòng biết ơn về công lao trời biển của Bác, niềm tự hào về
sự vĩ đại của Bác đồng thời là lời khẳng định sự bất tử của Bác như mặt trời vẫn mãi trường
tồn.
- Viễn Phương có cách diễn đạt rất đặc biệt qua cụm từ “rất đỏ”: mặt trời của thiên nhiên đẹp
nhưng “mặt trời trong lăng” còn rực rỡ hơn nhiều, mặt trời ấy mãi rực rỡ một màu cách mạng.
* Hai câu cuối: “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”.
- Điệp ngữ “Ngày ngày” diễn tả dòng thời gian trôi đi vô tận và dòng người cũng không ngừng
vào lăng viếng Bác
- “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực, chỉ dòng người xếp hàng vào lăng viếng
Bác đi trong nỗi xúc động, niềm thương nhớ Bác. Nỗi xúc động mãnh liệt, dạt dào như từ trong
lòng người mà lan tỏa vào không gian.
- “Tràng hoa”: + là hình ảnh tả thực chỉ những đóa hoa tươi thắm mà nhân dân mang đến kính
dâng lên Bác.

51
+ Đó cũng là hình ảnh ẩn dụ gợi liên tưởng: nhờ công ơn trời biển của Bác, cuộc đời họ đã hồi
sinh, đơm hoa kết trái. Và hôm nay, mỗi người dân như một đóa hoa, đến đây kết thành tràng
hoa dài vô tận để bày tỏ lòng thành kính với Bác
- Kết thúc khổ thơ là hình ảnh giàu ý nghĩa “bảy mươi chín mùa xuân”
+ “Mùa xuân” là hoán dụ ý chỉ Bác bảy chín tuổi.
+ Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ đẹp ngầm so sánh: Bác đã sống một cuộc đời đẹp như mùa xuân
và Bác đã làm nên những mùa xuân bất diệt cho đất nước.
 Bằng những hình ảnh ẩn dụ sóng đôi, khổ thơ đã diễn tả được lòng biết ơn, niềm tự hào, tấm
lòng thành kính của nhân dân Việt Nam với vị lãnh tụ vị đại của dân tộc.
3. Khổ 3: Cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng.
Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang nỗi xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
- Cụm từ “giấc ngủ bình yên” gợi liên tưởng độc đáo: Trong cuộc đời hoạt động cách mạng,
biết bao đêm Bác không ngủ. Và giờ đây, khi về cõi vĩnh hằng, Bác mới thực sự có được giấc
ngủ bình yên. Cụm từ này cũng nhằm khẳng định: trong tâm thức của mọi người Bác còn sống
mãi.
- “Vầng trăng sáng dịu hiền” là hình ảnh ẩn dụ:
+ Gợi ánh sáng vàng nhạt dịu nhẹ trong lăng.
+ Hình ảnh này cũng có ý nghĩa biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn cao đẹp, sáng trong của Bác.
+ Vầng trăng ấy cũng khiến người đọc nhớ tới những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người:
trăng là người bạn tri kỉ trong những tháng ngày Bác bị giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch,
trăng đồng hành cùng Bác những ngày kháng chiến gian khổ trên chiến khu Việt Bắc. Và giờ
đây, trăng cũng vào tận trong lăng để canh giấc ngủ cho Người.
- Hai câu thơ cuối cảm xúc ngợi ca như lắng xuống, nhường chỗ cho nỗi xót xa:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
+ “Trời xanh” là hình ảnh ẩn dụ nhằm khẳng định sự bất tử: Bác đã hóa thân trọn vẹn vào thiên
nhiên, sự nghiệp vĩ đại của Người mãi trường tồn như trời xanh bất diệt.

52
+ Vẫn biết Bác sẽ sống mãi trong trái tim mỗi người dân Việt Nam nhưng tác giả vẫn không
tránh khỏi nỗi đau xót nghẹn ngào khi Bác đã ra đi. Từ “nhói” diễn tả nỗi đau quặn thắt, niềm
xót thương vô hạn trước sự thật đó.
4. Khổ 4: Cảm xúc khi chuẩn bị rời lăng trở về Miền Nam.
* Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt đầy xúc động
- Lời nói giản dị nhưng diễn tả những cảm xúc sâu lắng.
- “Miền Nam” gợi khoảng cách không gian xa xôi vời vợi càng làm nổi bật nỗi nhớ thương da
diết.
- Cụm từ “thương trào nước mắt” thể hiện nỗi xúc động mãnh liệt: biết bao nỗi nhớ thương dồn
nén bỗng vỡ òa thành dòng nước mắt nghẹn ngào. Đó cũng là tâm trạng của muôn triệu người
dân Việt Nam khi đến viếng Bác.
* Kết thúc bài thơ, tác giả đã bày tỏ những nguyện ước của mình:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
- Điệp ngữ “Muốn làm” được lặp lại 3 lần vừa tạo nhịp điệu, âm hưởng dồn dập thiết tha, vừa
nhấn mạnh những ước nguyện trào dâng không dứt.
- Tác giả đã mượn những hình ảnh đẹp của thiên nhiên để bày tỏ những ước nguyện đẹp của
lòng người: + Ước làm con chim hót quanh lăng để mang đến cho Bác niềm vui.
+ Ước được làm bông hoa tỏa hương sắc, tô điểm không gian quanh lăng
+ Ước được làm cây tre như người vệ binh canh giấc ngủ của Người.
 Như vậy “con chim”, “đóa hoa”, “cây tre” là hình ảnh ẩn dụ đẹp, biểu tượng cho ước nguyện
hóa thân để được gần Bác mãi mãi.
* “cây tre trung hiếu” được lặp lại ở cuối bài thơ tạo kết cấu đầu cuối tương ứng làm đậm nét
hình ảnh gây ấn tượng và khiến dòng cảm xúc được trọn vẹn:
- “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh biểu tượng cho phẩm chất của con người Việt Nam trong
thời đại Hồ Chí Minh: trung với nước, hiếu với dân.
- Hình ảnh này không chỉ là ước nguyện mà còn là lời hứa thiêng liêng: nhân dân Việt Nam
nguyện đi theo con đường cách mạng của Bác, theo lí tưởng mà Bác đã vạch ra cho dân tộc
Việt Nam.
VIẾNG LĂNG BÁC
53
Viễn Phương
I. TÁC GIẢ - TÁC PHẨM.
1. Tác giả. - Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, sinh năm 1928, quê ở tỉnh An
Giang
- Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những
cây bút có mặt sớm nhất của phong trào văn nghệ giải phóng miền Nam thời chống Mỹ.
- Thơ ông nhỏ nhẹ, giàu chất mộng mơ
2. Tác phẩm.
a. Xuất xứ - hoàn cảnh sáng tác:
- Xuất xứ: in trong tập “ Như mây mùa xuân”(1978)
- Hoàn cảnh sáng tác: + Sáng tác năm 1976, một năm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết
thúc thắng lợi, đất nước thống nhất. Tại Hà Nội, lăng Bác vừa được khánh thành.
+ Tác giả cùng đoàn cán bộ miền Nam lần đầu ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác
b. Chủ đề: Bài thơ là niềm xúc động thành kính , lòng biết ơn, niềm tự hào pha lẫn nỗi xót đau
của tác giả khi từ miền Nam ra viếng Bác.
 Cảm xúc này chi phối giọng điệu, nhịp điệu bài thơ: giọng điệu thành kính, trang nghiêm;
nhịp điệu chậm.
c. Thể thơ, phương thức biểu đạt
- Thể thơ: Thơ tám chữ
- Phương thức biểu đạt: Biểu cảm kết hợp với miêu tả.
d. Mạch cảm xúc: Theo trình tự thời gian và không gian của hành trình vào lăng viếng Bác:
Mở đầu là những cảm xúc trước cảnh vật ngoài lăng. Tiếp theo là cảm xúc khi hòa cùng dòng
người vào lăng và khi vào trong lăng. Kết thúc bài thơ là niềm xúc động, lưu luyến khi sắp phải
rời lăng trở về miền Nam.
II. PHÂN TÍCH
1. Khổ 1: Cảm xúc trước cảnh vật ngoài lăng.
* Câu thơ “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” gọn như một lời thông báo, giản dị như một
lời kể nhưng gợi tâm trạng xúc động của một người con từ chiến trường miền Nam sau bao
nhiêu năm mong mỏi bây giờ mới được ra viếng Bác.

