Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 70

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG

KHOA SƯ PHẠM

TRẦN THỊ ĐỊNH


LỚP DH5C1

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM


NGÀNH NGỮ VĂN

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA


THỜI NIÊN THIẾU

Giảng viên hướng dẫn:


Th.S NGUYỄN THỊ HỒNG HOA

Long Xuyên, 05 / 2008


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, khoa Sư phạm và Bộ
môn Ngữ Văn trường Đại học An Giang đã tạo mọi điều kiện giúp tôi
hoàn thành luận văn này.

Ngoài những nỗ lực cá nhân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ
từ phía các thầy cô, gia đình và bạn bè. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm
ơn cô Nguyễn Thị Hồng Hoa – người đã tận tình hướng dẫn, động viên
tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện luận văn này.

Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn!

Long Xuyên, ngày 4 tháng 5 năm 2008.

Sinh viên thực hiện

TRẦN THỊ ĐỊNH


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài nghiên cứu........................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...........................................................................1
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................4
4. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................4
5. Phạm vi, nội dung nghiên cứu .....................................................................4
6. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................4
7. Đóng góp mới của đề tài ..............................................................................5
8. Dàn ý của khóa luận.....................................................................................5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TRẦN ĐĂNG KHOA - “THẦN ĐỒNG” CỦA THI CA
VIỆT NAM.
1. Đôi nét về Trần Đăng Khoa và tập thơ Góc sân và khoảng trời ...............6
1.1. Về Trần Đăng Khoa .............................................................................6
1.2. Về tập Góc sân và khoảng trời ............................................................7
2. Những yếu tố hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Khoa ..............8
2.1. Dòng sữa văn học dân gian của quê hương..........................................8
2.2. Truyền thống gia đình...........................................................................8
2.3. Ảnh hưởng từ các nhà thơ, nhà văn bậc thầy .......................................9
2.4. Sự động viên, giúp đỡ của gia đình và thầy cô, bạn bè ........................9
2.5. Thời đại kháng chiến chống Mĩ..........................................................10
CHƯƠNG II: GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI - NHỮNG NGUỒN CẢM
HỨNG DÀO DẠT
1. Cảm hứng từ cảnh vật thiên nhiên và hình ảnh người nông dân
1.1. Cảnh vật thiên nhiên ...........................................................................11
1.2. Hình ảnh người nông dân....................................................................19
2. Cảm hứng từ những người thân yêu ..........................................................22
3. Cảm hứng từ hoàn cảnh lịch sử của đất nước.............................................25
3.1. Số phận của những em bé Việt Nam trong chiến tranh .....................25
3.2. Lòng căm thù giặc Mĩ sâu sắc............................................................31
3.3. Tình cảm đối với Bác Hồ kính yêu ....................................................34
3.4. Tình cảm dành cho các chú bộ đội ....................................................38
3.5. Tình cảm đối với những miền quê trên đất nước................................44
CHƯƠNG III: GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI – MỘT SỐ HÌNH THỨC BIỂU
HIỆN NỔI BẬT
1. Giọng điệu .....................................................................................................48
1.1. Hồn nhiên, trong sáng, thiết tha............................................................48
1.2. Triết lí, suy tư .......................................................................................50
2. Trí tưởng tượng, liên tưởng phong phú .........................................................55
3. Ngôn ngữ chính xác, sáng tạo, biểu cảm và giàu nhạc điệu .......................57
4. Biện pháp tu từ.............................................................................................59
4.1. Nhân hóa ...............................................................................................59
4.2. So sánh ..................................................................................................62
PHẦN KẾT LUẬN..............................................................................................65
PHẦN MỞ ĐẦU
55555
1. Lí do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, so với “văn học người
lớn” thì văn học thiếu nhi hình thành và phát triển một cách thầm lặng, ít được người ta
quan tâm đến. Tuy vậy, bộ phận văn học này đã không bỏ cuộc mà đã tự thân phấn đấu
vươn lên để ngày một phong phú, đa dạng và được đánh giá là “một bộ phận quan trọng
của nền văn học dân tộc” [14;262]. Ở bộ phận văn học này có sự góp mặt của các bút danh
tiếng đầy tâm huyết: Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Đoàn Giỏi, Võ Quảng, Phạm Hổ,…
Họ viết cho các em với tình yêu thương, sự đồng cảm và trên hết là muốn cung cấp cho các
em những câu chuyện, những vần thơ bổ ích, mang giá trị nhận thức và giáo dục cao. Đặc
biệt, trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã xuất hiện một loạt các em thiếu nhi làm thơ:
Trần Đăng Khoa, Chu Hồng Quý, Cẩm Thơ, Hoàng Hiếu Nhân,… mà tiêu biểu nhất là
Trần Đăng Khoa.
Tuổi thơ tôi và bạn bè tôi đã thuộc làu những câu: trong Hạt gạo làng ta, Nghe thầy
đọc thơ,… Mặc dù chưa hiểu hết cái hay của những câu thơ đó, chúng tôi vẫn cảm nhận
được một cái gì đó rất thân thương, gần gũi. Sau này lớn lên, tôi biết được tác giả của
những vần thơ đã theo mình suốt thời thơ ấu là Trần Đăng Khoa, và càng thú vị hơn khi
biết rằng những bài thơ đó được sáng tác từ khi tác giả còn rất nhỏ.
Tập thơ Góc sân và khoảng trời đã nhận được không ít ý kiến đánh giá, phê bình,
nhưng chỉ đơn thuần là một vài nhận định, phê bình ngắn ngủi, chung chung về tổng thể
tập thơ hay cảm xúc đối với một vài bài thơ mà người viết cho là tiêu biểu. Với đề tài :
“Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu”, chúng tôi sẽ góp thêm một
cách nhìn, cách cảm tương đối toàn diện và có hệ thống về một nhà thơ từng được mệnh
danh là “thần đồng” cũng như khẳng định lại những đóng góp của nhà thơ này.
2. Lịch sử vấn đề
Tập thơ Góc sân và khoảng trời được viết từ năm 1966 đến 1973, in năm 1973
được rất nhiều người quan tâm. Tập thơ đã nhận được một số ý kiến phê bình và đánh giá
về nội dung và nghệ thuật như sau:
2.1. Những ý kiến về giá trị nội dung của tập thơ
Nguyễn Văn Long đã xếp thơ Trần Đăng Khoa vào bộ phận văn học thiếu nhi từ sau
Cách mạng tháng 8 năm 1945 và có những nhận xét rất hay về tập thơ Góc sân và khoảng
trời cũng như về thơ của Trần Đăng Khoa nói chung: “Anh đã viết rất nhiều, rất hay về
nông thôn nhỏ bé của mình. Đến với thơ anh, ta được sống trong bầu không khí rất riêng,
không khí của làng quê nông thôn Việt Nam” [14;297]. Trong đó, ông nêu lên những ý
kiến của nhà nghiên cứu phê bình Nguyễn Đăng Mạnh về “nhà thơ mục đồng” và khen

1
ngợi “Trần Đăng Khoa luôn cảm nhận đựơc vẻ đẹp trong trẻo, trinh nguyên, thuần nhất
của vùng quê dân dã” [14;297].
Dương Thu Hương đã nhận định về thiên nhiên và cuộc sống của người nông dân
trong thơ Trần Đăng Khoa: Qua đó, Trần Đăng Khoa đã bộc lộ một tình yêu quê hương
sâu sắc và truyền cho người đọc tình yêu ấy. Với tất cả bạn đọc nước ngoài, qua thơ anh,
họ cũng hiểu thêm phần nào về phong vị Việt Nam”[16;106]. Chính cây bút nhỏ này đã làm
cho người ta chú ý nhiều hơn đến Việt Nam không chỉ vì Việt Nam là chiến trường ác liệt
lúc bấy giờ mà còn do Việt Năm xuất hiện một hiện tượng thơ đáng tự hào. Gerad
Gullaume đã thốt lên đầy xúc động khi nói về Trần Đăng Khoa:“Việt Nam, hồn tôi”(1)
Phạm Hổ trong tiểu luận “Đọc lại thơ Trần Đăng Khoa” cho rằng Trần Đăng Khoa
đã không viết về những cái gì xa lạ mà viết những cái ở ngay làng quê mà ngày ngày em
trông thấy và “hầu như toàn bộ thơ Trần Đăng Khoa là viết bằng lòng yêu thương…”
[11;887].
Hoài Thanh đã đề cập đến hình ảnh các chú bộ đội trong thơ các em thiếu nhi mà
đặc biệt là trong thơ Trần Đăng Khoa: “…Hình ảnh chú bộ đội gắn liền với cảnh sắc yêu
dấu, với không khí đầm ấm của quê em lại càng thêm gần gũi… ” [10;255]
Trần Đăng Xuyền đã chỉ ra những nhân tố góp phần làm nên hồn thơ cũng như một
và đặc điểm trong cái nhìn của Trần Đăng Khoa: nhân tố gia đình, cảnh sắc thiên nhiên ở
làng quê, ảnh hưởng của nhà thơ Xuân Diệu, bạn bè, thầy cô và không khí của thời đại
kháng chiến chống Mĩ. Đó là những nhân tố khách quan bên cạnh tài năng thiên bẩm của
Trần Đăng Khoa. “Thơ Trần Đăng Khoa chạm đến bản chất, cái cốt lõi của làng quê”
[14;19]. Quả thật, trong thơ Trần Đăng Khoa luôn có dấu ấn của thời chiến tranh khốc liệt
của của cuộc kháng chiến chống Mĩ nhưng luôn giữ được vẻ trong trẻo, tươi tắn của tâm
hồn trẻ thơ.
Lã Thị Bắc Lý đã nêu những nội dung cơ bản của thơ Trần Đăng Khoa, trong đó nội
dung hàng đầu là thiên nhiên nông thôn bởi theo tác giả thì “đây là mảng nội dung nổi bật
nhất trong thơ Trần Đăng Khoa” [5;152]. Sự vật trong thiên nhiên thì hầu như ai cũng biết,
cũng nhận thấy nhưng không ai có được cái nhìn như Trần Đăng Khoa. Đó là một cái nhìn
ngộ nghĩnh, đáng yêu mà lại rất sâu sắc: “Thơ Trần Đăng Khoa luôn gợi cho bạn đọc cảm
nhận về một thiên nhiên nông thôn thuần nhất, tinh nguyên và hết sức thơ mộng… thiên
nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa không chỉ là sự yên tĩnh thơ mộng mà còn đầy sức sống,
luôn luôn vận động và phát triển” [5;155]. Bên cạnh đó, hình ảnh người nông dân được
nhắc đến. Đó là những người dân lam lũ, cực nhọc, chịu thương chịu khó. Ngòi bút của
Trần Đăng Khoa đã phác họa được “bức chân dung người nông dân dũng cảm, tự tin và
chiến thắng”. Khi viết về điều gì, điều đầu tiên là người cầm bút phải thật hiểu rõ điều đó
và cần nhất là phải có tấm lòng sâu nặng. Viết về người nông dân quê mình, Trần Đăng
Khoa hội tụ đầy đủ các yếu tố đó. Khó có thể tìm thấy ở đâu có niềm vui tập thể bình dị,
trong trẻo như niềm vui đồng ruộng của người nông dân như trong thơ Trần Đăng Khoa.
2
(1)Việt Nam, hồn tôi - Gerad Gullaume (do nhà thơ Xuân Diệu dịch)
Qua việc miêu tả cuộc sống ở nông thôn, Trần Đăng Khoa đã ghi lại “âm vang của thời
đại”. Tuy nhiên, Trần Đăng Khoa không đi sâu miêu tả cảnh, liệt kê, thống kê các số liệu
lịch sử mà “dấu ấn của thời đại dội vào thơ anh đã biến thành hình tượng, thành số phận
của một lớp người, một thế hệ trong chiến tranh” [5;162]. Thế hệ măng non trong chiến
tranh cũng được miêu tả bằng những chi tiết rất xúc động. Các em thiếu nhi tuy ít được sự
quan tâm chăm sóc đầy đủ nhưng vẫn luôn lạc quan, tin tưởng ở tương lai của dân tộc.
Chính Trần Đăng Khoa đã là một ví dụ điển hình cho điều đó “Điều kì diệu là Trần Đăng
Khoa nhìn cuộc chiến tranh tàn khốc, dữ dội một cách bình thản” [5;163].
2.2. Những ý kiến về giá trị nghệ thuật của tập thơ
Ngoài những ý kiến nhận xét, phê bình về nội dung còn có những ý kiến xoay
quanh mặt giá trị nghệ thuật của tập thơ Góc sân và khoảng trời như sau:
Lã Thị Bắc Lý đã nhận xét rằng Trần Đăng Khoa thường “sử dụng biện pháp nhân
hóa để miêu tả cảnh vật” [5;165]. Trong cái nhìn “vật ngã đồng nhất” của trẻ con thì Trần
Đăng Khoa đã xem chú chó vàng như một người bạn thân quý với cách gọi những sự vật
bằng từ xưng hô: cái na, cu chuối, chị tre, bác nồi đồng, cậu mèo, ông trời, bà sân…Những
cảnh vật thiên nhiên trong tập thơ đều chứa đựng một tâm hồn, một sự sống lúc nào cũng
sẵn sàng đón nhận ánh sáng. Một đặc điểm dễ thấy nhất trong nghệ thuật của tập thơ là sự
liên tưởng, tưởng tượng độc đáo. “…luôn luôn phát hiện ra những mối liên hệ của chúng
hoặc liên tưởng tới những hình ảnh tương đồng khác để từ đó khái quát lên một cái gì đó
cao hơn” [5;167]. Không dừng lại ở đó, tập thơ còn nhận được những nhận xét về nghệ
thuật sử dụng ngôn ngữ. Anh Ngọc đã hết lời ngợi khen “thứ ngôn ngữ giản dị, chính xác
và giàu hình ảnh có thể gây hiệu qủa tình cảm mạnh mẽ” [1;340].
Riêng Phạm Hổ đã nhận xét thêm về nhạc điệu trong tập thơ. “Trong nhiều bài, mỗi
bài như có một nhạc điệu riêng, một âm sắc riêng” [11;890]. Các bài thơ của Trần Đăng
Khoa có sự gần gũi với ca dao bởi em được ru bằng những câu hát của bà, của mẹ. Nhưng
khi làm thơ thì Trần Đăng Khoa không đưa tất cả vào thơ mình mà có sự chọn lọc và sáng
tạo.
Chính vì thơ của Trần Đăng Khoa (đặc biệt là tập Góc sân và khoảng trời) chứa
đựng những yếu tố nội dung và nghệ thuật ấy mà vào những năm 1994-1995 Phạm Hổ đã
viết về Trần Đăng Khoa “thơ Trần Đăng Khoa viết lúc còn bé đã chịu sự thử thách khá
dài trên dưới 30 năm với bao nhiêu những đổi thay trong cuộc sống không thể lường
trước… Đến nay, đọc lại thơ Trần Đăng Khoa, tôi vẫn thấy hay, có bài còn hay
hơn”[11;892].
2.3. Những nhận xét chung
Qua phần tìm hiểu những nhận định, ý kiến đánh giá, phê bình, chúng tôi nhận thấy
rằng hầu hết các tác giả đều khen ngợi hồn thơ Trần Đăng Khoa. Em xứng đáng được nhận
những lời khen ngợi đó. Em đã học tập và rèn luyện một cách công phu, sáng tác một cách
nghiêm túc chứ không phải vung bút lên là nảy ra những bài thơ hay. Các ý kiến, nhận
3
định trên là cơ sở để chúng tôi tự phát hiện và khám phá để tìm hiểu rõ hơn, sâu hơn về
tâm hồn và tài năng Trần Đăng Khoa được thể hiện trong tập thơ. Trong qua trình nghiên
cứu, khóa luận sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn khách quan để đánh giá chính xác những đóng
góp của Trần Đăng Khoa cho bộ phận văn học thiếu nhi nói riêng và tiến trình phát triển
của văn học Việt Nam nói chung.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài “Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu”, chúng tôi
muốn tập trung tìm hiểu thơ Trần Đăng Khoa ở góc độ thế giới nghệ thuật. Tuy tập thơ
được viết từ khi tác giả còn rất nhỏ nhưng vẫn được xem xét như một chỉnh thể nghệ thuật
có sự đan xen, hòa quyện và thống nhất giữa các yếu tố nội dung và hình thức. Từ đó,
chúng tôi cùng người đọc khám phá được cảm nhận và những sáng tạo từ hình tượng nghệ
thuật đến biện pháp nghệ thuật được Trần Đăng Khoa sử dụng trong tập thơ.
4. Đối tượng nghiến cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa
thời niên thiếu. Trong phần trình bày của khóa luận, chúng tôi chủ yếu dựa trên văn bản
của tập thơ Góc sân và khoảng trời được Nhà xuất bản Văn học in năm 2006. Trong đó,
chúng tôi chỉ khảo sát và nghiên cứu các bài thơ được Trần Đăng Khoa viết từ năm 1966
đến 1973, in từ trang 16 đến trang 152. Những bài còn lại viết vào năm 1974 được bổ sung
sau này, chúng tôi xin phép không khảo sát mà chỉ liên hệ để làm phong phú thêm ý của
các vấn đề.
5. Phạm vi, nội dung nghiên cứu
Trong giới hạn của đề tài, chúng tôi chỉ xin được đi sâu nghiên cứu tìm hiểu thế giới
nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa qua một điển hình là tập Góc sân và khoảng trời ở góc độ
các cảm hứng chủ đạo của tác giả và một số đặc sắc nghệ thuật nổi bật trong tập thơ.
Trong qúa trình nghiên cứu, chúng tôi có liên hệ, so sánh, đối chiếu với thơ của
Hoàng Hiếu Nhân, Cẩm Thơ, Xuân Quỳnh…để làm nổi bật thế giới nghệ thuật thơ Trần
Đăng Khoa.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Đây là phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong đề tài của luận văn.
Chúng tôi đã dựa trên một số tài liệu nhận xét, đánh giá của các nhà phê bình nghiên cứu
cùng sự tìm tòi, phát hiện của bản thân trên văn bản của các bài thơ trong tập Góc sân và
khoảng trời để làm cơ sở cho việc tiếp cận và tìm hiểu tập thơ nhằm phục vụ tốt hơn cho
cho đề tài.
6.2. Phương pháp so sánh
Phương pháp này giúp chúng tôi có sự liên hệ, đối chiếu, so sánh những điểm
giống và khác nhau giữa thơ Trần Đăng Khoa và thơ một số em nhỏ lúc bấy giờ trong cách
thể hiện thế giới nghệ thuật thơ, giữa thơ Trần Đăng Khoa lúc còn là thiếu nhi và khi đã là
4
anh bộ đội. Qua đó, chúng ta sẽ có cái nhìn đúng mức về tài năng, tâm hồn Trần Đăng
Khoa và những đóng góp cho nền văn học thiếu nhi qua tập Góc sân và khỏang trời.
6.3. Phương pháp thống kê
Đây là phương pháp không thể thiếu trong quá trình nghiên cứu. Qua việc khảo sát
tập thơ, tôi sẽ thống kê các yếu tố về nội dung và nghệ thuật có tính khái quát trong tập
thơ, những hình ảnh, chi tiết được lặp lại nhiều lần nhằm tìm ra cảm hứng chủ đạo và các
phép tu từ được sử dụng trong tập thơ. Trên cơ sở này, chúng tôi tìm ra những nét riêng,
nét độc đáo của tài năng thơ Trần Đăng Khoa.
7. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài của khóa luận này là một đề tài mới mẻ. Người ta biết đến Trần Đăng Khoa
như là một thần đồng thơ với Góc sân và khoảng trời. Thế nhưng, mọi người lại ít quan
tâm nghiên cứu tập thơ một cách toàn diện. Nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn khẳng
định tài năng, phong cách riêng của thơ Trần Đăng Khoa. Đồng thời khóa luận sẽ cung cấp
một phần kiến thức cho giáo viên cấp I cấp II khi giảng dạy thơ Trần Đăng Khoa cũng như
một số phép tu từ có trong phân môn Tiếng Việt.
8. Dàn ý khóa luận
Khóa luận với đề tài “Thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa thời niên thiếu gồm
có 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó, nội dung là phần trọng
tâm, gồm có 3 chương:
Chương I: Trần Đăng Khoa - “thần đồng” của thi ca Việt Nam: Khóa luận sẽ
tìm hiểu về tiểu sử và những nhân tố hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Trần
Đăng Khoa. Bên cạnh đó, sẽ giới thiệu đôi nét nội dung của tập Góc sân và khoảng trời
Chương II: Góc sân và khoảng trời - Những nguồn cảm hứng dào dạt: Chúng
tôi sẽ đi sâu tìm hiểu những cảm hứng chủ đạo được thể hiện trong tập thơ từ thiên nhiên
đến cuộc sống của người dân ở làng quê Trần Đăng Khoa nói riêng và của cả nước nói
chung trong không khí sôi sục của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Từ đó, chúng ta sẽ cảm
nhận được cái nhìn trong trẻo, tươi sáng, tấm lòng chan chứa yêu thương của Trần Đăng
Khoa dành cho quê hương, đất nước, con người Việt Nam anh hùng.
Chương III: Góc sân và khoảng trời - một số hình thức biểu hiện nổi bật: Chúng
tôi sẽ tập trung tìm hiểu một số hình thức nghệ thuật nổi bật được biểu hiện trong tập thơ
như: giọng điệu, ngôn ngữ và các phép tu từ… Từ đó, chúng tôi khẳng định phong cách
riêng của thi sĩ nhỏ tuổi này.

5
PHẦN NỘI DUNG
55555

CHƯƠNG I: TRẦN ĐĂNG KHOA - “THẦN ĐỒNG” CỦA THI CA


VIỆT NAM
1. Đôi nét về Trần Đăng Khoa và tập thơ Góc sân và khoảng trời
1.1. Về Trần Đăng Khoa
Trần Đăng Khoa (bút danh cũng là tên khai sinh) sinh
ngày 26/ 04/ 1958 tại thôn Điền Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam
Sách, tỉnh Hải Dương. Bố mẹ Trần Đăng Khoa thuộc rất nhiều
truyện và thơ ca cổ. Anh trai và em gái của Trần Đăng Khoa
đều là những người say mê văn học. Riêng Trần Đăng Khoa,
khi học hết vỡ lòng (tương đương lớp 1 bây giờ) đã ham đọc sách, đã thuộc rất nhiều ca
dao và thơ ca cổ.
Trần Đăng Khoa có bài thơ “Con bướm vàng” được đăng báo từ năm Trần Đăng
Khoa 8 tuổi. Tập thơ đầu tiên “Từ góc sân nhà em” in ở Nhà xuất bản Kim Đồng lúc Trần
Đăng Khoa tròn 10 tuổi. Nhà thơ Xuân Diệu đã viết bài giới thiệu Trần Đăng Khoa trên
báo (ngày 6/ 6 /1973) khi tập thơ thứ hai “Góc sân và khoảng trời” được in năm 1973.
Năm 1975, đang học lớp 10 (tương đương lớp 12 bây giờ), trong đợt tổng động viên
khi cuộc kháng chiến chống Mĩ bước vào giai đoạn cuối, Trần Đăng Khoa tình nguyện vào
quân ngũ.
Khi kháng chiến chống Mĩ giành thắng lợi, đất nước hoàn toàn giải phóng, Trần
Đăng Khoa về học trường Sĩ quan lục quân, rồi tiếp tục học ở trường viết văn Nguyễn Du
(khóa IV). Sau đó, Trần Đăng Khoa được cử sang Cộng Hòa Liên bang Nga học tại Học
viện Văn học thế giới mang tên M. Gorki. Khi trở về nước, Trần Đăng Khoa làm việc cho
Tạp chí Văn nghệ quân đội. Về sau chuyển sang công tác tại Ban văn học nghệ thuật của
Đài tiếng nói Việt Nam.
- Các tác phẩm chính
+ In ở trong nước
• Từ góc sân nhà em(1968)
• Thơ Trần Đăng Khoa, tập 1 (tuyển 1966-1969, 1970)
• Khúc hát người anh hùng (trường ca, 1975)
• Kể cho bé nghe (1979)
• Thơ Trần Đăng Khoa, tập 2 (tuyển 1969-1975, 1983)
+ In ở nước ngoài:
• Tiếng hát còn tiếp tục (Pháp 1971)
• Góc sân và khoảng trời của tôi (Cuba, 1973)
6
• Cánh diều no gió (CHDC Đức, 1973)
• Con bướm vàng (Hunggari, 1973)

- Các giải thưởng:


