CNXHKH

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 29

Họ và tên: Trần Ngọc Ánh – MSSV: 2257060012

Khoa: Quan hệ quốc tế

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


 CHƯƠNG 2: SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
I. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân
và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1. Khái niệm và đặc điểm của giai cấp công nhân:
a. Khái niệm giai cấp công nhân:
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó, như: giai cấp vô
sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công
nghiệp,...
Mặc dù vậy, về cơ bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một
khái niệm thống nhất, đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại, con đẻ của nền
sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng
sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại.
Dù diễn đạt bằng nhiều thuật ngữ khác nhau, song khái niệm giai cấp
công nhân được các nhà kinh điển xác định trên 2 phương diện là: phương
diện kinh tế - xã hội và phương diện chính trị - xã hội.
Trên phương diện kinh tế - xã hội: giai cấp công nhân là sản phẩm và là
chủ thể của nền sản xuất đại công nghiệp. Họ lao động bằng phương thức
công nghiệp: sản xuất bằng máy móc, lao động có tính chất xã hội hóa,
năng suất lao động cao,…
Trên phương diện chính trị - xã hội: giai cấp công nhân là sản phẩm xã
hội của quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa. Bởi vì người công nhân
không sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, họ phải bán sức lao động
cho nhà tư bản và bị chủ tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Mâu thuẫn cơ bản
là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Như vậy, theo chủ nghĩa Mác – Lênin : “ Giai cấp công nhân là một tập
đoàn xã hội, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền
công nghiệp hiện đại; Họ lao động bằng phương thức công nghiệp ngày
càng hiện đại và gắn liền với quá trình sản xuất vật chất hiện đại, là đại biểu
cho phương thức sản xuất mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Họ là người
làm thuê do không có tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động để sống
và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; vì vậy lợi ích cơ bản của họ
đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản. Đó là giai cấp có sứ mệnh phủ
định chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản trên toàn thế giới”.
( Mở rộng: Ngày nay, trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân
không còn vô sản như trước nữa, họ đã có sở hữu tư liệu sản xuất nhỏ, có
cổ phần, cổ phiếu trong nhà máy, xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, có phúc lợi xã
hội,… Tuy nhiên, việc sở hữu tư liệu sản xuất và cổ phần của công nhân chỉ
chiếm một tỉ lệ nhỏ. Phần lớn tư liệu sản xuất và cổ phần vẫn thuộc về các
nhà tư bản. Vì vậy, về cơ bản, giai cấp công nhân vẫn không có tư liệu sản
xuất, vẫn phải làm thuê cho nhà tư bản và vẫn bị bóc lột.
Còn ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng nhân dân lao
động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao
động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản
thân họ.)
b. Đặc điểm của giai cấp công nhân:
C.Mác và Ph.Ăngghen đã không những đưa ra quan niệm khoa học về
giai cấp công nhân mà còn làm sáng tỏ những đặc điểm của nó với tư cách
là một giai cấp cách mạng có sứ mệnh lịch sử thế giới. Có thể khái quát
những đặc điểm chủ yếu của giai cấp công nhân như sau:
Thứ nhất, lao động bằng phương thức công nghiệp, quá trình lao động
mang tính chất xã hội hóa cao, đây là đặc điểm nổi bật của giai cấp công
nhân.
Thứ hai, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp, là chủ thể của
quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Do đó, giai cấp công nhân là đại biểu
tiêu biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất tiên tiến
mang tính chất xã hội hóa cao, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội
hiện đại.
Thứ ba, nền sản xuất đại công nghiệp và phương thức sản xuất xã hội
hóa cao đã rèn luyện cho giai cấp công nhân những phẩm chất về tính tổ
chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động công nghiệp.
Đó là một giai cấp cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để.
Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết cho một giai
cấp cách mạng và có vai trò lãnh đạo cách mạng.
( Mở rộng:
Giai cấp công nhân có tính tổ chức, kỷ luật cao là do:
Thứ nhất, do yêu cầu của nền sản xuất hiện đại là sản xuất tập trung
theo dây chuyền, đó là sự phân công lao độngmột cách sâu sắc theo dây
chuyền sản xuất nên nó buộc giai cấpcông nhân phải có tính tổ chức và kỷ
luật cao.
Thứ hai, trong các cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản,giai cấp tư
sản lại có nhiều thủ đoạn đàn áp phong trào công nhân, đặc biệt là giai cấp
tư sản nắm trong tay bộ máy nhà nước khổng lồ. Do đó để phát huy sức
mạnh, giai cấp công nhân cần có tính tổ chức, tính kỷ luật cao.
Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để là do:
Đối với giai cấp công nhân là giai cấp triệt để cách mạng bởi vì họ
muốn xóa bỏ tận gốc chế độ người áp bức bóc lột (nguồn gốc nảy sinh chế
độ người áp bức bóc lột người là chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa). Đi cùng
với nó là công nhân phải xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu. Làm được điều đó thì giai cấp công nhân không chỉ giải phóng mình
mà còn giải phóng toàn thể xã hội khỏi áp bức bóc lột bất công. Trong
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản xuất bản tháng 2 năm 1848, C.Mác khẳng
định rằng trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư
sản thì giai cấp công nhân không còn gì để mất bởi vì họ là giai cấp vô sản,
họ không có tư liệu sản xuất, nếu có mất đi chăng nữa thì chỉ mất đi xiềng
xích, nói một cách dễ hiểu hơn lá mất đi cái địa vị là bị áp bức của mình
còn nếu được thì sẽ được cả thế giới về mình. Chính vì vậy mà giai cấp
công nhân có tinh thần cách mạng rất triệt để. Họ tiên phong, đi đầu trong
các cuộc cách mạng. Còn đối với các giai cấp khác khi tham gia cuộc cách
mạng, họ không triệt để cách mạng bởi vì họ sợ mất đi những cái họ đang
có.)
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, sẽ xuất hiện một giai cấp đứng ở vị
trí trung tâm, là lực lượng xã hội chính đấu tranh xóa bỏ xã hội cũ lạc hậu,
xây dựng xã hội mới tiến bộ hơn. Vị trí, vai trò đó được gọi là sứ mệnh lịch
sử của một giai cấp.
Thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân tổ
chức lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng mình và giải phóng toàn xã
hội khỏi mọi áp bức, bất công, xoá bỏ các chế độ áp bức, bóc lột, bất công,
xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản trên phạm vi toàn thế giới.
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử trên, giai cấp công nhân cần phải trải qua
hai giai đoạn
Giai đoạn 1: giai cấp công nhân đấu tranh giành chính quyền về tay
mình. V.I.Lênin từng nói : “Giành chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi
cuộc cách mạng.” Để giành chính quyền thì phải sử dụng bạo lực cách
mạng là chính. Bên cạnh đó, đòi hỏi phải có tình thế cách mạng và thời cơ
cách mạng.