54
- Đại từ “con” là cách xưng hô quen thuộc của người miền Nam, đại từ ấy còn gợi sự gần gũi,
thân thiết, như lời của người con đi xa lâu ngày nay trở về thăm cha.
- Tác giả dùng từ “thăm” thay cho từ “viếng”:
+ Cách nói giảm, giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát.
+ Đó cũng là lời khẳng định: trong tâm thức mọi người, Bác còn sống mãi.
* Đến lăng, trước bao loài cây đặc trưng cho các vùng miền, hình ảnh gây ấn tượng sâu
đậm nhất với tác giả là “hàng tre”
- “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát”: + Đó là hàng tre bên lăng mang nghĩa tả thực, hàng
tre ấy gợi sự thân thuộc của làng quê Việt Nam.
+ Từ láy “bát ngát” vừa gợi không gian rộng lớn, vừa thể hiện sức sống mãnh liệt, bất diệt
của hàng tre.
- Trong 2 câu cuối, “hàng tre” là hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa biểu tượng:
+ Từ cảm thán “Ôi” bộc lộ cảm xúc ngỡ ngàng, xúc động trước vẻ đẹp của hàng tre.
+ “Bão táp mưa sa” là thành ngữ chỉ những khó khăn, thử thách trong cuộc đời.
+ Cụm từ “đứng thẳng hàng” gợi tư thế hiên ngang, bất khuất.
 Như vậy, “hàng tre” là hình ảnh biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam, dân tộc
Việt Nam: bền bỉ, kiên cường, không chịu khuất phục trước mọi khó khăn, thử thách trong cuộc
đời.
 Tóm lại, khổ thơ thứ nhất thể hiện tình cảm chân thành , giản dị của tác giả đối với Bác; qua
đó bộc lộ niềm tự hào về sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam
2. Khổ 2: Cảm xúc khi hòa cùng dòng người vào lăng viếng Bác.
* Hai câu đầu: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”.
- “mặt trời” trong câu thơ đầu là hình ảnh tả thực, đó là mặt trời của thiên nhiên hàng ngày
mang đến ánh sáng giúp muôn loài thoát khỏi cuộc sống tăm tối.
- “Mặt trời trong lăng” là hình ảnh ẩn dụ ngầm so sánh với Bác Hồ. Bởi Bác chính là người
mang đến ánh sáng cho cách mạng Việt Nam, giúp nhân dân ta thoát khỏi bóng đêm của kiếp
nô lệ lầm than để đến với cuộc đời tự do tràn đầy ánh sáng
 Qua hình ảnh này, tác giả bày tỏ lòng biết ơn về công lao trời biển của Bác, niềm tự hào về
sự vĩ đại của Bác đồng thời là lời khẳng định sự bất tử của Bác như mặt trời vẫn mãi trường
tồn.
55
- Viễn Phương có cách diễn đạt rất đặc biệt qua cụm từ “rất đỏ”: mặt trời của thiên nhiên đẹp
nhưng “mặt trời trong lăng” còn rực rỡ hơn nhiều, mặt trời ấy mãi rực rỡ một màu cách mạng.
* Hai câu cuối: “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”.
- Điệp ngữ “Ngày ngày” diễn tả dòng thời gian trôi đi vô tận và dòng người cũng không ngừng
vào lăng viếng Bác
- “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực, chỉ dòng người xếp hàng vào lăng viếng
Bác đi trong nỗi xúc động, niềm thương nhớ Bác. Nỗi xúc động mãnh liệt, dạt dào như từ trong
lòng người mà lan tỏa vào không gian.
- “Tràng hoa”: + là hình ảnh tả thực chỉ những đóa hoa tươi thắm mà nhân dân mang đến kính
dâng lên Bác.
+ Đó cũng là hình ảnh ẩn dụ gợi liên tưởng: nhờ công ơn trời biển của Bác, cuộc đời họ đã hồi
sinh, đơm hoa kết trái. Và hôm nay, mỗi người dân như một đóa hoa, đến đây kết thành tràng
hoa dài vô tận để bày tỏ lòng thành kính với Bác
- Kết thúc khổ thơ là hình ảnh giàu ý nghĩa “bảy mươi chín mùa xuân”
+ “Mùa xuân” là hoán dụ ý chỉ Bác bảy chín tuổi.
+ Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ đẹp ngầm so sánh: Bác đã sống một cuộc đời đẹp như mùa xuân
và Bác đã làm nên những mùa xuân bất diệt cho đất nước.
 Bằng những hình ảnh ẩn dụ sóng đôi, khổ thơ đã diễn tả được lòng biết ơn, niềm tự hào, tấm
lòng thành kính của nhân dân Việt Nam với vị lãnh tụ vị đại của dân tộc.
3. Khổ 3: Cảm xúc của tác giả khi vào trong lăng.
Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang nỗi xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
- Cụm từ “giấc ngủ bình yên” gợi liên tưởng độc đáo: Trong cuộc đời hoạt động cách mạng,
biết bao đêm Bác không ngủ. Và giờ đây, khi về cõi vĩnh hằng, Bác mới thực sự có được giấc
ngủ bình yên. Cụm từ này cũng nhằm khẳng định: trong tâm thức của mọi người Bác còn sống
mãi.
- “Vầng trăng sáng dịu hiền” là hình ảnh ẩn dụ:
+ Gợi ánh sáng vàng nhạt dịu nhẹ trong lăng.
+ Hình ảnh này cũng có ý nghĩa biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn cao đẹp, sáng trong của Bác.
56
+ Vầng trăng ấy cũng khiến người đọc nhớ tới những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người:
trăng là người bạn tri kỉ trong những tháng ngày Bác bị giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch,
trăng đồng hành cùng Bác những ngày kháng chiến gian khổ trên chiến khu Việt Bắc. Và giờ
đây, trăng cũng vào tận trong lăng để canh giấc ngủ cho Người.
- Hai câu thơ cuối cảm xúc ngợi ca như lắng xuống, nhường chỗ cho nỗi xót xa:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
+ “Trời xanh” là hình ảnh ẩn dụ nhằm khẳng định sự bất tử: Bác đã hóa thân trọn vẹn vào thiên
nhiên, sự nghiệp vĩ đại của Người mãi trường tồn như trời xanh bất diệt.
+ Vẫn biết Bác sẽ sống mãi trong trái tim mỗi người dân Việt Nam nhưng tác giả vẫn không
tránh khỏi nỗi đau xót nghẹn ngào khi Bác đã ra đi. Từ “nhói” diễn tả nỗi đau quặn thắt, niềm
xót thương vô hạn trước sự thật đó.
4. Khổ 4: Cảm xúc khi chuẩn bị rời lăng trở về Miền Nam.
* Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt đầy xúc động
- Lời nói giản dị nhưng diễn tả những cảm xúc sâu lắng.
- “Miền Nam” gợi khoảng cách không gian xa xôi vời vợi càng làm nổi bật nỗi nhớ thương da
diết.
- Cụm từ “thương trào nước mắt” thể hiện nỗi xúc động mãnh liệt: biết bao nỗi nhớ thương dồn
nén bỗng vỡ òa thành dòng nước mắt nghẹn ngào. Đó cũng là tâm trạng của muôn triệu người
dân Việt Nam khi đến viếng Bác.
* Kết thúc bài thơ, tác giả đã bày tỏ những nguyện ước của mình:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
- Điệp ngữ “Muốn làm” được lặp lại 3 lần vừa tạo nhịp điệu, âm hưởng dồn dập thiết tha, vừa
nhấn mạnh những ước nguyện trào dâng không dứt.
- Tác giả đã mượn những hình ảnh đẹp của thiên nhiên để bày tỏ những ước nguyện đẹp của
lòng người: + Ước làm con chim hót quanh lăng để mang đến cho Bác niềm vui.
+ Ước được làm bông hoa tỏa hương sắc, tô điểm không gian quanh lăng
+ Ước được làm cây tre như người vệ binh canh giấc ngủ của Người.

57
 Như vậy “con chim”, “đóa hoa”, “cây tre” là hình ảnh ẩn dụ đẹp, biểu tượng cho ước nguyện
hóa thân để được gần Bác mãi mãi.
* “cây tre trung hiếu” được lặp lại ở cuối bài thơ tạo kết cấu đầu cuối tương ứng làm đậm nét
hình ảnh gây ấn tượng và khiến dòng cảm xúc được trọn vẹn:
- “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh biểu tượng cho phẩm chất của con người Việt Nam trong
thời đại Hồ Chí Minh: trung với nước, hiếu với dân.
- Hình ảnh này không chỉ là ước nguyện mà còn là lời hứa thiêng liêng: nhân dân Việt Nam
nguyện đi theo con đường cách mạng của Bác, theo lí tưởng mà Bác đã vạch ra cho dân tộc
Việt Nam.

