Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 143

10 TIÊU CHÍ

VỀ GIÁ TRỊ NỔI BẬT TOÀN CẦU CỦA DI SẢN VĂN HÓA VÀ THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI
1. TIÊU CHÍ CỦA DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI

i) là một tuyệt tác của thiên tài sáng tạo;

ii) thể hiện sự giao thoa quan trọng của các giá trị nhân văn, qua một thời kỳ hay bên trong một khu vực văn
hoá của thế giới, về những phát triển trong kiến trúc, (kỹ thuật) công nghệ, nghệ thuật điêu khắc, quy hoạch
đô thị hay thiết kế phong cảnh;

iii) chứa đựng một minh chứng duy nhất hoặc ít nhất cũng hết sức khác biệt về một truyền thống văn hoá hay
một nền văn minh hiện vẫn đang tồn tại hoặc đã tuyệt vong;

iv) là một ví dụ nổi bật về một loại công trình xây dựng, một quần thể kiến trúc hoặc công nghệ, hoặc một
cảnh quan minh họa một (hoặc nhiều) giai đoạn trong lịch sử nhân loại;

v) Là một ví dụ tiêu biểu về sự định cư của con người hoặc một sự chiếm đóng lãnh thổ mang tính truyền
thống và tiêu biểu cho một hoặc nhiều nền văn hóa, nhất là khi nó trở nên dễ bị tổn thương dưới tác động của
những biến động không thể đảo ngược được;

vi) có liên hệ trực tiếp hoặc có thể nhận thấy được với những sự kiện hay các truyền thống sinh hoạt, với các ý
tưởng hay các tín ngưỡng, với các công trình nghệ thuật hay văn học có ý nghĩa nổi bật toàn cầu (Uỷ ban cho
rằng tiêu chí này nên được sử dụng kết hợp với các tiêu chí khác);

2. TIÊU CHÍ CỦA DI SẢN THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI

vii) Chứa đựng các hiện tượng, địa điểm tự nhiên hết sức nổi bật hoặc các khu vực có vẻ đẹp tự nhiên độc đáo
và tầm quan trọng về thẩm mỹ;

viii) Là những ví dụ nổi bật đại diện cho những giai đoạn lớn trong lịch sử của Trái Đất, trong đó có lịch sử về
sự sống, các quá trình địa chất quan trọng đang tiếp diễn trong sự phát triển của các địa mạo, hoặc các đặc
điểm quan trọng về địa chất hoặc địa lý tự nhiên;

ix) là những ví dụ nổi bật đại diện cho các quá trình sinh thái và sinh vật trong sự tiến hoá và phát triển của các
hệ sinh thái trên mặt đất, trong nước ngọt, nước biển và ven biển và các cộng đồng động - thực vật;

x) chứa đựng các môi trường sinh sống thiên nhiên quan trọng và có ý nghĩa nhất đối với việc bảo tồn tại chỗ
đa sạng sinh học, kể cả những nơi chứa đựng các giống loài bị đe doạ có giá trị nổi bật toàn cầu xét dưới góc
độ khoa học hoặc bảo tồn

1. CAO BẰNG
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 68
Cấp quốc gia: 25
Cấp quốc gia đặc biệt: 3
Di tích lịch sử Pác Bó (huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng).

+ Tên gọi: Khu di tích lịch sử Pác Bó

+ Loại di tích: Di tích lịch sử

+ Hạng di tích: cấp quốc gia đặc biệt

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: 548/QĐ-TTg ngày 10/5/2012

+ Lịch sử hình thành:

Pác Bó - tiếng Tày-Nùng có nghĩa là “đầu nguồn”, là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt bước chân đầu tiên trở về Tổ
quốc sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước. Người đã chọn Pác Bó làm nơi ở và hoạt động cách mạng trong
nhiều năm tháng của những năm 1941 - 1945. Tại Pác Bó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra nhiều chủ trương
và quyết định quan trọng chuẩn bị cho cuộc cách mạng Tháng Tám 1945.

+ Giá trị nổi bật:

Khu di tích Pác Bó có hơn 50 điểm di tích khác nhau, trong đó có nhiều điểm di tích quan trọng gắn bó với Bác
trong thời gian hoạt động cách mạng tại đây như: suối Lê Nin, núi Các Mác, hang Cốc Bó, nền nhà ông Lý Quốc
Súng, bàn ghế đá Bác ngồi làm việc,… đặc biệt tại lán Khuổi Nặm Người đã chủ trì Hội nghị Trung Ương Đảng
lần thứ VIII từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Hội nghị có ý nghĩa quan trọng quyết định đến vận mệnh của đất
nước.