(Mở rộng:
Tình thế cách mạng là thời điểm:
Thứ nhất, giai cấp thống trị tỏ ra suy yếu, không thể duy trì được nền
thống trị của mình như cũ; sự bất bình và lòng phẫn nộ của các giai cấp bị
trị công khai và gay gắt.
Thứ hai, giai cấp lãnh đạo cách mạng đủ năng lực lãnh đạo, phát động
được cuộc đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân bị áp bức chống
lại giai cấp thống trị.
Thời cơ cách mạng là thời điểm:
Thứ nhất, ở trong nước giai cấp thống trị tỏ ra hoang mang cực độ do
sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, lực lượng lãnh đạo cách mạng đã
sẵn sàng cho cuộc quyết chiến giành chính quyền.
Thứ hai, ở bên ngoài, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
quốc tế ủng hộ cách mạng, tạo điều kiện cho cách mạng bùng nổ và giành
thắng lợi. )
Giai đoạn 2: giai cấp vô sản và nhân dân lao động sử dụng chính quyền
của mình để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới về mọi mặt (kinh tế,
chính trị, văn hóa, tư tưởng,...) nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
và chủ nghĩa cộng sản.
Lực lượng của cách mạng xã hội chủ nghĩa: đó là toàn thể quần
chúng nhân dân lao động (nông dân, công dân, các lực lượng tiến bộ xã hội)
đang mâu thuẫn với giai cấp tư sản, đang có nhu cầu được giải phóng khỏi
chế độ áp bức, bóc lột,… trong đó giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo,
là động lực chủ yếu trong cách mạng xã hội chủ nghĩa xã hội. Giai cấp
nông dân là một động lực quan trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa,
nhất là ở những nước có lực lượng nông dân đông trong xã hội. Ngoài ra,
động lực của chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa còn là các giai cấp, tầng lớp, lực
lượng tiến bộ khác trong xã hội (trí thức, tư sản, tiểu tư sản tiến bộ,…)
Tóm lại, nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là
những nhiệm vụ mà giai cấp công nhân cần phải thực hiện với tư cách là
giai cấp tiên phong là lực lượng đi đầu trong cuộc cách mạng xác lập hình
thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân thể hiện trên ba nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, về nội dung kinh tế là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản
xuất xã hội hóa cao, là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới tiên tiến nhất dựa
trên chế độ sở hữu xã hội công hữu về tư liệu sản xuất, đại biểu cho phương
thức sản xuất tiến bộ nhất thuộc về xu thế phát triển của lịch sử xã hội, vai
trò chủ thể của giai cấp công nhân trước hết là chủ thể của quá trình sản
xuất vật chất, sau đó là tạo tiền đề vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội
mới.
Thứ hai, về nội dung chính trị - xã hội giai cấp công nhân cùng với
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản tiến hành cách
mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ
bóc lột áp bức của chủ nghĩa tư bản giành quyền lực về ta giai cấp công
nhân và nhân dân lao động thiết lập nhà nước kiểu mới mang bản chất giai
cấp công nhân cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã hội mới phát triển
kinh tế và văn hóa xây dựng nền chính trị dân chủ pháp quyền thực hiện
dân chủ công bằng bình đẳng và tiến bộ xã hội.
Thứ ba, về nội dung văn hóa, tư tưởng thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình giai cấp công nhân trong tiến trình cách mạng cải tạo xã hội cũ và xây
dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng cần phải tập trung xây dựng
hệ giá trị mới lao động công bằng dân chủ, bình đẳng và tự do. Xét về thực
chất giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa tư tưởng bao
gồm cải tạo cái cũ lỗi thời lạc hậu, xây dựng cái mới tiến bộ trong lĩnh vực
ý thức tư tưởng.
Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Một là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ những tiền
đề kinh tế - xã hội của sản xuất mang tính xã hội hóa với hai biểu hiện nổi
bật là:
Thứ nhất, xã hội hóa sản xuất làm xuất hiện những tiền đề vật chất
thúc đẩy sự phát triển của xã hội khi thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn
cơ bản trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ hai, quá trình sản xuất này đã sinh ra giai cấp công nhân và rèn
luyện nó thành chủ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử
Hai là, thực hiện sứ mệnh lịch sử là sự nghiệp của bản thân giai cấp
công nhân cùng đông đảo nhân dân lao động do Đảng Cộng sản lãnh đạo và
mang lại lợi ích cho đa số.
Ba là, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế
chế độ sở hữu tư nhân này bằng một chế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa
bỏ triệt để tư hữu về tư liệu sản xuất.
Bốn là, việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị là tiền đề
cải tạo toàn diện sâu sắc và triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội
mới với mục tiêu cao nhất là giải phóng con người.
(Mở rộng:
Điều kiện để một giai cấp đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử:
Thứ nhất, đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại
Thứ hai, có hệ tư tưởng riêng tiến bộ
Thứ ba, có lợi ích về cơ bản phù hợp với lợi ích của đa số trong xã hội
Thứ tư, có tổ chức chính đảng dẫn đường (từ khi chủ nghĩa tư bản ra
đời))
3. Những điều kiện qui định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân
Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân:
Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định giai
cấp công nhân.
Bởi vì giai cấp công nhân là đại diện phương thức sản xuất tiên
tiến, tạo ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội. Lợi ích của giai cấp
công nhân về cơ bản thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động
Thứ hai, do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy
định.
Đây là giai cấp có hệ tư tưởng Mác– Lênin, tinh thần cách mạng
triệt để, ý thức tổ chức, tính kỷ luật cao, có tinh thần đoàn kết giai cấp
và các lực lượng xã hội.
Thứ ba, do nhu cầu giải quyết mâu thuẫn trong chủ nghĩa tư bản.
Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh
lịch sử:
Thứ nhất, sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân về số
lượng và chất lượng
Thứ hai, Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để
giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử.
Thứ ba, xây dựng được khối liên minh giai cấp giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác…
( Giải thích: tại sao Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan
trọng nhất để giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử?
Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công
nhân, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.
Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp
công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử là vì:
Một là, Đảng Cộng sản là sự kết hợp giữa phong trào công nhân
với chủ nghĩa Mác – Lênin.
Hai là, giai cấp công nhân là cơ sở xã hội quan trọng nhất của
Đảng
Ba là, Đảng chỉ gồm những người ưu tú, giác ngộ lý luận, kiên
quyết cách mạng nhất.
Bốn là, Đảng cao hơn giai cấp ở trình độ giác ngộ lí tưởng, trí tuệ,
phẩm chất và sự hi sinh cho giai cấp nên Đảng có nhiệm vụ lãnh đạo
giai cấp.)