III. LUYỆN TẬP.


Bài 1: Mở đầu bài thơ “Viếng lăng Bác”, nhà thơ Viễn Phương viết:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam,

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

1. Hãy nêu hoàn cảnh ra đời và mạch cảm xúc của bài thơ.

2. Vì sao trong câu đầu nhà thơ lại xưng “con” mà không phải một đại từ nào khác? Tác giả sử
dụng biện pháp tu từ gì trong từ “thăm”?

3. Tìm từ láy trong câu thơ thứ hai, thành ngữ trong câu thứ tư và giải thích nghĩa của từ láy
cùng thành ngữ đó.

4. Xét về mục đích nói và cấu tạo thì “Ôi!” thuộc kiểu câu gì và nêu tác dụng của kiểu câu đó.

5. Viết đoạn văn diễn dịch khoảng 12 câu phân tích khổ thơ trên để làm rõ cảm xúc của nhà thơ
trước cảnh vật bên ngoài lăng, trong đoạn có sử dụng thành phần cảm thán và phép nối( gạch
chân- chú thích).

6. Trong chương trình Ngữ văn THCS, em cũng đã học một văn bản mà tác giả tập trung ca
ngợi hình ảnh cây tre Việt Nam. Cho biết tên văn bản, tên tác giả.

58
Bài 2: Bác Hồ- vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam- là nguồn cảm hứng bất tận của thi ca.
Một nhà thơ đã viết:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Có một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”

1. Những câu thơ trên trích trong bài thơ nào? Ai là tác giả?

2. Theo em từ “mặt trời” trong câu thứ hai được hiểu theo nghĩa gốc hay nghĩa chuyển? Nếu là
nghĩa chuyển thì chuyển theo phương thức nào? Từ đó có thể coi là hiện tượng chuyển nghĩa
không? Vì sao?

3. “Thương nhớ” vốn là từ chỉ cảm xúc của con người. Nhưng tại sao tác giả lại viết “Ngày
ngày dòng người đi trong thương nhớ”?

4. Bằng một đoạn văn theo cách lập luận quy nạp khoảng 12 câu, em hãy phân tích khổ thơ
trên để làm rõ cảm xúc của tác giả; trong đoạn có sử dụng phép thế và thành phần phụ chú
( gạch chân- chú thích).

5. Từ “mùa xuân” được hiểu theo nghĩa nào? Dụng ý của tác giả khi sử dụng từ đó.

6. Trong chương trình Ngữ văn 9 một bài thơ cũng có hình ảnh mặt trời được dùng với nghĩa ẩn
dụ. Hãy chép câu thơ có hình ảnh đó (ghi rõ tên tác giả, tác phẩm), chỉ ra những điểm giống,
khác nhau của hình ảnh mặt trời trong hai văn bản.

Bài 3: Kết thúc bài thơ “Viếng lăng Bác” nhà thơ Viễn Phương đã viết:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm câu tre trung hiếu chốn này.”

1. Cách bộc lộ cảm xúc trong dòng đầu của đoạn thơ trên là hình thức biểu cảm theo cách nào?

59
2. Vì sao trước khi giã biệt, nhà thơ lại bày tỏ ước nguyện muốn làm “con chim hót quanh
lăng Bác”, làm “đóa hoa tỏa hương”, làm “cây tre trung hiếu”? Điệp ngữ “muốn làm” góp
phần diễn tả ước nguyện và cảm xúc của nhà thơ như thế nào?

3. Viết đoạn văn Tổng – phân- hợp khoảng 12 đến 15 câu phân tích khổ thơ trên để làm rõ cảm
xúc của tác giả trước khi rời lăng trở về miền Nam, trong đoạn có sử dụng phép lặp và thành
phần tình thái (gạch chân- chú thích).

4. Cùng diễn tả ước nguyện đẹp đẽ với những hình ảnh thơ tương tự, em đã bắt gặp ở những
câu thơ nào khác? Hãy chép những câu thơ đó (ghi rõ tên tác giả, tác phẩm), chỉ ra những điểm
giống và khác nhau trong việc sử dụng những hình ảnh ở hai khổ thơ.

5. Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh “hàng tre” và kết thúc là “cây tre trung hiếu”, điều đó có ý
nghĩa như thế nào? Phân tích ý nghĩa của hình ảnh cây tre trong từng văn cảnh.

6. Kể tên một văn bản khác trong chương trình Ngữ văn THCS cũng viết về tình cảm của nhân
dân dành cho Bác Hồ và ghi rõ tên tác giả.

Câu 4: Cho câu văn : Trong bài thơ “Viếng lăng Bác”, nhà thơ Viễn Phương đã sử dụng một
hệ thống các hình ảnh lớn lao, kì vĩ của vũ trụ nhằm biểu hiện những ý nghĩa ẩn dụ sâu xa.

Hãy coi câu văn trên là câu chủ đề, viết tiếp khoảng 12 câu để hoàn thành một đoạn văn
Tổng- phân- hợp làm sáng tỏ ý đó. Đoạn văn có sử dụng thành phần khởi ngữ và câu cảm thán
(gạch chân- chú thích).

SANG THU
- Hữu Thỉnh -

I. TÁC GIẢ, TÁC PHẨM


1. Tác giả:
- Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942; quê: Tam Dương - Vĩnh Phúc.
- Thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
- Hữu Thỉnh là người viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn Bắc Bộ.
Thơ ông thường mang cảm xúc bâng khuâng trước sự biến chuyển nhẹ nhàng của đất trời.
2. Tác phẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- Cuối năm 1977, hai năm sau ngày đất nước thống nhất.
- Tác giả viết bài thơ này khi ông 35 tuổi- độ tuổi sang thu của đời người.
b. Chủ đề: Những cảm nhận tinh tế và chuyển biến nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời từ cuối hạ
sang đầu thu.
60
c. Thể thơ: năm chữ
d. Phương thức biểu đạt: biểu cảm kết hợp miêu tả.
e. Nhan đề: Là một sự sáng tạo độc đáo, không phải là “Thu” hay “Thu sang” mà là “Sang
thu”.
- Trong nhan đề, tác giả sử dụng nghệ thuật đảo, nhấn mạnh động từ “sang”.
- Bài thơ không phải nói về mùa thu mà là nói về cái khoảnh khắc giao mùa từ cuối hạ sang đầu
thu, nên cách đặt nhan đề như vậy là chính xác nhất.
- Trong bài thơ, bước chân của mùa thu từ mơ hồ đến rõ ràng, đậm nét hơn; vì vậy nhan đề
“sang thu” còn gợi bước chuyển mình của mùa thu, bước đi của thời gian.
 Nhan đề góp phần làm nổi bật chủ đề bài thơ (…)
g. Mạch cảm xúc: Theo trình tự thời gian- không gian.
Khổ thứ nhất là những cảm nhận tinh tế về tín hiệu thu trong không gian gần và hẹp. Tiếp
theo, khổ hai là bước chuyển mình của mùa thu trong không gian cao, xa và rộng. Cuối cùng là
những suy ngẫm khi thu về.

II. PHÂN TÍCH


1. Khổ thơ thứ nhất: Cảm nhận tinh tế của tác giả trước tín hiệu giao mùa trong không
gian gần và hẹp.
* Tín hiệu thu về được cảm nhận bằng nhiều giác quan tinh tế.
- Trước hết, tín hiệu thu được cảm nhận bằng khứu giác:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”.
+ “Hương ổi” là hương vị mộc mạc của làng quê đang lan tỏa trong không gian nơi vườn thôn
ngõ xóm. Hương thơm này như truyền đi bức thông điệp của mùa thu.
+ Tác giả có cách sử dụng từ rất đặc sắc, hương ổi “phả” chứ không phải là “thổi” hay “tỏa”.
Từ “phả” như mang trong đó hơi ấm của tình cảm, sự gần gũi, thân thương; gợi hương thơm
đang ở độ đậm nhất, như sánh lại, quyện lại, luồn vào trong gió. Đồng thời từ “phả” cũng gợi
sự vận động nhẹ nhàng của làn gió đưa hương.
- Tín hiệu thu về còn được cảm nhận bằng xúc giác, đó là làn “gió se”: cái gió se sắt, chớm
lạnh, hơi khô- một tín hiệu đặc trưng của mùa thu xứ Bắc.
- Mỗi lúc, đường nét của bức tranh mùa thu lại rõ hơn, tín hiệu thu được cảm nhận bằng thị giác
với hình ảnh:
“Sương chùng chình qua ngõ”.
+ Từ láy “chùng chình”: cố ý đi chậm lại
+ Biện pháp nghệ thuật nhân hóa qua từ láy “chùng chình” thật gợi hình, gợi cảm: gợi làn
sương mỏng, giăng mắc nhẹ nhàng. Dường như làn sương ấy cũng có hồn, nửa muốn sang thu
nhưng nửa còn lưu luyến mùa hạ.
+ Hình ảnh “ngõ” trong câu thơ là cái ngõ thực ở làng quê, song cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ
chỉ cửa ngõ của thời gian thông giữa hai mùa thu-hạ.
* Cảm xúc của nhà thơ trước tín hiệu thu về.
- Cảm xúc về mùa thu đã mở ra từ trạng thái bất chợt, ngỡ ngàng của thi nhân “Bỗng nhận ra”.
- Sau giây phút ngỡ ngàng, nhà thơ mở lòng đón nhận những tín hiệu thu dù nó còn rất mơ hồ.
Tất cả những giác quan như thức dậy, mở ra để đón nhận khúc giao mùa trong trạng thái say
sưa, ngây ngất.
- “Hình như thu đã về”: Câu thơ như một lời thầm hỏi thể hiện cảm xúc bối rối, xao xuyến, ngỡ
ngàng trước những tín hiệu ban đầu của mùa thu.
61
 Phải là người có tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết, tác giả Hữu Thỉnh mới có
những cảm nhận vô cùng tinh tế như vậy.
2. Khổ thơ thứ hai: Cảm nhận của tác giả trước bước chuyển mình của mùa thu trong
không gian cao, xa và rộng.
* Bức tranh thu về được miêu tả ở tầm xa hơn trong không gian rộng dài với những nét hữu
hình, cụ thể. Hai câu thơ đầu như đăng đối với những hình ảnh ngược nhau nhưng vẫn
mang đặc trưng của mùa thu.

