Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 5

3.

Về chi viện:

Miền Bắc đã hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến
lớn miền Nam: 

Giai đoạn 1954 - 1965

Thực hiện Nghị quyết 15 của Đảng và sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
miền Bắc đã mở đường chi viện cách mạng miền Nam. Dương vận tải trên bộ
mang tên đường 559, trên biển mang tên đường 759. Đường vận tải Hồ Chí Minh
trên bộ hình thành từ ngày 19/5/1959 đường Hồ Chí Minh trên biển từ ngày
23/10/1961 kéo dài hàng ngàn kilômét từ Bắc vào Nam cả trên bộ và trên biển. Các
tỉnh miền Bắc đã chủ động kết nghĩa với các tỉnh miền Nam để phối hợp đấu tranh
cách mạng vì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trong những năm thực hiện Kế hoạch nhà nước là năng lần thứ nhất (1961 –
1965), miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã không ngừng tăng cường chi viện cho cách
mạng miền Nam. Tuy đường hành quân và vận tải theo dãy Trường Sơn còn nhiều
khó khăn do địch đánh phủ và địa hình hiểm trở, nhưng đã trở thành tuyến đường
chiến lược huyết mạch nối hậu phương với chiến trưởng, liên tục có các đoàn cán
bộ, chiến sĩ cùng vũ khí đạn được chi viện cho cách mạng miền Nam. Đường vận
tải trên biển mặc dù bị sự ngăn chặn của quân thù và thời tiết hiểm nguy, song đã
có nhiều chuyển "tàu không xổ" chở hàng chục tấn vũ khí từ miền Bắc vào các căn
cứ ven biển Phú Yên. Bà Rịa. Cà Mau,... cung cấp cho bộ đội. du kích chiến đấu.
Tính chung, năm 1965, số bộ đôi từ miền Bắc được đưa vào miền Nam tăng 9 lần,
số vật chất tăng 10 lần so với năm 1961. Đây là một thành công lớn. có ý nghĩa
chiến lược của hậu phương miền Bắc với nhiều sự hy sinh anh dũng của cán bộ
chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam trên Biển Đông và dãy Trường Sơn huyền
thoại góp phần vào chiến thắng của quân dân miền Nam đánh bại chiến tranh xâm
lược thực dân mới của đế quốc Mỹ và tay sai giai đoạn 1961 – 1965.

 Sự chi viện của miền Bắc trong thời gian này là nhân tố quyết định đến thắng
lợi của nhân dân miền Nam đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ.

Giai đoạn 1965 – 1975

Mười năm (1965-1975) là thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn
ra ác liệt. Cùng với đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam, đế quốc Mỹ đã
phát động chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc
hòng chặn đứng sự chi viện của miền Bắc. Trước tình hình đó, tại Hội nghị trung
ương 12 khóa III (12/1965) tiếp tục khẳng định: “Miền Nam là tiền tuyến lớn, là
chiến trường chính hiện nay. Miền Bắc là hậu phương lớn của miền Nam… ”.
Thực hiện chủ trương của Đảng, mặc dù bị tàn phá của gần 8 triệu tấn bom của
Mỹ, miền Bắc vẫn vừa sản xuất vừa chiến đấu, sự tăng viện cho cách mạng miền
Nam không hề giảm sút mà còn bảo đảm cho tiền tuyến đánh thắng hai cuộc phản
công mùa khô của Mỹ và thực hiện cuộc tổng tiến công 1968.

Khắp nơi trên miền Bắc, các phong trào thi đua yêu nước được phát động
rộng rãi, sôi nổi và liên tục: phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm
đang”... Hàng triệu thanh niên nam nữ tình nguyện gia nhập lực lượng vũ trang,
hàng triệu người đăng ký đi đầu trên các mặt trận sản xuất và chiến đấu. Cả miền
Bắc hành động theo tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người”, ngày đêm dồn sức cho miền Nam đánh Mỹ “Thời kỳ này, quá nửa lực
lượng và gần 80% vũ khí, đạn dược, phương tiện kỹ thuật sữ dụng trên chiến
trường miền Nam do Đảng, Nhà Nước ta động viên từ hậu phương miền Bắc đưa
vào. Từ năm 1965 đến năm 1968, có 888.641 thanh niên miền Bắc gia nhập lực
lượng vũ trang trong đó có khoảng 336.914 người hành quân vào Nam chiến đấu”.
Sau tháng 11/ 1968, cuộc chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” ngày càng đòi hỏi sự chi viện to lớn của miền Bắc. Tranh thủ thuận lợi
không còn chiến tranh phá hoại, miền Bắc tích cực khôi phục và phát triển tăng
cường chi viện cho cách mạng miền Nam.