• Giải thưởng thơ Báo Thiếu niên Tiền Phong (1968, 1969, 1971)
• Giải thưởng văn học của Bộ lao động - thương binh xã hội (1975) với
Trường ca Khúc hát người anh hùng.
• Giải A cuộc thi thơ Báo Văn nghệ (1981 - 1982) với bài Đợi mưa trên
đảo Sinh Tồn.
• Giải thưởng Báo Người giáo viên nhân dân (1987)
• Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (đợt I năm 2001) với tập
thơ Góc sân và khoảng trời.
1.2. Về tập Góc sân và khoảng trời
Theo Trần Đình Sử, thế giới nghệ thuật chính là “khái niệm chỉ tính chỉnh thể của
sáng tác nghệ thuật (tác phẩm, sáng tác của một tác giả, trào lưu) thịnh hành trong nghiên
cứu văn học hiện đại) ” [16;1660].
Như vậy, thế giới nghệ thuật là sản phẩm, là kết quả của sự sáng tạo của tác giả chỉ
có trong tác phẩm nghệ thuật.
Góc sân và khoảng trời là một chỉnh thể nghệ thuật có cấu trúc riêng, quy luật riêng
với những cảm nhận của tác giả về thiên nhiên ở nông thôn, về cuộc sống của người nông
dân, các anh bộ đội, các em thiếu nhi,… Tiếp cận thế giới nghệ thuật thơ Trần Đăng Khoa
trong Góc sân và khoảng trời là tiếp cận hệ thống nghệ thuật hoàn chỉnh gồm hai yếu tố
nội dung và hình thức thống nhất với nhau. Từ sự tiếp cận đó, ta sẽ khám phá được tư duy
nghệ thuật và những sáng tạo độc đáo của nhà thơ nhi đồng Trần Đăng Khoa.
Tập thơ Góc sân và khoảng trời được Trần Đăng Khoa sáng tác từ năm 1966 -1973
được Nhà xuất bản Văn học phát hành vào năm 2006 gồm 142 bài, trong đó có 9 bài được
viết vào năm 1974.
Góc sân và khoảng trời được sáng tác trong những năm tháng dầu sôi lửa bỏng của
cuộc kháng chiến chống Mĩ nên chứa đựng rất nhiều yếu tố của thời đại. Trần Đăng Khoa,
với lòng căm thù giặc sâu sắc, đã tố cáo tội ác của giặc nhưng không phải bằng việc kể ra
những sự kiện, thống kê những con số như một nhà sử học mà như một nhà thơ với những
vần thơ “mạnh hơn những tiếng bom”.
Cảm hứng chủ đạo trong tập thơ là tình cảm của Trần Đăng Khoa dành cho quê
hương, đất nước, con người Việt Nam. Đó là tình cảm yêu thương, gắn bó, tự hào, lạc quan
và tin tưởng vào ngày toàn thắng của cách mạng. Tập thơ còn thể hiện một năng lực quan
sát rất nhạy bén của Trần Đăng Khoa đối với những cảnh vật, cuộc sống ở nông thôn. Tuy
còn nhỏ tuổi nhưng Trần Đăng Khoa đã biết sử dụng nhiều cách biểu hiện khác nhau trong
tập thơ để khắc họa, miêu tả thế giới với những sự vật vô cùng phong phú, đa dạng và sinh
7
động: nghệ thuật tả cảnh, ngôn ngữ chính xác, gợi cảm khiến hình ảnh quen thuộc trở nên
độc đáo và giọng thơ vừa hồn nhiên, trong sáng lại vừa triết lí, sâu sắc. Tất cả những gì
Trần Đăng Khoa nhắc đến trong thơ không xa lạ, cao siêu mà ngược lại, rất gần gũi, quen
thuộc, thân thương. Gần gũi, quen thuộc đến mức chúng ta không để ý, không nghĩ rằng
trăng, cây lúa, con trâu, con mèo, cánh cò, những đồ vật trong nhà… lại có thể viết thành
thơ với những nét vô cùng độc đáo của nó. Trần Đăng Khoa, với đôi mắt trẻ thơ, với tài
năng thiên bẩm cùng với sự học tập, lao động, sáng tạo nghiêm túc đã viết nên những vần
thơ thật hay. Trải qua gần nửa thế kỉ mà tập thơ của một em nhỏ Trần Đăng Khoa vẫn
được đánh giá là hay, là có ý, có tình. Đây là trường hợp hiếm hoi của nền văn học nước ta
từ trước đến nay.
Với phạm vi nghiên cứu của một khóa luận đại học, chúng tôi xin phép chỉ đi sâu
vào hai vấn đề: nguồn cảm hứng dào dạt làm nên Góc sân và khoảng trời và một số hình
thức biểu hiện đặc sắc làm nên Góc sân và khoảng trời.
2. Những yếu tố hình thành và phát triển hồn thơ Trần Đăng Trần Đăng Khoa
Bất kì một sự thành danh ở lĩnh vực nào cũng phải có sự đóng góp của các nhân tố
khách quan bên cạnh tài năng của chủ thể. Trần Đăng Khoa, sẽ không phải là một trường
hợp ngoại lệ. Vậy, những nhân tố nào đã góp phần hình thành và phát triển hồn thơ Trần
Đăng Khoa, một hiện tượng nổi bật đến mức Trần Đăng Xuyền đã ca ngợi không tiếc lời là
hiện tượng “vô tiền khoáng hậu của nền văn học Việt Nam” ? [14;16].
2.1. Dòng sữa văn học dân gian của quê hương
Tuổi thơ của Trần Đăng Khoa gắn bó máu thịt với thôn Điền Trì, xã Quốc Tuấn -
một làng quê ven bờ sông Kinh Thầy. Chính cái cảnh sắc quê hương với hương đồng gió
nội, tấm chân tình, mộc mạc của những người dân ở nông thôn Bắc bộ đã tạo môi trường
thuận lợi để hồn thơ Trần Đăng Khoa đâm chồi, nảy lộc, đơm hoa, kết trái.
Cũng như bao trẻ em khác, ngay từ khi còn trong nôi, Trần Đăng Khoa đã được
nuôi dưỡng bằng những dòng sữa ngọt ngào của văn học dân gian qua những điệu chèo
Lưu Bình- Dương Lễ, Quan âm Thị Kính…của bà ngoại, qua những lời kể về tích Hoàng
Trừu, Tống Trân - Cúc Hoa… của mẹ. Đặc biệt hơn, mẹ của Trần Đăng Khoa có thể đọc
ngược Truyện Kiều.
2.2. Truyền thống gia đình
Trần Đăng Khoa xuất thân trong một gia đình có truyền thống Trần Đăng Khoa
bảng và văn học. Nguyễn Hà (ông bác của Trần Đăng Khoa) kể: “Có năm, triều Cảnh
Thịnh, trong Lục bộ mà mấy anh em họ Trần - các cụ tổ Trần Đăng Khoa - đã chiếm bốn,
trong đó, cụ Trần Nhuận Minh Phủ là nhà thơ” [8; 217].
Từ đó đến đời cha Trần Đăng Khoa thì không thấy xuất hiện trên văn đàn. Đến đời
Trần Nhuận Minh (anh ruột Trần Đăng Khoa) đã có năng khiếu làm thơ văn nhưng khá
khiêm nhường, bật lên trong thời kì đổi mới mà sau này trong một cuộc trả lời phỏng vấn
với báo chí, Trần Đăng Khoa đã cho đó là một sự “lột xác”. Và đến Trần Đăng Khoa thì
8
đột ngột xuất hiện một giọng thơ mới “hồn nhiên, trong trẻo đến mức khó tin” [14; 16].
Thời ấy, người ta liên tục kéo đến nhà xem cho biết mặt mũi đứa trẻ ấy ra sao, có giống
như người bình thường không. Thậm chí, có một số nhà xuất bản đã cử hẳn người đến nhà
Trần Đăng Khoa trong thời gian dài để kiểm chứng sự thật tài năng của cậu bé Khoa
(Nguyễn Nghiệp đã theo lời Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên đến nhà Trần Đăng Khoa cùng
sống, cùng đi cất vó, câu cá, cùng đến trường, cùng dự các buổi sinh hoạt…và chứng kiến
những vụ sát hạch của các thầy ở ty giáo dục Hải Hưng và các vị khách vãng lai). Rồi tất
cả đều công nhận “thần đồng thơ Trần Đăng Khoa” là sự thật chứ không phải là tin đồn.
2.3. Ảnh hưởng từ các nhà thơ, văn bậc thầy
Một điều may mắn là trong quá trình sáng tác, Trần Đăng Khoa đã được gặp và tiếp
xúc với các bậc thầy văn thơ như: Tố Hữu, Huy Cận, Tô Hoài, Chế Lan Viên,… Những
nhà văn, nhà thơ ấy đã dìu dắt rất tận tình để Trần Đăng Khoa vượt qua sự ấu trĩ mà phát
triển tư duy nghệ thuật, nhanh chóng trưởng thành trong việc sáng tác thơ. Đặc biệt hơn,
ngay từ năm 1968, sau khi gặp nhà thơ Xuân Diệu, Trần Đăng Khoa mới có ý thức được
sự vất vả của việc làm thơ. Đó không phải là một cuộc rong chơi nhàn nhã mà đó chính là
“một công việc sáng tạo cực nhọc, nếu không muốn nói là nghề lao động khổ ải”. Trần
Đăng Khoa đã hiểu đựơc rằng: Thơ cần có tính chân thực nhưng không phải là sự sao chép
nguyên vẹn, thô thiển mà phải được sáng tạo một cách công phu, linh hoạt. Hầu như, các
bài viết của Trần Đăng Khoa đều được nhà thơ Xuân Diệu đọc trước và đóng góp ý kiến.
Trong cuộc đời sáng tác, Trần Đăng Khoa chịu ảnh hưởng sâu sắc của người thầy nghiêm
khắc này.
2.4. Sự động viên, giúp đỡ của gia đình và thầy cô, bạn bè
Từ khi biết đọc, biết viết, Trần Đăng Khoa đã hết sức tận dụng tủ sách của anh Trần
Nhuận Minh. Anh là người rất thích làm thơ, ham đọc sách. Anh đã tạo cho mình một “thư
viện nhỏ” ở trong nhà. Trong “thư viện” ấy, có rất nhiều sách như: Bỉ Vỏ (Nguyên Hồng),
Giông tố, Số đỏ ( Vũ Trọng Phụng), truyện ngắn của A. Sekhov, Đỏ và đen (Stendhal),…
Trần Đăng Khoa đã đọc rất nhiều khi chỉ là học sinh cấp I, II. Bấy giờ, Trần Nhuận Minh
là một thầy giáo, một nhà thơ được nhiều người ngưỡng mộ ở vùng đất mỏ Hồng Gai. Trần
Đăng Khoa rất khâm phục tài năng “xuất khẩu thành thơ” của anh trai mình. Để bù đắp
những cái mình không được như thế, Trần Đăng Khoa đã bí mật làm rất nhiều bài thơ.
Người đầu tiên được thưởng thức thơ Trần Đăng Khoa là bé Thuý Giang. Được anh Trần
Đăng Khoa đọc thơ cho nghe, bé Giang rất thích và cứ đọc đi đọc lại cho bạn bè nghe. Khi
mọi người biết chuyện, hỏi ra thì mới biết những câu thơ đó là của Trần Đăng Khoa.
Và, một trong những nhân tố quan trọng góp phần làm cho thơ Trần Đăng Khoa
ngày một hay hơn chính là nhờ thầy cô, bạn bè. Những người thầy, người bạn này đã hết
lòng động viên, khuyến khích và bình phẩm, sửa chữa thơ Trần Đăng Khoa. Thầy giáo Lê
Thường (1) đã cho rằng chính tập thể đã phát hiện, cổ vũ và bồi dưỡng tài năng thơ Trần
Đăng Khoa.
9
(1) “Vai trò của tập thể thiếu niên xã Quốc Tuấn với năng khiếu thơ văn Trần Đăng Khoa”
(Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 27, tháng 9/ 1973)
2.5. Thời đại kháng chiến chống Mĩ
Một điều không thể thiếu trong những những yếu tố làm nên những trang văn thơ có
giá trị cho đời là yếu tố thời đại mà tác giả đang sống (tất nhiên, tài năng của họ là chủ
yếu). Một Nguyễn Du sống trong xã hội phong kiến nhiễu nhương với những quan niệm
hẹp hòi đã để lại tác phẩm bất hủ là “Truyện Kiều”. Một Hồ Chí Minh trong những ngày
tháng bị giam cầm ở nhà tù Tưởng Giới Thạch chứng kiến nhiều sự bất công tàn bạo đã
viết nên “Ngục trung nhật kí”,… Chúng tôi không dám sánh Trần Đăng Khoa với Nguyễn
Du, Hồ Chí Minh,… mà chỉ muốn nói rằng, hồn thơ Trần Đăng Khoa được hình thành và
phát triển cũng là nhờ một phần vào yếu tố thời đại. Cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mĩ đặt dân tộc ta trước những thử thách gay gắt. Đó là một thời đại mà vận mệnh của
đất nước, tự do và độc lập dân tộc đứng trước nguy cơ một mất một còn. Đó là một thời đại
mà đời sống mà số phận của mỗi người phải gắn chặt với cuộc chiến đấu của dân tộc như
lời của Chế Lan Viên: “Những năm đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt. Nụ
cười tiễn đưa con, nghìn bà mẹ như nhau”. Đó là một thời đại mà với tính chất gay go,
quyết liệt của cuộc chiến đấu chống Mĩ, dân tộc ta phải huy động và phát huy cao độ tất cả
sức mạnh vật chất và tinh thần, phải gắn kết tất cả lại với nhau, không phân biệt tầng lớp,
lứa tuổi, giới tính, tôn giáo,… để tiến hành công cuộc vệ quốc vĩ đại, khẳng định chính
nghĩa, tinh thần và sức sống bất diệt của đất nước và con người Việt Nam.
Trong thời “đất nước đứng lên” như thế, hồn thơ trẻ của Trần Đăng Khoa bỗng vụt
sáng như một hiện tượng lạ chưa từng có trong lịch sử văn học nước nhà. Hồn thơ đó đã
nói lên tiếng nói chung của cả dân tộc, được mọi người đồng tình, ủng hộ và ngưỡng mộ.
Tóm lại, nếu không có những yếu tố như trên thì hồn thơ của Trần Đăng Khoa sẽ
không được hình thành và phát triển. Hoặc là, nếu có hình thành và phát triển cũng không
thể gây được tiếng vang như ngày hôm nay.

10
CHƯƠNG II: GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI - NHỮNG NGUỒN
CẢM HỨNG DÀO DẠT
1. Cảm hứng từ cảnh vật thiên nhiên và hình ảnh người nông dân
Cũng giống như các cây bút thiếu nhi thời kháng chiến chống Mĩ, Trần Đăng Khoa
viết về nhiều đề tài mang âm hưởng thời đại: Lòng yêu mến và tự hào về đất nước anh
hùng, niềm kính yêu Bác Hồ, thương mến bộ đội, căm thù giặc, chán ghét chiến
tranh…Nhưng, khác với các bạn, Trần Đăng Khoa dành sự quan tâm đặc biệt cho cảnh sắc
quê nhà với những bài thơ viết về góc sân, khoảng trời, cánh đồng, dòng sông,… nơi Trần
Đăng Khoa sinh ra và lớn lên để rồi đóng góp thêm cho nền thơ ca Việt Nam một “nhà thơ
mục đồng” (theo Nguyễn Đăng Mạnh). Có thể nói, những bài thơ viết về nông thôn đã góp
phần tạo nên phong cách nghệ thuật của thơ Trần Đăng Khoa ngay từ thuở nhỏ.
Viết về nông thôn Bắc bộ, trước Trần Đăng Khoa đã có các nhà thơ tiền bối:
Nguyễn Khuyến - nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, Nguyễn Bính - nhà thơ chân quê, Anh
Thơ – người đã vẽ nên “bức tranh quê” bằng thơ, Đoàn Văn Cừ - ca sĩ của đồng quê,…
Vậy mà khi đánh giá về thơ Trần Đăng Trần Đăng Khoa viết về làng quê, Nguyễn Đăng
Mạnh đã đặt Trần Đăng Khoa chỉ ở sau tên Nguyễn Khuyến. Nghĩa là, thơ Trần Đăng
Khoa viết về nông thôn được đánh giá cao hơn các nhà thơ còn lại? Ông cho rằng: Những
nhà thơ của phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) viết về nông thôn nhưng thực ra, chỉ mới là
sự vay mượn đề tài, cảm xúc chứ thực tế họ chưa nhập thân vào hiện thực đó. Nhận định
này có phần chủ quan của nhà phê bình. Chúng ta có thể đồng tình hoặc không đồng tình.
Mỗi người có một cảm nhận riêng khi thưởng thức văn học. Người viết nêu ra chỉ để nhấn
mạnh rằng những bài thơ viết về quê hương trong Góc sân và khoảng trời rất chân thực,
chan chứa, dào dạt niềm yêu thương và nghệ thuật cũng không kém phần sắc sảo, dù tác
giả của các bài thơ đó còn rất ít tuổi.
Cảm hứng về quê hương trong tập Góc sân và khoảng trời là cảm hứng về cảnh vật
thiên nhiên và cuộc sống của những người dân lao động nghèo ở nông thôn.
1.1. Cảnh vật thiên nhiên
Đây là mảng đề tài được Trần Đăng Khoa thể hiện nhiều nhất trong thơ mình. Là
một người con được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên Trần Đăng Khoa có tấm lòng yêu
thương, gắn bó sâu nặng đối với thôn Điền trì, xã Quốc Tuấn. Trước khi đi tìm những nét
đẹp của thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa, ta nên biết nhà thơ được mệnh danh là
“thần đồng” đã bắt đầu sự nghiệp sáng tác như thế nào.
Bài thơ đầu tiên của Trần Đăng Khoa là “Con bướm vàng”. Con bướm vàng hiện ra
rất thật và sống động với đôi cánh chập chờn. Lúc ấy, Trần Đăng Khoa đang ngồi đun bếp.
Nhìn thấy cánh bướm, Trần Đăng Khoa đã đuổi theo hệt như một thi nhân xúc động trước
cái đẹp và muốn nắm bắt cho kì được khoảnh khắc tuyệt vời này. Kết quả của việc chạy
theo chú bướm ấy là nồi cơm bị trương, Trần Đăng Khoa bị mẹ mắng. Trần Đăng Khoa chỉ