“Sông được lúc dềnh dàng


Chim bắt đầu vội vã
- “Sông được lúc dềnh dàng”: Qua mùa mưa lũ, dòng sông không còn chảy cuồn cuộn, gấp gáp
mà “dềnh dàng” chảy. Nghệ thuật nhân hóa qua từ láy “dềnh dàng” vừa gợi hình ảnh dòng sông
trôi chầm chậm, thanh thản, tạo vẻ đẹp yên bình của bức tranh thiên nhiên mùa thu; vừa gợi liên
tưởng: con người đã qua thời tuổi trẻ sôi nổi, bây giờ là lúc sống chậm lại, suy ngẫm sâu lắng.
- Đối lập với dòng sông chầm chậm chảy là cánh chim “bắt đầu vội vã”: những cánh chim bất
chợt nhận ra cái se lạnh trong không gian nên bắt đầu vội vã bay đi
- Tác giả có cách sử dụng từ rất độc đáo. Hai từ “được lúc” và “bắt đầu” đều chỉ sự khởi đầu
nhưng lại gợi ra trạng thái khác nhau của hai hình ảnh:
+ Từ “được lúc”: dòng sông đã chờ đợi khoảnh khắc yêu bình này từ lâu.
+ Còn từ “bắt đầu” lại cho thấy trạng thái bất ngờ, không đợi trước của cánh chim trời.
 Hai câu thơ đối nhau rất nhịp nhàng, tạo nên hai hình ảnh đối lập mà vẫn diễn tả được
khoảnh khắc giao mùa: sông dưới mặt đất, chim trên trời, sông “dềnh dàng” chậm rãi, chim
“vội vã”.

* Đặc sắc nhất trong bức tranh mùa thu là hình ảnh:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”.
- Câu thơ gợi hình ảnh đám mây mỏng như chiếc khăn mềm mại vắt ngang trên nền trời. Bởi
thu sang, khô và se lạnh nên những đám mây cũng mỏng dần đi.
+ Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ qua hình ảnh đám mây “vắt nửa mình” khiến đám mây vừa có
hình lại vừa có hồn. Đám mây ấy đã trở thành nhịp cầu nối giữa hai mùa thu- hạ. Như vậy
khoảnh khắc giao mùa từ vô hình trở thành hữu hình, cụ thể
 Nét đặc sắc của hình ảnh này là nó có tính tạo hình trong không gian nhưng lại có ý nghĩa
diễn tả sự vận động của thời gian.
 Qua khổ hai, bằng nghệ thật nhân hóa tác giả đã tạo nên bức tranh giao mùa hữu tình, thi vị.
Qua đó người đọc cũng cảm nhận được tình yêu thiên nhiên tha thiết, tâm hồn nhạy cảm và trí
tưởng tượng vô cùng phong phú của nhà thơ.
3. Khổ thơ thứ ba: Suy ngẫm sâu lắng của con người lúc sang thu.
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.

* Tác giả thật sáng tạo khi hoàn thiện bức tranh thu về bằng chi tiết về hiện tượng thời tiết
của mùa hạ.

62
- Những từ chỉ mức độ “vẫn còn”, “bao nhiêu”, “vơi dần”, “bớt” đã diễn tả được sự biến
chuyển của các hiện tượng tự nhiên:
+ Mới chớm thu, đầu thu nên nắng hạ vẫn còn nhưng nhạt dần, không còn chói chang, gay gắt
nữa.
+ Sự thay đổi rõ rệt nhất là mưa, không còn những cơn mưa rào trắng trời của mùa hạ mà đã
“vơi dần”: nhỏ, ít dần
+ Sấm cũng thưa và không còn vang vọng
 Những từ chỉ mức độ theo trình tự giảm dần đã gợi tả bức tranh thiên nhiên: hạ nhạt dần và
thu đậm nét hơn.
* Hai câu cuối bài còn là những suy ngẫm lắng sâu của tác giả:
- Nghĩa thực: Sấm là hiện tượng của thiên nhiên. Sang thu, sấm cũng thưa và nhỏ dần, không
đủ sức lay động những hàng cây đứng tuổi đã qua bao mùa thay lá.
- Hai câu thơ còn mang ý nghĩa ẩn dụ.
+ “Sấm” chỉ những vang động bất thường của ngoại cảnh, những khó khăn, trắc trở trong cuộc
đời.
+ “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những người từng trải, chín chắn.
 Hai câu thơ mang hàm ý: Con người khi đã từng trải thì sẽ vững vàng hơn trước những tác
động bất thường của ngoại cảnh, trước bão giông của cuộc đời.
 Bài thơ còn có thể gợi những liên tưởng sâu xa về thế sự: đất nước vừa trải qua thời đạn
bom, bước vào cuộc sống hòa bình. Những năm tháng sôi động, hào hùng cũng lắng lại. Và giờ
đây đất nước cũng sẽ vững vàng hơn khi đối mặt với bao thách thức ở phía trước.

NÓI VỚI CON


Y Phương
I. TÁC GIẢ - TÁC PHẨM.
1. Tác giả: Y Phương tên thật là Hứa Vĩnh Sước, sinh năm 1948, người dân tộc Tày, quê Cao
Bằng.
- Ông sáng tác nhiều bài thơ về quê hương mình. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh
mẽ, trong sáng với cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi.
2. Tác phẩm.
a. Hoàn cảnh sáng tác.
Sáng tác năm 1980, đó là giai đoạn mà đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân cả nước
còn rất nhiều khó khăn.

63
b. Chủ đề: Bài thơ là lời người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng của con, ca ngợi
sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình, mong con tiếp nối và phát huy truyền thống
tốt đẹp đó.
c. Thể thơ: tự do  phù hợp với những bài thơ biểu đạt xúc cảm mạnh mẽ, tuôn trào.
d. Bố cục: 2 đoạn
- Đoạn 1: Người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng.
- Đoạn 2: Những phẩm chất của người đồng mình và lời dặn dò của cha.
e. Mạch cảm xúc của bài thơ: Bài thơ đi từ tình cảm gia đình mở rộng ra là tình cảm với quê
hương, từ những kỉ niệm gần gũi mà nâng lên thành lẽ sống.
II. PHÂN TÍCH.
1. Người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng.
a. Gia đình là cái nôi đầu tiên nuôi dưỡng con trưởng thành.
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
- Hai câu thơ kết cấu sóng đôi nhịp nhàng với hình ảnh hoán dụ “chân phải”, “chân trái”
(người con)
- Điệp ngữ “bước tới”
- Nhịp thơ 2/3
- Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “chạm tiếng nói” “tới tiếng cười”
 gợi liên tưởng tới những em bé mới tập đi. Những bước đi đầu đời của con đều được cha mẹ
vui mừng đón nhận, bên phải có bờ vai vững chắc của cha, bên trái có vòng tay yêu thương của
mẹ
 gợi không khí gia đình đầm ấm quấn quýt  Đó là cái nôi đầu tiên nuôi dưỡng con trưởng
thành.
 Qua 4 câu thơ, tác giả cũng muốn gửi gắm thông điệp: hạnh phúc không ở đâu xa mà hiện
hữu ngay trong chính ngôi nhà bé nhỏ. Ở đó, con sẽ tìm được sự bình yên trong tâm hồn và sự
ấm áp trong trái tim.
b. Quê hương.
* Câu thơ “Người đồng mình yêu lắm con ơi” chất chứa bao cảm xúc:
- “Người đồng mình” là người vùng mình, miền mình, chỉ những người cùng sống trên một
miền đất, một quê hương, cùng một dân tộc.
- câu thơ là câu cảm thán
 thể hiện niềm xúc động, tự hào, tính cộng đồng ấm áp.
* Con còn được lớn lên từ cuộc sống lao động của “người đồng mình”.
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát

64
- Động từ “cài” “ken” vừa gợi những động tác thuần thục, khéo léo vừa gợi cuộc sống vui
tươi, ấm áp của người đồng mình.
- “Lờ” là dụng cụ đánh bắt cá nhưng qua cách nhìn của người đồng mình, nó không chỉ được
đan bằng những nan tre mà là “nan hoa”.
- “vách nhà” không chỉ ken bằng những tấm gỗ mà còn được ken bằng những câu hát tình tứ,
rộn rã  như vậy, “vách nhà” không còn là chiếc vách cụ thể mà trở thành chủ thể văn hóa.
 Hai câu thơ gợi nên cuộc sống lao động của người đồng mình: dẫu còn thô sơ, mộc mạc
nhưng đầy ắp niềm vui, niềm lạc quan và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
* Con còn được lớn lên giữa thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình:
- “Rừng cho hoa” là hình ảnh tả thực. Đó là khu rừng đậm sắc, ngát hương với vẻ đẹp nên thơ,
lãng mạn một vẻ đẹp chỉ có ở vùng miền núi.
- “Con đường cho những tấm lòng”
+ Nghĩa thực: đó là những con đường ở miền núi. Con đường ấy tiễn người đi xa, đón người trở
về bản…Con đường ấy chất chứa bao nghĩa tình.
+ Nghĩa ẩn dụ: là con đường đời mà con sẽ đi, trên con đường ấy, con sẽ được người đồng
mình bao bọc, che chở.
- Điệp từ “cho” thể hiện tấm lòng rộng mở, hào phóng, quê hương sẵn sàng ban tặng con những
gì đẹp đẽ nhất.
 Nếu gia đình là nơi sinh thành, dưỡng dục thì quê hương chính là cội nguồn nuôi dưỡng
con về tâm hồn, lẽ sống
* Hai câu cuối: “Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”
- “Nhớ về ngày cưới” là nhớ về mốc son cha mẹ được tác hợp, ngày khởi đầu của một gia đình,
khởi đầu của hạnh phúc, minh chứng cho tình yêu. Và con chính là kết tinh của tình yêu đó.
 Đoạn thơ là lời nhắn nhủ tâm tình của cha về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con, đó là
gia đình, quê hương. Đó cũng là lời nhắc nhở: con phải sống sao cho xứng đáng với tình yêu
thương đó.
2. Những phẩm chất của người đồng mình và lời dặn dò của cha.
a. Những phẩm chất của người đồng mình: Trong niềm xúc động dạt dào, người cha nói với
con về những phẩm chất của người đồng mình.

* Mở đầu đoạn thơ là câu: “Người đồng mình thương lắm con ơi”
- Tác giả vẫn sử dụng cách nói gợi cảm: “Người đồng mình”  gợi sự gần gũi, thân thương.
- Động từ “thương” kết hợp với phó từ chỉ mức độ “lắm” để nói về những vất vả, cực nhọc mà
người đồng mình phải trải qua.
* Hai câu thơ: “Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”

65
- Đây là cách nói đậm tư duy, giàu hình ảnh của người miến núi. Tác giả sử dụng tính từ “cao”
“xa” chỉ nỗi buồn và chí lớn. Người đồng mình nén nỗi buồn vào đá núi để chí lớn được vươn
xa  câu thơ đã mượn chiều kích của không gian để nói về tâm hồn rộng mở, phóng khoáng,
sự bền gan vững chí của người đồng mình.
* Tác giả tiếp tục ngợi ca phẩm chất của “người đồng mình”
“Người đồng mình tuy thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
- Hai câu đầu sử dụng kết cấu đối lập : “thô sơ da thịt” >< “chẳng nhỏ bé”  họ có thể giản
dị, mộc mạc, chân chất nhưng không hề nhỏ bé về ý chí, nghị lực.
* Hai câu cuối là điểm nhấn của đoạn thơ: “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
- Hình ảnh “ tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang ý nghĩa tả thực vừa là hình ảnh ẩn dụ:
+ Nghĩa thực: là công việc phá đá, bạt rừng, làm nhà cửa, tạo ruộng bậc thang cuộc sống vô
cùng vất vả.
+ Ẩn dụ; chỉ tinh thần tự lực vun đắp, xây dựng quê hương.
 Bằng chính ý chí kiên cường, người đồng mình đã xây dựng quê hương để để sự sống bật
chồi, trải màu xanh no ấm trên đá cằn khô
- “Còn quê hương thì làm phong tục”: họ còn vun đắp, tạo dựng những giá trị tinh thần cao quý
đó là những phong tục, bản sắc văn hóa độc đáo.
b. Lời dặn dò của người cha.
* Câu thơ “Dẫu làm sao thì cha cũng muốn” là lời của trái tim vừa tha thiết, vừa quyết liệt,
mong muốn con giữ gìn những giá trị làm người cao quý.
* Người cha mong con : “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
- Điệp từ “sống” được lặp đi lặp lại như muốn nhấn mạnh sức sống mạnh mẽ, bền bỉ.
- “Đá gập ghềnh” “Thung nghèo đói” là hình ảnh gợi không gian hiểm trở, khó khăn, vất vả.
Hình ảnh này kết hợp với điệp ngữ ‘không chê” “không lo” thể hiện mong ước của cha: con
hãy sống thủy chung, gắn bó, trân trọng quê hương dẫu quê hương còn đói nghèo.
- Hình ảnh so sánh trong câu thơ “Sống như sông như suốí” là lời mong muốn con hãy sống
phóng khoáng, mạnh mẽ như những dòng sông, con suối của quê hương.
- Thành ngữ “Lên thác xuống ghềnh” với phép đối gợi cuộc sống vất vả, lam lũ  qua đó
người cha mong muốn con không được ngần ngại trước mọi thử thách, hãy sẵn sàng đối mặt,
vươn lên, làm chủ hoàn cảnh.

66
* Kết thúc bài thơ là bốn câu thơ chứa chan tình cảm yêu thương:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”
- Những cụm từ “Con ơi”, “Nghe con” thật thiết tha, trìu mến.
- Kết cấu đối lập “Thô sơ da thịt” >< “Không nhỏ bé” là sự đối lập giữa hoàn cảnh với lẽ sống.
- Đoạn thơ vừa là lời dặn vừa thể hiện một thái độ quyết liệt của cha: trên đường đời, con luôn
phải ngẩng cao đầu, phải kiên cường, bản lĩnh, khí phách, xứng đáng với truyền thống của quê
hương.
 Bài thơ “Nói với con” của Y Phương thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha dành
cho con. Qua đó cũng bộc lộ niềm tự hào và tình yêu đối với người đồng mình và quê hương
xứ sở.