II. Giai cấp công nhân và việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân hiện nay
1. Giai cấp công nhân hiện nay:
Thứ nhất, về điểm tương đồng:
Giai cấp công nhân hiện nay vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu
của xã hội hiện đại, là chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện
đại mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Một bộ phận lớn công nhân
hiện đại vẫn bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản hiện nay bóc lột giá
trị thặng dư. Xung đột lợi ích cơ bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp
công nhân (giữa tư bản và lao động) vẫn tồn tại. Giai cấp công nhân
vẫn là lực lượng đi đầu đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản…
Thứ hai, những biến đổi và khác biệt của giai cấp công nhân
hiện đại
Gắn liền với cách mạng mạng khoa học và công nghệ hiện đại với
sự phát triển nền kinh tế tri thức, công nhân hiện đại có xu hướng trí
tuệ hóa. Giai cấp công nhân có tham gia vào sở hữu. Ngoài ra còn có
biểu hiện mới về xã hội hoá lao động. Ở một số nước xã hội chủ
nghĩa, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp lãnh đạo thông qua đội
tiền phong là Đảng Cộng sản
Đó là những biểu biến đổi mới của giai cấp công nhân hiện nay so
với giai cấp công nhân thế giới thế kỷ XIX.
2. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới hiện
nay
Về nội dung kinh tế: vẫn là lực lượng giữ vai trò sản xuất vật chất
chủ yếu cho xã hội, quyết định sự tồn tại của xã hội
Về nội dung chính trị - xã hội:
Ở các nước định hướng xã hội chủ nghĩa: là giai cấp lãnh đạo nhân
dân xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ở các nước TBCN: đi đầu trong các cuộc đấu tranh chống áp bức,
bất công, áp đặt của CN đế quốc, chống nghèo đói, ô nhiễm môi
trường…
Về nội dung văn hóa – tư tưởng: là lãnh đạo hoặc đi đầu trong
xây dựng một nền văn hóa tiến bộ vì công bằng, bình đẳng và quyền
con người…
III. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
Khái niệm: Nghị quyết Hội nghị TW 6, khoá X của Đảng đã định nghĩa:
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát
triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng
lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp,
hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
1. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
a. Về lịch sử hình thành:
Được hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp, ra đời trước giai cấp tư sản vào đầu thế kỉ XX. Là lực lượng
chính trị tiên phong lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, sớm
giác ngộ lý tưởng, mục tiêu cách mạng. Bên cạnh đó, giai cấp công
nhân Việt Nam còn gắn bó mật thiết với các tầng lớp nhân dân trong
xã hội, bởi đại bộ phận đều xuất thân từ nông dân và các tầng lớp lao
động.
b. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay:
Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, giai
cấp công nhân Việt Nam còn có đặc điểm như:
Một là, giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đã tăng nhanh về
số lượng và chất lượng (Số lượng khoảng 16 triệu (6/2018), chiếm
21% tổng số lao động và 11% dân số), là sản phẩm và là lực lượng đi
đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hai là, lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Ba là, giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đa dạng về trình độ
công nghệ, về thành phần kinh tế và về lợi ích. Công nhân tri thức
nắm vững khoa học – công nghệ tiên tiến và được đào tạo nghề, được
rèn luyện trong thực tiễn, là lực lượng chủ đạo trong giai cấp công
nhân.
Bên cạnh đó, giai cấp công nhân Việt Nam có nhiều ưu thế về
chính trị. Sớm được tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, có Đảng và có
lãnh tụ sáng suốt (Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân với phong trào yêu nước).
Giai cấp công nhân còn vững vàng về chính trị, tư tưởng, được rèn
luyện, có bản lĩnh chính trị; là nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp cách
mạng của dân tộc và qúa trình đổi mới theo định hướng XHCN. Như
chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói : “Giai cấp công nhân Việt Nam là giai
cấp kiên quyết nhất, cách mạng nhất, đi đầu trong đấu tranh cách
mạng”.
2. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn: Là giai cấp
lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt
Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp
tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi
đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; lực
lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cụ thể:
Về kinh tế, giai cấp công nhân Việt Nam với số lượng đông đảo,
có cơ cấu ngành nghề đa dạng; là nguồn nhân lực lao động chủ yếu
tham gia quá trình phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại định
hướng xã hội chủ nghĩa, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, có vai trò to lớn trong khối
liên minh công – nông – trí thức.
Về chính trị - xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng
tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên đồng thời giai cấp công
nhân có trách nhiệm tiên phong, đi đầu, góp phần củng cố và phát
triển cơ sở chính trị - xã hội quan trọng của Đảng.
Về văn hóa - tư tưởng, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.
Tham gia vào cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận để bảo vệ
sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay và vấn đề đặt ra
Thứ nhất, là lực lượng sản xuất hàng đầu của Việt Nam song giai
cấp công nhân vẫn chưa chiếm đa số trong dân cư và lao động. Ngoài
ra còn phân hoá khá sâu sắc (2 chiều) trong kinh tế thị trường và hội
nhập quốc tế. Trình độ văn hoá, tay nghề, công nghệ... của giai cấp
công nhân vẫn chưa đáp ứng yêu cầu cao của công nghệ hóa, hiện đại
hóa. Giai cấp công nhân Việt Nam giác ngộ chính trị chưa đồng đều,
một bộ phận chưa ngang tầm với vị trí tiền phong.
Thứ hai, việc đào tạo và sử dụng công nhân còn gặp nhiều bất
cập, việc làm và đời sống của công nhân còn khó khăn. Nhiều tổ chức
chính trị - xã hội của công nhân còn non yếu. Một bộ phận giới chủ
trong các doanh nghiệp FDI, tư nhân…thể hiện “mặt đối lập” với
công nhân. Ngoài ra, một bộ phận công nhân trong các thành phần
kinh tế tư nhân, nước ngoài đang bị bóc lột khá nặng nề, bộc lộ tâm lý
làm thuê, nô lệ, sự cạnh tranh, nỗi thất vọng, sự vùng dậy… lao động
của họ có biểu hiện đang bị tha hóa. Đáng lo ngại ở chỗ nguy cơ “4
hóa” của một bộ phận công nhân (Công đoàn Trung Quốc) sẽ là hiện
thực: làm thuê hóa, bần cùng hóa, vô quyền hóa, phân tán hóa.
4. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam hiện nay
a. Phương hướng:
Một là, giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, kiên định
các nguyên tắc xây dựng của Đảng.
Hai là, xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh, nâng cao
bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn,…
Ba là, tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho
GCCN.
Bốn là, đổi mới tổ chức và hoặt động của công đoàn phù hợp cơ
cấu lao động.
Năm là, định hướng, quản lý tốt hoạt động của các tổ chức của
công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn,…
b. Giải pháp:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức trong Đảng, tổ chức công đoàn, bản
thân GCCN và trong toàn xã hội về vai trò (sứ mệnh lịch sử) của giai
cấp công nhân.
Thứ hai, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn với xây dựng
và phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, doanh nhân,…
Thứ ba, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, gắn kết chặt chẽ
với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước, hội nhập quốc tế.
Thứ tư, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công
nhân, không ngừng trí thức hóa giai cấp công nhân là một nhiệm vụ
chiến lược.
Thứ năm, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội cũng như sự nỗ lực vươn
lên của bản thân mỗi người công nhân.
 CHƯƠNG 3: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. Chủ nghĩa xã hội
1. Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Khái niệm: Hình thái kinh tế - xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng
giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng
cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất và một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên
những quan hệ sản xuất ấy.