11
đứng im, không dám bảo là tại làm thơ. Cánh bướm vàng ấy bay là một hoạt động bình
thường như các loài vật khác vận động, bắt mồi,... lại chính là tác nhân khơi dậy một hồn
thơ còn đang ẩn giấu bên trong một thân hình bé con của cậu bé lớp một. Hồn thơ Trần
Đăng Khoa đi lên từ bài thơ đầu tiên “Con bướm vàng” là như vậy đó. Mãi sau này, Trần
Đăng Khoa mới tiết lộ ban đầu viết là “Con bướm vàng – Bay nhẹ nhàng – Trên bờ rào…”
Trần Đăng Khoa thấy gì ghi nấy, hoàn toàn chưa biết thế nào là ý đồ nghệ thuật. Con
bướm vàng chao trên bờ rào là thật chứ không phải là bờ cỏ. Làm gì có “bờ cỏ” ở vườn
nhà. Người dân quê, nhất là những người ở miền Bắc đời sống rất khó khăn, chủ yếu là
trồng trọt nên họ rất quý đất, có miếng nào là tận dụng cho bằng hết, dù chỉ miếng đất cạnh
chân rào, hay ô đất bé bằng bàn tay bên vại nước, không trồng cây thì họ cũng gieo một ít
rau thơm hay rau húng láng.
Từ sự gắn bó, từ lòng yêu thương cảnh sắc thiên nhiên của quê nhà, Trần Đăng
Khoa đã đưa vào thơ mình những hình ảnh hết sức quen thuộc của làng quê Việt Nam. Đọc
thơ Trần Đăng Khoa, không chỉ các em nhỏ mà tất cả chúng ta đều nhận ra sự quen thuộc
ấy. Ở đâu mà chẳng có góc sân, cây trầu, khoảng trời, cánh đồng, cánh cò bay,… Ở đâu mà
chẳng có chẳng có trò chơi thả diều, chọc ếch, câu cá, … Những hình ảnh đó trong cái nhìn
trong trẻo, tinh khiết của trẻ thơ bỗng trở nên có hồn, có thần và đầy chất thơ. Tuy giống
đấy mà lại khác đấy. Khác bởi cảm nhận của mỗi người không ai giống ai. Đối với một số
người, cây bàng, cây dừa, cây lựu, vườn cải hay chiếc máy cày, cái nồi đồng, cây chổi,…
chỉ là những cây, những đồ vật vô tri vô giác. Nhưng đối với Trần Đăng Khoa tất cả là bạn
bè, tất cả đều có hồn, có hành động, tất cả đều ngộ nghĩnh, đáng yêu.
Cảnh sắc làng quê trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại thường được miêu tả
và cảm nhận trong dáng vẻ của làng quê nông nghiệp cổ truyền. Nguyễn Duy đã viết bài
thơ “Hơi ấm ổ rơm” làm cho chúng ta rất xúc động bởi khi đọc lên, từ những dòng thơ tỏa
ra một sự ấm nồng lạ lùng làm cho những ai đang sống ở quê hương thì càng thêm yêu
mến, những ai đang xa quê thì nhớ thương da diết nơi chôn nhau cắt rốn của mình:
Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta,
Riêng cái ấm nồng nàn như lửa.
Cái mộc mạc lên hương của lúa,
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người.
Xuân Quỳnh cũng có cùng cảm xúc như thế trong Cỏ dại:
Trong cuộc đời bình yên tự ngàn xưa,
Gần gũi nhất vẫn là cây lúa.
Trần Đăng Khoa của chúng ta chưa từng trải nghiệm trong cuộc sống nhưng đã có
bài thơ mà nhiều người nằm lòng:
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
12
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy...
(Hạt gạo làng ta)
Không một chút cầu kì mà rất chân thật. Dưới sự khắc nghiệt của khí hậu, những
con vật, cỏ cây như ngừng hoạt động trong khi con người vẫn phải đối mặt:
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy…
Sinh ra và lớn lên ở nông thôn, gắn bó với ruộng đồng nên hơn ai hết, Trần Đăng
Khoa hiểu rằng hạt gạo trong cuộc sống có một vị trí vô cùng quan trọng. Trong những
năm tháng chiến tranh thì giá trị của nó càng tăng lên gấp bội. Để có được hạt gạo, người
nông dân đã rất vất vả, phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Và như đã nói, trong
chiến tranh thì có biết bao người nông dân đang làm đồng đã chết vì bom Mĩ. Thế nên, hạt
gạo “gửi ra tiền tuyến – gửi về phương xa” lại kết tinh thêm tình cảm thiết tha, sâu nặng
của hậu phương đối với tiền tuyến. Tố Hữu khi nhận định về thi ca, đã viết: “Bài thơ hay
làm cho người ta không thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người”. Với bài thơ này, Trần
Đăng Khoa đã làm cho chúng ta cảm nhận được tình người đó. Trần Đăng Khoa đã khiêm
nhường cho rằng bài thơ của mình hay là nhờ được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc.
Không khó khăn để tìm ra những em bé có những câu, những ý như Trần Đăng Khoa viết
“hạt gạo làng ta” nhưng mãi mãi chúng ta sẽ không tìm được ai khác ngoài Trần Đăng
Khoa với câu “hạt vàng làng ta”.
Cánh đồng làng Điền Trì cũng được Trần Đăng Khoa nói đến. Đó là nơi sản xuất,
trồng trọt của xóm làng. Đó là nơi tuổi thơ để mặc cho cánh diều thỏa sức tung bay. Ngày
ngày đứng trước sân nhà nhìn thấy cánh đồng nên nó trở nên quen thuộc với tất cả những
người nơi đây. Riêng Trần Đăng Khoa với giác quan tinh tế, nhạy cảm đã phát hiện:
Cánh đồng làng Điền Trì
Sớm nay sao mà rộng
Sương tan trên mũi súng
Trên sừng trâu cong veo
(Cánh đồng làng Điền Trì)
Trần Đăng Khoa ngạc nhiên trước sự đổi thay cánh đồng bởi sau khi gặt hái xong
thì người dân bắt đầu cấy mạ cho một vụ mùa khác. Từ một cánh đồng chỉ trơ gốc rạ nay
bỗng nhiên tươi màu xanh của mạ trong sương sớm chưa tan. Hình ảnh đơn sơ làm sao mà
cũng đẹp làm sao. Trong con mắt yêu thương thì tất cả sự vật đều trở nên đáng yêu, cho dù
sự vật đó đối với người khác là bình thường.
13
Bên cạnh góc sân, cánh đồng thì dòng sông Kinh Thầy là nơi Trần Đăng Khoa hết
lòng thương mến. Chính dòng sông này đã tắm mát cho Trần Đăng Khoa. Chính dòng sông
này đưa nước vào tưới mắt cho đồng ruộng, cây trái. Sông Kinh Thầy trong thơ Trần Đăng
Khoa có “Hàng chuối lên xanh mướt – Phi lao reo trập trùng”. Vậy thôi, nhưng người đi
xa vẫn nhớ hoài, vẫn mong có ngày được trở về đi dọc bờ sông, vùng vẫy trong dòng nước
mát như thuở ấu thơ.
Thiên nhiên trong thơ Trần Đăng Khoa còn có cả thế giới loài vật, đồ vật. Chúng
hiện ra với một dáng vẻ vô cùng sinh động, đáng yêu. Trần Đăng Khoa có thể trò chuyện
thân mật với con trâu – người bạn vô cùng thân thiết của nông dân:
Trâu ơi, ăn cỏ mật
Hay là ăn cỏ gà
Đừng ăn lúa đồng ta…
Trâu ơi, uống nước nhá…
Trâu cứ chén cho no
Ngày mai cày thật khỏe
Đừng lo đồng nứt nẻ…
(Con trâu đen lông mượt)
Những con vật trong thơ của một em bé đều có những nét đáng yêu: con mèo (Đánh tam
cúc), con gà (Nói với con gà mái, Ò ó o…), con chó (Sao không về Vàng ơi), chim (Tiếng
chim chích chòe, con chim hay hót),... Trong bài Buổi sáng nhà em, tất cả hiện lên thật sinh
động trong cái nhìn và sự liên tưởng của trẻ thơ. Mèo dậy rửa mặt trong tư thế hết sức đỏm
dáng “cái tay rửa mặt, cái đầu nghiêng nghiêng”. Cái Na, cu Chuối nghịch ngợm đứng vỗ
tay cười. Chị Tre “chải tóc bên ao”, nàng Mây thì “ghé vào soi gương” trong khi bà Sân đã
“vấn chiếc khăn hồng đẹp thay” từ khi “Ông trời nổi lửa đằng đông”.
Con người và sự vật gắn bó, giao hòa với nhau, cùng nhau bắt đầu ngày mới. Không
chỉ riêng nhà Trần Đăng Khoa mà mọi nhà đều như thế, tất cả tạo nên một không khí nhộn
nhịp, sôi động. Bài thơ mang đậm nét hồn nhiên, trẻ thơ đã làm cho chúng ta vừa đọc vừa
nở nụ cười trên môi. Cười vì không ngờ sự liên tưởng, ví von của một em nhỏ lại hay và
đúng bản chất của sự vật như thế. Cười vì đọc bài thơ này ta như sống dậy một cảm giác
yêu mến cuộc sống lạ lùng. Chợt nhận ra những ngây thơ, hồn nhiên của tuổi thơ đã rơi rớt
trên bước đường ta tìm kiếm công danh, địa vị. Tự nhủ lòng sáng mai sẽ dậy sớm để lắng
nghe âm thanh của cuộc sống…
Hình ảnh con cò từ lâu đã được thơ ca Việt Nam biểu hiện như là một dấu hiệu về
làng quê nông nghiệp với những con người lam lũ, vất vả nơi đồng ruộng mà hồn hậu,
trắng trong. Trong cảm nhận của Trần Đăng Khoa, con cò có lúc hư ảo như trong ca dao
thần thoại:
Xưa mẹ ru em
Cũng tiếng võng này
14
Cánh cò trắng muốt
Bay - bay - bay - bay...
(Tiếng võng kêu)
Nó cũng đáng thương, nhỏ bé trước cuộc đời:
Trong giấc mơ em
Có gặp con cò
Lặn lội bờ sông
(Tiếng võng kêu)
Nhưng con cò ở đây có thêm những nét mới. Nó “đánh nhịp bay vào bay ra” như
những “chớp trắng trên sông Kinh Thầy”. Nó không còn đơn côi một mình trong đêm tối
mà trong bầy đàn, trong số đông và xuất hiện vào ban ngày, trong nắng đẹp của trời quê
yên ả. Và nếu trước kia tác giả dân gian thấy “con cò đi đón cơn mưa” trong “tối tăm mù
mịt” với vẻ cam chịu, thụ động, mệt mỏi, chẳng biết “ai đưa cò về” thì đối với Trần Đăng
Khoa:
Con cò
Trắng muốt
Bay ra đón cơn mưa...
Mừng đón cơn mưa
(Con cò trắng muốt)
Với một thái độ chủ động, tự tin, những con cò này trở thành tượng trưng cho tư thế
cứng cỏi, dũng cảm, cho tâm hồn trong trắng, thanh cao và ngay thẳng của con người, làng
quê Việt Nam đang vượt lên trên những thử thách khắc nghiệt. Nó góp phần làm cho thiên
nhiên ở làng quê Việt Nam tự ngàn xưa đã đẹp, hữu tình nay càng thêm đẹp, thêm hữu tình
hơn.
Đối với người lớn, thiên nhiên được miêu tả và cảm nhận chủ yếu bằng kinh
nghiệm, bằng lí trí và đôi lúc là cảm nhận bằng tâm trạng, nỗi niềm riêng của mình. Còn
trẻ con thì không thế. Đối với chúng, thiên nhiên chứa đựng những điều kì diệu, bí ẩn, thú
vị và chúng rất muốn chiêm ngưỡng, khám phá. Chính thiên nhiên với tất cả sự phong phú,
đa dạng của những sự vật đã giúp cho trẻ em nhận thức, hình thành tư duy và từ đó phát
triển trí tưởng tượng, làm giàu tâm hồn của các em.
Các em sáng tác một cách ngẫu hứng, không chủ ý, không theo một đề tài nhất định.
Hãy đọc một số bài thơ của các em nhỏ, ta sẽ nhận ra một điều trùng hợp ngẫu nhiên là các
em miêu tả rất nhiều về thiên nhiên. Bên cạnh việc miêu tả, các em cảm nhận được sự thay
đổi của cảnh vật, thời tiết cho dù sự thay đổi đó rất nhỏ mà đôi khi chúng ta không để ý
đến.
Ánh trăng được Trần Đăng Khoa nhắc đến rất nhiều trong thơ mình (hơn 10 lần).
Trẻ em ở nông thôn ngày ấy rất thích chơi trước sân nhà vào những ngày trăng sáng. Các
trò chơi mang đậm tính dân gian: xỉa cá mè, mèo đuổi chuột,… Với Trần Đăng Khoa,
15
trăng không chỉ là một người bạn thân thiết cùng em chơi, chia sẻ bao điều suy nghĩ mà
còn là một người bạn thơ. Vẻ đẹp của trăng làm cho mọi vật như lặng đi:
Hàng cây cau lặng đứng
Hàng cây chuối đứng im
Con chim quên không kêu
Con sâu quên không kêu
Chỉ có trăng sáng tỏ
Soi rõ sân nhà em…
(Trăng sáng sân nhà em)
Thực ra, chính Trần Đăng Khoa người đứng lặng trước ánh sáng huyền diệu ấy.
Trong tư thế đó, Trần Đăng Khoa cảm giác như tất cả mọi vật xung quanh cũng đều như
thế. Ánh trăng mênh mông, bát ngát như rải thảm xuống nhân gian làm rung động một tâm
hồn bé nhỏ. Không chỉ có một lần mà còn nhiều lần khác nữa: Tiếng đàn bầu và đêm
trăng, Trông trăng, Trăng ơi… từ đâu đến... Trăng gợi cho Trần Đăng Khoa biết bao liên
tưởng, so sánh, mỗi liên tưởng, so sánh là một điều bất ngờ, thú vị, ngộ nghĩnh mà lại rất
hợp với trẻ con:
Trăng như cái mâm con
Ai treo ông cao thế
Ông nhìn đàn em bé
Muốn khoe cái mặt tròn
(Trông trăng)
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ trước sân nhà…
Trăng tròn như mắt cá
Không bao giờ chớp mi
Trăng bay như quả bóng
Bạn nào đá lên trời…
(Trăng ơi… từ đâu đến)
Đó là những lúc trăng tròn. Còn khi trăng khuyết thì:
Ông trăng cười những lợi
Răng chẳng chiếc nào còn
(Trăng đầu tháng)
Không chỉ có trăng mà tất cả cảnh vật ở làng quê ấy đều gợi cho chúng ta một cảm
giác thanh thản, bình yên khi đọc lên những vần thơ được viết từ tâm hồn tinh tế, nhạy
cảm, sâu sắc của Trần Đăng Khoa. Nhà thơ nhỏ này không chỉ quan sát mà còn hòa lòng
mình với thiên nhiên nên lắng nghe được mọi âm thanh, phát hiện được sự vận động của
sự vật như trong bài Chớm thu:
Nửa đêm nghe ếch học bài
16
Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây
Nghe trời trở gió heo may
Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau.
Dường như thời khắc nửa đêm gây cho người ta niềm xúc động mạnh mẽ. Lúc này
con người sẽ được trở về sống với chính mình chứ không phải cho kẻ khác. Và, chỉ những
người nào có những nỗi niềm, trăn trở mới phải thức đến lúc này. Chú bé Trần Đăng Khoa,
có lẽ, chỉ giật mình thức giấc nhưng trong cái se lạnh của gió heo may cùng tiếng mưa khẽ
rơi và hương thơm thoang thoảng của hoa cau đã không tài nào ngủ tiếp được. Cảnh vật
thiên nhiên đã không vận động, biến đổi một mình mà còn có một con người bé nhỏ đang
lặng theo dõi. Nằm trong nhà mà nghe được nhiều sự vật như thế, hẳn không chỉ Trần
Đăng Khoa có thính giác tinh nhạy mà chính là nhờ vào vốn hiểu biết của mình. Kiểu mưa
nhẹ nhàng điểm xuyết thêm cái rét mướt của gió heo may báo hiệu một mùa Đông sắp đến
chỉ có ở đồng bằng Bắc bộ mà thôi. Một bài thơ ngắn nhưng nắm bắt được khoảnh khắc
tuyệt vời của đất trời. Em nhỏ sống ở miền Nam không thể viết được những câu thơ như
thế.
Trần Đăng Khoa còn nghe được rất nhiều âm thanh mà không phải ai cũng nghe
được nếu như không có sự tinh nhạy của giác quan, đặc biệt là tâm hồn yêu thiên nhiên sâu
đậm:
Tiếng sương đọng mật
Đọng mật trên cành tre
Nghe ri rỉ tiếng sâu
Nó đang thở cuối tường
Nghe rì rầm rặng chuối
Há miệng đòi uống sương
(Nửa đêm tỉnh giấc)
Đọc những câu như thế, chúng tôi không thể không xuýt xoa bởi phát hiện tinh vi
của Trần Đăng Khoa và tự nhủ: Thì ra giọt sương, rặng chuối, sâu cũng có âm thanh nữa
đấy. Nhưng chắc gì chúng ta nghe được nếu không có một tâm hồn như Trần Đăng Khoa.
Cái tài, cái tình của Trần Đăng Khoa còn thể hiện ở việc cảm nhận được một âm thanh mà
mình không thể gọi tên, và không biết có thực hay không:
Một tiếng gì không rõ
Xôn xao cả đất trời…
Sẽ không quá lời khi Dương Thu Hương đã mượn lời của Pautôpxki nhận xét về
Anđecxen để nói tâm hồn nhạy cảm của Trần Đăng Khoa: “ Có tài nhìn thấy trong đêm tối
tiếng quang xa của tường vi giống ánh lấp lánh của đêm trăng, (…) có tai nghe thấy tiếng
càu nhàu của một gốc cây bị dẫn lưu cữu trong rừng” [11;110].
Nếu như ở bài Chớm thu và Nửa đêm tỉnh giấc, tác giả đã gợi cho chúng ta một
không gian, thời gian thật thơ mộng, bình yên của làng quê thì ở bài Ò ó o… là một cảnh
17
ồn ào, náo nhiệt của làng quê vào buổi sớm: Tiếng gà – Giục quả na – Mở mắt – Tròn xoe
- Giục hàng tre – Đâm măng – nhọn hoắt – Giục buồng chuối – Thơm lừng – Trứng cuốc –
Giục hạt đậu – Nảy mầm – Giục bông lúa – Uốn câu – Giục con trâu – Ra đồng – Giục
đàn sao – Trên trời – Chạy trốn,… Tất cả như hối hả, như bừng tỉnh sau một giấc ngủ.
“Tiếng gà đánh tan âm khí nặng nề, ở hoàn cảnh nước ta đang có giặc Mĩ xâm lược…”
(Một em nhỏ làm thơ – Xuân Diệu). Tiếng gà như một hiệu lệnh báo hiệu cho một ngày
mới bắt đầu, sự vật thì sinh sôi, nảy nở, chuyển đổi liên tục còn con người thì lao động sản
xuất phục vụ cho công cuộc vệ quốc vĩ đại. Nhịp điệu bài thơ thật sôi nổi, rộn ràng như
chính cuộc sống của những năm tháng chống Mĩ “tất cả tất cả cho tiền tuyến”.
Người đọc thích và khen ngợi thơ Trần Đăng Khoa không chỉ ở cách miêu tả thật
hay, chân thật mà còn ở chỗ các sự vật đều có hồn, đều biến chuyển, vận động như con
người. Trẻ em thường lầm tưởng những điều chúng trông thấy thực sự và những điều
chúng tưởng tượng từ thực tế ấy. Bởi thế, thơ của chúng miêu tả về sự vật vừa quen mà
cũng vừa lạ lùng, ngộ nghĩnh, đáng yêu. Những chuyển đổi âm thầm của vạn vật được
Trần Đăng Khoa cảm nhận một cách tinh tế: trời trở gió heo may, sắp mưa, tiếng gió trở
mình trăn trở trong đêm thu, nhịp thở của cái ngõ nhỏ, tiếng sâu, tiếng hạt sương đọng mật,
“tiếng cây lách cách đâm chồi” và tuyệt vời hơn nữa là tiếng rơi của chiếc lá đa “tiếng rơi
rất mỏng như là rơi nghiêng”. Câu thơ này đã được mọi người hết lời khen ngợi. Nghiêng
gợi tả hình dáng nhiều hơn nên khi mới đọc ta cứ nghĩ rằng người viết đã trông thấy chứ
không phải nghe thấy.
Đọc thơ Trần Đăng Khoa, ta như được sống với những hình ảnh dung dị nhất về
một miền quê yên bình, ấm áp tình người. Tất cả những sự vật, sự việc, con người dưới
con mắt trẻ thơ thông minh, đầy sáng tạo đã đi vào thơ đong đầy kỉ niệm. Một phút đứng ở
bờ ao nhìn hoa khế rụng, nghe tiếng chim hót, một lần sang nhà bạn thấy chú bù nhìn, một
mầm hoa dại ven đường,… cũng gợi cho Trần Đăng Khoa niềm thương mến thiết tha. Tất
cả hồn quê được Trần Đăng Khoa lưu giữ bằng thơ để những ai mỗi khi nhớ quê hương
đọc lên cảm thấy mình đã tìm được một đồng hương, một tri âm.
Viết về thiên nhiên thành công như thế, phải thừa nhận rằng bên cạnh tâm hồn, tài
năng của mình Trần Đăng Khoa còn học tập rất nhiều từ văn học dân gian và các nhà văn,
nhà thơ bậc thầy. Những học tập đó được vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo. Trong bài
Đám ma bác Giun ta thấy thấp thoáng hình bóng ca dao:
Con cò mắc dò mà chết
Mẹ con bìm bịp đổ thóc nếp ra xay
Cà cuống uống rượu la đà
Con cóc, con ngóe nhảy ra chia phần
Từ nhà văn Tô Hoài, Trần Đăng Khoa đã học để viết “Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt
râu” (Gửi bạn Chi-lê) dựa vào “Dế mèn phiêu lưu kí” và “Hạt mẩy uốn cong – Chim ngói
bay theo đàn” dựa vào đoạn văn “Tháng năm chim gáy đi ăn đôi, tháng mười chim gáy về
18
theo đàn”. Từ nhà văn Anđecxen, Trần Đăng Khoa viết “Chim co chân ngủ - Lim dim cành
tre” dựa vào hình ảnh con cò “đứng một chân vững ra phết”, “Cô gió chăn mây trên đồng”
dựa vào hình ảnh của cô bé chăn cừu trong truyện. Từ nữ sĩ Anh Thơ, Trần Đăng Khoa
viết “Bố em đi cày về - Đội sấm – Đội chớp – Đội cả trời mưa” dựa vào bài Chiều xuân:
“Ngoài đường lội, một vài người về chợ - trĩu gánh hàng như trĩu cả quang mưa”.
1.2. Hình ảnh người nông dân
Bên cạnh thiên nhiên thì con người cũng được Trần Đăng Khoa miêu tả chân thực,
sinh động. Chủ yếu là những người nông dân với đời sống nhọc nhằn, vất vả mà tâm hồn
trong trắng, mộc mạc và giàu nghĩa tình.
Người nông dân mà Trần Đăng Khoa gần gũi và yêu thương nhất chính là bố mẹ
của mình. Là con nhà nông, Trần Đăng Khoa am hiểu tường tận công việc bố mẹ làm hàng
ngày. Những vần thơ em viết về bố mẹ cũng chính là viết về người nông dân nói chung ở
quê hương mình.
Hạt gạo làng ta như một khúc hát yêu thương, ca ngợi những người nông dân. Ai
cũng biết rằng để có được hạt gạo thì người nông dân phải làm lụng rất vất vả: “ Giọt mồ
hôi sa – Những trưa tháng sáu –Nước như ai nấu – Chết cả cá cờ - Cua ngoi lên bờ - Mẹ
em xuống cấy…”. Ta thấy có sự đối lập giữa hai hình ảnh Cua ngoi lên bờ và Mẹ em xuống
cấy. Từng nhánh mạ tươi non, thẳng đều tăm tắp đều có giọt mồ hôi của mẹ nhỏ xuống.
Người viết sống ở miền Nam, quanh năm đối mặt với cái nóng cứ ngỡ rằng miền Bắc cũng
chẳng hơn gì. Nhưng khi đọc bài Ao nhà mùa hạn mới biết mình đã sai:
Mùa mưa mà mưa chẳng đến
Đáy sâu nẻ toác khi nào
Rêu nằm mơ những sấm sét
Rồi khô trên cọc cầu ao…
Cái nắng như muốn hủy diệt tất cả. Rêu là loại thực vật dễ sống, chỉ cần không khi
hơi ẩm cũng đủ để chúng tồn tại. Thế nhưng thời tiết khắc nghiệt, mưa chỉ còn là niềm mơ
ước. Và chúng đã chết khô. Trong khi đó con người, nhất là người nông dân vẫn phải ra
đồng lao động. Người đọc như được Trần Đăng Khoa truyền sang nỗi thấm thía, xúc động
mạnh mẽ xen lẫn cảm thông, biết ơn những con người ngày đêm lao động, cống hiến thầm
lặng cho cuộc sống này. Những câu thơ “chạm vào bản chất của nông dân quê hương”
[14; 19]. Giọt mồ hôi gợi cho ta liên tưởng đến câu ca dao:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Nếu như mẹ em đứng cấy bất chấp cả cái nắng gay gắt, dữ đội của mùa hè Bắc bộ
thì bố em là người hùng trong cơn mưa: “Bố em đi cày về - Đội sấm – Đội chớp – Đội cả
trời mưa…”. Bức chân dung của người nông dân không bị mưa gió làm nhạt nhòa mà ngời
sáng như một tâm điểm của đất trời. Nắng mưa hay thậm chí là những thiên tai nào khác là
điều mà người nông dân phải chống chọi, phải vượt qua. Sức mạnh của họ không phải là
19
sức mạnh thần thánh mà chính là sức mạnh đã trải qua những năm tháng lao động vất vả
cùng với niềm tin bất diệt: Cuộc kháng chiến của dân tộc ta sẽ chiến thắng, đất nước ta sẽ
thống nhất hoàn toàn. Niềm tin đó là động lực thúc đẩy họ lao động và chiến đấu trong lạc
quan. Trên cánh đồng lúc nào cũng có tiếng nói, tiếng cười:
Nơi này mấy bác cày
Đâu nghiêng nghiêng chiếc nón…
Nơi kia là mấy chị
Thì thòm tát gầu dai…
Nơi ấy mấy cô cấy
Ngửa tay phí mặt trời
Mạ bén hàng thẳng đứng
Hồn nhiên trong tiếng cười
(Cánh đồng làng Điền Trì)
Đời sống tinh thần của người nông dân rất đơn giản, bình dị. Niềm vui của họ là
niềm vui được lao động, được cống hiến, được gặt hái những bông lúa vàng tươi sau một
vụ mùa:
Chị chủ nhiệm rũ rơm
Anh dân quân đập lúa
Thóc nở bung như sao
Nhuộm vàng cả trời sao.
(Thôn xóm vào mùa)
Trần Đăng Khoa viết nhiều về người nông dân không chỉ trên đồng ruộng mà còn
trên sông nước, trong các công việc kiến thiết nước nhà. Đó là bác chài ngồi “buông câu
trong bóng chiều” (Bên sông Kinh Thầy). Đó là các chị đi sửa đường hò vang theo từng
vòng bánh xe lăn trên đường (Chiếc ngõ nhỏ). Đó là các chị thanh niên xung phong (Đi tàu
hỏa). Đó là bác kéo xe chở vật liệu về xây dựng trường học (Lọc cà lọc cọc)… Người nông
dân trong thơ Trần Đăng Khoa là con người mới, tuy vất vả, khó nhọc nhưng năng động và
yêu đời, say mê nghệ thuật khác hẳn người nông dân lầm lũi trong ca dao xưa. Miền Bắc là
cái nôi văn hóa nghệ thuật, người dân xem sân khấu và âm nhạc là hơi thở, là lẽ sống của
mình. Thế nhưng kẻ thù đến, mang theo bom đạn ngày đêm gào thét. Tiếng đàn, tiếng hát,
những tuồng chèo,… bỗng trở nên quý báu, là niềm khao khát của con người Việt Nam.
Những khi đoàn văn công đến làng thì vui như hội. Tất cả bà con đều tập trung quanh các
anh văn công Quân giải phóng để lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát:
Chị dân quân lái máy cày
Ngón chân cái vết bùn non còn lấm
Cụ già mấy lần tiễn cháu con ra trận
Đông nhất là trẻ em lên chín, lên mười
Trong tiếng đàn bầu
20
Tất cả bỗng thành thi sĩ
(Tiếng đàn bầu và đêm trăng)
Cũng có khi làng tự tổ chức đêm văn nghệ. Thế là những nông dân lam lũ hàng
ngày bỗng trở thành diễn viên. Họ đã sống hết mình với vai diễn:
Kìa cô Thị Mầu lên chùa
Đỏng đảnh dáng đi, mắt liếc
Ngắm cái tay cô phẩy quạt
Tưởng mình sống đã trăm năm
(Cô Thị Mầu)
Những người xem cũng chỉ biết có cô Thị Mầu đỏng đảnh:
Người xem thoáng như quên chị
Chiều nay gánh lúa trên đồng
Tảo tần nuôi em, nuôi mẹ
Mười năm ròng rã chờ chồng…
Cả cuộc đời gắn bó với ruộng đồng, với lũy tre làng, cây đa, bến nước… nhưng khi
đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng lên đường chiến đấu, không một chút đắn đo, do dự. Hình
ảnh chú dế mèn điềm nhiên vuốt râu (trong Gửi bạn Chi-lê) là tư thế của người nông dân
ung dung, sẵn sàng ra chiến trường chiến đấu bảo vệ từng tấc đất, ngọn rau cho quê hương,
đất nước mình. Để rồi có người ngã xuống ở vùng đất xa xôi nào đó của Tổ quốc, có người
trở về với thân thể không còn nguyên vẹn, lại tiếp tục làm bạn với cái cuốc, cái cày, con
trâu, tiếp tục lao động, tiếp tục cống hiến. Ở thời kì sau (1975 đến nay), thơ của các em
thiếu nhi vẫn viết về thiên nhiên, về con người, nhất là những người thân xung quanh mình
nhưng không có được cái không khí khẩn trương, sôi nổi như Trần Đăng Khoa và các bạn
của mình đã viết trong thời đại kháng chiến chống Mĩ.
Tình cảm của con người và cảnh vật nơi đồng ruộng được Trần Đăng Khoa thẩm
thấu và đưa vào bài Khi mùa thu sang. Cảnh vật không lạ nhưng ăm ắp tình làm cho Trần
Đăng Khoa muốn kêu to lên “Thu sang rồi đấy! Thu sang!”. Chúng tôi nghĩ, thơ hay
không chỉ ở các con chữ đọc lên nghe mượt mà, êm dịu mà cốt ở cái tình của tác giả đối
với đối tượng được thể hiện. Nếu tác giả không xúc động, không có cái tâm mà chỉ muốn
phô diễn sự lạ thì làm sao có thể thổi hồn vào các con chữ được? Chúng tôi rất tán đồng ý
kiến cho rằng Trần Đăng Khoa đã sáng tác “không chỉ bằng tâm hồn của một cậu bé lớn
lên cùng những trò chăn trâu, thả diều, bắt cá mà thực sự còn bằng máu thịt của người
nông dân” [5; 153]. Ai đã hòa nhịp thở của mình với từng thay đổi rất nhỏ của của vạn vật
mới có thể cảm nhận được: “Mùi bùn đang ngấu – Mùi phân đang hoai – Vôi chưa tan hẳn
- Còn hăng rãnh cày…” để rồi say sưa, ngây ngất: “Trời đất đêm nay – Như chim mới hót
– Như rượu mới cất – Như mật mới đong… Thịt da ta cũng – Tỏa hơi ruộng đồng…”
(Hương đồng). Thiên nhiên và con người hòa làm một:
Đất trời cách một gang mây
21
Và tôi cùng với luống cày tỏa hương…
(Đồng chiều)
2. Cảm hứng từ những người thân yêu
Khi bàn về thơ thiếu nhi, giáo sư Vân Thanh cho rằng: “Tình cảm gia đình trong thơ
các em viết chưa nhiều. Thực ra lỗi không phải ở các em. Các em làm thơ vì một nhu cầu
tự nhiên của tâm hồn, những gì các em không sống, không biết hay chưa thể nghiệm sâu
thì các em chưa nói đến” [17b; 50]. Đối với Trần Đăng Khoa thì khác. Bên cạnh thiên
nhiên, cuộc sống lao động ở nông thôn và những tình cảm đối với Bác Hồ, bộ đội thì Trần
Đăng Khoa viết khá nhiều về người thân của mình. Những người gắn bó với Trần Đăng
Khoa nhất thì phải nói đến: Bà, bố mẹ, anh Minh, bé Giang và cháu bé Minh Hà (gọi Trần
Đăng Khoa bằng chú). Tất cả những người này đã góp phần hình thành và nuôi dưỡng hồn
thơ Trần Đăng Khoa.
Trong cả tập thơ chỉ có một bài Mưa là Trần Đăng Khoa viết về bố. Điều này không
có nghĩa là Trần Đăng Khoa không yêu bố mà là một hiện tượng tâm lí bình thường.
Người bố cho dù có thương con mức nào cũng ít thể hiện, vẻ ngoài thường lạnh lùng,
nghiêm khắc. Thế nên, trong ca dao dân ca hay trong văn học viết cũng ít đề cập đến bố.
Trong khi đó, mẹ là cảm hứng vô tận của thơ, nhạc, họa…Trong các loại hình nghệ thuật
đó, mẹ được ví với cái cao cả, lớn lao như sông dài, như biển rộng, như núi cao,… Trần
Đăng Khoa viết về mẹ không như những người lớn đã viết. Bằng tấm lòng yêu thương tha
thiết, Trần Đăng Khoa nhận thức được những vất vả, gian lao mà mẹ phải trải qua từ khi
cưu mang con cho đến khi con trưởng thành. Mẹ của Trần Đăng Khoa là hình ảnh của
những bà mẹ trong các cuộc kháng chiến. Hạt gạo làng ta làm bao người xúc động về tính
chân thật, sức gợi cảm của từ ngữ qua hình ảnh người mẹ phải đối mặt với cái nắng hè như
đổ lửa trên lưng, phải ngâm chân trong “nước như ai nấu” để cấy mạ, để làm ra hạt gạo
làng ta. Trần Đăng Khoa còn nhận thức được những vất vả của mẹ:
Áo mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc
Mẹ ngày đêm khó nhọc
Đó là nguyên nhân sâu xa làm cho “mẹ ốm”:
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan
Hiểu được điều đó nên Trần Đăng Khoa luôn chăm chỉ làm các công việc nhà để bố
mẹ đỡ mệt nhọc. Thực tế thì Trần Đăng Khoa đã làm rất nhiều việc: luộc khoai, thổi cơm,
nhổ cỏ vườn, quét sân (Khia mẹ vắng nhà), ru em ngủ (Tiếng võng kêu),… Những việc
làm tuy nhỏ nhưng đã thể hiện lòng yêu thương của một đứa con hiếu thảo. Hơn thế, Trần
Đăng Khoa còn làm nhiều trò khi Mẹ ốm:
Ngâm thơ, kể chuyện rồi thì múa ca
Rồi con diễn kịch giữa nhà
22
Một mình con sắm cả ba vai chèo
Trần Đăng Khoa không nói nhưng người đọc đều rưng rưng xúc động và thấy được
nụ cười hạnh phúc của người mẹ đang ốm khi đứa con quỳ bên giường bệnh mà nói:
Vì con mẹ khổ đủ điều…
Mẹ là đất nước, tháng ngày của con…
Anh Minh là người mà Trần Đăng Khoa rất ngưỡng mộ tài “xuất khẩu thành thơ”.
Trong tập thơ có bài Nhận thư anh diễn tả nỗi vui mừng đến nỗi bàn tay bóc thư mà “ngón
tay cứ ríu vào nhau” của Trần Đăng Khoa. Tuy anh ở xa, khá lâu mới về thăm nhà nhưng
tình cảm của Trần Đăng Khoa dành cho anh rất sâu đậm. Anh Minh không chỉ là anh mà
còn là người bạn, là thầy giáo đã bồi dưỡng cho Trần Đăng Khoa từ những quyển sách
trong “thư viện nhỏ” mà anh mua từ đồng lương giáo viên ít ỏi của mình. Anh chữa giúp
Trần Đăng Khoa bài thơ, góp ý để thơ Trần Đăng Khoa ngày càng hay hơn. Sau này khi
trưởng thành nhà thơ Trần Đăng Khoa có làm bài thơ Gửi bác Trần Nhuận Minh được mọi
người đánh giá cao. Trải qua bao bộn bề cuộc sống nhưng tình nghĩa anh em không bao
giờ phai nhạt. Trong bài thơ đó, hay nhất là ước muốn:
Thung thăng em với bác
Ta cưỡi thơ ra đồng.
Ngoài ra, người bà cũng được Trần Đăng Khoa nhắc đến với tất cả lòng kính yêu.
Không chỉ riêng Trần Đăng Khoa mà hầu như tất cả trẻ nhỏ đều như thế. Người gần gũi
nhiều nhất với trẻ nhỏ trong nhà không phải là bố mẹ mà chính là bà. Niềm vui của bà là
được chăm sóc, nuôi nấng những đứa cháu thơ. Nếu hình ảnh người mẹ đẹp hơn khi gắn
liền với sự vất vả, lo toan thì hình ảnh bà cũng như thế khi gắn với việc chăm sóc, lo lắng,
dạy dỗ cho cháu. Với bà, những việc cỏn con hàng ngày đều mang một bài học nhân sinh:
“ Cái gai làm rách áo - Đừng giận nó cháu ơi - Nó cho cháu ý tứ - Những khi đi, khi ngồi”
(Cái gai). Khi cháu nhè, ông bà sẵn sàng làm mọi cách để cháu vui: “Ông làm rồng rắn
giữa sân - Lượn tròn, bà uốn dẻo chân - cháu cười”. Bài thơ làm người đọc cảm động nhất
là Bà và cháu. Trần Đăng Khoa hiểu tất cả nỗi cơ cực mà bà của Hương đã gánh chịu từ
khi còn trẻ đến khi tóc bạc. Ông và bố của Hương lần lượt hi sinh trong cuộc kháng chiến,
để lại “Cái vành tang cho bà - Vết nhăn hằn sâu mãi - Và hắt hiu tuổi già”. Niềm an ủi duy
nhất của bà là bé Hương. Có bé Hương, bà như được tiếp thêm sinh lực để vui sống:
Bà vẫn vui công việc
Chả lúc nào ngơi tay
Khi bà thăm trận địa
Lúc bà trồng hàng cây (…)
Bà vẫn nuôi bộ đội
Suốt hăm mấy năm trời (…)
Không chỉ riêng một mình bà của Hương mà đó là hình ảnh của những bà mẹ Việt
Nam trong kháng chiến. Những người thân yêu nhất của mình lần lượt ra đi rồi sau đó
23
được mấy người trở về. Nhưng, bằng tất cả ý chí và nghị lực phi thường họ vẫn sống và
sống một cách ý nghĩa.
Bên cạnh bà, đứa cháu vẫn vô tư với những suy nghĩ non trẻ của chúng. Chúng
thắc mắc đủ điều mà không phải bao giờ người lớn cũng giải thích được “Chú ơi trăng già
thế - Sao bà bảo trăng non?” (Trăng đầu tháng), “Biển đen màu mực ai mài” (Hạ Long)
hay “Đường nhăn hằn sâu khuôn mặt - Phải vết roi không, bà ơi? ” (Chuyện của Bà).
Cũng cảm hứng này Trần Đăng Khoa nêu được một điều phi lí, trong khi mọi cái đều có
thể trở về sau ngày kí hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam:
Mây trắng về với sắc trời xanh
Hương về với hoa tươi quả ngọt
Chồi biếc nảy sinh về vườn tược
Nụ cười về mặn chát làn môi…
Hòa bình về da lành non vết đạn
Thì bà “lại chẳng bao giờ về lại mái tóc xanh”… nên Trần Đăng Khoa đã dặn cháu Minh
Hà:
Nhưng đừng hỏi, cháu ơi,
sao đầu bà bạc trắng
(Nói với cháu)
Bé thơ có những hành động hết sức dễ thương do chúng cố tình bắt chước cử chỉ,
điệu bộ của người lớn và những sự vật xung quanh. Bé Hà khi thì nhại dáng đi của bà trông
ngô nghê làm người đọc buồn cười, khi thì làm đủ kiểu như đang chụp ảnh. Cháu bé Minh
Hà của Trần Đăng Khoa mới tí tuổi đầu đã biết thế nào là bom đạn và còn “dạy” chú Trần
Đăng Khoa:
- Chú ơi, nếu còn bom Mĩ
Chú phải bịt tai thế này
Cháu bỗng xoay ngang trên ghế
Như vừa có tiếng máy bay
Đôi khi chính bản thân trẻ con cũng tự rút ra cho mình bài học:
Muốn giữa đường không đổ
Phải vượt lên cho đều…
(Bé Giang tập xe đạp)
Trong thơ Trần Đăng Khoa, những em bé trong thời chiến vẫn có những nét hồn
nhiên, ngây thơ của lứa tuổi chúng và cũng có những “kinh nghiệm, những suy nghĩ già
dặn so với tuổi. Chúng biết cách ngụy trang trên đường đến trường, biết cách tự chăm sóc
cho mình, biết cách tạo ra những trò chơi cùng các con vật nuôi trong nhà khi không còn ai
khác.
Ngoài tình cảm dành cho những người thân trong gia đình, Trần Đăng Khoa còn
có những bài thơ viết tặng cho các nhà thơ, nhà văn - những người thầy đã dạy bảo, dẫn dắt
24
Trần Đăng Khoa từ những bước đi đầu tiên trên con đường nghệ thuật chông gai: Nếu chú
ý một chút ta sẽ thấy rằng những bài thơ em viết tặng mỗi người rất phù hợp với phong
cách sáng tác của người đó. Nhà văn Tô Hoài chuyên viết truyện về thế giới loài vật thì
Trần Đăng Khoa tặng chú bài Ò ó o… với các sự vật đang háo hức đón chào ngày mới,
Huy Cận sáng tác với “nỗi sầu vạn cổ” thì Trần Đăng Khoa tặng bài Nửa đêm tỉnh giấc
bằng tất cả sự rung cảm, tinh tế trước những vận động, rất khẽ khàng của đất trời,… Hơn
thế, Trần Đăng Khoa còn lẫy cả tên bài thơ, câu thơ, ý thơ của Tố Hữu, Xuân Diệu để viết
Kính tặng chú Tố Hữu, Ở nhà chú Xuân Diệu với vốn hiểu biết không trẻ con chút nào về
quê hương và sự nghiệp sáng tác của hai nhà thơ này. Trần Đăng Khoa còn viết tặng cho
bác P. Nê-ru-đa (nhà thơ Chi-lê) trong niềm xúc động khi nghe tin bác bị sát hại trong vụ
đảo chính năm 1973. Trần Đăng Khoa nói lên tiếng lòng của một dân tộc Việt Nam - dân
tộc liên tục bị ngoại xâm rất khao khát hòa bình. Trần Đăng Khoa đã thay mặt thiếu nhi
Việt Nam để trả lời với thiếu nhi quốc tế qua bài Gửi bạn Chi-lê:
Chúng tôi chẳng sợ Mĩ đâu
Vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng
3. Cảm hứng từ hoàn cảnh lịch sử của đất nước
3.1. Số phận của những em bé Việt Nam trong chiến tranh
Càng yêu quê hương, đất nước Việt Nam bao nhiêu thì con người Việt Nam càng
căm thù giặc Mĩ bấy nhiêu. Không chỉ có người lớn mới biết yêu thương và căm thù mà trẻ
con cũng thế. Lẽ ra, trong tâm hồn ngây thơ, trong trắng của những trẻ em ở lứa tuổi Trần
Đăng Khoa lúc bấy giờ chỉ nên có lòng yêu thương chứ không có lòng thù hận. Khi Trần
Đăng Khoa lên bảy, lên tám thì bè lũ Nhà Trắng bắt đầu mở rộng chiến tranh ra miền Bắc.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, chứng kiến những hoang tàn, đổ nát, chết chóc do chiến
tranh gây ra như thế làm sao có thể không đau xót? Tập thơ Góc sân và khoảng trời của
Trần Đăng Khoa là những lời đồng cảm sâu sắc giúp chúng ta thấu hiểu được số phận và
tâm hồn của những em bé Việt Nam trong chiến tranh.
Đáng lí ra, những em bé - mầm non của một đất nước - phải được nâng niu, chăm
sóc và tạo mọi điều kiện để phát triển, để các em được hưởng mọi ưu ái như lời Tố Hữu
luôn căn dặn những nhà văn, nhà thơ khi sáng tác cho thiếu nhi phải luôn tâm niệm một
điều: “Cái gì càng ngon, càng hay, càng đẹp, càng vui thì chúng ta để dành cho các em”.
Đằng này, các em lại là những nạn nhân trực tiếp hoặc gián tiếp phải gánh chịu
những hậu quả của khói lửa, đạn bom. Hậu quả trực tiếp: có biết bao sinh mạng của những
người thân của các em bị bị chiến tranh cướp đi và chính các em cũng bị chiến tranh giết
hại “nó thiêu cả bé chưa và được cơm” (Gửi bạn Chi-Lê). Hậu quả gián tiếp: Người lớn
(ông bà, cha mẹ…) không có nhiều thời gian để chăm sóc cho con em của mình, bởi vì họ
bận sản xuất, chiến đấu và nuôi bộ đội hay bất kì công việc gì góp phần bảo vệ đất nước.
Thế nên, các em phải tự chăm sóc bản thân mình là chính. Cũng là một em nhỏ như bao
em nhỏ khác, Trần Đăng Khoa đã nhìn thấy và xót xa về điều đó qua nhiều bài thơ trong
25
tập Góc sân và khoảng trời mà hình ảnh gần gũi và được nhắc khá nhiều là em gái của
mình - bé Thúy Giang. Thường là mọi người trong nhà đi vắng hết, bé Giang phải ở nhà
một mình. Ta có thể hình dung khuôn mặt tiu nghỉu thật tội nghiệp khi em nhìn trước, ngó
sau chẳng thấy ai khác ngoài chú mèo:
Cả nhà vắng hết
Chỉ còn bé Giang
Bé đánh tam cúc
Với con mèo hoang
(Đánh tam cúc)
Bé đã nảy ra một trò chơi với người bạn nhỏ này. Đối với mọi người, bé Giang chỉ
là một em bé 4, 5 tuổi, vẫn còn rất nhỏ. Vậy mà, khi chơi với chú mèo khoang, bé lại trở
thành người lớn. Bé rất biết nhường nhịn chú mèo khi nó tỏ ra nũng nịu:
À thôi mày được
Bé Giang dỗ dành
Mèo lè lưỡi đỏ
Liếm vào răng nanh…
Trần Đăng Khoa rất thương, rất thấu hiểu và thông cảm với bé Giang. Bản thân
Trần Đăng Khoa mới ít tuổi đầu cũng đã tỏ ra là người lớn qua những lời dặn dò em:
Dặn em đừng có chơi xa
Máy bay Mĩ bắn không ra kịp hầm
Đừng ra ao cá trước sân
Đuổi con bươm bướm trượt chân ngã nhào
Đừng đi bêu nắng nhức đầu
Đừng vầy nghịch đất, mắt đau, lấm người
(Dặn em)
Những “đừng” trong lời dặn dò thể hiện thái độ quan tâm, chăm sóc của một người
anh dành cho em và cũng chứng tỏ Trần Đăng Khoa phải người lớn so với tuổi của mình.
Không chỉ thương mỗi bé Giang, Trần Đăng Khoa còn nhận ra xung quanh mình còn có
những số phận trẻ em đồng trang lứa với mình phải chịu những bất hạnh của cuộc chiến
tranh xâm lược của kẻ thù:
Em biết lúc này giặc Mĩ đang đốt giết
Những bé thơ cùng với các đồ chơi
Những mái nhà cùng với tiếng chim vui
Những cánh rừng cùng với vầng trăng bạc
(Thư thơ)
Và ngay cả các con vật đồng thời là người bạn nhỏ mà các em yêu thương cũng bị
bom đạn làm cho khiếp sợ mà chạy tán loạn (Sao không về Vàng ơi)