NHỮNG NGÔI SAO XA XÔI


- Lê Minh Khuê-
I. TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1. Tác giả : - sinh năm 1949, quê: Thanh Hóa.
- Thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ .
- Sáng tác của Lê Minh Khuê chia làm hai giai đoạn:
+ Trước 1975: tập trung tái hiện cuộc chiến đấu của tuổi trẻ trên tuyến đường Trường Sơn.
+ Sau 1975: thường viết về những chuyển biến trong đời sống hàng ngày.
- Truyện ngắn của Lê Minh Khuê thể hiện một ngòi bút dung dị, nữ tính
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác:
- 1971, là thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ bước vào giai đoạn khốc liệt
67
- Tác giả cũng đang hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn.
b. Chủ đề: Qua câu chuyện về ba cô gái thanh niên xung phong trong tổ trinh sát mặt đường, truyện khẳng
định, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất anh hùng của các cô gái TNXP trên tuyến đường Trường Sơn
nói riêng và tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ nói chung.
c. Ngôi kể :Truyện được kể bằng ngôi kể thứ nhất, người kể là Phương Định- nhân vật chính của truyện.
- Tác dụng: + Tạo thuận lợi để tác giả tập trung miêu tả thế giới nội tâm nhân vật
+ Tạo điểm nhìn phù hợp để khắc họa chân thực hiện thực chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn qua cái nhìn
của người trực tiếp tham gia câu chuyện.
+Dễ dàng điều chỉnh nhịp kể
d. Nhan đề: “Những ngôi sao xa xôi” là một nhan đề hay và độc đáo, vừa mang ý nghĩa cụ thể, vừa mang ý
nghĩa biểu tượng sâu xa.
- Nghĩa thực: là ngôi sao trên mũ của người lính mà Phương Định gặp trên những ngả đường ra trận, là ngôi
sao trên bầu trời thành phố trong hoài niệm của Phương Định.
- Nghĩa biểu tượng: ánh sáng của những vì sao thường nhỏ bé, không dễ nhận ra, lại ở vị trí “xa xôi”, vì vậy đòi
hỏi chúng ta phải quan sát thật kĩ, thật tinh, phải khám phá, kiếm tìm thì mới phát hiện và cảm nhận được vẻ
đẹp lung linh, kì diệu của nó  Nhan đề là hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa biểu tượng:
+ Những ngôi sao gợi vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, mơ mộng và lãng mạn của thiếu nữ Hà Thành trẻ trung.
+ Là ước mơ, khát vọng về cuộc sống hòa bình giữa cuộc sống ác liệt của chiến tranh.
+ Nhưng trên hết, “Những ngôi sao xa xôi” là hình ảnh biểu tượng cho phẩm chất cách mạng ngời sáng- phẩm
chất anh hùng và tâm hồn lạc quan mơ mộng của các cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường
Sơn
 Là nhan đề đậm chất lãng mạn, đặc trưng cho văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ.
e. Nội dung, nghệ thuật chính:
* Nội dung: Tác phẩm làm nổi bật tâm hồn trong sáng mơ mộng, tinh thần dũng cảm; cuộc sống chiến đấu đầy
gian khổ, hi sinh nhưng rất hồn nhiên, lạc quan của những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường
Trường Sơn. Đó là hình ảnh đẹp, tiêu biểu về thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.
* Nghệ thuật: - Sử dụng ngôi kể thứ nhất- người kể là nhân vật chính.
- Cách kể chuyện tự nhiên với ngôn ngữ sinh động, trẻ trung.
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo.
- Sử dụng các kiểu câu ngắn, nhịp nhanh, phù hợp với sự khốc liệt của chiến trường đồng thời
thể hiện tâm trạng lo lắng, hồi hộp,căng thẳng của nhân vật.
II. DÀN Ý PHÂN TÍCH
1. Ba nhân vật nữ thanh niên xung phong trong tổ trinh sát mặt đường
* Hoàn cảnh sống:
- 3 cô gái TNXP Phương Định, chị Thao và Nho là những nữ trinh sát mặt đường.
- Họ ở trong một cái hang, dưới chân cao điểm, giữa vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn-nơi tập
trung nhiều nhất bom đạn của giặc Mĩ.
- Công việc hàng ngày của họ là: đo khối lượng đất đá cần san lấp hố bom, đánh dấu những quả bom chưa nổ
và nếu cần thì phá bom.  Đây là công việc vô cùng nguy hiểm, luôn căng thẳng thần kinh, đòi hỏi sự dũng
cảm, bình tĩnh. “Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần.
Thần kinh căng như dây chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng chung quanh có
nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể nổ chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ …”.
 Hoàn cảnh gian khổ khốc liệt này góp phần làm nổi bật vẻ đẹp của các nhân vật.
68
a. Phẩm chất chung của 3 cô gái:
a 1. Phẩm chất anh hùng:
* Họ có tinh thần trách nhiệm cao với công việc.
- Ở nơi đầy bom Mĩ, cái chết có thể tới bất cứ lúc nào nhưng các cô hiểu công việc của mình là một khâu vô
cùng quan trọng để con đường được thông suốt. Vì thế, chỉ nghe thấy tiếng máy bay trinh sát là các cô đã chuẩn
bị tư thế, sẵn sàng làm nhiệm vụ “chụp cái mũ sắt lên đầu” “vác cái xẻng lên vai” “sẵn sàng ra trận địa”.
- Khi phá bom, có lúc các cô nghĩ đến cái chết nhưng chỉ là cái chết “mờ nhạt, không cụ thể”. Điều các cô quan
tâm nhất là “liệu mìn có nổ, bom có nổ không?”. Họ đã đặt nhiệm vụ lên trên cả tính mạng của mình.
- Phá bom là công việc nguy hiểm nhưng những nữ TNXP luôn trăn trở, quyết tâm để hoàn thành nhiệm vụ
“Không thì làm thế nào để châm mìn lần thứ hai? Tôi nghĩ thế, nghĩ thêm.”
- Khi bị thương, Phương Định nhất quyết không vào viện quân y mà muốn được ở lại cùng chiến đấu với đồng
đội “Tôi bây giờ còn một vết thương chưa lành miệng ở đùi. Tất nhiên, tôi không vào viện quân y.”
* Họ còn là những cô gái TNXP vô cùng gan dạ, dũng cảm.
- Sẵn sàng làm nhiệm vụ phá bom mà không cần sự trợ giúp của đơn vị “Đại đội trưởng hỏi chúng tôi có cần
người không. Tôi bảo không. Như mọi lần chúng tôi sẽ giải quyết hết”.
- Ở trong hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm “ Tiếng máy bay trinh sát rè rè. Phản lực gầm gào” nhưng các cô vẫn
bình tĩnh. Chị Thao vẫn “móc bánh bích quy nhai” “chị tỏ ra bình tĩnh đến phát bực”
- Khi thực hiện công việc phá bom, là lúc phải đối mặt với thần chết nhưng khi cảm giác có ánh mắt các anh
cao xạ đang dõi theo mình thì lòng dũng cảm được kích thích bởi sự tự trọng và yên tâm “ Tôi sẽ không đi
khom.....cứ đàng hoàng mà bước tới”.Với Phương Định, đó là tư thế đàng hoàng để đối mặt với hiểm nguy, đối
mặt với cái chết.
- Cách họ nói về công việc phá bom- 1 công việc cực kì nguy hiểm bằng giọng điệu thản nhiên “Quen rồi, một
ngày chúng tôi phá bom đến 5 lần, ngày nào ít 3 lần”.
- Trong 3 người thì Nho, Phương Định đã từng bị thương.
+Khi bị thương Phương Định “kiên quyết ko vào viện”. Là con gái nhưng họ nghĩ về việc bị thương rất bình
thản, nhẹ nhàng “Mảnh bom ghim vào cánh tay thì khá phiền”.
+ Còn Nho, cô vẫn bình thản đến lạ lùng. Khi chị Thao định gọi điện về đơn vị thì Nho gạt đi “ Việc gì phải
khiến nhiều người lo lắng…Sao bà cứ cuống quýt lên vậy” .
+ Đồng đội bị thương, họ rất bản lĩnh, cứng cỏi, không khóc bởi với các cô “Nước mắt đứa nào chảy trong khi
cần cái cứng cỏi của nhau này bị xem như bằng chứng của một sự tự nhục mạ”.
* Họ có tình đồng đội gắn bó, thân thiết:
- Sống trong một tập thể, các cô rất hiểu nhau:
+ Phương Định hiểu sở thích của chị Thao và Nho, kể cả là những sở thích riêng tư, thầm kín nhất. Cô biết
chị Thao thích chép bài hát, thích làm dáng “cái áo lót nào cũng thêu chỉ màu”, biết Nho thích ăn kẹo, “thích
tắm sau mỗi lần trinh sát”….
+ Họ thấu hiểu suy nghĩ của nhau. Lúc Nho bị thương, chị Thao yêu cầu hát, Phương Định đã phát cáu với
chị nhưng cô vẫn hiểu “những gì đang quay cuồng trong chị”. Cô hiểu đằng sau cái vẻ bình thản ấy, chị đang
rất lo lắng cho đứa em bé bỏng.
Họ còn hiểu nhau qua ánh mắt. Đôi khi không cần nói, nhưng “nhìn nhau, chúng tôi đọc thấy trong mắt nhau
điều đó”.
- Các cô luôn quan tâm, chăm sóc cho nhau rất chu đáo:
+ Khi chị Thao và Nho đi trinh sát bom trên cao điểm, ở trong hang trực điện thoại, Phương Định bồn chồn, lo
lắng. Với cô “những gì đã qua, những gì sắp tới…không đáng kể nữa”. Điều Phương Định lo lắng và sợ hãi