Các yếu tố cơ bản của hình thái kinh tế - xã hội: lực lượng sản
xuất phù hợp với trình độ nhất định nào đó, quan hệ sản xuất phù hợp
với lực lượng sản xuất và là đặc trưng của xã hội ấy, kiến trúc thượng
tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng (quan hệ sản xuất)
Các giai đoạn: Theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa phát triển từ thấp lên cao, từ
giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa (chủ nghĩa xã hội) lên xã hội cộng
sản chủ nghĩa:
Giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản là giai đoạn xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Ở giai đoạn này, con người thực hiện nguyên tắc phân phối
"làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu".
C .Mác còn khẳng định, giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội
cộng sản chủ nghĩa có một thời kỳ quá độ từ xã hội nọ sang xã hội kia,
là thời kỳ cải biến cách mạng một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Sau này, trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước, trên
cơ sở diễn đạt tư tưởng của C.Mác, V.I.Lênin đã phân tích quá trình
hình thành, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
qua các giai đoạn, thời kỳ: [I] Giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa gọi là chủ nghĩa xã hội hay xã hội xã hội chủ
nghĩa, [II] Giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa, [III]. Thời kỳ quá độ chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội (Những cơn đau đẻ kéo dài). .
Tính tất yếu của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa:
Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản thay thế hình thái kinh tế - xã hội
phong kiến và các xã hội khác là một bước tiến của lịch sử bởi nó đã
phá vỡ tình trạng cát cứ, địa phương, khép kín trong chế độ phong
kiến, mở đường kinh tế hàng hóa phát triển. Tạo ra được những lực
lượng sản xuất khổng lồ bằng tất cả các thế hệ trước kia cộng lại. Bên
cạnh đó còn khôi phục dân chủ, phát triển văn hóa – xã hội,…
Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản cũng giống như các hình thái kinh tế -
xã hội khác, không tồn tại vĩnh viễn, mà luôn vận động, đến một lúc
nào đó tất yếu sẽ bị hình thái kinh tế - xã hội cao hơn phủ định. Bản
thân quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những mâu
thuẫn và các vấn đề cơ bản, vốn có của nó (ví dụ như : mâu thuẫn giữa
tính xã hội hóa của lực lượng sản xuất với tính chất tư nhân của quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa chũ nghĩa tư bản với chủ
nghĩa xã hội ), khủng hoảng kinh tế có tính chất chu kỳ, mất cân bằng
giữa tự nhiên – xã hội, Mất cân bằng giữa kinh tế với các vấn đề tư
tưởng, đạo đức, lối sống…
Vì vậy, để khắc phục những mâu thuẫn trên, tiếp tục mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người, giải phóng xã hội thì tất yếu phải xây dựng hình thái kinh tế -
xã hội cộng sản chủ nghĩa để thay thế chủ nghĩa tư bản.
(Mở rộng: Chủ nghỉa tư bản ngày nay vẫn còn tồn tại và phát triển
bởi phong trào công nhân ở các nước tư bản hiện hay đang ở giai đoạn
thoái trào, đang trong quá trình phục hồi lực lượng... Ngoài ra chủ
nghĩa tư bản đang có nhiều điều kiện, lợi thế để phát triển và có những
điều chỉnh nhất định như nắm lợi thế về vốn, nắm lợi thế về khoa học
công nghệ, tiềm lực quân sự lớn mạnh, đã có những điều chỉnh nhất
định trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (trong sinh hoạt, quản lí,
phân phối). Tuy vậy, những sự điều chỉnh đó chưa vuợt ra khuôn khổ
của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, do đó không làm mất đi những
mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó.)
2. Điều kiện cơ bản của sự ra đời của chủ nghĩa xã hội
Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là hợp quy luật. Sự thay thế đó
có nguồn gốc kinh tế- xã hội sâu xa, đó là miếng đất hiện thực tư bản
chủ nghĩa. Những điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa:
Thứ nhất, về điều kiện kinh tế, khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa
càng phát triển, dựa trên sự phát triển của khoa học – kỹ thuật và công
nghệ hiện đại làm cho lực lượng sản xuất phát triển không ngừng với
trình độ xã hội hóa ngày càng cao, vượt khỏi giới hạn chật hẹp của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn kinh tế cơ bản của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này dẫn đến mâu
thuẫn xã hội, mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được giữa giai
cấp công nhân và nhân dân lao động với giai cấp tư sản.
Thứ hai, về điều kiện chính trị xã hội, trong xã hội tư bản chủ
nghĩa có hai giai cấp cơ bản, tiêu biểu nhất, đối lập nhau về lợi ích cơ
bản, đó là giai cấp công nhân đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại,
xã hội hóa ngày càng cao và giai cấp tư sản thống trị xã hội đại biểu
cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp này mâu thuẫn với
nhau ngày càng rõ rệt, sâu sắc và gay gắt. Các cuộc đấu tranh giai cấp
của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản áp bức, bóc lột phát triển
từ thấp đến cao. Từ đó dẫn đến cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của
giai cấp công nhân, giai cấp công nhân giành chính quyền, thiết lập
chuyên chính vô sản.
3. Những đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội
Một là, chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người
phát triển toàn diện.
Hai là, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội do nhân dân lao động
làm chủ.
Ba là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu
Bốn là, chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai
cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân
lao động.
Năm là, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và
phát huy những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân
loại
Sáu là, chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đoàn kết giữa các
dân tộc và có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thế giới.
II. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Khái niệm: từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua
một thời kỳ cải biến cách mạng, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới – thời kỳ đó gọi là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, có 2 kiểu quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội là:
Thứ nhất, quá độ trực tiếp là quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội.
Thứ hai, quá độ gián tiếp là quá độ từ các hình thái kinh tế - xã
hội tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội (quá độ bỏ qua chủ
nghĩa tư bản).
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ: sau khi giai cấp công nhân và
nhân dân lao động giành được chính quyền thì vẫn chưa có ngay chủ
nghĩa xã hội, mà cần có một khoảng thời gian để cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới về mọi mặt (kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn
hóa,…):
Một là, về kinh tế, cần có thời gian để cải tổ sản xuất, xóa bỏ
quan hệ sản xuất cũ, xác lập quan hệ sản xuất mới, phát triển lực
lượng xã hội
Hai là, về chính trị, cần có thời gian để giai cấp công nhân làm
quen với vị trí làm chủ xã hội, xây dựng và củng cố chính quyền, mở
rộng dân chủ, thu hút quần chúng nhân dân lao động vào công việc
nhà nước,…
Ba là, về tư tưởng – văn hóa, cần có thời gian để xóa bỏ, cải tạo
những tư tưởng, thói quen, tập quán lạc hậu do xã hội cũ để lại; xây
dựng nền văn hóa mới.
2. Đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm nổi bật và bao trùm của thời kỳ quá độ là sự tồn tại đan
xen giữa cái cũ (của chế độ cũ) và cái mới, vừa thống nhất vừa đấu
tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ nhất, trên lĩnh vực kinh tế, thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu
còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh
tế quốc dân thống nhất, trong đó thành phần kinh tế nhà nước và hình
thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò chủ đạo.
Xóa bỏ được chế độ bóc lột, song vẫn chưa hoàn toàn.
Thứ hai, trên lĩnh vực chính trị - xã hội, giai cấp công nhân đã
nắm chính quyền, vừa củng cố, xây dựng và bảo vệ chính quyền. Các
giai cấp trong xã hội đa dạng, vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
(bao gồm công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản, tư sản). Bên
cạnh đó, giai cấp tư sản và các thế lực phản động chống phá chính
quyền cách mạng, hòng giành lại chính quyền.
Thứ ba, trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá, tồn tại nhiều loại hình
tư tưởng – văn hóa khác nhau (ví dụ như: tâm lý tiểu nông, tư tưởng
tư sản, tiểu tư sản, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cộng sản,…) Hệ tư
tưởng và văn hóa thống trị xã hội là của giai cấp công nhân.
Tóm lại đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là lực
lượng sản xuất phát triển chưa cao, đa dạng về quan hệ sản xuất, đa
dạng thành phần kinh tế, đa dạng về kết cấu giai cấp, tầng lớp xã hội,
đa dạng tư tưởng – văn hóa. Các yếu tố mới, tiến bộ và yếu tố cũ, lạc
hậu đan xen tồn tại (đôi khi yếu tố mới, tiến bộ bị các yếu tố cũ, lạc
hậu lấn át).
3. Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Trên lĩnh vực kinh tế, phát triển lực lượng; thực hiện kinh tế
nhiều thành phần; công nghiệp hóa, điện khí hóa, hợp tác hóa; sử
dụng chuyên gia tư sản.
Trên lĩnh vực chính trị: thiết lập, tăng cường chuyên chế vô sản,
thực chất là giai cấp công nhân nắm và sử dụng quyền lực nhà nước
trấn áp giai cấp tư sản và tổ chức xây dựng xã hội mới
Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa, xác lập hệ tư tưởng mới và
xây dựng nền văn hóa mới.
Trên lĩnh vực xã hội, thực hiện công bằng, bình đẳng…
III. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Đặc điểm thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa” Quan niệm về quá độ bỏ qua được xác
định tại Đại hội IX của Đảng
Cơ sở lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam:
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954 ở
Miền Bắc và năm 1975 trên phạm vi cả nước theo kiểu quá độ gián
tiếp hoặc như V. I. Lênin nói là kiểu “đặc biệt của đặc biệt”. Đó là sự
lựa chọn tất yếu dựa trên những căn cứ sau:
Một là, căn cứ vào quan điểm của Chủ nghĩa Mác –Lênin cho
rằng, ở những nước nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế
vẫn có khả năng tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội mà không phải trải
qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Hai là, căn cứ vào xu thế phát triển của thời đại ngày nay là thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới, mở đầu bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
Nga vĩ đại. Đó cũng là thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, nên nhiều nước đã đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Triều Tiên,
Lào...
Ba là, căn cứ vào điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta, trong
quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản trước hết là sự lựa chọn của
chính Đảng ta: Ngay từ “Cương lĩnh chính trị năm 1930” đến “
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội” được trình bày ở Đại hội VII năm 1991, Đảng ta đều thể hiện
bản lĩnh chính trị về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với sự lựa chọn của Đảng ta là sự lựa chọn của chính nhân
dân lao động nước ta khi theo Đảng làm cách mạng là muốn có cuộc
đời ấm no, hạnh phúc. Để mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân
không có con đường nào khác là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
(Hiện nay, mặc dù trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng
phát triển về kinh tế, chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và
Đông Âu, nhưng Đảng ta vẫn khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội, đó
là con đường duy nhất đúng đắn. Chủ nghĩa xã hội vẫn là khuynh
hướng phát triển khách quan của thời đại. Nó không chỉ là lý tưởng
mà là hiện thực sinh động trong quá trình phát triển của cách mạng
Việt Nam.)
2. Đặc điểm, nhiệm vụ thời kỳ quá độ ở Việt Nam
Tính chất của thời kỳ quá độ: khó khăn, lâu dài, phức tạp
Cách thức “bỏ qua CNTB”: “bỏ qua cái gì, không bỏ qua cái gì”?
(bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa)
Tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại (Đại
hội IX - 2001)
Các nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ:
Thứ nhất, 4 “trụ cột” phát triển:
Một là, phát triển kinh tế xã hội là trung tâm.
Hai là, xây dựng Đảng là then chốt.
Ba là, phát triển văn hóa, con người là nền tảng tinh thần.
Bốn là, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu và
thường xuyên.
Thứ hai, “3 khâu đột phá”:
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Hai là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ba là, phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ.
3. Những đặc trưng của chủ nghĩa và phương hướng xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam: xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng là một xã hội:
Một là, Dân giàu, Nước mạnh, Dân chủ, Công bằng, Văn minh
Hai là, do nhân dân làm chủ
Ba là, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp
Bốn là, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Năm là, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện
Sáu là, các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp nhau cùng
phát triển .
Bảy là, có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Tám là, có quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên TG
Phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc
tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn
kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Các mối quan hệ cần coi trọng giải quyết
Một là, giữa đổi mới, ổn định và phát triển.
Hai là, giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Ba là, giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Năm là, giữa Nhà nước và thị trường.
Sáu là, giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội.
Bảy là, giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
Tám là, giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
Chín là, giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ.
 CHƯƠNG 6: VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. Dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân tộc
Theo nghĩa hẹp, dân tộc hiểu là các tộc người trong một quốc gia
nhiều dân tộc. Ví dụ: dân tộc Kinh, Tày, Nùng,…Đây là những cộng
đồng người có chung một số đặc điểm như có chung ngôn ngữ (tiếng
nói, chữ viết), có chung lịch sử nguồn gốc, có chung nét văn hóa đặc
sắc của dân tộc mình, có ý thức tự giác tộc người,…
Theo nghĩa rộng, dân tộc hiểu là toàn bộ dân cư của một nước
(quốc gia dân tộc). Ví dụ: dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào,…Đây là
một cộng đồng người hình thành trong lịch sử có những điểm chung
như chung một lãnh thổ quốc gia, có quốc ngữ - ngôn ngữ chung cho
quốc gia đó, có chung một nền kinh tế - chính trị nhất định, có sự
thống nhất về truyền thống văn hóa, lịch sử đấu tranh dựng nước và
giữ nước.
a. Sự hình thành dân tộc
Ở phương Tây: dân tộc hình thành trên cơ sở một bộ tộc hoặc
liên kết nhiều bộ tộc sống trên cùng một vùng lãnh thổ, hình thành
gắn với sự xác lập của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự
hình thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
đòi hỏi phải có sự thống nhất thị trường, thống nhất lãnh thổ, thống
nhất về chính phủ, về thuế quan, về tiền tệ, xóa bỏ sự cát cứ địa
phương theo kiểu lãnh địa phong kiến, hình thành nên một cộng
đồng người thống nhất gọi là dân tộc.