26
Lớn hơn tuổi không chỉ có việc nhận thức đó, Trần Đăng Khoa ý thức được nỗi cực
nhọc của mẹ. Ý thức đó được thể hiện bằng hành động cụ thể, Trần Đăng Khoa đã giúp mẹ
làm rất nhiều công việc: Chống hạn, bắt sâu, chọc ếch, đưa em ngủ (trong “Tiếng võng
kêu”), kéo xe chở phân lót ruộng (trong “Cánh đồng làng Điền Trì”) … Khi mẹ vắng nhà,
Trần Đăng Khoa giống như một cô Tấm hiền lành, đảm đang trong cổ tích bà từng kể :
Khi mẹ vắng nhà, em luộc Trần Đăng Khoai
Khi mẹ vắng nhà, em cùng chị giã gạo
Khi mẹ vắng nhà, em thổi cơm
Khi mẹ vắng nhà, em nhổ cỏ vườn
Khi mẹ vắng nhà, em quét sân và quét cổng
Những gì Trần Đăng Khoa làm giúp cha mẹ thì có lẽ những em bé khác cũng thế,
tất cả các em phải làm lụng vất vả và bớt phần vô tư đùa nghịch. Các em chăm ngoan như
thế, nhưng khi được mẹ khen ngợi thì chẳng chịu nhận mà cứ một mực “con chưa ngoan,
chưa ngoan!”. Trong những đầu óc ngây thơ ấy đã biết nghĩ rằng việc của mình làm chỉ là
cỏn con, chưa thể bù đắp được những vất vả, gian lao của mẹ:
Áo mẹ mưa bạc màu
Đầu mẹ nắng cháy tóc
Mẹ ngày đêm khó nhọc
Một em bé mới 9 tuổi đầu đã biết quan sát hiện tượng (áo mẹ bạc màu, tóc mẹ cháy
nắng) để nhìn ra bản chất (mẹ ngày đêm khó nhọc). Vì đâu mà các em phải sớm già dặn
như thế nếu không phải vì cuộc xâm lược phục vụ cho lòng tham lam, độc ác của bọn đế
quốc Mĩ? Hiện thực cuộc sống đòi hỏi các em phải như thế. Chính các em cũng hiểu được
sự già dặn, khôn ngoan của mình là do đâu mà có:
Anh chớ bảo em là khôn trước tuổi
Cái gì cần nhớ trước thì nhớ trước
Cái gì không cần thì tạm nhớ sau
(Bọn trẻ xóm em – Hoàng Hiếu Nhân)
Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh chiến tranh, phải tự chăm sóc bản thân khiến các
em sớm có ý thức hơn nhưng không vì thế mà mất đi nét hồn nhiên, ngây thơ vốn có của
trẻ nhỏ. Tập thơ của Trần Đăng Khoa đã miêu tả rất sinh động những trò chơi mà chỉ có
những em thiếu nhi ở vùng nông thôn mới có được. Đó là các trò chơi rất đậm chất dân
gian: xỉa cá mè, mèo đuổi chuột, thả diều,… Tất cả những trò chơi ấy thường diễn ra dưới
ánh trăng vàng - người bạn thân thiết của Trần Đăng Khoa.
Vẻ ngây thơ đáng yêu của các em được thể hiện qua cái nhìn hết sức ngộ nghĩnh mà
người lớn không thể nào có được:
Ông trăng cười những lợi
Răng chẳng chiếc nào còn
(Trăng đầu tháng)
27
Trăng đầu tháng khuyết và nếu từ dưới đất nhìn lên thì thấy một vài vệt đen nhô lên
làm cho bé thơ liên tưởng đến lợi của con người và sau đó lại thắc mắc rất ngây ngô nhưng
có lí:
Chú ơi trăng già thế
Sao bà bảo trăng non?
(Trăng đầu tháng)
Có lí bởi vì mọi người gọi trăng đầu tháng là trăng non nhưng trong mắt trẻ thơ thì
trăng lúc ấy trông giống như một cụ già đã rụng hết răng, chỉ còn trơ lợi mà thôi. Câu thơ
hồn nhiên và nói rất đúng tâm lí của trẻ thơ. Chúng có vô số thắc mắc và mong muốn được
giải đáp.
Ngoài việc thắc mắc, chúng rất hay bắt chước những hình ảnh, hành động của ai đó
mà chúng trông thấy hàng ngày và đặc biệt là có cảm tình với hình ảnh, hành động đó.
Hoàng Hiếu Nhân, nhà thơ trẻ cùng trang lứa với Trần Đăng Khoa, đã diễn tả lại hình ảnh
chú bộ đội lúc hành quân làm cho cả nhà vô cùng thích thú vì em đã gọi lại những kỉ niệm
chiến đấu một thời. Cháu bé Minh Hà thì khác. Cháu đã làm điệu bộ y hệt bà của mình
khiến cho mọi người vừa ngạc nhiên vừa xúc động:
Cái chân thì khệnh khạng
Tay vắt vẻo lưng cong
Đầu vấp va vấp vểnh
Cháu bỗng hóa bà còng
(Cháu làm bà còng)
Trần Đăng Khoa đã miêu tả chính xác hình dáng và điệu bộ của người bà qua các từ
láy giàu sức gợi hình: khệnh khạng, vắt vẻo, vấp va vấp vểnh. Hình ảnh người bà được
khắc họa mang dấu ấn của thời gian và chứa đựng niềm yêu thương tha thiết của tác giả.
Ở một bài thơ khác cháu bé lại tạo rất nhiều dáng điệu đáng yêu như đang được
chụp ảnh:
- Nón che kín đầu
Cháu thành con ốc
- Khăn bay mái tóc
Cháu hoá bướm hồng
- Váy hoa quay tít
Cháu thành con ong
- Nằm giữa lòng ông
Cháu là hạt thóc…
(Chụp ảnh)
Và đây nữa, sự vô tư của em nhỏ tội nghiệp, mới vài tuổi đầu đã biết thế nào là bom
đạn:
- Chú này buồn cười lắm nhé
28
Bom rùng. Cháu lại ngủ mê
Cứ tưởng tay bà đưa võng
Như ngày ru cháu ở quê..
(Cháu về)
Lời kể của cháu nhỏ nghe “líu ríu như là tiếng chim” nhưng nội dung lời kể lại chứa
đựng cả một sự thật lịch sử đang diễn ra trên đất nước ta. Chiến tranh đã dạy cho bé biết:
- Chú ơi, nếu còn bom Mĩ
Chú phải bịt tai thế này
Cháu bỗng xoay người ngang ghế
Như vừa có tiếng máy bay
(Cháu về)
Ngoài bản tính hồn nhiên, ngây thơ vốn có của trẻ thơ các em thiếu nhi của Việt
Nam trong chiến tranh còn có những điểm khác với trẻ em thế giới là luôn tự tin, rắn rỏi
trong hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt:
Và các bạn thiếu niên
Bằng tuổi em
Trong tầm ngắm súng thù
Vẫn treo cao cờ đỏ
(Điều anh quên không kể)
Chúng tôi đến lớp ngày ngày
Mũ rơm tôi đội, túi đầy thuốc men
Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu
(Gửi bạn Chi-Lê)
Và rất hiên ngang qua lời khẳng định :
Chúng tôi chẳng sợ Mĩ đâu
Vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng
(Gửi bạn Chi-Lê)
Đó là những dòng thơ mà Trần Đăng Khoa đáp lại với bạn bè thế giới và cũng để
đính chính lại ý nghĩ :
Người bạn nhỏ Việt Nam
Vắng nụ cười trên môi
(“Bức thư ngỏ Việt Nam” của Miraga Hilimét- thiếu nhi nước Chi-lê)
Đúng là thiếu nhi Việt nam có đói cơm, khát nước, có vất vả vì phải tự chăm sóc
bạn thân, phải lao động trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh nhưng không vì thế
mà “vắng nụ cười trên môi”. Trái lại, các em “vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng”. Đó là
một đặc điểm không thể thiếu của lứa tuổi thiếu nhi. Và đó cũng thể hiện niềm tin của các
em vào tương lai tươi sáng của đất nước. Niềm tin ấy là có cơ sở thực tiễn. Khi Trần Đăng
29
Khoa làm bài thơ “Gửi bạn Chi-lê” thì đất nước ta đang có nhiều thắng lợi trên các chiến
trường cả nước:
Miền Nam thắng trận Đông Xuân
Miền Bắc bắn rụng hàng ngàn máy bay
Lạc quan, tin tưởng vào tương lai của đất nước, các em thiếu nhi Việt Nam rất
muốn đóng góp công sức của mình vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Ngày
ngày, các em làm những công việc vừa sức của mình như lời Bác Hồ dạy “tuổi nhỏ làm
việc nhỏ” và không lúc nào thôi mơ ước cho tương lai:
Nếu còn thằng giặc Mĩ
Hay bất cứ giặc nào
Tớ sẽ đi bộ đội
Giọng Tư nghe tự hào
(Bắt ông Rừng nộp củi)
“Nếu các thằng giặc thua”- lời tiên đoán của một đứa trẻ mà lại tràn đầy niềm tin
tưởng mang tính cách của con người Việt Nam: lạc quan trong mọi hoàn cảnh. Sau lời tiên
đoán ấy thì các em chia nhau các công việc góp phần xây dựng đất nước: em thì làm nhà
du hành vũ trụ, em thì vào văn công, em thì sẽ bắc chiếc cầu dài qua sông. Mơ ước bắc
chiếc cầu “dài hàng trăm ngàn thước” của các bạn Trần Đăng Khoa thật trùng hợp với lời
của Đỗ Thị Đoan Trang tâm tình với cây gạo:
Cây nhủ em: chóng lớn
Học giỏi thành công nhân
Bắc cầu trên sông rộng
Cho đò khỏi sang ngang.
Trẻ con nào chẳng mơ ước. Có những mơ ước thật cao xa và cũng có nhưng mơ ước
thật giản dị nhưng tất cả đều xuất phát từ ý muốn làm giàu đẹp cho quê hương đất nước.
Riêng Trần Đăng Khoa thì mơ ước “suốt đời làm thơ”. “Cái ước mơ thành nghệ sĩ này quả
là một nét mới” [17a; 48].
Những câu thơ như thế đã trả lời cho câu hỏi mà bao năm nay thế giới đã dày công
đi tìm đáp án: Tại sao Việt Nam - một đất nước nhỏ bé - lại có thể chiến thắng được Mĩ -
một đế quốc đã có nhiều chiến tích lẫy lững trong các cuộc xâm lược các quốc gia trên thế
giới? Chính kẻ thù của chúng ta cũng đã và đang đau đầu bởi họ vẫn không thể tin được
một yếu tố phi vật chất lại làm nên lại làm nên thắng lợi trong cuộc chiến không cân sức:
tinh thần dân tộc. Họ tin vào sức mạnh quân sự, sức mạnh kinh tế và những chiến thuật
tinh vi đến từng milimet. Điều đó cần thiết cho mọi cuộc chiến. Thế nhưng, họ lại quên đi
lịch sử. Dân tộc ta đã kiên cường, bất khuất đập tan ách đô hộ của 1000 giặc Tàu, 80 năm
đô hộ giặc Pháp thì lẽ nào lại cam phận làm nô lệ một lần nữa? Lời của Hồ Chủ tịch trong
bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ đã nói thay lời non sông: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và tài sản để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
30
3.2. Lòng căm thù giặc Mĩ sâu sắc
Qua những câu thơ rất chân thực, Trần Đăng Khoa đã vẽ ra trước mắt người đọc
ngày ấy và bây giờ một cảnh mà nơi nơi, người người, kể cả trẻ con cũng nín thở vì một tin
dữ dội:
Mẹ nấu cơm dụi lửa
Bố em họ trâu giữa đường
Các cô thầy
Ngừng giảng bài giữa lớp
Bạn Tĩnh. Bạn Nho, bạn Lập
Bạn nào mắt cũng đỏ hoe
Bé Giang ngồi ở đâu hè
Cũng thôi đánh chuyền đánh chắt
(Hà Nội có Bác Hồ)
Năm 1972, tổng thống Mĩ đã ra lệnh ném bom B52 rải thảm Hà Nội, Hải Phòng và
oanh tạc miền Bắc sát hại hàng ngàn người dân vô tội, người già, trẻ con chúng cũng
không tha. Làm sao mà không chua xót, không căm thù khi hình ảnh “hố bom sâu - thăm
thẳm hố bom sâu” (Bến đò) ngày ngày hiển hiện trước mắt mình.
Đế quốc Mĩ mà đứng đầu là tổng thống Ních-xơn không chỉ gây ra tội ác đối với đất
nước và con người Việt Nam nói chung, thiếu nhi Việt Nam nói riêng mà còn đối với biết
bao thiếu nhi trên thế giới. Vậy mà khi đứng trong nghĩa trang của những người bị Hít-le
tàn sát, hắn đã nhỏ những giọt nước mắt như thương cảm sâu sắc lắm vậy. Mặc dù tội ác
đó được ngụy trang, ngụy biện bằng nhiều hình thức nhưng ai cũng nhận ra được sự thật.
Hành động giả nhân, giả nghĩa của bọn chúng không thể gạt được một đứa trẻ con. Trong
nghĩa trang mà Ních-xơn đang viếng có mộ của bé gái Tania (12 tuổi). Trần Đăng Khoa đã
hóa thân vào Tania để vạch trần bộ mặt của “ngài tổng thống” nói riêng và bọn đế quốc Mĩ
nói chung:
Ý nghĩ của hắn chạy từ đầu xuống chân
Từ chân xuống đất sâu nên tôi nghe hết:
“Nếu mày sống thì ông cũng giết”
(Lời một bạn gái mười hai tuổi)
Khi viết những câu thơ như thế thì hẳn người viết đã chất chứa trong lòng niềm căm
thù tột độ. Và đó không còn là sự căm thù cảm tính mà là tình cảm có chỉ dẫn của lí trí.
Đừng cho rằng trẻ con không có khả năng đó. Hãy đọc kĩ bài thơ ta sẽ thấy giọng điệu trẻ
con được giữ nguyên, không có một chút gượng ép, gò bó. Chính vì thế mà ta thấm thía
được bản chất của Đế quốc. Ai cũng nhận ra một điều giản dị: Ý nghĩ hắn (Ních-xơn) chạy
từ đầu xuống chân và chân liền với đất nên người nằm dưới mồ sâu trong ngót 30 năm vẫn
nhận ra được.