Từ năm 1941 đến năm 1945, Pác Bó (Cao Bằng) là nơi đóng cơ quan “đại bản doanh” của cách mạng Việt Nam
do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo. Đây là đầu mối thông tin liên lạc giữa phong trào cách mạng
trong nước và ngoài nước, giữa miền núi và miền xuôi.

Cao Bằng tự hào là nơi chứng kiến và diễn ra hai sáng lập lớn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.
Đó là: sáng lập Mặt trận Việt minh và sáng lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Khu di tích Pác Bó
có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng đối với Đảng và nhà nước ta bởi nơi đây là nơi gắn liền với giai đoạn
lịch sử đặc biệt quan trọng trong cuộc đời sự nghiệp hoạt động cách mạng của chủ tịch Hồ Chí Minh và của
cách mạng ta trong những năm 1941- 1945.

Ngày nay, Pác Bó đã trở thành một quần thể di tích lịch sử văn hóa vô giá của dân tộc Viêt Nam. Pác Bó còn có
nhiều cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, sơn thủy hữu tình, xứng đáng là một địa chỉ đỏ trong việc giáo dục
truyền thống lịch sử, tinh thần yêu nước cho các thế hệ con cháu người Việt Nam khi đến tham quan, học tập,
tìm hiểu về cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

**

Khu di tích Pác Bó có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng đối với Đảng và nhà nước ta bởi nơi đây là nơi gắn liền
với giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng trong cuộc đời sự nghiệp hoạt động cách mạng của chủ tịch Hồ Chí
Minh và của cách mạng ta trong những năm 1941- 1945.
Tại đây, Nguyễn Ái Quốc đã có nhiều chủ trương và quyết định quan trọng cho cách mạng tháng Tám năm
1945. Người chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941. Hội nghị có ý nghĩa
quyết định đến vận mệnh của đất nước, xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam; quyết định thành lập
Mặt trận Việt Minh, biên soạn các tài liệu tuyên truyền cho cách mạng: Cuốn Lịch sử nước ta, Địa dư Bắc Kỳ,
Việt Nam ngũ tự kinh, cách đánh du kích, cuốn Điều lệ Đảng, Phụ nữ cứu quốc, Phụ lão cứu quốc,... Tổ chức
các lớp huấn luyện chính trị, quân sự, sáng lập báo Viện Nam độc lập - Cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Việt
Minh, báo Việt Nam độc lập ra đời có tác dụng thiết thực trong việc giáo dục, động viên quần chúng tham gia
cách mạng, báo Việt Nam độc lập đã trở thành ngọn đuốc soi đường dẫn dắt quần chúng tiến tới con đường
đấu tranh, thành lập đội du kích thoát ly đầu tiên ở Pác Bó (11/1941) gồm 12 người là tiền thân của đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân.

Di tích lịch sử Rừng Trần Hưng Đạo (huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng).

+ Tên gọi: Rừng Trần Hưng Đạo

+ Loại di tích: di tích lịch sử

+ Hạng di tích: cấp quốc gia đặc biệt

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013.

+ Lịch sử hình thành:

Rừng Trần Hưng Đạo là khu rừng nằm dưới chân núi Slam Cao tỉnh Cao Bằng. Nơi này là nơi đại tướng Võ
Nguyên Giáp tuyên bố chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội
Nhân dân Việt Nam hiện nay. Ông đặt tên Đội là "Trung đội Trần Hưng Đạo" theo tên gọi của vị anh hùng dân
tộc Việt Nam Trần Hưng Đạo. Khu rừng cũng được mang tên rừng Trần Hưng Đạo kể từ ngày đó.

+ Giá trị nổi bật:

Khu di tích quốc gia đặc biệt rừng Trần Hưng Đạo là nơi ghi dấu sự thành lập và hoạt động của Đội Việt Nam
Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là nơi gắn liền
với cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp - người học trò xuất sắc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh; là di tích lịch sử có giá trị giáo dục truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.