Ở phương Đông: ở phương Đông, dân tộc hình thành sớm hơn,
trước chủ nghĩa tư bản do sự thúc đẩy của nhiều nhân tố như nhu cầu
trị thủy, chống thiên tai, thú dữ; nhu cầu chống địch họa…
b. Hai xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc
Nghiên cứu sự vận động và quan hệ dân tộc dưới c, Vhủ nghĩa tư
bản V.I.Lênin đã chỉ ra hai xu hướng vận động khách quan của các
dân tộc:
Xu hướng thứ nhất: ở các quốc gia gồm nhiều cộng đồng dân cư
có nguồn gốc tộc người khác nhau, do sự thức tỉnh, trưởng thành về
ý thức dân tộc nên các cộng đồng dân cư muốn tách ra để xác lập các
cộng đồng dân tộc độc lập. Xu hướng này nổi trội ở giai đoạn đầu
của chủ nghĩa tư bản.
Xu hướng thứ hai: Các dân tộc trong từng quốc gia, thậm chí các
dân tộc ở nhiều quốc gia muốn liên hiệp lại với nhau. Xu hướng này
nổi lên trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Hai xu hướng trên đây là 2 xu hướng tiến bộ. Tuy trong điều kiện
của chủ nghĩa đế quốc nó gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Bởi vì
nguyện vọng của các dân tộc được sống độc lập, tự do bị chính sách
xâm lược của chủ nghĩa đế quốc xóa bỏ. Để hai xu hướng này vận
động không gặp trở ngại, chỉ có thể xóa bỏ chủ nghĩa Đế Quốc; thực
hiện tốt các nguyên tắc tiến bộ như thực hiện quyền bình đẳng dân
tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết và liên hiệp công nhân các dân
tộc lại.
c. Cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản, Cương lĩnh dân tộc của
V.I.Lênin
Nội dung cơ bản của Cương lĩnh bao gồm các dân tộc hoàn toàn
bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết và liên hiệp công nhân
tất cả các dân tộc lại
Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
Một là, các dân tộc dù lớn hay nhỏ, không phân biệt trình độ phát
triển cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau; không
có một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi áp bức
bóc lột các dân tộc khác.
Hai là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng phải được thể hiện trong
luật pháp của mỗi nước và luật pháp quốc tế. Và phải được thực hiện
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với một quốc gia nhiều
dân tộc, sự khắc phục trình độ phát triển chênh lệch về kinh tế, văn
hóa do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.Trên phạm vi thế giới, thực
hiện quyền bình đẳng giữa các quốc gia dân tộc đòi hỏi phải chống
lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa sôvanh nước lớn, chống
sự áp đặt của các tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển
về mọi mặt.
Ba là, thực hiện quyền bình đẳng là cơ sở để thực hiện quyền dân
tộc tự quyết và xây dựng mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các dân
tộc.
Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết
Một là, quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ đối với vận mệnh
dân tộc mình, tự quyết định chế độ chính trị - xã hội và con đường
phát triển của dân tộc mình.
Hai là, quyền tự quyết còn bao gồm cả quyền tự do tách ra thành
lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc và quyền
tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng
có lợi.
Ba là, khi xem xét quyền dân tộc tự quyết của dân tộc cần đứng
vững trên lập trường của giai cấp công nhân. Ủng hộ các phong trào
dân tộc tiến bộ phù hợp với lợi ích chính đáng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Chống lại các phong trào dân tộc tự
quyết giả hiệu vì lợi ích và mưu đồ của một nhóm người nào đó.
Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Một là, liên hiệp công nhân của tất cả các dân tộc phản ánh bản
chất quốc tế của phong trào công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa
sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp.
Hai là, đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành
thắng lợi, đảm bảo cho các nội dung trên của cương lĩnh dân tộc có
thể thực hiện đầy đủ. Do đó nó là nội dung quan trọng nhất của
cương lĩnh dân tộc của Đảng Cộng sản
Khẩu hiệu của C.Mác và Ph. Ăngghen nêu ra: “Vô sản toàn thế
giới liên hiệp lại” đã được V.I. Lênin phát triển thành: “Vô sản toàn
thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
2. Dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam
a. Đặc điểm dân tộc Việt Nam
Thứ nhất, có sự chênh lệch về số dân giữa các tộc người.
Thứ hai, các dân tộc cư trú xen kẽ nhau.
Thứ ba, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở địa
bàn có vị trí chiến lược quan trọng.
Thứ tư, các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển không đều.
Thứ năm, các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết, gắn bó
lâu đời trong cộng đồng dân tộc – quốc gia thống nhất.
Thứ sáu, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, góp phần tạo nên
sự phong phú, đa dạng của nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
b. Quan điểm và chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Việt
Nam
* Dựa trên quan điểm Chủ nghĩa Mác Leenin về vấn đề dân tộc và
thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
VN cũng như dựa vào tình hình thế giới hiện nay, Đảng và Nhà nước
ta đã luôn coi vấn đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết có tầm
quan trọng đặc biêt, HCM đã nói: Nước Việt Nam là một, dân tộc
Việt Nam là một, đồng bào các dân tộc đều là anh em ruột thịt là con
cháu một nhà, thương yêu đoàn kết giúp đỡ nhau là nghĩa vụ thiêng
liêng của các dân tộc.
Trong mỗi kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước coi việc giải quyết
đúng đắn vấn đề dân tộc là nhiệm vụ có tính chiến lược nhằm phát
huy sức mạnh tổng hợp, cũng như tiềm năng của từng dân tộc trong
sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và đưa đất nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Tựu trung lại, quan điểm của Đảng về dân tộc có mấy ý cơ bản
sau:
Thứ nhất, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược
cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách
mạng Việt Nam.
Thứ hai, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển,...
Thứ ba, phát triển toàn diện chính sách, kinh tế, văn hóa và an
ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi, gắn tăng
trưởng kinh tế với giải quyết vấn đề dân tộc và thực hiện tốt các
chính sách dân tộc,...
Thứ tư, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc
và miền núi,...
Thứ năm, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là
nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, và cả hệ thống chính trị.
* Những chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
Nguyên tắc cơ bản trong thực hiện các chính sách này là: bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Về chính trị, thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau
cùng phát triển giữa các dân tộc. Chính sách dân tộc góp phần nâng
cao tính tích cực chính trị của công dân; nâng cao nhận thức của
đồng bào các dân tộc thiểu số về tầm quan trọng của vấn đề dân tộc,
đoàn kêt các dân tộc, thông nhất mục tiêu chung là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Về kinh tế, nội dung, nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc là
các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm phát huy tiềm năng phát triển,
từng bước khắc phục khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, giữa
các dân tộc. Thực hiện các nội dung kinh tế thông qua các chương
trình, dự án phát triển kinh tế ỏ các vùng dân tộc thiểu số, thúc đẩy
quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ địa cách mạng.