31
Không chỉ nhìn thấy được tội ác của giặc Mĩ không chỉ trên mặt đất, dưới lòng đất
mà còn dưới cả âm phủ. Trần Đăng Khoa đã tưởng tượng ra cảnh linh hồn đoàn người bị
bọn Mĩ giết hại lũ lượt kéo nhau đến đập của Diêm Vương đòi trừng phạt bọn giết người.
Bài thơ “Đập cửa Diêm Vương” có giá trị tố cáo thật sâu sắc: Những cụ già không tìm thấy
các bộ phận của thân thể mình, những bà mẹ bụng mang dạ chửa cũng bị giết hại, những
em bé thơ “đang lẫy đang bò”, “đang phi ngựa gỗ” không tìm được cha mẹ, ông bà… Nó
khiến những người đã từng sống trong chiến tranh thì ngậm ngùi chua xót, những người
chưa từng trải thì rùng mình, căm giận. Tất cả đều thắc mắc:
Tại sao Ních-xơn mang bom bi, bom phá
Bom hơi, bom Trần Đăng Khoan, bom lửa
Trút xuống đầu ta…
Trong khi họ - những người đã chết và chúng ta – những người đang sống đều như
nhau:
Ta yêu sông Mi-xi-xi-pi của các ngươi
Như ta yêu sông Hồng của ta nhận nước bốn phương trời
Chưa bao giờ, và sẽ chẳng bao giờ
Ta nghĩ đến ném bom nước Mĩ.
Trong đoàn người đó có cả những em bé chết do bom Mĩ mà không tìm thấy cha mẹ
của mình. Các em đã gọi thống thiết:
- Gió ơi! Gió ơi!
Cháu không tìm thấy mẹ cháu rồi
Mẹ cháu không gầy, không béo
Mẹ cháu không già không trẻ…
Bây giờ không ai cho cháu ăn
Không ai cho cháu ngủ
(Đập cửa Diêm Vương)
Tội ác của đế quốc Mĩ không chỉ vấp phải sự phản đối của nhân dân ở bản xứ mà
còn của cả thế giới, thậm chí là ngay cả nhân dân Mĩ yêu chuộng hòa bình và thiện chí.
Những thiếu nhi Mĩ đã hết sức đau xót, xấu hổ về hành động của cha anh mình. Tất cả
nhũng điều đó được thể hiện bằng việc nhân dân Mĩ liên tục tham gia vào các cuộc biểu
tình phản đối chiến tranh của đế quốc Mĩ ở Việt Nam. Hình ảnh của một thiếu nhi Mĩ đi
biểu tình đã khơi dậy trong Trần Đăng Khoa niềm xúc động mãnh liệt:
Bạn cùng đoàn người đi như thế
Đã mấy năm rồi
Cánh tay giơ lên
Không biết mỏi
Bạn đến khắp nơi trên thế giới
Miệng bạn thét vang
32
- Giôn-xơn không được giết trẻ con
- Giôn-xơn phải rút hết quân xâm lược
(Xem ảnh bạn thiếu nhi Mĩ đi biểu tình ở báo ảnh Việt Nam)
Căm thù giặc Mĩ, Hoàng Hiếu Nhân đã nặn tượng đất sét hình Ních-xơn với hình
thù kì quái và khẳng định:
Nếu đem đặt ra đường
Ai chẳng đòi vặn cổ.
(Thằng Ních-xơn)
Trong bài thơ “A! em biết thằng giặc Mĩ rồi!”, trẻ em đã biểu hiện thái độ căm thù
của mình và được cụ thể bằng hành động khi thấy máy bay Mĩ bị quân ta bắn rớt xuống
cánh đồng:
Bố em cầm đòn càn
Mẹ em mang đòn gánh
Chị em mang khẩu súng
Bé Giang mang que cời
Con chó Vàng mang hàm răng nhọn hoắt
Em không biết mang gì
Vớ ngay hòn đá
Cách đánh giặc của gia đình của Trần Đăng Khoa tiêu biểu cho cách đánh giặc của
đất nước ta qua các thời kì chống ngoại xâm. Chống lại kẻ thù chỉ bằng những vũ khí hết
sức thô sơ, có khi chỉ là những công cụ lao động nông nghiệp thường ngày. Thế nhưng, với
sức mạnh của lòng yêu nước nồng nàn, ý chí chiến đấu anh dũng và mục đích vệ quốc
chính nghĩa, chúng ta đã thắng lợi vẻ vang.
Em kể chuyện này là phản ứng của các em nhỏ khi gặp dấu chân của kẻ thù hằn trên
mảnh đất quê nhà:
Những dấu chân
Trông vào nhức mắt
Các bạn đã đào đổ xuống ao rồi
Từ lúc sáng mờ sương
Cho đến khi tiếng trống gọi về trường
Vẫn chưa hết những dấu chân trên cát
Vẫn chưa hết những dấu chân độc ác
Các bạn còn đào đổ xuống ao sâu.
Đọc bài thơ này, có nhiều người cho là không thật sự, bởi ngoài đời có ai làm như
thế bao giờ. Cách thể hiện khá ngộ nghĩnh, mang dấu ấn điển tích Sào Phủ, Hứa Do. Nên
nhớ rằng, tác giả có quyền dùng các hình tượng văn học để bộc lộ quan điểm, tư tưởng của
mình. Chúng ta đừng hỏi rằng “điều đó có thật không?”mà hãy hỏi rằng “qua đó tác giả
thể hiện điều gì?”. Nếu hỏi như câu sau thì chúng ta đã có câu trả lời: Trần Đăng Khoa
33
hay bất cứ một người Việt Nam yêu nước nào cũng căm thù giặc, cũng thấy “nhức mắt”
trước sự tồn tại của kẻ thù trên mảnh đất quê hương. Các em càng căm thù giặc Mĩ thì lại
càng thể hiện lòng yêu thương. Bởi lẽ thường, chúng ta căm ghét những gì phương hại đến
điều chúng ta yêu thương. Các em yêu đất nước Việt Nam, con người Việt Nam nên khi
đất nước Việt Nam bị giày xéo, con người Việt Nam bị giết hại thì lòng căm thù ấy trỗi
dậy. Đó là một hiện tượng tâm lí rất bình thường.
3.3. Tình cảm đối với Bác Hồ kính yêu
Trong các bức tranh văn học viết về cuộc kháng chiến của nhân dân ta có các chân
dung của những người anh hùng: Các anh chiến sĩ, những người dân công, các bà mẹ Việt
Nam anh hùng, các em bé liên lạc,… thì chân dung Bác Hồ hiện lên rực rỡ nhất. Bác chính
là linh hồn của dân tộc ta.
Đối với thiếu nhi, Bác Hồ dành tất cả sự yêu thương và niềm tin tưởng, hi vọng vào
tương lai của các em: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt
Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các cháu” (Thư Bác Hồ gửi học
sinh nhân ngày khai giảng năm học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tháng
9/ 1945). Còn về phần các em thì rất yêu mến Bác, thường hát vang bài hát phổ từ bài thơ
của Người:
Ai yêu các nhi đồng
Bằng Bác Hồ Chí Minh
(Thơ trung thu 1946 – Hồ Chí Minh)
Cũng như bao trẻ em khác, Trần Đăng Khoa có một tấm lòng yêu mến đặc biệt đối
với Bác Hồ. Hàng ngày Trần Đăng Khoa nhìn ảnh Bác tưởng như Bác đang nói chuyện
với mình:
Cháu ơi đừng có chơi bời đâu xa
Trồng rau, quét bếp đuổi gà
Thấy tàu bay Mĩ nhớ ra hầm ngồi
(Ảnh Bác)
Khi tự tay mình trồng một cây bàng trên đường làng, cây bàng lớn lên che bóng mát
cho người làng, làm chỗ để họ nghỉ mệt sau những lúc lao động, Trần Đăng Khoa đã vui
sướng vì mình làm được việc tốt. Niềm vui đó theo em vào giấc mơ. Em đã có một giấc
mơ đẹp bởi trong mơ em đã gặp Bác Hồ - người mà em hết lòng yêu mến:
Thấy cả Bác Hồ về làng
Cũng ngồi ở gốc cây bàng của em …
Trần Đăng Khoa yêu mến Bác nhưng lại không vòi vĩnh một điều gì. Bởi như đã
nói, các em sống tự lập và ý thức được rằng:
Bác lo bao việc trên đời.
Ngày ngày Bác vẫn mỉm cười với em
34
Chưa bao giờ đến Hà Nội nhưng Trần Đăng Khoa yêu mến Hà Nội xa xôi bởi vì nơi
ấy có Bác Hồ. Em vẫn thường “Em nằm lơ mơ ngủ - thấy mình về thủ đô” (Trăng tròn).
Nhà thơ nhỏ say cảnh và mơ giấc mơ đẹp: Trước mắt mình là “Ngôi nhà Bác ở giữa Ba
Đình” và thấp thoáng bóng Bác đang chăm sóc món quà của miền Nam yêu thương:
Bóng Bác bên cây vú sữa.
Tiếng Bác Hồ cười, em nghe rất rõ…
(Hà Nội có Bác Hồ)
Trong tâm trí trẻ thơ của Trần Đăng Khoa, Hà Nội xa xôi ấy có những cảnh vật, đồ
vật thật lạ mắt và thật đẹp: gò Đống Đa, chiếc cầu sắt bắc trên mái nhà mà xe lửa và ô tô đi
không gãy, Hồ Gươm,… Liên và An trong “ Hai đứa trẻ” (Thạch Lam) cũng đã từng nghĩ
về Hà Nội nhưng có một điều khác là: Hai chị em đã từng có thời gian sống ở đấy và bây
giờ nhớ về Hà Nội bởi cả hai đang sống trong phố huyện tối tăm, “mong đợi có một cái gì
tươi sáng”. Còn Trần Đăng Khoa nghĩ về Hà Nội mà chưa một lần đến, nghĩ về Hà Nội
như một phần xương thịt của đất nước có Bác Hồ hiền hòa, yêu thương thiếu nhi đang
sống ở đó. Khi nghe tin giặc Mĩ ném bom Hà Nội, em đã hốt hoảng, lo lắng:
- Các chú bộ đội ơi
- Các chú bộ đội ơi
Thằng giặc Mĩ nó ném bom Hà Nội rồi
Hà Nội có Bác Hồ đang ở…
( Hà Nội có Bác Hồ)
Từ lâu, Trần Đăng Khoa đã mơ ước được đến với Hà Nội. Hình ảnh Hà Nội tươi
đẹp xuất hiện trong thơ Trần Đăng Khoa ba lần (Hà Nội,Hà Nội có Bác Hồ, Đất trời sáng
lắm hôm nay). Mơ ước đó đã thành hiện thực. Trần Đăng Khoa đã được đến với thủ đô yêu
dấu. Trần Đăng Khoa nói trong niềm hân hoan:
Bác ơi! Cháu đến đây rồi
Bài thơ này Trần Đăng Khoa ghi chú rất rõ: “Ba Đình, 30/5/1969” như đánh dấu
một cột mốc kỉ niệm đáng nhớ của cuộc đời, bởi không phải em nhỏ nào cũng được đến
với thủ đô Hà Nội. Trong hoàn cảnh đất nước còn đang diễn ra chiến tranh thì việc đi lại
càng khó khăn gấp bội.
Tình cảm của các em là tình cảm của búp mầm đối với gốc cội. Cẩm Thơ may mắn
hơn Trần Đăng Khoa và các bạn khác bởi em đã tận mắt nhìn thấy Bác Hồ bằng xương
bằng thịt trong một lần theo má đi dự hội nghị:
Em nhảy cả trong hội nghị
Em quên hết chú công an
Em muốn hát
Em muốn reo...
“Em muốn hát - Em muốn reo” nhưng mọi người đã im lặng, Bác Hồ sắp nói
chuyện nên “em ngồi xuống lắng nghe lời Bác”. Em cảm nhận được:
35
Bác ở trên cao mà em thấy rất gần
Vì em ở trong con ngươi của Bác
(Em gặp Bác Hồ)
Tất cả chúng ta, dù là người lớn hay trẻ nhỏ, đều ấp ủ ước mơ được một lần gặp
Bác. Nếu như ước mơ ấy thành sự thực thì còn gì xúc động cho bằng. Người lớn vui sướng
thì rưng rưng xúc động, vui sao cứ nước mắt cứ rơi. Còn trẻ con thì không thế. Chúng vui
sướng, hân hoan và nhảy múa không cần khách khí – tất cả những hành động mà người lớn
đôi lúc muốn thể hiện nhưng phải kìm nén. Được gặp Bác, ai cũng cảm thấy mình thật bé
bỏng, ai cũng muốn được ở thật gần Bác, được nắm bàn tay Bác, được nghe Bác nói
chuyện,… Không chỉ có vui sướng vì được gặp Bác, cô bé còn tự nhủ với mình:
Lớn lên phải như cô Mười
Vào Nam đánh giặc
Để Bác Hồ yêu thế, dắt đi chơi.
(Em gặp Bác Hồ)
Chắc hẳn ngày hôm đó là một kỉ niệm đáng nhớ nhất trong đời của cô bé Cẩm Thơ.
Nói thế để thấy rằng, trên thế giới, ít có vị lãnh tụ nào được mọi tầng lớp nhân dân, không
chỉ trong nước mà quốc tế yêu mến, yêu mến một cách sâu sắc như Bác Hồ của chúng ta.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thay mặt đồng bào nói lên lòng tự hào đó trong điếu văn Hồ
Chủ tịch: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ chủ tịch, người
anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông
đất nước ta” [12; 68].
Trần Đăng Khoa rất lo cho sức khỏe của Bác:
Sang năm Bác tám mươi rồi
Bác ơi, Bác thấy trong người khỏe không?
(Đất trời sáng lắm hôm nay)
Các em luôn muốn “Bác vui, Bác khỏe là lòng cháu vui”. Mong ước đó đã được
viết nên bài hát “Ngày ngày chúng cháu ước mong – mong sao Bác sống muôn đời để dìu
dắt nhi đồng thành người…”.
Một đứa trẻ chín tuổi mấy khi nghĩ được như Trần Đăng Khoa:
Bác lo nghĩ suốt một đời
Để cho chúng cháu vui chơi từng ngày.
(Đất trời sáng lắm hôm nay)
Yêu thương một người nào đó mà khi người đó mất đi, chúng ta cảm thấy thật đau
đớn, xót xa. Bác Hồ mất đi là một tổn thất lớn cho dân tộc, cho đất nước Việt Nam. Trước
sự mất mát lớn lao đó, Trần Đăng Khoa và các bạn nhỏ của mình bày tỏ tình cảm, mỗi em
một kiểu nhưng đều gặp nhau ở niểm tiếc nuối và đau xót khôn tả. Cô bé Cẩm Thơ mới
hôm nào reo vui trong hội nghị vì được gặp Bác, nay nghe tin Bác mất em đã khóc nấc.
Các bạn của em cùng Khóc như nhau:
36
Chưa bao giờ tất cả chúng em đều khóc
Nước mắt chảy không kịp lau
Các em sẵn sàng đổi những nhu cầu vui chơi hàng ngày của mình để Bác Hồ được
sống:
Giá chúng mình được ngủ một giấc
Ngủ không cần ăn bánh đi chơi
Để Bác Hồ sống mãi đời đời.
(Cẩm Thơ)
Nhưng điều mà các em mong muốn đánh đổi sẽ không bao giờ thành sự thật. Thế
nên, nỗi đau càng tăng thêm. Nỗi đau đã làm cho :
Trẻ nhỏ nghiêm trang như các cụ già
Các cụ già khóc như trẻ nhỏ
Sinh thời, Bác rất kì vọng vào thế hệ trẻ của đất nước. Ghi nhớ sâu sắc niềm kì vọng
đó, Trần Đăng Khoa tuy còn ít tuổi đã thay mặt cho tất cả thiếu niên hứa với Bác:
Cháu thề phấn đấu suốt đời
Như lời Bác dạy, như lời Bác mong.
Bác đã mất nhưng hình ảnh của Bác còn sống mãi trong sự nghiệp của dân tộc,
trong tim của mọi người, trong đó có các em nhỏ. Những điều Bác dạy lúc sinh thời chính
là nguồn động viên để các em vượt qua nỗi đau mà phấn đấu trong học tập và lao động,
chiến đấu. Bác đã đi xa chúng ta gần 40 năm nhưng tình cảm của cả dân tộc ta dành cho
Bác không hề phai nhạt mà ngày càng đậm đà, thắm thiết, sâu sắc hơn. Bác đã trở thành
hình tượng đẹp nhất trong các sáng tác của các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ,… Bác trở
thành người đại diện cho dân tộc Việt Nam khi chúng ta đứng trước bạn bè thế giới.
Trần Đăng Khoa đã có khoảng thời gian ngắn nằm viện điều trị bệnh mắt (1969).
Trong giấc mơ, Trần Đăng Khoa đã thấy Bác ân cần chăm sóc cho mình:
Có ai se sẽ ngồi xuống đầu giường
Đưa bàn tay mát như kem sữa
Xoa lên trán em đang dịu lửa
Vuốt lên mắt em đang mờ
A, Bác Hồ!
(Em gặp Bác Hồ)
Khi Trần Đăng Khoa viết bài này, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã “đi gặp cụ Các
Mác - Lênin” một vài ngày. Bài thơ được viết bằng nỗi nhớ thương da diết của một đứa bé
dành cho người mà nó hết lòng yêu kính. Trong giấc mơ của Trần Đăng Khoa, Bác hiện
lên như một ông tiên hiền lành, nhân hậu trong cổ tích. Nhưng ông tiên trong truyện cổ tích
chẳng có được những cử chỉ chăm sóc tận tình như Bác dành cho một đứa bé, đặc biệt là
lúc nó đang bệnh. Ông tiên Bác Hồ thì ân cần chăm sóc, gài từng khuy áo cho em khiến
cho cơn bệnh giảm đi rất nhiều.
37
Trong cơn đau đớn, xót xa, mọi người thường bi quan nhưng Trần Đăng Khoa lại
mang trong lòng niềm tin mãnh liệt: Bác vẫn còn, vẫn sống mãi với dân tộc và cả thế giới:
Nhưng Bác chỉ nghĩ ban ngày
Chứ ban đêm là Bác rời linh cữu
Bác chào chú đứng gác
Rồi đi vòng quanh khắp thế giới
Để chăm sóc trẻ con
Nhất là đứa nào phải nằm trong bệnh viện…
(Em gặp Bác Hồ)
Niềm tin ấy Trần Đăng Khoa thốt lên như thay lời cho cả non sông trong lúc những
người khác đang đau khổ. Ngày nay, đi đến đâu ta cũng gặp dòng chữ có sức mạnh cổ vũ
lớn lao tinh thần và sức lực của dân tộc Việt Nam: “Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong
sự nghiệp của chúng ta”.
Tình cảm đối với Bác Hồ là một nội dung đặc biệt góp phần tạo nên dáng vẻ riêng
biệt của thơ thiếu nhi trong thời khi chống Mĩ. Sau này, vẫn có những bài thơ thiếu nhi viết
về Bác nhưng có lẽ sẽ không có được cảm xúc nóng bỏng như thế.
3.4. Tình cảm dành cho các chú bộ đội
Trong thơ văn kháng chiến hay đề cập đến hình ảnh người chiến sĩ. Người chiến sĩ
cùng với những phẩm chất tốt đẹp của họ đã trở thành đề tài, nguồn cảm hứng sáng tác của
các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ,… Người chiến sĩ Việt Nam đã chiến đấu anh dũng và
sẵn sàng hi sinh tính mạng để bảo vệ từng tấc đất, ngọn rau, và cuộc sống tự do cho dân
tộc. Những trang sử vàng của chúng ta được viết bằng máu, Tổ quốc ta được dựng nên từ
hài cốt của các chiến sĩ. Hình ảnh của họ trở nên cao quý trong lòng dân tộc với tên gọi
thân thương, nghĩa tình: bộ đội.
Tuy còn nhỏ tuổi nhưng các em đã có nhận thức rằng giặc Mĩ là những kẻ tàn ác,
hung bạo đã gây nên biết bao thảm họa cho đất nước, con người Việt Nam. Hình như
chúng không có quả tim, không có nước mắt và máu của chúng chắc không phải màu đỏ
nên Núp trong “Đất nước đứng lên” (Nguyên Ngọc) đã reo lên thích thú khi phát hiện ra
một điều bấy lâu thắc mắc: thằng giặc có chảy máu không?
Cẩm Thơ thì chăm chú, say sưa khi nghe chú bộ đội kể về giặc Mĩ. Em thấy rất
khinh khi bọn chúng “em mà có đói chả hèn thế đâu” và:
Muốn xin chiếc mũ tai bèo
Làm cô giải phóng vượt đèo Trường Sơn
(Chú giải phóng quân của em)
Mơ ước được là bộ đội, “đó quả là hiện tượng đánh dấu rõ nhất đặc điểm trong thời
kì lịch sử chúng ta đang sống: chúng ta phải chiến đấu”(Vân Thanh).