69
nhất là “những người bạn tôi không quay trở về”. Sự bồn chồn lo lắng ấy khiến Phương Định gắt lên với người
đại đội trưởng “Trinh sát chưa về”
+ Khi phát hiện Nho bị thương, chị Thao hoảng sợ đến tột độ “vùng ra, mắt mở to, mờ trắng đi như không còn
sự sống” rồi”nghẹn ngào, không nước mắt”. Chị dành cho Nho những cử chỉ ân cần, dịu dàng “Chị lấy tay sửa
cái cổ áo, cái ve áo và tóc nó”
Còn Phương Định, cô chăm sóc cho Nho như một người y tá thực thụ. Phương Định rửa vết thương, tiêm cho
Nho, pha sữa cho Nho uống và lo lắng tới mức “phát cáu với chị Thao khi chị yêu cầu hát.”
a 2. Vẻ đẹp tâm hồn:
- Cả ba cô gái đều rất lạc quan, yêu đời.
+ Sống giữa nơi chiến trường khốc liệt, căng thẳng nhưng họ vẫn tạo cho mình đời sống tinh thần vô cùng
phong phú. Phương Định thích hát, Chị Thao chăm chép bài hát. Tiếng hát, tiếng cười vẫn cất cao sau mỗi trận
bom ác liệt của giặc Mĩ. Đúng là “Bom Mĩ có thể làm rung chuyển cả núi rừng” nhưng không thể rung chuyển
trái tim của những nữ thanh niên xung phong. Tiếng hát ấy chính là phong trào “Tiếng hát át tiếng bom” của
tuổi trẻ Trường Sơn thời chống Mĩ.
+ Các cô bị bom vùi luôn. Có khi về chỉ “thấy hai con mắt lấp lánh”, nhưng họ vẫn gọi đùa nhau là “những
con quỷ mắt đen”.
- Cả ba đều có nét chung của các cô gái trẻ: dễ cảm xúc, hay mơ mộng, dễ vui nhưng cũng dễ trầm tư. Họ rất nữ
tính, thích làm đẹp cho cuộc sống của mình:
+ Nho thích thêu thùa.(dẫn chứng)
+ Chị Thao chăm chép bài hát, thích làm dáng.(dẫn chứng)
+ Phương Định thích hát, thích bó gối mơ mộng, ngắm mình trong gương. (dẫn chứng)
b. Những nét riêng: Dù gắn bó với nhau trong một tập thể nhưng mỗi người lại có những nét cá tính
riêng.
- Phương Định là một nữ sinh Hà Nội, cô thường nhớ về kỉ niệm bên gia đình và thành phố của mình. Kí ức này
vừa làm dịu mát tâm hồn cô giữa nơi chiến trường khốc liệt vừa là mơ ước về một cuộc sống yên bình.
- Chị Thao: là người nhiều tuổi nhất, những ước mơ thiết thực hơn nhưng cũng không thiếu những khao khát,
rung động của tuổi trẻ. Trong chiến đấu, chị rất gan dạ, dũng cảm, ai cũng phải gờm nhưng lại sợ máu và vắt. Ở
chị có sự kết hợp giữa cái nhút nhát, mềm yếu của cô gái và bản lĩnh cứng cỏi, kiên cường của một nữ chiến sĩ
nơi lửa đạn.
- Nho: tính trẻ con. Cô thích ăn kẹo, thích tắm sau mỗi lần trinh sát; Phương Định thường ví Nho với một que
kem mát lạnh.
 Cả 3 cô gái đều có những tính cách đẹp đẽ, đáng yêu. Họ chính là hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam
thời chống Mĩ.

2. Nhân vật Phương Định


a. Qua lời tự đánh giá, nhận xét:
- Trong văn bản, Phương Định tự giới thiệu “Tôi là con gái Hà Nội” Lời giới thiệu độc đáo, thu hút bởi sự
tự tin và thể hiện niềm tự hào về quê hương mình.
- Hình thức: Phương Định là người ý thức sâu sắc về vẻ đẹp của mình: Cô tự nhận mình là một cô gái khá với
“hai bím tóc dày”, cái cổ cao “kiêu hãnh như đài hoa loa kèn” “còn đôi mắt tôi thì các anh chiến sĩ bảo: cô có
cái nhìn sao mà xa xăm”. Đó là vẻ đẹp rất nữ tính, thể hiện chiều sâu tâm hồn

70
- Tình cảm: cô biết và tự hào vì có nhiều người yêu mến nhưng không vồn vã mà tỏ ra kín đáo, tưởng như kiêu
kì. Nhưng đấy chỉ là nét điệu đà, kiêu kì rất nữ tính. Thực lòng, cô yêu mến tất cả những người đồng đội của
mình và đặc biệt thần tượng những người lính mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ mà cô gặp trên ngả đường ra
trận. Với cô, đó là những con người “đẹp nhất, thông minh nhất, can đảm, cao thượng nhất”
- Sở thích: thích hát
+ Thủa nhỏ, Phương Định đã hay hát. Cô leo lên thành cửa sổ căn phòng bé nhỏ của mình mà hát “say sưa ầm
ĩ”
+ Cô đem cả niềm say mê đó vào trận địa. Sống trong cảnh chiến tranh ác liệt, cận kề cái chết, Phương Định
lại càng hay hát. Cô thích nhiều bài hát “Tôi thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những
ngả đường ra mặt trận…”, thậm chí còn bịa ra lời mà hát và hát trong nhiều khoảnh khắc khác nhau trên chiến
trường.
 Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật  Phương Định là cô gái có tâm hồn mơ mộng, lãng mạn; tinh thần lạc
quan và bản lĩnh kiên cường.
(Tiếng hát trên cao điểm của Phương Định lúc này thực sự là “tiếng hát át tiếng bom”. Hát cho tâm hồn thăng
hoa, để sống với những giây phút bình yên, thanh thản, để truyền cho nhau niềm tin, niềm vui
b) Trong một lần phá bom: Tâm lí Phương Định trong một lần phá bom đã được miêu tả rất cụ thể, tinh tế đến
từng cảm giác:
* Khi tiến gần quả bom:
- Dù đã quen với công việc này, thậm chí mỗi ngày “phá bom tới năm lần” nhưng mỗi lần vẫn là một thử
thách thần kinh đến từng cảm giác.
- Khung cảnh và không khí chứa đầy sự căng thẳng” Vắng lặng đến phát sợ. Cây cối còn lại xơ xác”, “ Đất
nóng”, “Khói đen vật vờ”  Tác giả miêu tả cảnh để gián tiếp khắc họa tâm trạng căng thẳng, lo lắng của nhân
vật.
- Khi cảm giác ánh mắt các anh cao xạ đang dõi theo mình, lòng dũng cảm của Phương Định được kích thích
bởi lòng tự trọng và yên tâm “ Tôi sẽ không đi khom...đàng hoàng mà bước tới”. Với cô, đó là tư thế đàng
hoàng để đối mắt với hiểm nguy, đối mặt với cái chết  Chi tiết này thể hiện tài năng của tác giả Lê Minh
Khuê khi miêu tả tâm lí tinh tế của cô gái trẻ: bất cứ hoàn cảnh nào cũng muốn mình đẹp hơn trong mắt của
các anh.
* Khi phá bom:
- Đứng trước quả bom, cận kề với cái chết, từng cảm giác trở nên sắc nhọn, Phương Định “gai người” “ rùng
mình”. Cô cũng lo âu, hồi hộp  Đây là cách xây dựng nhân vật anh hùng phi thường mà cũng rất đời thường.
- Hồi còi của chị Thao vang lên, cô tự hối thúc mình phải chạy đua với thời gian, với cái chết để hoàn thành
nhiệm vụ “ bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí…”  Cô hành động khẩn trương, cẩn thận
bằng kinh nghiệm của bản thân.
* Khi chờ bom nổ:
- Tác giả tập trung miêu tả chuyển động của chiếc kim đồng hồ “Dường như vật duy nhất vẫ bình tĩnh, phớt
lờ mọi biến động chung là chiếc kim đồng hồ”
phù hợp:
+ khắc họa không khí vắng lặng ở chiến trường.
+ tính chất công việc phá bom – một công việc mà yếu tố thời gian là quan trọng nhất, ranh giới giữa sự sống
với cái chết chỉ trong một khoảnh khắc, tích tắc
+ tâm trạng hồi hộp, lo lắng của nhân vật.
- Một loạt câu hỏi về công việc xuất hiện trong đầu Phương Định “liệu có nổ, bom có nổ không?” “ Không
thì làm thế nào để châm mìn lần thứ hai?”…
71
- Cô có nghĩ đến cái chết, nhưng chỉ là cái chết “mờ nhạt, không cụ thể”, điều cô quan tâm nhất là làm thế nào
để “châm mìn lần thứ hai” “nghĩ thế, nghĩ thêm”. Với cô, công việc còn quan trọng hơn cả mạng sống
 Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sử dụng những kiểu câu ngắn, nhịp nhanh, kết hợp với nhiều
động từ, tính từ, tác giả Lê Minh Khuê đã miêu tả sinh động, chân thực tâm lí nhân vật làm hiện lên một thế
giới nội tâm vô cùng phong phú, qua đó làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật Phương Định: gan dạ, dũng cảm, có
tinh thần trách nhiệm cao với công việc…  tiêu biểu cho vẻ đẹp của những nữ TNXP thời chống Mĩ.
c) Khi Nho bị thương.
- Phương Định vỗ về chăm sóc cho Nho như một người y tá thực thụ: cô rửa vết thương , tiêm rồi pha sữa cho
Nho.
- Cô lo lắng cho Nho đến mức phát cáu với chị Thao khi chị yêu cầu hát. Mặc dù vậy cô vẫn hiểu “những gì
đang quay cuồng trong chị”, hiểu những lo lắng của chị bởi “chị không khóc đó thôi, chị không ưa nước mắt.
Nước mắt đứa nào chảy trong khi cần cái cứng cỏi của nhau này là bị xem như bằng chứng của của một sự tự
nhục mạ”
 Bằng sự nhạy cảm và tình yêu thương, Phương Định đã thấu hiểu những suy nghĩ thầm kín nhất của những
người đồng đội.
 Qua tình huống Nho bị thương, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật Phương Định: luôn quan tâm,
chăm sóc và thấu hiểu đồng đội của mình.
d) Trong trận mưa đá.
- Khi cơn mưa đá bất ngờ rơi xuống cao điểm, Phương Định “vui thích cuống cuồng”.
- Cơn mưa đá ấy làm dịu mát bầu không khí ngột ngạt nơi chiến trường khốc liệt và đánh thức sự hồn nhiên,
mơ mộng vô tư của các cô gái trẻ.
- Nó làm sống dậy trong tâm hồn nhạy cảm của Phương Định những kỉ niệm tuổi thơ nơi thành phố quê hương:
về mẹ, ngôi nhà, những ngôi sao trên bầu trời thành phố, những hình ảnh bình dị…Tất cả kí ức ấy dội về như
cơn sóng lòng. Kí ức ấy cũng là một điểm tựa tinh thần vững vàng để cô sống và chiến đấu.
 Tóm lại, qua tác phẩm, bằng ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, Lê Minh Khuê đã khắc họa thành công nhân vật
Phương Định: Cô vừa có nét đẹp cao cả, phi thường của một nữ anh hùng, vừa có nét mềm mại, nữ tính, hồn
nhiên, đáng yêu của một người con gái trẻ lãng mạn, mơ mộng, đa cảm…Đó cũng là vẻ đẹp của các cô gái
TNXP và thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.
DÀN Ý ĐOẠN VĂN BỔ SUNG.
1. Vẻ đẹp tâm hồn của Phương Định.
- PĐ là con gái Hà Nội hồn nhiên, vô tư, nhiều mơ mộng. Vào chiến trường ba năm, những tưởng bom đạn,
chiến tranh khiến cho tâm hồn, cảm xúc của cô trở nên chai sạn, thô ráp. Nhưng Phương Định vẫn hiện lên với
nét đẹp trẻ trung, nữ tính.
- Cô luôn quan tâm tới hình thức và tự tin về vẻ đẹp của mình: điều đó được thể hiện qua lời tự giới thiệu “tôi
là một cô gái khá”, với “bím tóc dầy”, cái cổ “cao, kiêu hãnh như đài hoa loa kèn” còn ánh mắt thì “có cái
nhìn sao mà xa xăm”. Cô thích làm duyên, thích ngắm mình trong gương và làm điệu trước các anh bộ đội.
Trong khi các cô gái xúm lại nói chuyện với một anh bộ đội nói giỏi nào đó thì cô không vồn vã, khoanh tay
nhìn đi nơi khác, tưởng như kiêu kì.
- PĐ hồn nhiên, yêu đời và có một tâm hồn mơ mộng:
+ PĐ thích hát : Thủa nhỏ, Phương Định đã hay hát. Cô đem cả niềm say mê đó vào trận địa.. Cô thích nhiều
bài hát “Tôi thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường ra mặt trận…”, thậm
chí còn bịa ra lời mà hát và cô hát trong nhiều khoảnh khắc khác nhau trên chiến trường.