Về văn hóa, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của
các tộc người, phát triển ngôn ngữ, xây dựng đời sốngvăn hóa ở cơ
sở, nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân các dân tộc. Đào tạo cán
bộ văn hóa, xây dựng môi trường, thiết chế văn hóa phù hợp với điều
kiện của các tộc người trong quốc gia đa dân tộc. Đồng thời, mở rộng
giao lưu văn hóa với các quốc gia,các khu vực và trên thế giới. Đấu
tranh chống tệ nạn xã hội, chống “diễn biến hòa bình” trên mặt trận
tư tưởng - văn hóa ở nước ta hiện nay.
Về xã hội, thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Từng bước thực hiện bình
đẳng xã hội, công bằng thông qua việc thực hiện chính sách phát
triển kinh tế - xã hội. xóa đói giảm nghèo, dân số, y tế, giáo dục trên
cơ sở chú ý đến tính đặc thù mỗi vùng, mỗi dân tộc. Phát huy vai trò
của hệ thống chính trị cơ sở và các tổ chức chính trị -xã hội ở miền
núi, vùng dân tộc thiểu số.
Về an ninh - quốc phòng, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc
trên cơ sở đảm bảo ổn định chính trị, thực hiện tốt an ninh chính trị,
trật tự - an toàn xã hội. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng trên từng địa
bàn. Tăng cường quan hệ quân dân, tạo thế trận quốc phòng toàn dân
trong vùng đồng bào dân tộc sinh sống.
II. Tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1. Chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo
Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tôn giáo
Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang
đường, hư ảo hiện thực khách quan vào đầu óc con người. Tôn giáo
là một dạng tín ngưỡng được thể hiện dưới dạng: có hệ thống giáo lý
làm cơ sở cho niềm tin, ý thức tôn giáo; có hệ thống nghi lễ; có giáo
luật; có tổ chức giáo hội; tín đồ.
Nguồn gốc của tôn giáo
Không phải tôn giáo tạo ra con người mà chính con người tạo ra
tôn giáo. Từ các nguồn gốc: nguồn gốc kinh tế - xã hội, nguồn gốc
nhận thức, nguồn gốc tâm lý.
Thứ nhất, về nguồn gốc kinh tế - xã hội, trong xã hội công xã
nguyên thủy, do trình độ của lực lượng sản xuất thấp kém con người
cảm thấy yếu đuối và bất lực trước các sức mạnh tự phát của tự
nhiên, do đó gán cho tự nhiên những sức mạnh to lớn, thần thánh hóa
những sức mạnh đó. Khi xã hội xuất hiện giai cấp, áp bức giai cấp
cũng là một nguyên nhân làm cho con người hướng niềm tin vào thế
giới siêu nhiên dưới hình thức tín ngưỡng, tôn giáo. Kinh tế – xã hội
luôn diễn ra sự tác động đến con người một cách may rủi, ngẫu
nhiên, cũng làm cho người nảy sinh tín ngưỡng, tôn giáo.
Thứ hai, về nguồn gốc nhận thức, sự thiếu hiểu biết, không giải
thích được các hiện tượng tự nhiên, xã hội cũng dẫn đến nảy sinh các
quan điểm tôn giáo. Con người có khả năng khái quát hóa hiện thực
bằng các khái niệm, phạm trù trừu tượng đến mức xa rời hiện thực,
phản ánh sai lệch hiện thực. Đó cũng là cơ sở nhận thức để hình
thành các phạm trù, khái niệm, học thuyết tôn giáo. Ví dụ: khái niệm
“Thiên đường”, “địa ngục”…
Thứ ba, về nguồn gốc tâm lý, “Sự sợ hãi sinh ra thần linh”. Tâm lý
kính trọng, biết ơn của con người cũng dẫn đến các hiện tượng tín
ngưỡng, tôn giáo.
Lưu ý: Việc tách thành các nguồn gốc như trên chỉ có ý nghĩa
tương đối. Các nguồn gốc trên không tách biệt một cách rõ ràng,
chúng tác động một cách đan xen dẫn đến nảy sinh tín ngưỡng, tôn
giáo. Trong các yếu tố dẫn đến sự ra đời của tín ngưỡng, tôn giáo
như trên, yếu tố kinh tế – xã hội là yếu tố quyết định.
2. Tính chất của tôn giáo:
Một là tính lịch sử của tôn giáo
Tôn giáo chỉ xuất hiện khi loài người phát triển đến một trình độ
lịch sử nhất định. Tôn giáo không xuất hiện đồng thời với sự xuất
hiện của con người.Ví dụ: Phật giáo (TK VI tr.CN), Cơ đốc giáo sơ
kỳ (TK I S.CN)
Tôn giáo ra đời, tồn tại, biến đổi cùng với biến đổi của thời đại,
sao cho phù hợp với kết cấu chính trị - xã hội của thời đại. Ví dụ:
Phong trào Cải cách tôn giáo.
Tôn giáo sẽ mất đi khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo bị
loại bỏ. Tuy nhiên thì đây sẽ là một quá trình lịch sử rất lâu dài.
Hai là tính quần chúng của tôn giáo
Tín đồ tôn giáo luôn chiếm tỉ lệ khá đông trong dân số thế giới,
hầu như dân tộc, quốc gia nào cũng có tôn giáo. Tôn giáo đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của một bộ phận quần chúng
nhân dân lao động.
Ba là tính chính trị của tôn giáo
Trong xã hội chưa có giai cấp, tôn giáo chưa mang tính chính trị.
Trong xã hội có giai cấp, tôn giáo bị các giai cấp thống trị lợi dụng
để phục vụ lợi ích của mình. Nhiều tôn giáo ra đời là biểu hiện sự
phản kháng của giai cấp lao động chống lại sự áp bức giai cấp.
Ngoài ra tôn giáo còn thể hiện những tính chất như: tính nhân
văn, tính phản khoa học.
3. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội
chủ nghĩa, tôn giáo vẫn còn tồn tại. Đều đó là do các nguyên nhân:
Nguyên nhân kinh tế, trong chủ nghĩa xã hội, và nhất là trong
thời kỳ quá độ còn nhiều thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường, do đó bóc lột và sự bất bình đẳng về kinh tế vẫn tồn tại.
Ngoài ra có những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên do sự tác động của thị
trường vẫn tồn tại,…Điều đó cũng là một trong những nguyên nhân
làm cho con người có tâm lý thụ động, cầu mong vào những lực
lượng siêu nhiên.