38
Người chiến sĩ của chúng ta đã dũng cảm, kiên cường như một vị tướng trước kẻ
thù là như thế. Nhưng khi trở về với cuộc sống thường ngày, với nhân dân thì họ rất gần
gũi, giản dị, chan hòa nghĩa tình:
Cháu nghe chú đánh những đâu
Những tàu chiến, những tàu bay rơi
Đến đây chỉ thấy chú cười
Chú đi gánh nước, chú ngồi đánh bi…
(Gởi theo các chú bộ đội)
Ở một bài thơ khác, Trần Đăng Khoa viết:
Vách đền ai tạc tượng ông
Lửa quăn giáp sắt, kiếm cong tuốt trần
Mặt hiền như bác nông dân
Nụ cười tươi sáng, mến thân đậm đà.
(Ngôi đền Bãi Cháy)
Trần Đăng Khoa lại nói đúng bản chất của bộ đội ta, nhân dân ta. Tất cả đều là
“người hiền cầm gươm”, không chỉ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ mà là từ
rất xưa đã vậy. Chúng ta yêu chuộng hoà bình, thích cuộc sống tự do và muốn con người ai
cũng có cuộc sống tốt đẹp chứ nào thích chiến tranh, nào muốn đàn áp, chiếm đoạt đất đai,
tài sản của dân tộc khác. Nhưng kẻ thù không như thế, chúng dày xéo lên đất nước, tự do,
nhân phẩm và những gì mà chúng ta trân trọng. Ta đã không thể để cho chúng được thực
hiện điều đó nên ta đã cầm gươm chống lại - đó là một sự bắt buộc không thể khác hơn.
Hết lòng yêu mến mà cũng hết lòng tin tưởng vào bộ đội, đó là tình cảm của các em.
Khi nghe đài đưa tin giặc Mĩ ném bom Hà Nội, một nơi mà Trần Đăng Khoa chưa từng
đến nhưng biết nơi đó là đất nước mình, nơi đó có Hồ Gươm, có Bác Hồ, Trần Đăng Khoa
đã cất tiếng gọi vang:
- Các chú bộ đội ơi!
- Các chú bộ đội ơi!
Thằng giặc Mĩ nó ném bom Hà Nội rồi
Hà Nội có Bác Hồ đang ở…
(Hà Nội có Bác Hồ )
Thông thường, khi tuyệt vọng, khi nguy khốn, chúng ta thường gọi người nào mà ta
đặt trọn niềm tin yêu, nghĩ rằng họ sẽ là vị cứu tinh tuyệt vời nhất đối với mình. Trần Đăng
Khoa, trong hoàn cảnh như thế, đó là tiếng gọi thật lòng và tha thiết nhất.
Trong mắt các em, các chú là những bộ đội yêu đời. Trong Chiếc ngõ nhỏ là hình
ảnh các anh vừa hành quân vừa hát khúc quân hành, bất chấp sự khắc nghiệt của thời tiết.
Ngày đêm phải đối mặt với kẻ thù, phải trực tiếp nơi chiến trường ác liệt, hơn ai hết
các chú, các anh trân trọng và nâng niu những phút giây hiếm hoi được gần gũi với người
thân, những phút giây hòa bình, dù chỉ là hòa bình trong chiến tranh:
39
Cánh đồng reo vui
Gió đồng rộng rãi
Nòng pháo bỗng nhiên dừng lại
Bao nhiêu cái mũ lắng nghe
Xa xa từ một ngọn tre
Tiếng chim chích chòe
đang
hót...
(Tiếng chim chích chòe)
Tiếng chim bỗng trở thành sứ giả của hòa bình. Với bài thơ khá ngắn này, Trần
Đăng Khoa “đã sờ được, đụng được cái tinh vi lớn lao của sự sống!” (Xuân Diệu).
Lớp trẻ chúng tôi có một hạnh phúc là được sống trong hòa bình. Những diễn biến,
sự kiện chiến tranh chỉ được biết qua lời kể. Chúng tôi được kể rằng, mỗi khi có đoàn văn
công đến phục vụ văn nghệ là các anh như được tiếp thêm sinh lực dù các tiết mục ca múa
hết sức đơn sơ, diễn viên ít trang điểm và thiếu thốn đạo cụ. Và các đoàn văn công với các
con người tài năng và dũng cảm ấy đã bất chấp mưa bom bão đạn, đi hết đơn vị này đến
đơn vị khác để phục vụ văn nghệ, tiếp thêm ngọn lửa cho chiến sĩ. Điều đó phải chăng là
trong mỗi chiến sĩ có một nghệ sĩ ở trong đó? Các anh hát, các anh đàn và xung quanh là
những mẹ, những chị, những em say sưa lắng nghe như uống từng lời. Tiếng đàn hát ấy
góp phần xóa đi “những âm thanh nhơ bẩn” mà kẻ thù đã tạo ra trên đất nước chúng ta.
Chiến tranh của đế quốc Mĩ có thể giết hại được con người chứ không thể giết được tâm
hồn Việt Nam. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã thay lời dân tộc Việt Nam dõng dạc khẳng
định với kẻ thù:
Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Bom đạn chúng bay không giết được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà.
(Đất nước)
Các chú bộ đội trong thơ Trần Đăng Khoa là những người rất thân thiện, vẫn
thường gánh nước giúp mẹ giúp chị, sửa lại mái nhà cho các cụ già và yêu thương các em
nhỏ :
Kẹo xanh, kẹo đỏ rất nhiều
Đứa nào anh cũng chia đều như nhau
Đứa nào anh cũng xoa đầu
Đứa nào anh cũng bế lâu trong lòng
(Kẹo hồng kẹo xanh)
Được yêu thương nhưng các em không xem đó là một chuyện dĩ nhiên mà rất biết
ơn các chú bộ đội. Các chú bộ đội chính là người đem lại sự yên bình cho mọi người:
40
Chú giết giặc
Để cứu các em bé
Để cứu các bà mẹ
Để cứu các cụ già...
(Thù này phải trả đến đến đời con – Nguyễn Hồng Kiên)
và:
Giữ cho cháu trọn tiếng cười
Góc trời đỏ ngói khoảng trời xanh
Khoảng trời chỉ để chim bay
Góc trường chỉ để ngày ngày cháu vui
(Giữ cho chúng cháu khoảng trời bình yên)
Có món ngón gì ngon nhất, đẹp nhất, các em đều nhớ đến các chú. Trồng một cây
lựu, ngày ngày chăm sóc đến lúc nó ra quả thì Trần Đăng Khoa nghĩ ngay đến việc biếu
tặng:
Em ăn thấy nó ngọt bùi
Tặng chú bộ đội, chú cười với em
(Hoa lựu)
Các chú về thì các em vui đùa, ca hát, đến khi các chú tiếp tục lên đường thì các em
nhỏ rất tiếc nuối, chẳng muốn rời xa. Các chú như đã trở thành một trong những thành viên
trong gia đình của các em, dù thời gian các chú ở lại chỉ trong vài ngày hoặc vài giờ ngắn
ngủi mà thôi:
Các chú đã đi xa rồi
Cao cao ụ pháo như người đứng canh
(Trận địa bỏ không)
Nguyễn Hồng Kiên cũng luyến lưu trong phút chia tay:
Đoàn người dài tít tắp
Khuất dần sau lùm cây
Những ngôi sao trên trời
Nháy mắt
Nhìn theo
Lùm tre
Vỗ tay
Reo
Câu chữ càng lúc càng ít như những bước chân của các chú đã đi xa. Em vẫn đứng
mà nhìn theo những bóng dáng oai hùng mà gần gũi, thân thương ấy cho đến lúc bóng các
chú mất hút.

41
Người ta bảo rằng trẻ con nhớ rất lâu, nhất là những người chúng yêu thương. Trần
Đăng Khoa cũng thế, luôn mong mỏi một ngày nào đó các chú sẽ lại trở về với thôn xóm,
lại chơi đùa với mình:
Vẫn mong các chú trở về
Lại ngồi với cháu bên hè đánh bi.
(Gửi theo các chú bộ đội)
Bộ đội ta vừa là người anh, người bạn vừa là người thầy giáo của cá em nhỏ (trong
đó có Trần Đăng Khoa) dù các anh không cầm tay nắn chữ, dù không phải bộ đội nào cũng
trực tiếp đứng lớp giảng bài. Nhưng, qua những cuộc hành quân gian khổ, những chiến
công và những hi sinh của mình, các anh đã dạy các em nhỏ thật nhiều bài học về lòng yêu
Tổ quốc, lòng biết ơn những người đã hi sinh thân mình để bảo vệ cuộc sống yên vui cho
các em, về trách nhiệm của một công dân đối với đất nước, nhất là trong hoàn cảnh khói
lửa đạn bom. Trần Đăng Khoa đã gọi một cách thân thương, trìu mến, thiết tha:
Chú thành thầy giáo cháu rồi
Dạy cho cháu học làm người Việt Nam.
(Giữ cho chúng cháu khoảng trời bình yên)
Nhiều đức tính tốt đẹp, nhiều chiến công như thế nhưng các chú bộ đội rất khiêm
tốn. Các chú kể về Cổng Trời, về miền Nam, về sự thất bại của quân Mĩ khi chúng thực
hiện cuộc chiến tranh phi nghĩa ở đất nước ta. Mỗi lần gặp lại bội đội là các em nhỏ được
nghe những điều mới vừa xảy ra:
Chi tiết long lanh, mới như ban ngày
Trí nhớ anh vô tận và dạt dào như sông, như bể.
Các anh có thể kể chuyện một cách say sưa về các trận chiến đang xảy ra ở Việt
Nam và sẵn sàng trả lời các thắc mắc (dù là ngô nghê) của các em. Nhưng các anh không
bao giờ nói về mình. Trần Đăng Khoa đã nhận ra điều đó:
Chỉ có một điều anh quên kể
Anh vừa được tuyên dương là một anh hùng.
(Điều anh quên không kể)
Những người bộ đội đó là những anh nông dân, những “chị thanh niên xung phong
– áo bạc màu nắng gió” (Đi tàu hỏa) và cũng có khi đó là những thầy giáo - Những thầy
giáo tạm rời lớp học, tạm xa những đôi mắt ngây thơ của học trò, tạm xa “Tiếng thơ đỏ
nắng xanh cây quanh nhà - Mái chèo nghiêng mặt sông xa” để theo tiếng gọi của non sông
khiến cho các em học trò rất luyến lưu không muốn rời nhưng “vẫn cười vẫn hát để thầy đi
xa” (Thầy giáo đi bộ đội).
Năm 1972, Trần Đăng Khoa gặp lại thầy giáo cũ. Niềm hân hoan và nỗi đau xót hòa
trộn vào nhau bởi vì Trần Đăng Khoa nhận ra ở thầy có một điều khác lạ. Thầy bây giờ trở
thành thương binh, đã để lại một chân ở vùng đất máu lửa nhưng chan chứa yêu thương
của Tố quốc. Trần Đăng Khoa bồi hồi nhớ lại năm 1966 em đã tặng cho thầy bài thơ “Hỏi
42
đường” – bài thơ được viết bằng tất cả sự yêu mến và thương nhớ và tự hào của một học
trò dành cho thầy giáo, của một em thiếu nhi dành cho chú bộ đội. Giờ thấy thầy với đôi
nạng gỗ, vẫn tiếp tục dạy hoc, tiếp tục cống hiến cho cuộc sống, cho đất nước, trong Trần
Đăng Khoa dâng lên niềm xót xa, cảm thấy mình chưa xứng đáng với sự hi sinh lớn lao đó:
Dấu nạng hai bên như hai hành lỗ đáo
Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo
Như nhận ra cái chưa hoàn hảo
Của cuộc đời mình
(Bàn chân thầy giáo)
Trần Đăng Khoa và các bạn nhỏ cùng trang lứa luôn mang trong lòng một suy nghĩ
- suy nghĩ rất người lớn về trách nhiệm của một người dân khi đất nước bị xâm lược:
Các anh đi quét sạch quân xâm lược
Em ở nhà, lòng bứt rứt sớm trưa
Biết bao điều em không thể nói được bằng thơ…
(Thư thơ)
Tình cảm của cậu bé Trần Đăng Khoa dành cho bộ đội thật sâu sắc. Càng thêm yêu
mến và tự hào về họ hơn khi họ hi sinh vì đất nước. Trong số các bài thơ mà Trần Đăng
Khoa viết về bộ đội, Trần Đăng Khoa có dành riêng một vài bài để tặng cho anh Lê Lâm
Ứng và các chú bộ đội Quân giải phóng miền Nam (Giữ cho chúng cháu khoảng trời bình
yên), gửi anh đã đến thăm em (Thư thơ), cô Bưởi (Em dâng cô một vòng hoa, Về thăm cô
Bưởi).
Cậu bé Trần Đăng Trần Đăng Khoa ngày ấy và nhà thơ Trần Đăng Khoa ngay nay
vẫn luôn dành tình cảm đặc biệt đối với nữ liệt sĩ Mạc Thị Bưởi. Mạc Thị Bưởi (1927-
1951) là một du kích ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Cô tham gia cách mạng rất tích
cực và hi sinh ở tuổi 24. Cô Bưởi hi sinh lúc Trần Đăng Khoa chưa sinh ra. Những gì về cô
Trần Đăng Khoa được nghe từ bố mẹ và những người xung quanh. Ấy thế mà trong lòng
cậu bé Trần Đăng Khoa rất yêu quý, trân trọng và biết ơn cô:
Cô ơi!
Sông nước gọi tên
Nắng mưa phục kích trăng lên đánh đồn
Thương cô sóng cuộn quanh cồn
Nhát dao giặc giết…em còn thấy đau.
(Em dâng cô một vòng hoa)
Bốn năm sau, Trần Đăng Khoa đã nhận thức được một điều: Các anh hùng liệt sĩ
vẫn sống mãi trong trái tim của dân tộc ta. Trần Đăng Khoa đã nói thay tấm lòng của mọi
người khi em Về thăm cô Bưởi:
Bóng cô đi giữa triệu người
Hôm nay và cả muôn đời mai sau…
43
(Về thăm cô Bưởi)
3.5. Tình cảm đối với những miền quê trên đất nước
Chúng ta thường mang trong đầu một ý nghĩ rằng cảm hứng đối với những địa danh
trên đất nước chỉ có ở những nhà văn, nhà thơ từng rong ruổi trên các nẻo đường đất nước
mới có được. Ý nghĩ ấy đúng nhưng không hoàn toàn, bởi có những người chưa một lần
đến với miền đất nào đó nhưng vẫn có thể có tình cảm thiết tha sâu nặng. Bác Hồ của
chúng ta đau đáu hướng về miền Nam thân yêu: “miền Nam trong trái tim tôi”. Tâm
nguyện của Bác là sau khi thống nhất nước nhà sẽ vào miền Nam cho thỏa lòng mong nhớ.
Vậy mà, đến cuối đời, tâm nguyện ấy vẫn chưa đạt được. Chế Lan Viên không đến Tây
Bắc nhưng vẫn viết được bài thơ rất hay về Tây Bắc. Nhà thơ nhỏ tuổi Trần Đăng Khoa
cũng tiếp nối tinh thần đó. Lúc nào em cũng mong muốn mình được đến với các miền Tổ
quốc yêu thương:
Em muốn con tàu này
Đưa em đi khắp đất nước
Ôi tổ quốc! Tổ quốc!
(Đi tàu hỏa)
Với niềm mong ước đó, Trần Đăng Khoa đã tâm sự cùng Than - người bạn thân
thiết, chân thật. Than giống như một nhà hiền triết nói lên tiếng nói của dân tộc có lịch sử
bốn ngàn năm văn hiến. Than lại giống như một nhà thơ. Nhà thơ Than sẽ làm thơ ca ngợi
cuộc sống, ca ngợi đất nước cùng với những truyền thống chống giặc ngoại xâm:
- Tôi muốn làm thơ
Ca ngợi Vịnh Hạ Long
Có màu xanh từ thuở Ngô Quyền
Con sóng vẫn reo trên xác giặc
Ca ngợi bác nông dân
Sớm sớm lên tầng.
(Lời của Than)
Những nẻo đường hành quân của các chú bộ đội đến khắp nơi trên đất nước cũng
làm Trần Đăng Khoa liên tưởng đến những vùng đất đó dù chỉ là những lá thư:
Chú thì đương Sơn La
Chú thì ra Cồn Cỏ
Chú thì giữ Hàm Rồng
Chú thì xa, xa nữa…
(Bà và cháu)
Khi viết bài thơ tặng nhà thơ Tố Hữu, Trần Đăng Khoa cũng đã gửi lòng về xứ Huế
mộng mơ - quê hương của Tố Hữu:
Chú ngồi với cháu trong phòng
Mái chèo nghe động một dòng Hương Giang
44
(Kính tặng chú Tố Hữu)
Và Trần Đăng Khoa đã cùng chú nhìn lại quãng thời gian đầy gian khổ nhưng cũng
đầy ánh sáng và tự hào khi được ánh sáng của Đảng chiếu sáng cuộc đời. Lấy ý từ bài thơ
“Từ ấy” của Tố Hữu, Trần Đăng Khoa đã viết những dòng thật xúc động, chứng tỏ rất am
hiểu về cuộc đời của chú:
Chú “Từ ấy” những gian nan
Đường lên Đắc Sút sương tan mặt ghềnh
Nhận được lá thư của anh Minh, Trần Đăng Khoa cảm thấy yêu mến lạ vùng đất
mỏ: Ôi miền đất anh đang sống
Nghe sao mà giản dị yêu thương…
Những muốn thăm làng thăm mỏ
Nếu anh không đạp xe về
Em sẽ lần đường cuốc bộ…
(Nhận thư anh)
Trần Đăng Khoa chưa một lần đến với thủ đô Hà Nội nhưng trong lòng luôn thương
nhớ nơi đó. Ngay cả trong giấc mơ, Trần Đăng Khoa cũng thường mơ về Hà Nội xa xôi:
Em nằm lơ mơ ngủ
Thấy mình về Thủ đô
Ôi chao, trăng vàng óng
Quay tròn... bánh ô tô...
(Trăng tròn)
Trong những vùng đất của Tổ quốc, Trần Đăng Khoa dành một tình cảm đặc biệt cho
miền Nam ruột thịt. Điều đó đã được thể hiện qua các bài thơ thơ trong tập Góc sân và
khoảng trời. Theo quy luật của tình cảm con người một khi người ta nhắc có nghĩa là
người ta vẫn thường nghĩ đến và thấy thương thấy nhớ. Trong ý nghĩ của Trần Đăng Khoa
và các bạn lúc nào cũng có hai tiếng miền Nam. Bài Bắt ông Rừng nộp củi, Trần Đăng
Khoa đã vẽ ra một hình ảnh thật sinh động: Các em đứng trên đỉnh núi mà ngó khắp bốn bề
để rồi cảm thấy “nghe thiêng liêng Tổ quốc”. Từ trên núi em thấy được nơi Nguyễn Trãi
làm thơ, nơi Trần Hưng Đạo chiến thắng quân Nam Hán, thấy hình ảnh Bác Hồ làm thơ và
vạch đường lối cứu nước. Trần Đăng Khoa cùng các bạn đã đưa cặp mắt nhìn thật xa để
được trông thấy miền Nam trong cảnh những phố phường náo động. Náo động vì cuộc
sống vẫn diễn ra như chưa bao giờ bị dập tắt theo ý đồ của đế quốc Mĩ.
Trần Đăng Khoa đã rất thích thú khi các chú bộ đội kể chuyện về miền Nam với
những chiến công ngày càng nhiều:
Này đây đường phố Sài Gòn
Rực trời ánh lửa phá đồn đêm nao
Bao nhiêu xe xích đổ nhào
Bao nhiêu giặc Mĩ chui vào áo quan.
45
Trong những luc ca hát, tiếng đàn bầu gợi nhớ đến Nam Bộ với những câu hò, điệu
lí xàng, xê “đằm thắm khúc ru con Nam Bộ” và làng quê Kinh Bắc với giọng quan họ ân
tình “Tươi mát câu dân ca quan họ” (Tiếng đàn bầu và đêm trăng).
Trần Đăng Khoa yêu thương những vùng đất xa xôi, bới vì đó có Bàn chân thầy
giáo:
Bàn chân thầy giáo gửi lại Khe Sanh
Hay Tây Ninh, Đồng Tháp
Bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc
Cho lẽ sống làm người.
Như đã nói, những miền đất ấy Trần Đăng Khoa chưa một lần được đến. Nhưng, từ
trong sâu thẳm Trần Đăng Khoa lại yêu mến vô cùng. Trước kia, em Trần Đăng Khoa yêu
những địa danh đó vì đó là một phần của Tổ quốc thiêng liêng, nơi đó cũng như quê em
phải chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến tranh. Giờ đây, Trần Đăng Khoa lại càng thêm
yêu vì những nơi đó có bàn chân của thầy giáo từng đi qua và một nơi nào đó có bàn chân
của thầy để lại. Bài thơ làm chúng tôi liên tưởng đến mấy câu thơ của Giang Nam:
Xưa yêu quê hương vì có hoa có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
(Quê hương)
Không phải ngẫu nhiên mà cụm từ quê hương - đất nước lại hay đi chung với nhau.
Bởi mỗi người đều có một quê hương riêng của mình nhưng tất cả chúng ta đều có chung
một quê hương: Việt Nam. Quê hương không thể tách rời đối với đất nước. Vận mệnh của
đất nước có mối tương quan với quê hương của mọi người. Vì thế, Trần Đăng Khoa không
chỉ viết về làng Điền Trì của mình mà còn viết về đất nước với niềm yêu mến, tự hào. Trần
Đăng Khoa đã reo lên niềm tự hào ấy:
Trăng từ đâu… từ đâu…
Trăng đi khắp mọi miền
Trăng ơi có nơi nào
Sáng hơn đất nước em!
(Trăng ơi… từ đâu đến…)
Hỏi để mà tự hào, khẳng định vẻ đẹp đặc biệt của đất nước mình. Câu hỏi thật dễ
thương. Không chỉ tự hào về vẻ đẹp đấ nước mà Trần Đăng Khoa còn tự hào về một đất
nước anh hùng. Hai cảm hứng đó xuất hiện xuyên suốt trong thơ Trần Đăng Khoa, không
chỉ trong tập Góc sân và khoảng trời mà những tập thơ được viết khi đã thành một anh lính
biển hay những năm gần đây cũng thế. Trần Đăng Khoa đã nói với bạn bè thế giới rằng:
Chúng tôi chẳng sợ Mĩ đâu
Vẫn vui, vẫn hát những câu rộn ràng.
46
(Gửi bạn Chi – lê)
Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, thế giới rất lo ngại cho Việt Nam về cả vật chất
và tinh thần khi phải đối mặt với cuộc chiến không cân sức như thế. Bạn bè thiếu nhi quốc
tế hiểu gì về tinhth thần của thiếu nhi Việt Nam? Có biết bao trẻ em Việt Nam trả lời cho
câu hỏi ấy nhưng lịch sử đã chọn Trần Đăng Khoa làm người phát ngôn cho cả thế hệ, cả
dân tộc.

47
CHƯƠNG III: GÓC SÂN VÀ KHOẢNG TRỜI – MỘT SỐ HÌNH
THỨC BIỂU HIỆN NỔI BẬT
1. Giọng điệu
Chúng tôi nghĩ rằng, nghiên cứu giọng thơ của một tác giả không phải là việc đơn
giản. Công việc này đòi hỏi nhiều thời gian và khả năng cảm thấu sâu sắc mà không phải ai
cũng có được. Trong pham vi của khóa luận, chúng tôi chỉ tìm hiểu một vài nét mà chúng
tôi cho là nổi bật trong tập thơ Góc sân và khoảng trời. Đó là giọng thơ hồn nhiên, trong
sáng, thiết tha và giọng triết lí, suy tư.
1.1. Hồn nhiên, trong sáng, thiết tha
Trong tập thơ, Trần Đăng Khoa thường xưng hô là “em” khiến cho người đọc như
đang lắng nghe lời tâm sự của một chú bé ngoan:
Em thường rải cái nong
Ra góc sân ngồi học
Những đêm có trăng mọc
Em chơi cho đến khuya…
(Cái sân)
Em đi chọc ếch chiều nay
Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu…
(Chọc ếch)
Có lẽ, trong lúc làm thơ, Trần Đăng Khoa tưởng tượng mình đang nói chuyện với
người lớn nào đó. Còn khi nói với các con vật, cây cối thì Trần Đăng Khoa xưng “tao” và
gọi “mày” một cách thân mật như những người bạn:
Cái đuôi vàng ngoáy tít
Cái mũi đen khịt khịt
Mày không bắt tay tao
Tay tao buồn làm sao
(Sao không về vàng ơi?)
Những lời Trần Đăng Khoa nói thì thầm với trầu mới đáng yêu làm sao:
Trầu ơi, hãy tỉnh lại
Mở mắt xanh ra nào
Lá nào muốn cho tao
Thì mày chìa ra nhé
Tay tao hái rất nhẹ
Không làm mày đau đâu
Đã dậy chưa hả trầu?...
(Đánh thức trầu)

48
Chỉ có trẻ thơ mới có giọng điệu như thế. Cả tập thơ mang giọng điệu trong tập thơ
hết sức hồn nhiên, trong sáng, mang đậm tính cách trẻ con của tác giả. Bài “Thơ vui” mang
giọng thơ hết sức hồn nhiên pha lẫn nghịch ngợm:
…Diêm Vương đi vắng lâu rồi
Nghe đâu ăn cỗ Nhà Trời xa xăm…
Mải vui chén rượu, cuộc cờ
Quên không mở cửa Phủ cho cháu vào…
Bác Mạnh Sinh chẳng biết nghe tin đâu, tưởng Trần Đăng Khoa đã chết nên gửi
câu đối và thơ về nhà chia buồn cùng gia đình Trần Đăng Khoa. Cảm động trước tấm lòng
của Bác, Trần Đăng Khoa đã viết bài thơ gửi tặng và cũng báo cho bác Sinh rằng Trần
Đăng Khoa vẫn “chưa lặng lẽ qua đời được đâu”. Giọng thơ nghịch ngợm nhưng đầy
nghĩa tình. Đọc bài thơ này, có lẽ bác Sinh đã mỉm cười hạnh phúc vì “thần đồng” Trần
Đăng Khoa vẫn bình an, vẫn làm thơ hay như bác và mọi người từng biết.
Chiến tranh với sức tàn phá của nó làm cho Trần Đăng Khoa ý thức hơn nhưng
không vì thế mà tâm hồn cằn cỗi. Tiếng thơ của Trần Đăng Khoa đã át đi “âm thanh nhơ
bẩn” bằng chính sự hồn nhiên, ngây thơ và thanh thản:
Tiếng diều vàng nắng
Trời xanh cao hơn
Dây diều em cắm
Bên bờ hố bom…
(Thả diều)
Bên cạnh hố bom, hiện thân của sự chết chóc, hủy diệt, cánh diều tuổi thơ vẫn bay
cao như khát vọng của thế hệ măng non Việt Nam. Âm thanh của tiếng diều làm cho trời
như cao hơn, xanh hơn đẹp hơn. Trần Đăng Khoa đã nói với bạn bè trên thế giới rằng:
Chúng tôi đến lóp ngày ngày
Mũ rơm tôi đội, túi đầy thuốc men
Ao trường vẫn nở hoa sen
Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu
Chúng tôi chẳng sợ Mĩ đâu
Vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng
(Gửi bạn Chi - lê)
Với các con vật xung quanh, Trần Đăng Khoa dành cho chúng một tình cảm yêu
mến đặc biệt. Lời thơ trong Nói với con gà mái, Tiếng chim kêu,… hết sức tha thiết. Nhìn
vằn máu đỏ trong mắt con gà mái bị mất con, nghe tiếng chim bị thương kêu thảm thiết
trong bụi cây, Trần Đăng Khoa cảm thấy lòng mình như có lửa đốt. Chỉ một tiếng chim
kêu, một cái nhìn cũng gây cho con người xúc động mãnh liệt. Tại sao giặc Mĩ đã nhẫn
tâm sát hại hàng triệu người lại không mảy may thương tiếc?