Khu di tích gồm 5 điểm quan trọng: Cụm di tích rừng Trần Hưng Đạo (gồm Địa điểm thành lập Đội Việt Nam
Tuyên truyền Giải phóng quân, Lán nghỉ và bếp ăn, mỏ nước phục vụ nước sinh hoạt, Đỉnh Slam Cao); Hang
Thẳm Khẩu (xã Tam Kim) - từng được sử dụng làm trạm liên lạc, đưa cơm phục vụ cho các đồng chí hoạt động
cách mạng; Đồn Phai Khắt (xã Tam Kim) - nơi diễn ra trận đầu ra quân của đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân (25/12/1944); Đồn Nà Ngần (xã Hoa Thám) - nơi ghi dấu trận đánh thứ 2 giành thắng lợi của Đội
Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (26/12/1944); di tích Vạ Phá (xã Tam Kim).

Di tích lịch sử Địa điểm Chiến thắng Biên giới năm 1950, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng
+ Tên gọi: Khu di tích lịch sử Chiến dịch Biên giới 1950

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: ngày 25/12/2017, Quyết định số 2082/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Di tích lịch sử Địa điểm Chiến thắng Biên giới năm 1950 có giá trị đặc biệt quan trọng gắn liền với sự nghiệp
hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và sự trưởng thành, phát triển
của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Các địa điểm Chiến thắng Biên giới năm 1950 cách thành phố Cao Bằng khoảng 40 km, có 19 điểm di tích được
phân bố thành 4 cụm di tích bao gồm: Cụm di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh với chiến thắng Biên giới năm 1950 (xã
Đức Long); Cụm di tích cứ điểm Đông Khê (thị trấn Đông Khê); Cụm di tích Khau Luông (xã Đức Xuân); Cụm di
tích Cốc Xả - điểm cao 477 (xã Trọng Con). Trong đó, các điểm liên quan đến Chiến dịch Biên giới năm 1950
được phân bố chủ yếu trong Cụm di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh với chiến thắng Biên giới năm 1950 và Cụm di
tích cứ điểm Đông Khê.

Khu di tích Quốc gia đặc biệt Địa điểm chiến thắng Biên giới 1950 là nơi bảo tồn, phát huy giá trị di tích về
Chiến dịch Biên giới năm 1950. Đây là chiến dịch có ý nghĩa quan trọng trong việc cổ động viên tinh thần chiến
đấu toàn quân, toàn dân, đánh dấu bước tiến nhảy vọt của quân đội ta về nghệ thuật chiến dịch, chiến thuật
mở ra bước ngoặt về hình thái chiến tranh du kích tiến lên chiến tranh chính quy; làm phá sản kế hoạch quân
sự, chính trị của thực dân Pháp. Chiến dịch Biên giới năm 1950 là chiến dịch duy nhất được đích thân Chủ tịch
Hồ Chí Minh trực tiếp ra mặt trận chỉ đạo đã động viên, cổ vũ mạnh mẽ đến dân công và bộ đội tham gia chiến
dịch, thể hiện ý chí quyết tâm một lòng đánh đuổi quân xâm lược của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.

2. BẮC KẠN
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 49
Cấp quốc gia: 7
Cấp quốc gia đặc biệt: 2

Danh lam thắng cảnh Hồ Ba Bể (huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn)

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:
+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 27/9/2012, 1419/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Hồ Ba Bể được hình thành cách đây khoảng 200 triệu năm về trước do một biến động địa chất lớn, làm sụt lún
các dãy núi đá vôi tạo thành, được bao bọc bởi các dãy núi đá vôi xen lẫn sa thạch cổ và các cánh rừng nguyên
sinh.

+ Giá trị nổi bật:

Hồ Ba Bể theo tiếng địa phương là "Slam Pé" (nghĩa là ba hồ) gồm Pé Lầm, Pé Lù và Pé Lèng. Đây là một trong
những hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất Việt Nam. Năm 1995, Hồ Ba Bể đã được Hội nghị Hồ nước ngọt thế giới
tổ chức tại Mỹ công nhận là một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ.

Từ núi cao nhìn xuống, hồ Ba Bể lọt thỏm giữa dãy núi đá vôi. Hồ co lại và bị kẹp giữa các vách đá dựng đứng.
Ba Bể càng đẹp hơn bởi tài nguyên rừng phong phú, đa dạng. Các nhà khoa học trong và ngoài nước đã phát
hiện trong lòng hồ có nhiều loài cá nước ngọt đặc trưng của vùng đông bắc Việt Nam, trong đó có các loài quý
hiếm như cá chép kính, rầm xanh, anh vũ và cá lăng.