Nguyên nhân chính trị - xã hội, do đường lối của Đảng Cộng
sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn
giáo của nhân dân, Vì tôn giáo có nhiều điểm còn phù hợp với chủ
nghĩa xã hội như giá trị đạo đức, giá trị văn hóa. Bên cạnh đó đấu
tranh giai cấp, đấu tranh chính trị vẫn còn diễn ra dưới nhiều hình
thức phức tạp, các thế lực thù địch vẫn lợi dụng tôn giáo vì mục đích
chính trị; chiến tranh, xung đột, khủng bố, bạo loạn, bệnh tật.. vẫn
còn đe dọa con người, do đó những yếu tố này là điều kiện thuận lợi
cho tôn giáo tồn tại…
Nguyên nhân nhận thức tâm lý, trình độ dân trí vẫn chưa thật
cao; nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội đến nay khoa học vẫn chưa
giải thích được, những hiện tượng tự phát của tự nhiên, xã hội có lúc
tác động, chi phối đến cuộc sống của con người một cách nghiêm
trọng. Và khi con người không có khả năng lý giải những điều đó, thì
thường có tâm lý là trông chờ, tin tưởng vào thần thánh, đứng siêu
nhiên…Tôn giáo, tín ngưỡng là thuộc về ý thức xã hội, và là một
trong những hình thái ý thức xã hội bảo thủ nhất. Ngay cả khi tồn tại
xã hội có những biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội,…thì tôn
giáo, tín ngưỡng cũng chưa biến đổi ngay. Tôn giáo tín ngưỡng đã in
sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá đậm đến nếp nghĩ, lối
sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ đến mức trở thành
một kiểu sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể thiếu của cuộc sống.
Nguyên nhân văn hóa, sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng tôn giáo có
khả năng đáp ứng ở một mức độ nào đó nhu cầu văn hóa tinh thần
của một bộ phận nhân dân, có ý nghĩa nhất định về giáo dục ý thức
cộng đồng, đạo đức, phong cách, lối sống. Điều đó cũng phù hợp với
chủ nghĩa xã hội, vì vậy việc kế thừa, phát huy các giá trị văn hóa
của tôn giáo là cần thiết và hợp lý.
4. Tôn giáo ở Việt Nam và chính sách theo tôn giáo
a. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
Thứ nhất, Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo với 43 tổ
chức thuộc 16 tôn giáo đã được công nhận. Có tôn giáo được du
nhập từ bên ngoài như Phật Giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi Giáo; có
tôn giáo nội sinh như Cao Đài, Hòa Hảo.
Thứ hai, tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hòa
bình và không có xung đột, chiến tranh tôn giáo.
Thứ ba, tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn là nhân dân lao
động, có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc.
Thứ tư, hảng ngũ chức sắc các tôn giáo có vai trò, vị trí quan
trọng trong giáo hội, có uy tín, ảnh hưởng với tín đồ.
Thứ năm, các tôn giáo ở Việt Nam đều có quan hệ với các tổ
chức, các cá nhân tôn giáo ở nước ngoài.
b. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam
Một là, cần khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo
trong đời sống xã hội bằng cách cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới (chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản), xóa bỏ nguồn gốc xã hội
nảy sinh niềm tin tôn giáo.
Mặt tích cực của tôn giáo là chủ trương giải phóng con người,
hướng đến một xã hội tốt đẹp, khuyên răn con người sống tốt, có đạo
đức, mưu cầu hạnh phúc cho con người. Chính điều này làm cho chủ
nghĩa xã hội và tôn giáo có điểm tương đồng.
Tuy nhiên tôn giáo có những hạn chế như giải thích nguyên nhân
của sự khổ đau là do sự chi phối của lực lượng siêu nhiên; chủ
trương giải phóng con người ở thế giới không phải là thế giới hiện
thực, trần gian mà ở một thế giới khác, thế giới bên kia sau khi chết,
“thiên đường”; con đường, biện pháp giải phóng là trông chờ vào
một lực lượng siêu nhiên, đứng cứu thế…Vì vậy nó kìm hãm, hạn
chế khả năng vươn lên của con người, dẫn đến tư tưởng, tâm lý trông
chờ, ỷ lại một cách thụ động. Ở điểm này, giữa tôn giáo và chủ nghĩa
xã hội có sự khác biệt về thế giới quan, nhân sinh quan, và con
đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại.
Tuy có sự đối lập như vậy, nhưng những người cộng sản không
thể cấm đoán mà quan trọng là khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực
đó phải gắn liền với việc xóa bỏ nguồn gốc xã hội sinh ra nó bằng
cách cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới tốt đẹp hơn – chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Hai là, một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận quần chúng nhân dân, thì chính sách nhất quán của nhà
nước xã hội chủ nghĩa là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân.
Mọi người đều có quyền theo hoặc không theo, có quyền theo tôn
giáo này hoặc tôn giáo khác. Quyền đó được pháp luật thừa nhận và
bảo đảm thực hiện. Mọi công dân theo hoặc không đạo đều bình
đẳng trước pháp luật. Nghiêm cấm các hành vi xâm phạm tự do tín
ngưỡng tôn giáo.
Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người
không theo tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính,
đoàn kết dân tộc để cùng nhau xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội.
Chống lại các hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn giáo.
Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải
quyết vấn đề tôn giáo. Ở đây chính là phân biệt 2 loại mâu thuẫn
trong đời sống tôn giáo.
Mặt chính trị phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích giữa một
bên là Đảng Cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động
(bao gồm có đạo và không có đạo); và bên kia là các thế lực phản
động lợi dụng tôn giáo để chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội của Đảng Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân
lao động. Giải quyết mâu thuẫn này chỉ có thể là dùng biện pháp
chuyên chính để giải quyết kịp thời và triệt để.
Mặt tư tưởng phản ánh mâu thuẫn không đối kháng, chỉ là sự khác
biệt về nhận thức, tư tưởng giữa những người theo hoặc không theo
tôn giáo, giữa những người theo tôn giáo khác nhau. Giải quyết sự
khác biệt này chỉ có thể là một quá trình lâu dài cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới tốt đẹp hơn – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa.
Năm là, phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò tác động của từng tôn giáo
đối với đời sống xã hội không giống nhau: quan điểm, thái độ của
giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực của đời sống xã hội luôn
có sự khác nhau. Vì vậy cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét,
đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề liên quan đến tôn giáo.
III. Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam
1. Đặc điểm quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam
Thứ nhất, Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo; quan
hệ dân tộc và tôn giáo được thiết lập và củng cố trên cơ sở cộng đồng
quốc gia – dân tộc thống nhất.
Thứ hai, quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam chịu sự chi phối
mạnh mẽ bởi tín ngưỡng truyền thống.
Thứ ba, các hiện tượng tôn giáo mới có xu hướng phát triển mạnh
tác động đến đời sống cộng đồng và khối đại đoàn kết dân tộc.
2. Định hướng giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay:
Một là, tăng cường mối quan hệ tốt đẹp giữa dân tộc và tôn giáo,
củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết tôn giáo là vấn đề
chiến lược, cơ bản, lâu dài và cấp bách của cách mạng Việt Nam.
Hai là, giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo phải đặt trong
mối quan hệ với cộng đồng quốc gia – dân tộc thống nhất, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa
Ba là, giải quyết mối quan hệ dân tộc và tôn giáo phải bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, quyền của các dân
tộc thiểu số, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lợi dung vấn đề
dân tộc, tôn giáo vào mục đích chính trị.

You might also like