49
Bài “Sao không về Vàng ơi?” là tiếng gọi của một em nhỏ bị mất con vật thương
yêu thất. Ta cảm nhận trong từng lời thơ là nỗi nhớ nhung da diết, là niềm mong chờ con
Vàng quay trở về. Trần Đăng Khoa nhớ từng cử chỉ mừng rỡ của nó mỗi khi Trần Đăng
Khoa đi học về:
Đầu tiên mày rối rít
Cái đuôi mừng ngoáy tít
Rồi mày lắc cái đầu
Khịt khịt mũi, rung râu
Rồi mày nhún chân sau
Chân trước chồm, mày bắt…
Trong tập thơ có những bài được viết theo thể thơ lục bát: Mẹ ốm, Tiếng nói, Hạ
Long, Quê em,… Những bài này mang giọng hết sức thiết tha, gợi cho người đọc sự cảm
động. Mẹ ốm là tâm tình của một đứa con hiếu thảo:
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan…
Cả đời đi gió đi sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi
Mẹ vui con có quản gì
Ngâm thơ kể chuyện rồi thì múa ca
Rồi con diễn kịch giữa nhà
Một mình con sắm cả ba vai chèo
Trần Đăng Khoa viết bài thơ này bằng tất cả nhận thức sâu sắc và tình thương mến.
Trần Đăng Khoa ý thức sâu sắc những nỗi cơ cực mà mẹ đã chịu đựng qua từ “lặn”. Thử
tìm một từ nào khác thay thế thì ý thơ sẽ giảm đi rất nhiều. Bài thơ gây cho người đọc
niềm xúc động thực sự bởi những suy nghĩ vừa hồn nhiên vừa sâu sắc và giọng thơ tha
thiết, chứa chan tình cảm.
1.2. Giọng triết lí, suy tư
Trần Đăng Khoa là chú bé thiếu nhi làm thơ nhưng thơ Trần Đăng Khoa khi đó
không phải chỉ dành riêng cho thiếu nhi đọc. Ở lứa tuổi còn chơi giun, chơi dế, Trần Đăng
Khoa đã “già trước tuổi” khi mang vào thơ mình những chuyện chẳng trẻ con chút nào.
Tác giả vượt qua rất nhanh những bài thơ tả cảnh và nói tình theo đạo đức quy ước của thời
đại mình đang sống để tiến tới các bài thơ sâu sắc tình đời, thấm thía buồn vui của thân
phận làm người. Dưới ngòi bút viết chữ còn nguệch ngoạc của chú bé nông thôn ấy đã hiện
lên sâu sắc cả thế giới tâm sự của con người - con người Việt Nam, con người nông dân xã
Quốc Tuấn quê em và con người tổng quát của cõi người.
Hơn thế, trong bài “Trăng sáng sân nhà em” tâm linh chú bé Trần Đăng Khoa còn
có mối giao hòa với vũ trụ. Một đêm trăng sáng trước sân nhà, Trần Đăng Khoa cảm nghe
được trong sự im lặng của đất trời, tiếng nói của hư vô biểu hiện bằng ánh sáng soi tỏ
50
xuống sân nhà. Trần Đăng Khoa biết đánh thức trầu rồi mới hái nó cho bà, cho mẹ. Trần
Đăng Khoa xem trầu như một người bạn nên rất nhẹ nhàng, từ tốn. Chú bé biết lắng nghe
và biết nói với thiên nhiên. Dường như trong tâm hồn của mỗi thi sĩ đều có con người kì
diệu đó, không phân biệt lớn tuổi hay nhỏ tuổi. Thuở bé, Trần Đăng Khoa hay lên Côn Sơn
viếng đền thờ Nguyễn Trãi. Không biết thuở ấy Trần Đăng Khoa đã biết gì về thơ Nôm của
Nguyễn Trãi chưa nhưng rõ ràng trong hồn, Trần Đăng Khoa tự cảm nhận một mối giao
lưu với người xưa – cũng là cảm xúc tâm linh u uẩn. Trong Đêm Côn Sơn khi tiếng chim
tiếng suối nhỏ dần và thành mờ ảo thì Trần Đăng Khoa nghe rộn lên tiếng sấm, tiếng
chuông, tiếng gió,… lại cả tiếng ngâm thơ nữa. Bài thơ tinh vi trong bút pháp khi tả thật
lẫn tả ảo và càng tinh vi lúc từ cái thật mở sang cái ảo, cái lá đa rơi ở cõi người nhưng
tiếng động của nó như từ cõi tâm linh:
Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
“Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” - Câu thơ bật ra tưởng chừng ngẫu nhiên,
chỉ là một thoáng cảm bằng tai, nhưng đọc kỹ cả đoạn, cả bài, không khó khăn nhận ra sự
bất chợt ấy bắt đầu từ sự rung động của trái tim, sự bất chợt ấy có vẻ vô thức, nhưng lại là
tích góp đã được chuẩn bị của ý thức. Bởi thế câu thơ trở nên có hồn, có thần. Nếu như ta
đã từng cảm phục Nguyễn Khuyến không màng công danh trở về hòa hồn mình với làng
quê mùa thu yên ả đã cảm nhận được “lá vàng trước gió khẽ đưa vèo” thì ta sẽ ngạc nhiên
hơn khi người thốt ra câu “tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” là một cậu bé mới 10
tuổi đầu. Mọi người kinh ngạc khi đọc những câu thơ u uẩn của chú bé Trần Đăng Khoa.
Cái hồn bé thơ ấy như sớm nhận được những tín hiệu mang mang xa rộng và sâu thẳm từ
cuộc đời. Nhưng chúng ta thật sự cảm thấy gần gụi khi thấy ở nơi Trần Đăng Khoa những
cảm xúc đời sống chân thật, rất thật như vốn có ở mỗi ngày thường mà lại thật sâu nặng
chất nhân văn như những chiêm nghiệm của một triết gia cao niên đã chứng kiến nhiều
nhiều biến đổi của cuộc đời. Trần Đăng Khoa kể chuyện bé Giang đánh tam cúc với con
mèo. Con người bé trông nhà một mình thì phải lấy mèo làm bạn, gạ nó đánh tam cúc với
mình vì duy chỉ có nó không phải làm việc đồng áng như những người lớn trong nhà của
em. Dường như con mèo biết được điều đó nên nó luôn tỏ ra nũng nịu, vòi vĩnh. Nó cứ
phỏng mũi “ngoao ngoao”, khi thua thì dỏng tai, xanh mắt lên không chịu. Thế là con
người, dù bé, cũng phải nhường “à thôi mày được”. Cuộc chơi tiếp tục được là nhờ thế.
Muốn làm người thì phải thế chứ sao! Loài vật nào chẳng hiếu thắng. Chỉ có con người
mới biết nhường nhịn, biết thua để cuộc sống luôn hòa bình, đầy tình thương. Thơ của một
em bé mới mười một tuổi đã chứa đựng những triết lí của một triết gia. Đó cũng là một
trong những điểm độc đáo của thơ Trần Đăng Khoa so với thơ của các em thiếu nhi cùng
tuổi.
Ngoài ra, Trần Đăng Khoa có bài thơ tám câu Cháu làm bà còng ít thấy ai nói tới
nhưng đấy là bài thơ thấm đượm buồn vui sâu sắc của kiếp người. Cháu Minh Hà của Trần
51
Đăng Khoa chân đi còn chưa vững nhưng lại biết nhại dáng đi của người bà cao tuổi, mắt
đã mờ, lưng đã còng:
Tay vắt vẻo lưng cong
Đầu vấp va vấp vểnh
Trò chơi ấy là trò trẻ con ở đâu ở đâu ta cũng thấy bởi trẻ con hay bắt chước lời nói,
hành động của người lớn. Ta cười xòa rồi quên đi. Trần Đăng Khoa đã cho ta thấy một
chiều sâu nhân thế bằng bốn câu thơ nói bốn phản ứng tâm lí của bốn thứ nhân và vật thế
này:
Mèo tròn mắt lạ lùng
Chị cười lăn ra đất
Mẹ ngồi lặng hồi lâu
Bà đứng trào nước mắt
Chị cười lăn hồn nhiên. Mẹ ngồi lặng nghĩ ngợi mà bà thì trào nước mắt. Tại sao lại
khác nhau như thế? Bởi vì nỗi từng trải của mỗi người. Trần Đăng Khoa không nói nhiều,
thậm chí là không nói gì mà lại chạm vào nỗi đau nhân thế, mà người đọc cảm nghe bao
nỗi dâu bể đoạn trường của thân phận con người. Mỗi chặng đường đời lại thấm thía thêm
nỗi sâu nặng của thân phận ấy. Phải đến tuổi già như bà mới biết đời người chỉ dài bằng
một trò chơi: Chân vừa đi khuệnh khoạng chưa vững đấy mà giờ đã còng rồi. Đừng vội
cho rằng đây là tư tưởng bi quan, ủy mị của Trần Đăng Khoa. Hãy để hồn mình lắng đọng
sau những thăng trầm, biến cố trong cuộc sống, chắc hẳn chúng ta cũng có cùng suy nghĩ
về cuộc đời như Trần Đăng Khoa vậy.
Bài thơ Mẹ ốm được mọi người đánh giá rất cao. Những bà mẹ khi được các con
mình đọc cho nghe không khỏi trào nước mắt vì cảm động. Từng chữ, từng câu trong bài
thơ rất tự nhiên, chân thực và cũng rất tinh tế, sâu sắc. Câu thơ “Cả đời đi gió đi sương -
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi” đã khiến cho các nhà thơ lớn tuổi, có kinh nghiệm cũng
phải ngả mũ chào. Bởi vì, “nếu họ có được cái tinh tế và nhạy cảm như Trần Đăng Khoa
thì họ sẽ làm cho câu thơ già đi”[10;341] hoặc làm cho nó mang vẻ ngô nghê, trẻ con một
cách gượng gạo rất khó chịu. Trần Đăng Khoa viết hai dòng này thật cô đọng, không có từ
nào là thừa. Từ nào cũng hàm chứa một lượng thông tin cần thiết, chính xác và biểu cảm lạ
lùng. Tác giả đã phải vận động cùng lúc hai quá trình trái ngược nhau: Vừa phải trưởng
thành, chính chắn hơn để nhìn nhận sự việc lại vừa phải quay về bản chất trẻ con của mình
để có được cái nhìn thuần khiết như thế.
Tính triết lí trong thơ của Trần Đăng Khoa không tập trung ở một bài nào mà rải
đều khắp, ngay cả trong lúc nghịch ngợm, đùa vui. Tác giả Góc sân và khoảng trời thả
cánh diều tuổi thơ bay lên trời cao rồi từ đó mà ngắm nhìn làng mạc, mái trường, dòng
sông, cánh đồng,… của quê hương. Cứ ngỡ đây là một bài thơ ca ngợi cảnh quê hương
tươi đẹp. Nhưng câu cuối : “Dây diều em cắm - Bên bờ hố bom” (Thả diều) đã làm cho
phương hướng cảm nhận của người đọc bị đảo lộn một cách bất ngờ. Đến lúc này thì bài
52
thơ đã thực sự phát lộ ra những lớp nghĩa mới mẻ và giàu sức khái quát. Với hình ảnh diều
và hố bom, bài thơ Thả diều của Trần Đăng Khoa bỗng trở thành một triết lí về sự sống
của dân tộc: Sự sống bay lên từ trong cái chết, kẻ thù có thể giết chết chứ không thể thể
hủy diệt được con người Việt Nam. Cánh diều tuổi thơ không chỉ bay lên bầu trời cảm xúc
mà còn bay vào bầu trời của suy tưởng, triết luận. Nhưng, triết luận không phô trương cho
mọi người thấy mà là ẩn mình một cách kín đáo vào hình ảnh cánh diều bay cao bất chấp
sự đe dọa của bom đạn – một hình ảnh tươi tắn mà cũng rất thâm trầm tạo nên bởi tâm hồn
lạc quan của thi sĩ thiếu nhi Trần Đăng Khoa.
Đọc thơ Trần Đăng Khoa, ta thấy rất nhiều câu thơ mang màu sắc triết lí tạo cho câu
thơ thêm chiều sâu lẫn chiều rộng mà nhà thơ Xuân Diệu đã gọi là “bút pháp người lớn”.
Nhìn Bàn chân thầy giáo, Trần Đăng Khoa đã thốt lên những lời thơ đầy suy tư, triết luận:
Ôi, bàn chân
In lên cổng trường những chiều giá buốt
In lên cổng trường những đêm mưa dầm
Dấu nạng hai bên như hai hành lỗ đáo
Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo
Như nhận ra cái chưa hoàn hảo
Của cuộc đời mình
Bài thơ này Trần Đăng Khoa làm vào năm 1972, nghĩa là em chỉ mới 14 tuổi. Vậy
mà câu thơ lại già dặn như thế. Từ xưa, ông bà ta đã đúc kết được một điều “nhân vô thập
toàn” - câu nói ấy là chân lí của mọi thời đại. Phàm là con người thì không ai được trọn
vẹn tất cả. Thầy giáo đã gửi lại một phần cơ thể ở vùng đất đầy máu lửa của Tổ quốc. Với
những gì còn lại của cơ thể và một tấm lòng trọn vẹn với phấn trắng, bảng đen, với đàn trò
nhỏ ngây thơ, thầy đã tiếp tục những tháng ngày cống hiến cho đất nước. Khi xưa và hiện
tại, thầy đều cống hiến tất cả cho cuộc đời, cho đất nước. Trần Đăng Khoa đã nhận ra
những cống hiến đó và cả sự nỗ lực phi thường ẩn trong con người đáng kính đó.
Từ nhìn nhận này mà sau đó ba năm (năm 1975), Trần Đăng Khoa đã tình nguyện
vào bộ đội để chiến đấu, để xứng đáng hơn với thầy, với các cha anh của mình. Có thể lắm
chứ! Khi chúng ta nhận thức sâu sắc một người nào đó có những nghĩa cử cao đẹp, bất
chợt chúng ta sẽ nhìn lại mình xem có được như người ấy chưa. Nếu chưa, chúng ta luôn
muốn được như vậy. Trần Đăng Khoa cũng như thế. Trần Đăng Khoa đã từng lăn lộn
nhiều năm ở chiến trường Campuchia và ở quần đảo Trường Sa đầy nắng, gió và sóng
biển.
Bài thơ Sao không về Vàng ơi người đọc cảm động sâu sắc trước nỗi buồn, nỗi đau
của một em bé bị mất đi một con vật mà em yêu thương. Trẻ em rất yêu các vật nuôi trong
nhà. Trong mắt các em, những con Vàng không là con vật mà là một người bạn thân thiết.
Đâu chỉ có thế, chúng ta còn nhận ra một điều: từ nỗi hoảng sợ của một con chó đã tố cáo
và khinh bỉ chiến tranh. Thì ra, tiếng bom rùng dữ dội là thế mà chỉ làm cho một con chó
53
hoảng sợ. Tiếng bom ấy chỉ có tác dụng đe dọa được con vật, còn người thì không. Loài
vật hoảng sợ vì chúng không có sức mạnh tinh thần. Ẩn bên trong con người trên mảnh đất
diều kì Việt Nam từ bao đời nay luôn sục sôi tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Thơ Trần Đăng Khoa viết hồn nhiên, trong sáng, đó là đặc điểm của thơ thiếu nhi.
Hồn nhiên nhưng khá suy tư và đôi khi chạm vào nỗi đau nhân thế. Các bài: Cháu làm bà
còng, Con cò trắng muốt, ao nhà mùa hạn, Bến đò, Cơn dông,… thể hiện sâu sắc điều đó.
Trần Đăng Khoa miêu tả những điều trông thấy nhưng Trần Đăng Khoa không phải trông
thấy cái xác mà thấy cả cái hồn. Mọi người đồng cảm với Trần Đăng Khoa một điều:
Ai cũng chỉ có một lần
Cái thuở thơ ngây…
(Bến đò)
Ta nghe như giọng nói của một nhà hiền triết. Chẳng biết khi viết câu thơ này Trần
Đăng Khoa có biết đến câu nói nổi tiếng của Hecralit “Không ai có thể tắm hai lần trên
một dòng sông” hay chưa. Những câu như thế quả là rất già so với tuổi 14 của tác giả.
Hình ảnh quả bòng trong cơn dông rụng xuống ao nhưng lại “chẳng chịu chìm” gợi
cho Trần Đăng Khoa tư thế hiên ngang, bất khuất của một con người.
Trong bài Ghi chép về ngọn đèn dầu, Trần Đăng Khoa đã dùng chất liệu đơn sơ và
với bốn câu ngắn gọn đã nêu được suy nghĩ, cảm xúc của mình:
Đứng giữa nhà mà cháy
Mà tỏa sáng xung quanh
Chỉ thương cây đèn ấy
Không sáng nổi chân mình…
Trần Đăng Khoa chỉ nói một điều giản đơn rằng cây đèn có thể tỏa sáng cho mọi vật
xung quanh nhưng nó không soi sáng cho bản thân mình được. Dưới chân nó luôn là bóng
tối. Bài thơ có tựa đề là ghi chép chứ không phải là sáng tác nhưng chất thơ, chất triết luận
đã xuất hiện. Hai câu thơ cuối làm chúng tôi suy nghĩ thật nhiều. Cây đèn dầu gợi sự liên
tưởng đến những con người trong cuộc sống. Cả cuộc đời họ chỉ biết sống, cống hiến và hi
sinh chứ chưa hề, không hề nhận hay mong được nhận một sự đền đáp nào. Nhưng đến
lượt họ thực sự cần một sự giúp đỡ từ người khác thì đâu phải lúc nào cũng được. Thế nên,
cuộc sống cần rất nhiều những cây đèn dầu sẵn sàng tỏa sáng cho nhau. Mỗi người chúng
ta hãy là một cây đèn dầu thì cuộc đời sẽ sáng bởi nghĩa tình của chúng ta dành cho nhau:
Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau.
(Tố Hữu)
2. Trí tưởng tượng, liên tưởng phong phú
Người ta nói rằng tâm hồn của con người thuở hồng hoang với tâm hồn của một đứa
trẻ con có một sự gắn bó rất đặc biệt mà chúng ta khó có thể giải thích được. Đó là sự đồng
điệu về cách nhìn và cách cảm thế giới. Người xưa không thể giải thích được các hiện
54
tượng tự nhiên xã hội nên họ lí giải bằng trí tưởng tượng nhiều màu sắc thần thánh. Trẻ
con cũng thế, khi chúng bắt đầu biết quan sát sự vật vật xung quanh thì mọi cái trong mắt
chúng đều là lí thú và bí ẩn.
Một trong những yếu tố làm cho thơ Trần Đăng Khoa có những nét không thể lẫn
lộn với thơ của các em thiếu nhi khác là trí tưởng tượng rất phong phú, mạnh mẽ, rất riêng
của mình. Những liên tưởng của Trần Đăng Khoa thật lạ lẫm, gây cho người đọc cảm giác
bất ngờ, thú vị. Nhìn một tượng đá trong ngôi đền Bãi Cháy, em chợt nhận ra một điều:
Và em bỗng hiểu ngôi đền
Hiểu ai tạc tượng người hiền cầm gươm
(Ngôi đền Bãi Cháy)
Thì ra, Trần Đăng Khoa liên tưởng đến hình ảnh chú bộ đội. Gương mặt hiền lành
gợi cho em biết bao tình cảm tốt đẹp. Gương mặt đó có những nét gì quen thuộc, dễ
thương dễ mến lạ lùng. Bộ đội ta khi chiến đấu với kẻ thù thì dũng cảm, hiên ngang nhưng
khi trở về cuộc sống đời thường, bên cạnh người thân quen thì rất hiền lành, chất phác.
Việc cầm vũ khí là một việc không hề mong muốn. Nhân dân Việt Nam không nuôi mộng
bá vương, không khát máu mà chỉ mong muốn cuộc sống hòa bình, tự do.
Sự liên tưởng phong phú ở nhiều bài thơ mang chất lãng mạn:
Vườn xanh biêng biếc tiếng chim
Dơi chiều khua chạng vạng
Ai dắt ông trăng vàng
Thả chơi trong lùm nhãn
(Hương nhãn)
Người đọc có thể nghĩ sao cũng được. Màu xanh có thể là của lá cây trong vườn,
cũng có thể tiếng chim làm cho khu vườn thêm sức sống, thêm xanh hơn. Cánh dơi bay
trên bầu trời đang sẫm tối như khua tất cả ánh sáng cất vào một nơi, cả ông trăng cũng
đang thập thò trong lùm nhãn. Một đêm có trăng nhưng không sáng vằng vặc như đêm
mười sáu cũng có nét huyền diệu trong con mắt của Trần Đăng Khoa. Ngay cả ánh trăng
đã trở nên thân thiết với mình, Trần Đăng Khoa cũng liên tưởng đến nhiều hình ảnh khác
nhau. Trăng có khi giống như một quả chín tròn mộng:
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà…
Có khi lại giống như:
Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi
Lúc thì lại giống như quả bóng mà Trần Đăng Khoa và các bạn thường chơi:
Trăng bay như quả bóng
Bạn nào đá lên trời…
(Trăng ơi… từ đâu đến…)
55
Trần Đăng Khoa có sự liên tưởng rất lạ. Khi nhắc đến con cò, mọi người hay nghĩ
đến người mẹ chịu thương chịu khó hay người nông dân lam lũ. Chỉ riêng Trần Đăng Khoa
nói về ý nghĩa hình ảnh con cò trong Con cò trắng muốt: “Khi mưa đến, lúa, Trần Đăng
Khoai cau đều hả hê hứng giọt mưa rơi, ếch nhái mở hội, cá múa tung tăng thì con cò lại
đứng trên cành cây ướt lông, chịu rét. Cháu nghĩ tới những anh bộ đội đã hi sinh”.
Việc gì đối với em Trần Đăng Khoa cũng mới mẻ bởi sự liên tưởng ngộ nghĩnh, vô
tận của mình. Nhìn cánh diều bay liệng trên bầu trời lộng gió, Trần Đăng Khoa nghĩ đến
nhiều hình ảnh khác nhau:
Sao trời trôi qua
Diều thành trăng vàng…
Diều hay chiếc thuyền
Trôi trên sông Ngân…
Diều là hạt cau
Phơi trên nong trời…
Diều em - lưỡi liềm
Ai bỏ quên lại…
(Thả diều)
Trong thơ ca, cơn mưa thường phảng phất nét buồn buồn. Thế nhưng, cảnh mưa
trong thơ Trần Đăng Khoa lại khác hẳn. Cơn mưa làm cho cây lá thêm xanh tốt, đất trời
như tăng thêm sức sống. Mọi vật hối hả trong cơn mưa làm cho Trần Đăng Khoa nghĩ đến
trò chơi đánh trận giả với đầy đủ hình ảnh của người dũng sĩ nơi trận mạc, các binh
lính,…: “Ông Trời - Mặc áo giáp đen - Ra trận - Kiến - Hành quân - Đầy đường…”.
Đọc Cơn dông, người ta cứ cảm thấy thú vị khi thấy Trần Đăng Khoa cũng biết chơi
chữ nữa:
Quả bòng chết chẳng chịu chìm
Ao con mà sóng nổi lên bạc đầu
Chơi chữ nhưng và có vẻ triết lí. “Ao con” là chiếc ao nhỏ thì phải vui đùa hồn
nhiên với những đợt sóng lăn tăn. Chỉ có biển lớn, sông sâu mới có những con sóng “bạc
đầu”. Hình ảnh trong cơn dông trái với lôgic thông thường, Trần Đăng Khoa đã tinh ý
nhận ra điều đó. Thật ra, cái gọi là tinh ý của Trần Đăng Khoa chúng ta cũng đã đôi lần bắt
gặp, nhưng có khi nào ta liên tưởng như Trần Đăng Khoa, có khi nào ta cảm thấy bứt rứt
không yên với hình ảnh mình bắt gặp và viết thành những vần thơ? Sự liên tưởng xuất hiện
nhiều trong thơ Trần Đăng Khoa bởi vì em còn đang tuổi thiếu nhi, mà thiếu nhi thì trí
tưởng tượng vô cùng tận. Những ý nghĩ rất người lớn ấy là do hoàn cảnh sống đã tạo nên
một Trần Đăng Khoa vừa hồn nhiên đáng yêu lại vừa sâu sắc, tinh tế.
3. Ngôn ngữ chính xác, sáng tạo, biểu cảm và giàu nhạc điệu
Tuy còn nhỏ nhưng Trần Đăng Khoa làm thơ rất có cân nhắc, lựa chọn theo suy
nghĩ của mình. Trong bài Mẹ ốm có câu “Cánh màn khép lỏng cả ngày” Trần Đăng Khoa
56
dùng rất chính xác. Tại sao khép lỏng mà không khép chặt ? Khép lỏng vì đằng sau cánh
màn luôn có sự hiện diện của em bé đang ngồi túc trực bên mẹ. Khép lỏng vì mẹ luôn được
mọi người vào ra thăm hỏi. Chỉ một chữ thôi, Trần Đăng Khoa đã cho chúng ta cảm nhận
được lòng yêu thương sâu đậm của chú bé dành cho mẹ, nghĩa tình láng giềng dành cho
nhau. Một trong những ý nghĩa của thơ là làm cho con người hiểu nhau, yêu thương nhau.
Trần Đăng Khoa đã làm được điều đó.
Trong lời hát ru cho đứa cháu nhỏ, Trần Đăng Khoa dùng từ rất đắt: “Đất đang chín
thóc - Trời đang chín trăng” (Cháu ngủ đi rồi…). Không thể tìm được một từ nào khác
thay thế từ chín mà Trần Đăng Khoa đã sử dụng. Với từ này, mặt đất và bầu trời có mối
quan hệ tương hỗ về màu sắc. Trăng chiếu ánh vàng xuống mặt đất làm cho thóc thêm rực
rỡ, ngời sáng và phản chiếu ngược trở lại làm cho trăng thêm lung linh, lấp lánh.
Trong Thôn xóm vào mùa:
Thóc mặc áo vàng óng
Thở hí hóp trên sân
Trần Đăng Khoa đã không đồng ý khi ban biên tập sửa lại “Thóc mặc áo vàng óng –
Nhảy nhót mãi trên sân”. Xuân Diệu hiểu được điều đó: “ Nhân vật chính là thóc, âm nhạc
chính là thóc, múa nhảy chính là thóc… hạt thóc gồm hai mảnh trấu quặp lại thành cái vỏ
nên khi thóc văng ra, thóc mệt, thở hí hóp như con cá có hai mang bị nằm trên cạn” (Một
em nhỏ làm thơ).
Nhạc điệu trong thơ Trần Đăng Khoa rất phong phú, đã số các bài đều có nhạc điệu,
âm sắc riêng: Trăng sáng sân nhà em, Đánh thức trầu, Vườn em, Mưa, Ò ó o..., Khi mẹ
vắng nhà, Buổi sáng sân nhà em, Sao không về vàng ơi, Tiếng võng kêu, Đêm Côn Sơn,
Trăng ơi…từ đâu đến... Nhạc điệu ở các bài ấy rất gần với ca dao, đồng dao của dân tộc ta.
Đó là do Trần Đăng Khoa được sinh ra trong một làng quê, một gia đình có truyền thống
về văn học dân gian và bản thân em cũng luôn cố gắng vận dụng, sáng tạo. Những câu thơ
có sử dụng các câu ca dao, đồng dao, nhưng Trần Đăng Khoa không lấy toàn bộ mà chỉ lấy
ý hay một vài từ rồi viết theo cách nghĩ, cách cảm của mình. Cho nên đọc thơ Trần Đăng
Khoa, chúng ta vừa có cảm giác quen quen mà cũng vừa có cảm giác thích thú vì một em
bé nhỏ tuổi như thế mà lại biết vận dụng linh hoạt văn học dân gian để biến cái chung
thành cái riêng của mình.
Thơ thiếu nhi do các em viết hay do người lớn viết cho các em thì thường sử dụng
câu gồm bốn hoặc năm chữ. Một câu thơ ngắn tạo nên ngữ điệu đơn giản, nhịp nhàng các
em sẽ dễ tiếp thu hơn, bởi tư duy, cảm xúc của trẻ em chưa trưởng thành như người lớn.
Điều này giải thích vì sao trong các trò chơi dân gian của trẻ em có rất nhiều bài đồng dao.
Trần Đăng Khoa trong tập Góc sân và khoảng trời đã viết nhiều bài gồm các câu
thơ bốn, năm chữ: Hạt gạo làng ta, Tiếng võng kêu, Hà Nội, Chụp ảnh, Chiếc ngõ nhỏ,
Lọc cà lọc cọc,... Đặc biệt hơn, bài “Ò ó o...” chủ yếu sử dụng các câu thơ chỉ có hai, ba
chữ:
57
Ò... ó... o...
Ò... ó... o...
Tiếng gà
Tiếng gà
Giục quả na
Mở mắt
Tròn xoe
Giục hàng tre
Đâm măng
Nhọn hoắt....
Câu thơ có tác dụng khác là có nhiều vần liên tiếp nhau hơn nên dễ đọc, dễ nhớ và
âm vang hơn bởi tính nhạc. Hãy đọc lại các bài thơ vừa nêu, nhất là bài “Ò ó o...” sẽ thấy
rõ điều đó. Bài thơ liên tục chuyển nhịp từ 3/ 2/ 2 đến 3/ 2, sau đó trở lại 3/ 2/ 2 và kết thúc
bằng nhịp điệu 3/ 2 gợi cho người đọc cảm giác cuộc sống với những âm thanh và nhịp
điệu thúc giục mọi người mọi, vật hãy cùng hoạt động, cùng chung sức hát lên khúc nhạc
yêu thương, cùng lao động hết mình phục vụ cho công cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc
ta. Âm thanh tiếng gà lan xa, vận động được Trần Đăng Khoa sử dụng để tác động đến các
vật khác, làm cho nó cũng vận động theo (na mở mắt, tre đâm măng, hạt đậu nảy mầm,
buồng chuối tỏa hương...). Na, tre, buồng chuối, hạt đậu,... thực sự có vận động nhưng rất
chậm, không nhìn thấy được. Nhưng ở đây, cả hai vận động như cuốn phim quay chậm và
hình như sự vận động ấy hòa nhịp với âm thanh tiếng gà. Đem cái động và âm thanh cho
cái tĩnh, cái yên lặng làm cho sự vật thú vị, kì ảo. Dường như, tất cả tập trung trong một
hoạt động rộn ràng, nhịp nhàng bên nhau. Trần Đăng Khoa không sử dụng nhiều từ mới lạ,
phức tạp mà là những từ có sẵn, đơn giản nhưng với sự sáng tạo, cái nhìn độc đáo, sự liên
tưorng mới mẻ, biết vận dụng các phép chuyển nghĩa bài thơ có một sức hấp dẫn kì lạ. Các
động từ sử dụng trong bài thơ là động từ mạnh như thúc giục sự vật vận động và phát triển.
Trong cái nhìn của trẻ con, sự vật vốn rất quen thuộc đối với mọi người lại trở nên
mới lạ, hấp dẫn như lần đầu tiên ta nhìn thấy con cò trắng “khiêng nắng qua sông...”. Cái
nón là đồ vật nhỏ bé gần gũi. Đội nón là một việc bình thường. Mấy ai trong chúng ta quan
tâm đến điều đó. Vậy mà nhà thơ nhỏ tuổi đã thấy được cái hay của việc đội nón đấy. Thế
là Trần Đăng Khoa tạo điều kiện để thay đổi cái nón cụ thể, nhỏ bé bằng khoảng không
gian rộng lớn, sôi động với âm thanh, hình ảnh đầy biến động trong Mưa:
Bố em đi cày về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa...
Trần Đăng Khoa đã thay chiếc nón lá cọ bằng sấm, chớp trong cơn mưa và người
bố - một nông dân bình thường - trở nên vĩ đại như một vị tướng oai hùng dám đối đầu với
58
thiên nhiên. Hình ảnh này Trần Đăng Khoa đã trông thấy nhiều lần. Bằng tình cảm yêu quý
dành cho bố Trần Đăng Khoa đã viết về bố rất đẹp. Người nông dân Việt Nam vất vả lao
động trên cánh đồng, dầm mưa dãi nắng là việc rất đỗi bình thường, quen thuộc. Cả bài thơ
chỉ có hơn một trăm tiếng mà tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc quang cảnh, cảm giác
mát mẻ lạ thường của đất trời, cây cỏ, loài vật và con người. Với bài thơ này, Trần Đăng
Khoa không chỉ riêng dành để ca ngợi, cảm ơn bố mà còn dành tình cảm đó cho tất cả
những người đã ngày ngày chăm lo cho để mọi người yên tâm lao động, chiến đấu và để
Trần Đăng Khoa tiếp tục viết nên những bài thơ như “hạt gạo làng ta”.
Và đây nữa, âm thanh của tiếng võng ngân lên theo từng nhịp điệu bài thơ:
Kẽo cà kẽo kẹt
Kẽo cà kẽo kẹt
…Kẽo cà kẽo kẹt
Kẽo cà…
kẽo kẹt…
Chúng ta hình dung được cảnh một em bé đang say giấc nồng và âm thanh của tiếng
võng gợi nhớ về một thuở ấu thơ mà ai cũng từng trải qua. Nhịp thơ 2/2 gợi vẻ đong đưa
của nhịp võng đều đặn. Bài thơ kết thúc với “kẽo cà – kẽo kẹt…” mà âm thanh võng đưa
sao còn ngân vang mãi.
4. Biện pháp tu từ
4.1. Nhân hóa
Tập thơ Góc sân và khoảng trời có rất nhiều sự vật, con vật được miêu tả với các
nét tính cách, hành động của con người. Đó là con mèo hiếu thắng cứ dỏng tai, xanh mắt
“ngoao ngoao” đến khi bé Giang chịu nhường phần thắng trong trò chơi đánh tam cúc. Ếch
là cậu học trò chăm chỉ học bài râm ran trong đêm. Cào cào, cóc tía, chích chòe,… đều có
đặc điểm hình dáng, tính cách riêng biệt. Thế giới loài vật trong cảm nhận của trẻ thơ sao
mà đáng yêu lạ. “Hay nói ầm ĩ - Là con vịt bầu - Hay hỏi đâu đâu - là con chó vện - Hay
chăng dây điện - Là con nhện con…” (Kể cho bé nghe).
Trong bài Mưa, tác giả có cái nhìn rất ngộ nghĩnh. Bầu trời nhiều mây đen báo hiệu
sắp mưa được nhân hóa thành dũng sĩ oai hùng “Mặc áo giáp đen - Ra trận”. Những cây
mía là các tướng sĩ đang “múa gươm”. Tiếng sấm không làm cho Trần Đăng Khoa sợ mà
còn thích thú vì tiếng cười “khanh khách” - tiếng cười nghe rất sảng khoái. Ngọn mồng tơi
thì “nhảy múa” vui tươi. Tất cả sự vật hào hứng, sẵn sàng đón nhận cơn mưa. Bài thơ chỉ
hơn trăm chữ mà miêu tả được cùng lúc nhiều sự vật trong cơn mưa. Mỗi sự vật có những
thể hiện khác nhau làm cho người đọc bất ngờ, thích thú vì cái nhìn ngộ nghĩnh, đáng yêu.
Đây là hình ảnh đàn kiến lũ lượt đưa ma bác Giun:
Cầm hương, Kiến Đất bạc đầu
Khóc than Kiến Cánh khoác màu áo tang
Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng
Kiến Kim chống gậy, Kiến Càng nặng vai…
59
(Đám ma bác giun)
Bài thơ như một bức tranh nhuốm màu u buồn của một đám đưa ma thực sự. Trong
đám ấy, kiến không còn là côn trùng nữa mà giống như con người với sự đa dạng về hình
dáng và tính cách. Kiến Kim thì chống Gậy đi một cách bệ vệ, Kiến Cánh thì mặc áo tang
vật vã khóc,… Trong khi kiến Đen đi ngất ngưởng vì đã say rượu, say thịt, kiến Gió lại
tranh thủ chia phần về mình. Đám ma tưởng như có vẻ tang thương, bi ai lắm nhưng thực
chất lại không phải như thế. Giun và Kiến nào có họ hàng gì đâu. Thế nên, khi loài kia chết
đi thì loài còn lại được dịp hưởng lợi, cớ sao phải buồn? Rõ ràng trong cuộc sống vẫn có
cảnh tượng như thế. Nhà thơ Trần Đăng Khoa kể lại khi trông thấy các con kiến bâu quanh
một con giun đất, Trần Đăng Khoa đã chăm chú quan sát và chợt nảy ra ý định rủ các bạn
sau buổi học đi bắt các loại kiến. Bài thơ đã ra đời như thế đấy.
Trong nỗi nhớ thầy giáo đã đi bộ đội, Trần Đăng Khoa tưởng như cả con đường
cũng biết nhớ, biết thương như con người với lời tâm sự:
Đường rằng: Tao nhớ lắm thay
Khoa ơi, thầy giáo của mày đã xa
Bao giờ thống nhất nước nhà
Thầy về dạy học lại qua đường này…
(Hỏi đường)
Trong Buổi sáng nhà em, các sự vật cũng được Trần Đăng Khoa thổi vào linh hồn:
Ông Trời nổi lửa đằng đông
Bà Sân vấn chiếc khăn hồng đẹp thay…
Cậu Mèo đã dậy từ lâu
Cái tay rửa mặt cái đầu nghiêng nghiêng
Mụ Gà cục tác như điên
Làm thằng Gà Trống huyên thiên một hồi
Cái Na đã tỉnh giấc rồi
Đàn chuối đứng vỗ tay cười vui sao
Chị Tre chải tóc bên ao
Nàng Mây áo trắng ghé vào soi gương
Bác Nồi Đồng hát bùng bong
Bà Chổi loẹt quẹt lom khom trong nhà…
Trần Đăng Khoa gọi các con vật, đồ vật trong nhà mình bằng các từ xưng hô mật
thiết: Ông Trời, bà Sân, cậu Mèo, cái Na, Chị Tre, bác Nồi Đồng,… Những sự vật, con vật
tưởng chừng không có gì đặc biệt lại trở nên sống động và ngộ nghĩnh trong cái nhìn trẻ
thơ. Trần Đăng Khoa miêu tả các con vật rất hợp với tính cách của chúng. Này là chú Mèo
đỏm dáng trong tư thế rửa mặt. Này là thằng Gà Trống ưỡn ngực gáy vang. Này là chị Tre
duyên dáng như một thiếu nữ đang chải tóc,… Một ngày mới đến với tất cả âm thanh, màu
sắc và hành động của sự vật và con người. Ta thấy đằng sau câu chữ là hình ảnh một chú
bé tinh nghịch đang nhìn ngắm mọi vật với niềm vui tươi, yêu mến.
Có điều đặc biệt là Trần Đăng Khoa nhìn một sự vật không phải bao giờ cũng
giống nhau. Lúc thì Trần Đăng Khoa trông cây dừa giống như một người chiến sĩ đứng
gác:
60
Đứng canh trời đất bao la
Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi
Lúc lại như một người bạn cùng Trần Đăng Khoa đùa nghịch trong mưa:
Cây dừa
Sải tay
Bơi
(Mưa)
Cây tre có khi là người con gái đẹp với mái tóc dài:
Chị Tre chải tóc bên ao
(Buổi sáng nhà em)
Tần ngần
Gỡ tóc
(Mưa)
Có khi giống như những cậu bé chăm chỉ học tập “Những cậu tre bá vai nhau thì
thầm đứng học” (Em kể chuyện này). Các con gà kiếm mồi trong sân cũng khơi dậy trong
lòng Trần Đăng Khoa niềm yêu thương tha thiết. Trần Đăng Khoa không xem chúng là
những con vật mà xem chúng cũng có tình cảm như người vậy:
Mày tớp mồi, nhằn nhường con tất cả
Diều con no kềnh, diều mày vẫn lép không
(Nói với con gà mái)
Chính vì thế, khi gà con bị chết vì bom Mĩ, gà mẹ giận dữ, đau xót:
Trong mắt vằn những tia máu đỏ
Cái nhìn cháy như hai hòn lửa
…Máu tóe rồi, những ngón chân rách nát
…Lối rộng không đi, cứ lao vào vách đất
Tiếng mày gọi con, tiếng con tiếng mất…
Và, hòn than trong thơ Trần Đăng Khoa biết yêu người thợ mỏ, muốn làm thơ để:
Ca ngợi Vịnh Hạ Long
Có màu xanh từ thuở Ngô Quyền
Con sống vẫn reo trên xác giặc
Ca ngợi bác công nhân
Sớm sơm lên tầng
(Lời của Than)
4.2. So sánh
Một điều dễ thấy trong thơ thiếu nhi là các hình ảnh được các em so sánh ví von
theo cách nhìn nhận của mình. Chưa thể giải thích, gọi tên được các sự vật nên các em lấy
sự vật này để so sánh với sự vật kia.