Về cảnh quan, địa chất, đây là khu vực thể hiện rõ rệt dấu ấn lịch sử của các thời kỳ hình thành vỏ trái đất.
Về địa chất địa mạo, đây là vùng đá vôi cổ rộng lớn, có đặc điểm kiến tạo rất đặc biệt. Vài năm gần đây,
Viện địa chất phối hợp với Hội địa chất Bỉ đã tiến hành nghiên cứu vùng đá vôi Hồ Ba Bể. Họ khẳng định đây
là vùng đá vôi có niên đại 450 triệu năm. Ðiều kỳ thú là trong quá trình biến đổi địa chất, đá vôi đã biến thành
những mảng đá hoa cương. Theo các nhà địa chất thì việc đá vôi trở thành đá hoa cương là điều vô cùng độc
đáo và hiếm thấy. Giữa một vùng núi đá vôi lại có một cái hồ lớn, thật kỳ diệu. Đáy hồ có một lớp đất sét dày
tới 200 mét bịt kín, chính địa tầng sét này không cho nước thoát xuống và hồ được hình thành như vậy.

Di tích lịch sử An toàn khu (ATK) Chợ Đồn (huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2499/QĐ-TTg, đợt 7 (2016)

+ Lịch sử hình thành:

Khu di tích lịch sử ATK – Chợ Đồn (Bắc kạn) thuộc quần thể di tích Việt Bắc, nơi ghi dấu ấn hoạt động của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo trung ương trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954).

+ Giá trị nổi bật:


Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, nơi đây lại được Trung ương Đảng, Bác Hồ chọn
làm an toàn khu cho cuộc kháng chiến. ATK Chợ Đồn cũng là nơi ở và làm việc an toàn, bí mật của các cơ quan
Trung ương Đảng, Chính phủ, của các đồng chí lãnh đạo cấp cao và Bác Hồ. Tại đây đã có các quyết định lịch
sử quan trọng đối với vận mệnh của đất nước.

Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, cùng với các huyện Đại Từ, Định Hoá (Thái
Nguyên), Sơn Dương, Chiêm Hoá (Tuyên Quang), huyện Chợ Đồn nhận nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng: Được
Trung ương Đảng, Bác Hồ chọn là An toàn khu của cuộc kháng chiến. Mảnh đất này lại được đón nhận, che trở
cho các cơ quan Trung ương và các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước. Vinh dự và tự hào thay
cho cả dân tộc, huyện Chợ Đồn đã được đón Bác Hồ về ngày 8/12/1947 để lãnh đạo, chỉ đạo cuộc kháng
chiến. Trong thời gian từ năm 1947 đến 1951, Bác đã ở và làm việc tại Bản Ca, Nà Quân (xã Bình Trung), Nà
Pậu (xã Lương Bằng). Huyện Chợ Đồn còn chứng kiến sự có mặt của đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng ở Khuổi Linh (xã Nghĩa Tá); Thủ tướng Phạm Văn Đồng ở đồi Khau Mạ (xã Lương
Bằng); xóm Nà Quân (xã Bình Trung) được chọn làm điểm đặt hội trường Trung ương Đảng trong các năm từ
1947 đến 1952, là nơi diễn ra Hội nghị tổng kết Chiến dịch biên giới. Các địa danh này đã được Nhà nước xếp
hạng di tích lịch sử cấp quốc gia. Trong khoảng thời gian từ năm 1947 đến 1952, hầu hết các cơ quan Trung
ương đã đóng ở huyện Chợ Đồn như: Đài Tiếng nói Việt Nam, Cơ quan Vô tuyến điện, Nha kỹ thuật quân sự,
Trường Quân chính, Xưởng quân giới, Xưởng in báo Cứu Quốc, Trạm phẫu thuật quân y...

3. LẠNG SƠN
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 100
Cấp quốc gia: 28
Cấp quốc gia đặc biệt: 2

Di tích lịch sử Khởi nghĩa Bắc Sơn (huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn).