Năm 1969, khối lượng hàng vận tải vào chiến trường qua tuyến 559 là
170.000 tấn. Cũng trong năm này, hơn 80.000 quân từ miền Bắc hành quân vượt
Trường Sơn vào bổ sung cho chiến trường toàn miền Nam. Trong năm 1970 và
1971, hậu phương miền Bắc đã gởi vào chiến trường miền Nam 195.000 quân,
trong đó, có nhiều cán bộ chiến sĩ thuộc các binh chủng kỹ thuật được tăng cường
nhằm góp một phần quyết định làm xoay chuyển cục diện chiến tranh.

Hệ thống đường ống dẫn xăng dầu từ miền Bắc vào miền Nam năm 1970 là
500 km đến cuối năm 1971 đã phát triển lên gần 1000km. Nhờ có tuyến đường ống
đó, trong mùa khô 1970-1971, khối lượng xăng dầu vận chuyển vào Nam tăng gấp
10 lần mùa khô 1969-1970. Việc vận chuyển cơ giới cũng được đẩy mạnh, năm
1969 là 2 vạn tấn và năm 1971 đạt 6 vạn tấn. Lực lượng vật chất đó có ý nghĩa to
lớn đối với cuộc tiến công chiến lược năm 1972.

Từ ngày 6/4/1972, miền Bắc phải đối đầu với chiến tranh phá hoại lần thứ 2
của đế quốc Mỹ, đỉnh cao nhất là cuộc tập kích chiến lược 12 ngày đêm bằng B52
của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng. Trong thử thách nặng nề đó, miền Bắc vẫn không
ngừng đưa người và của vào miền Nam.

Sau khi hiệp định Pari được ký kết (27/1/1973), từ thực tế chiến trường, Hội
nghị trung ương 21 (tháng 7/1973) xác định con đường tất yếu vẫn là sử dụng bạo
lực cách mạng để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Để đi đến thắng lợi
hoàn toàn, yêu cầu chi viện cho các chiến trường ở miền Nam càng lớn. Theo Nghị
quyết 21, những năm 1973-1974, miền Bắc bước đầu đã khôi phục được kinh tế
trong điều kiện chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, sự chi viện sức người, sức
của cho cách mạng miền Nam cũng gia tăng. Tính riêng 2 năm 1973-1974, có
253.691 quân miền Bắc tăng cường cho miền Nam; 15000 nhân viên kỹ thuật, thợ
sữa chữa được đưa vào chiến trường miền Nam để làm việc trong 200 trạm sữa
chữa xe, máy. Từ cuối năm 1973, hơn 30.000 cán bộ, chiến sĩ, công nhân thanh
niên xung phong được điều vào Trường Sơn tham gia mở đường. Hệ thống tuyến
đường chiến lược Trường Sơn cả phía Tây lẫn phía Đông không ngừng được nâng
cấp và mở rộng với tổng chiều dài lên tới 16.700 km. Hệ thống đường dẫn xăng
dầu từ hậu phương miền Bắc đã vươn tới tận miền Đông Nam Bộ dài 1.311 km.
Đó là sức mạnh tổng hợp của cả nước, của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền
tuyến lớn miền Nam.

Trong cuộc Tổng tiến công chiến lược làm nên Đại thắng mùa xuân năm
1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, sự chi viện sức người sức của ở miền Bắc
đã lên mức cao nhất. Bộ Chính trị đã xác định: Để đảm bảo giành toàn thắng cho
trận quyết chiến lịch sử này, cần động viên lực lượng cả nước, đáp ứng mọi yêu
cầu cho các chiến trường trọng điểm. Trước sự nổ lực của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân, chỉ trong tháng 1/1975, miền Bắc đã huy động được 57.000 cán bộ, chiến
sĩ, 26 vạn tấn vật chất đưa vào chiến trường miền Nam. Sức người, sức của to lớn
kể trên đã có ý nghĩa quyết định trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao
là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Kết luận: Sức mạnh của miền Bắc chi viện sức người sức của đối với miền
Nam là sức mạnh của khát vọng độc lập, dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Đó là khát
vọng thiêng liêng của mọi người Việt Nam, dù trực tiếp chiến đấu ở miền Nam hay
vừa sản xuất vừa chiến đấu xây dựng và bảo vệ miền Bắc. Cùng với nhân dân miền
Nam, nhân dân miền Bắc ghi nhớ và quyết tâm thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, không có gì quý hơn
độc lập, tự do. Vì thế mọi người dân miền Bắc đều ý thức đầy đủ trách nhiệm đối
với tiền tuyến lớn miền Nam. Khẩu hiệu hành động là tất cả vì miền Nam ruột thịt,
sẵn sàng chi viện và chia lửa với miền Nam. Tình cảm đối với miền Nam là tình
cảm cao đẹp, thiêng liêng và đã trở thành sức mạnh vật chất to lớn, góp phần làm
nên chiến thắng vĩ đại của cả dân tộc.

You might also like