61
Tập thơ Góc sân và Khoảng trời có đến rất nhiều bài thơ có sử dụng biện pháp so
sánh. Trong mỗi bài lại có nhiều sự vật được so sánh: Hạt gạo làng ta, Lời của Than, Đi
tàu hỏa, Bà và cháu, Điều anh quên không kể,… Trần Đăng Khoa hay dùng từ “như” để so
sánh sự vật này với sự vật kia:
Hoa lựu như lửa lập lòe
Nhớ khi em tưới, em che hàng ngày…
(Hoa lựu)
Trăng hồng như quả chín…
(Trăng ơi… từ đâu đến…)
Cao cao ụ pháo như người đứng canh…
(Trận địa bỏ không)
Đôi khi Trần Đăng Khoa không dùng từ so sánh nhưng ta vẫn hiểu được:
Diều em - lưỡi liềm
Ai bỏ quên lại
(Thả diều)
Cùng một sự vật nhưng Trần Đăng Khoa lại so sánh với nhiều hình ảnh khác nhau:
Thả diều, Ngắm hoa, Trông trăng, Trăng ơi…từ đâu đến… Ánh trăng được Trần Đăng
Khoa miêu tả nhiều trong thơ mình. Nhìn trăng, Trần Đăng Khoa liên tưởng và hay so sánh
trăng với các vật khác nhau. Khi so sánh Trần Đăng Khoa lại thường xuyên biến đổi trong
cách nhìn. Lúc trông vào hình dạng: “Trăng tròn như mắt cá - Chẳng bao giờ chớp mi”,
“trăng như cái mâm con”, lúc trông màu sắc thì trăng vừa “hồng như quả chín” (trăng mới
nhú) vừa “nở vàng như xôi” (trăng đã lên cao),… Trần Đăng Khoa còn so sánh cánh diều
như chiếc thuyền trôi trên dòng sông Ngân Hà, như hạt cau phơi trên nong trời, như lưỡi
liềm ai bỏ quên lại sau mùa gặt hái,… Nước của Hồ Gươm xanh trong được Trần Đăng
Khoa ví như “pha mực”(Hà Nội). Đoàn tàu “như những con cá to” (Em về Hồng Gai). Bàn
tay Bác Hồ thì “mát như kem sữa” (Em gặp Bác Hồ),… Những gì Trần Đăng Khoa so sánh
mới ngây thơ và đáng yêu làm sao!
Có những sự vật chúng ta thấy bình thường nhưng qua cái nhìn trẻ thơ và cách so
sánh ví von của Trần Đăng Khoa, chúng ta bỗng thấy mới lạ, đôi lúc lại trầm ngâm suy
nghĩ. Mặt bão, bàn chân thầy giáo, Ngôi đền Bãi Cháy,… là những bài như thế.
Ai cũng biết khi cơn bão đi qua nơi nào là nơi đó bị tàn phá, bao nhiêu sức người
trở thành cát bụi. thế nhưng, có ai trong chúng ta nghĩ đến khuôn mặt cơn bão? Trần Đăng
Khoa đã làm điều đó. Bão trong cái nhìn của Trần Đăng Khoa làm chúng ta nhạc nhiên:
Bão đến ầm ầm
Như đoàn tàu hỏa
Bão đi thong thả
Như con bò gầy
(Mặt bão)
62
Chỉ với hai hình ảnh: đoàn tàu hỏa và con bò ốm yếu, gầy guộc chúng ta hình dung
được khuôn mặt của bão. Nó đến với sức mạnh hung hăng rồi bị suy yếu dần sau khi đã tàn
phá những công sức mà con người vất vả tạo ra. Bài thơ chỉ có tám câu thôi nhưng ai chưa
trải qua thực tế, chưa cảm thấy thấm thía sự mất mát do thiên tai gây ra thì không thể nào
viết được những câu như thế.
Thường thì trẻ em hay so sánh những cái trừu tượng, khó hiểu, khó diễn tả với
những cái cụ thể, dễ hiểu, dễ diễn tả. Ở một số bài trong tập thơ Trần Đăng Khoa không
làm như thế. Nghĩa là, từ một điều cụ thể, Trần Đăng Khoa so sánh với điều trừu tượng. Từ
những âm thanh của đoàn người đến gõ cửa Diêm vương, Trần Đăng Khoa cảm nhận:
Như thiên nhiên đang tạo sông dựng núi
Như trái đất đang hình thành…
Trần Đăng Khoa không dùng động từ mạnh để diễn tả âm thanh này, vậy mà chúng
ta vẫn cảm nhận được sự quyết liệt, thôi thúc. Câu thơ so sánh gợi ra trước mắt chúng ta
một cảnh hỗn loạn, ngổn ngang của vô số người đến Diêm Vương đòi công lí. Không cần
nói ra số lượng, tự chúng ta biết được rằng: một vài người thì không làm tạo ra được cảnh
đó. Đế quốc Mĩ với tội ác của chúng đã bị vạch trần.
Hình ảnh so sánh lạ còn xuất hiện khi Trần Đăng Khoa ngây ngất trước Hương
đồng:
Trời đất đêm nay
Như chim mới hót
Như rượu mới cất
Như mật mới đong…
Bông hoa mà em Giang ngắm cũng khơi dậy trong Trần Đăng Khoa niềm xúc động:
Màu đẹp hơn tranh
Càng nhìn càng thắm
Như màu của nắng
Như màu của mưa
Dịu dàng non tơ…
(Ngắm hoa)
So sánh như vậy, Trần Đăng Khoa đã truyền cho người đọc cái cảm giác ngây ngất
của mình. Những hình ảnh trong thơ rất tinh khiết, gợi cảm. Không ai bắt tác giả phải giải
thích rõ nắng mưa màu gì, tiếng chim mới hót nghe làm sao,... Chúng tôi nghĩ rằng, đây là
một trong những nét khác biệt giữa thơ Trần Đăng Khoa và thơ của các em thiếu nhi khác.
Chính cái cảm nhận tinh tế, sâu sắc và lạ lẫm đã thôi thúc Trần Đăng Khoa dày công tìm từ
diễn đạt hết ý của mình.
Nếu chú ý hơn, chúng ta sẽ nhận thấy rằng ngoài biện pháp nhân hóa và so sánh,
trong tập thơ còn có cả phép ẩn dụ. Những phép tu từ mà Trần Đăng Khoa sử dụng thường

63
được kết hợp tuyệt vời với khả năng nghe, khả năng giao cảm đặc biệt với vạn vật trong
đất trời:
À uôm Ếch nói ao chuôm
Rào rào Gió nói cái vườn rộng thênh
Âu âu Chó nói đêm thanh
Te... te... Gà nói sáng banh ra rồi
Vi vu, Gió nói Mây trôi
Thào thào Trời nói xa vời Mặt Trăng...
(Tiếng nói)
Qua ngòi bút của Trần Đăng Khoa, người ta thấy không gian nông thôn mới yên ả
làm sao với cái mùi ngây ngây của bùn, hương nồng nàn của đất,... Bình dị là thế nhưng
chính nơi đây đã trở thành máu thịt của con người, trong đó có Trần Đăng Khoa.

64
PHẦN KẾT LUẬN
55555
Với cảm hứng từ thiên nhiên Trần Đăng Khoa đưa vào thơ mình những hình ảnh
quen thuộc, gần gũi và thổi hồn vào cảnh sắc đó làm cho ta như được sống trong một làng
quê Bắc bộ yên ả, thanh bình. Tâm hồn thi sĩ trong con người bé nhỏ rất nhạy cảm, tinh tế,
lắng nghe và thấu hiểu mọi sự thay đổi, vận động của vạn vật dù là rất khẽ. Thế giới bên
ngoài bình thường, quen thuộc bước vào thơ Trần Đăng Khoa mang nhiều nét mới lạ, độc
đáo, ngộ nghĩnh. Trong thế giới đó, tất cả đều là bạn bè, đều có có niềm vui, nỗi buồn, đều
mang hơi thở của riêng mình và của mọi người, mọi vật xung quanh.
Người nông dân trong thơ Trần Đăng Khoa vẫn lao động vất vả, khó nhọc nhưng
năng động, yêu đời chứ không an phận như người nông dân trong ca dao xưa. Số phận của
những em bé trong chiến tranh qua ngòi bút của Trần Đăng Khoa thật đáng thương. Những
câu thơ của Trần Đăng Khoa không hoa mĩ, kiểu cách mà rất chân thành, sâu sắc, đầy ắp
tình thương mến và tin tưởng.
Trần Đăng Khoa nhìn sự vật bằng trí tưởng tượng, liên tưởng phong phú, độc đáo
làm cho mọi sự vật, sự việc đã quen thuộc với mọi người trở nên mới mẻ, hấp dẫn, sinh
động. Trần Đăng Khoa biết cách lựa chọn và nghiêm túc trong việc từ ngữ nên ngôn ngữ
sử dụng trong thơ rất chính xác, giàu hình ảnh và gợi cảm. Trần Đăng Khoa nhìn mọi vật
bằng cái nhìn của một em nhỏ nên các con vật, đồ vật đều có hồn, có hành động, tính cách.
Cùng một sự vật nhưng mỗi thời điểm, tâm trạng khác nhau Trần Đăng Khoa có lối so
sánh, nhân hóa khác nhau. Sự vật trong thơ Trần Đăng Khoa luôn vận động, sinh sôi, nảy
nở chứ không tĩnh tại, im lặng. Nhạc điệu trong tập thơ rất phong phú. Mỗi bài có một
nhạc điệu riêng phù hợp với đối tượng miêu tả, Tác giả biết vận dụng và vận dụng một
cách sáng tạo, linh hoạt ca dao, đồng dao Việt Nam, biến cái chung của mọi người thành
cái riêng của mình. Giọng thơ vừa hồn nhiên, trong sáng, thiết tha, vừa già dặn, triết lí gợi
cho người đọc nhiều suy nghĩ, suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời.
Với phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp đại học, người viết không có tham vọng
tìm hiểu tất cả về thơ của Trần Đăng Khoa. Bằng tấm lòng yêu mến nhà thơ cùng những
hiểu biết, tìm tòi của mình, người viết muốn khẳng định giá trị của tập thơ, những đóng
góp của nhà thơ Trần Đăng Khoa cho nền văn học nước nhà.

65
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Anh Ngọc. 2001. Hồn thơ thế kỉ - Nxb Văn hóa thanh niên – Hà Nội.
2. Bùi Công Hùng. 2000. Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại – Nxb
Văn hóa thông tin – Hà Nội.
3. Cao Đức Tiến. 2007. Văn học (Tài liệu đào tạo giáo viên) - Nxb Đại học
SP, NXB Giáo dục.
4. Hoài Thanh.1999. Hoài Thanh toàn tập – Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
5. Lã Thị Bắc Lý. 2003. Giáo trình văn học trẻ em – Nxb Đại học sư phạm.
6. Ngân Hà. 2003. Thơ Xuân Quỳnh và những lời bình – Nxb văn hóa thông
tin.
7. Nguyễn Duy Bắc. 1998. Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại
(1945 – 1975), Nxb Văn hóa dân tộc.
8. Nguyễn Hữu Đảng. 2000. - Giai thoại văn học – Nxb văn hóa dân tộc –
Hà Nội.
9. Nguyễn Văn Long. 2007. Giáo trình văn họcViệt Nam hiện đại, tập II -
Nxb Đại học sư phạm.
10. Nhà thơ Việt Nam hiện đại. 1984. Ủy ban KHXH Việt Nam, Viện Văn
học, Nxb KHXH – Hà Nội.
11. Phạm Hổ. 2003. Tuyển tập Phạm Hổ - Nxb Văn học – Hà Nội.
12. Toàn văn di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh. 1999. Nxb trẻ.
13. Trần Đăng Khoa. 2006. a. Góc sân và khoảng trời – Nxb Văn hóa dân
tộc – Hà Nội.
. 1974. b. BáoTiền phong (ngày 16 /04/ 1974)
14. Trần Đăng Xuyền. 2003. Tạp chí Văn học (số 4).
15. Trần Đình Sử. 2004. Từ điển văn học bộ mới – Nxb Thế giới .
16. Trần Đức Ngôn (chủ biên).1994. Văn học thiếu nhi Việt Nam –Trường
ĐH Sư phạm Hà Nội – Hà Nội.
17. Vân Thanh. 1973. Tạp chí Văn học (số 2/ 1973).
18. Võ Gia Trị. 1999. Nghệ thuật văn chương và chân lí – Nxb văn học.
19. Xuân Diệu. 1991. Tạp chí Tác phẩm mới (số tháng 5, 6/1991).

You might also like