+ Tên gọi: KDT Khởi nghĩa Bắc Sơn

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: 2499/QĐ-TTg, đợt 7 (2016)

+ Lịch sử hình thành:

Cách đây 81 năm, vào ngày 27-9-1940, với lực lượng khoảng 600 người dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng,
nhân dân ta đã làm nên chiến công giải phóng châu lỵ Bắc Sơn, xóa bỏ chính quyền thực dân, phong kiến tại
đây, tạo tiếng vang lớn, mở ra thời kỳ đấu tranh mới cho cách mạng Việt Nam. Khu di tích Bắc Sơn trước đây là
vùng đất nuôi cách mạng, là nơi ẩn náu an toàn của các cán bộ cấp cao, là một trong những địa điểm liên lạc
kết nối Trung ương, xứ ủy Bắc Kỳ với các địa phương khác.

+ Giá trị nổi bật:


Khu di tích quốc gia đặc biệt – Khởi nghĩa Bắc Sơn là một trong những KDT có giá trị lịch sử tiêu biểu, quan
trọng trong hệ thống các di tích ghi dấu về lịch sử quân sự cách mạng Việt Nam. Đây là nơi diễn ra cuộc Khởi
nghĩa Bắc Sơn, cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu tiên do Đảng ta lãnh đạo góp phần tiến tới cuộc Tổng khởi nghĩa
Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi. Ngày nay, KDT đã trở thành một “Bảo tàng thu nhỏ sống
động”- nơi lưu giữ những dấu ấn về không gian, thời gian và những hiện vật gắn liền với một thời kỳ lịch sử
hào hùng của dân tộc.

KDT Khởi nghĩa Bắc Sơn có giá trị tiêu biểu, quan trọng trong hệ thống các di tích lịch sự quân sự cách mạng
Việt Nam, ghi dấu hàng loạt những sự kiện có ý nghĩa đặc biệt như: quá trình tiếp thu đường lối cách mạng và
sự ra đời của Chi bộ Đảng đầu tiên ở Bắc Sơn (1930 – 1936); phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ
và sự kiện thành lập Đảng bộ huyện Bắc Sơn (1936 – 1939); Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940) – khởi đầu cao
trào đấu tranh cách mạng trong cả nước; thành lập khu căn cứ du kích Bắc Sơn (16/10/1940); thành lập mặt
trận Việt Minh xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa (1941-1945); sự ra đời của Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn
tại căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai (tháng 2/1941)…

Di tích lịch sử Chi Lăng, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Quyết định số 1954/QĐ-TTg, ngày 31/12/2019

+ Lịch sử hình thành:

Khu di tích Ải Chi Lăng Xưa kia nơi đây là cửa ải thuộc trấn Khâu Ôn, Lạng Sơn, là nơi ghi dấu rất nhiều trận
chiến lịch sử, lưu giữ nhiều chiến công oai hùng cho đất nước.

+ Giá trị nổi bật:

Khu di tích lịch sử Chi Lăng là một thung lũng hẹp, kẹp giữa hai dãy núi Bảo Đài và Cai Kinh, là nơi thể hiện tài
thao lược, nghệ thuật quân sự của cha ông trong lịch sử, với tư duy chiến thuật tài tình, khả năng tận dụng tối
đa địa hình địa thế đã góp phần vào thắng lợi của các trận đánh.

Thời tiền sử Chi Lăng đã là quê hương của các nền văn hóa khảo cổ nổi tiếng như: Bắc Sơn, Mai Pha với hệ
thống di tích tiêu biểu như Hang Lạng Nắc, Hang Ngườm Sâu, Hang Nà Ngụm… nơi lưu giữ, phát hiện những di
vật, mảnh tước, rìu đá, mảnh gốm… minh chứng cho những giai đoạn sơ sử, tiền sử của người Việt cổ có giá trị
về nghiên cứu khoa học. Trên mảnh đất này còn có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Hang Gió, núi
Bàn Cờ, Núi Phượng Hoàng, Núi Mặt Quỷ, Núi Mã Yên… có giá trị về cảnh quan, môi trường tự nhiên hấp dẫn.