72
 Tiếng hát trên cao điểm của Phương Định lúc này thực sự là “tiếng hát át tiếng bom”, hát cho tâm hồn thăng
hoa, để sống với những giây phút bình yên, thanh thản, để truyền cho nhau niềm tin,niềm vui. Đó cũng chính là
tinh thần lạc quan yêu đời của các cô gái TNXP.
+ Cô hồn nhiên, vui thích cuống cuồng, say sưa tận hưởng cơn mưa đá bất chợt ập đến trên cao điểm.
+ Sau cơn mưa đá, cô thả hồn trong những kỉ niệm xa xôi: cô nhớ về thành phố quê hương, nhớ về mẹ, về căn
nhà nhỏ, về những ngôi sao trên bầu trời thành phố…Những kỉ niệm này đã nuôi dưỡng, tưới mát tâm hồn cô
trong cuộc chiến gian khổ và khốc liệt.
 Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng tinh tế, Lê Minh Khuê đã làm nổi bật vẻ đẹp của tâm hồn
Phương Định. Đó cũng chính là biểu hiện sức sống mãnh liệt của cô gái trẻ đất Hà Thành.
2. Nhân vật chị Thao.
- Chị Thao là người nhiều tuổi nhất trong ba cô gái. Chị là tổ trưởng tổ trinh sát mặt đường.
- Trong công việc, chỉ tỏ rõ bản lĩnh dũng cảm, kiên cường của một nữ chiến sĩ phá bom:
+ Khi làm nhiệm vụ, chị là một người điềm tĩnh, quyết đoán và rất táo bạo.
+ Trong những khoảnh khắc “thần kinh căng như dây chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu” nhưng chị vẫn
“bình tĩnh đến phát bực”. Khi sắp phải băng mình lên cao điểm khi tiếng máy bay đang gầm gào, chị vẫn bóc
bánh bích quy ăn ngon lành.
+ Lúc trở về từ trận chiến dữ dội, ác liệt trên cao điểm, chị vẫn bình thản như không.
+ Trong mọi hoàn cảnh, chị luôn có những mệnh lệnh đầy quyết đoán. Điều đó thể hiện qua việc chị phân công
nhiệm vụ cho những người đồng đội, ngắn gọn mà dứt khoát “Định ở nhà. Lần này nó bỏ ít, hai đứa đi cũng
đủ”
- Chị luôn yêu thương những người đồng đội của mình:
+ Khi phát hiện Nho bị thương, chị “vùng ra, mắt mở to, mờ trắng đi như không còn sự sống”  hình ảnh so
sánh thể hiện sự hoảng sợ đến tột độ của chị.
+ chị chăm sóc cho Nho bằng những cử chỉ ân cần, dịu dàng “chị lấy tay, sửa cái cổ áo, cái ve áo và tóc nó”
+ Nhưng kể cả trong hoàn cảnh này, chị vẫn tỏ rõ bản lĩnh cứng cỏi, kiên cường. Chị không khóc “ chị không
ưa cả nước mắt. Nước mắt đứa nào chảy trong khi cần cái cứng cỏi của nhau này là bị xem như bằng chứng
của một sự tự nhục mạ”. chia sẻ với nhau bằng những giọt nước mắt là sự sẻ chia cần thiết. Nhưng là người đội
trưởng, chị hiểu lúc này cần tiếp thêm cho nhau sức mạnh, niềm tin để vượt qua khó khăn, thử thách.
- Bên ngoài công việc, chị còn hiện lên với một tâm hồn nhạy cảm, nữ tính.
+ Chị có tâm hồn lãng mạn, yêu ca hát. Dù “giọng thì chua” và “không hát trôi chảy được bài nào” nhưng chị
lại có đến ba quyển sổ dày chép bài hát.
+ Như bao cô gái, chị cũng thích làm đẹp: lông mày thì “tỉa nhỏ như cái tăm” và “cái áo lót nào cũng thêu chỉ
màu”.
+ Chị cũng có những nỗi sợ hãi rất nữ tính: sợ máu và vắt.
 Ở nhân vật chị Thao, ta thấy được sự kết hợp giữa những nét mềm yếu của một cô gái trẻ và bản lĩnh kiên
cường của một nữ chiến sĩ phá bom.
 Bằng việc sử dụng ngôi kể thứ nhất, người kể là Phương Định- người đồng đội gần gũi, gắn bó với nhân vật
cùng cách khắc họa nhân vật đa dạng, độc đáo, tác giả Lê Minh khuê đã làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật chị
Thao, một nhân vật rất gần gũi, sống động như một nữ anh hùng trong cuộc sống đời thường.

73
74

You might also like