Chi Lăng ghi dấu những trang sử hào hùng của dân tộc với tầng tầng lịch sử, lớp lớp chiến công của cha ông ta
với 2 lần chống Tống (năm 981 và 1077), 2 lần kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược (năm 1285 và 1287),
cuộc chống quân xâm lược Mãn Thanh (năm 1788 – 1789), đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ (tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa Hoàng Đình Kinh những năm 1882 – 1888, nữ du kích Quang Lang bắn
rơi máy bay Mỹ). Trong lịch sử, đây là nơi liên tục diễn ra các trận đánh mang tính chiến lược trong lịch sử
quân sự Việt Nam, mà đỉnh cao là chiến thắng Chi Lăng năm 1427 quân và dân ta đã lập nên một chiến công
vang dội tiêu diệt đạo quân tiếp viện hơn 10 vạn quân Minh do Liễu Thăng chỉ huy, góp phần kết thúc trường
kỳ cuộc kháng chiến, lật nhào ách đô hộ của Nhà Minh dành lại trọn vẹn non sông, đất nước.

Có thể khẳng định rằng, trong suốt chiều dài hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, Khu di tích lịch sử Chi
Lăng đã tạo nên những dấu ấn quân sự rất đáng tự hào. Nó đã từng nhiều phen làm kẻ thù xâm lược phải
“kinh hồn, bạt vía”, không chỉ nổi tiếng trong nước, mà còn được bạn bè quốc tế biết đến. Điều đó đã khẳng
định và chứng minh địa thế đặc biệt quan trọng của vùng đất Chi Lăng cũng như tầm nhìn chiến lược, trình độ
tổ chức chiến trận và nghệ thuật quân sự của ông cha ta đối với địa thế của Chi Lăng trong lịch sử hàng ngàn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

4. HÀ GIANG
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 30
Cấp quốc gia: 31
Cấp quốc gia đặc biệt:
5. TUYÊN QUANG
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 259
Cấp quốc gia: 182
Cấp quốc gia đặc biệt: 3

Di tích lịch sử Tân Trào (huyện Sơn Dương và huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Quyết định số 548/QĐ-TTg, ngày 10/5/2012

+ Lịch sử hình thành:

Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Tân Trào - “Thủ đô Khu giải phóng”, “Thủ đô kháng chiến”, là nơi gắn liền
với những năm tháng Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc, đưa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cùng cuộc
kháng chiến chống Pháp (1945-1954) giành thắng lợi vẻ vang.

+ Giá trị nổi bật:

Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Tân Trào từng là địa bàn chiến lược quan trọng, là nơi ở, làm việc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cấp cao cùng nhiều cơ quan Trung ương; là “Thủ đô Khu giải
phóng” trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và là “Thủ đô kháng chiến” trong cuộc kháng chiến
trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

Khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Tân Trào gồm các địa danh nổi tiếng như đình Hồng Thái, lán Nà Nưa,
đình Tân Trào, cây đa Tân Trào, cụm di tích ATK Kim Quan... Đây là những “địa chỉ đỏ” về giáo dục truyền
thống không thể bỏ qua của du khách khi đến với Tuyên Quang.

Nhờ vị trí chiến lược quan trọng cùng những điều kiện thuận lợi, trong thời kỳ Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền Tháng Tám năm 1945, Tân Trào được Trung ương Đảng và Bác Hồ chọn là “Thủ đô Khu giải phóng” - nơi
diễn ra những sự kiện có ý nghĩa quyết định với vận mệnh của dân tộc: Khai mạc Quốc dân Đại hội (ngày 16,
17-8-1945) tại đình Tân Trào, thể hiện quyết tâm hưởng ứng chủ trương Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trên cả nước; thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch... Từ đây, lệnh tổng
khởi nghĩa được phát đi. Các địa phương trong cả nước lần lượt giành chính quyền. Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 giành thắng lợi vẻ vang, mở ra trang sử mới cho dân tộc với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.

Sau Cách mạng Tháng Tám không lâu, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Trong giai
đoạn 1947-1954, Tân Trào lại trở thành “Thủ đô kháng chiến”, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng,
Quốc hội, Chính phủ cùng các bộ, ban, ngành, cơ quan Trung ương đặt trụ sở làm việc và lãnh đạo toàn dân
kháng chiến, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Với những thắng lợi vẻ vang đó, Tân Trào là nơi ghi
dấu những mốc son chói lọi của dân tộc, trong đó không thể không nhắc tới vai trò quan trọng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.

Di tích lịch sử Địa điểm tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên
Quang).

+ Tên gọi: di tích lịch sử Kim Bình

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2499/QĐ-TTg, đợt 7 (2016)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Khu di tích Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân
tộc, như: Đại hội toàn quốc thống nhất Mặt trận Việt Minh và Mặt trận Liên Việt thành Mặt trận Liên Việt, Hội
nghị Liên minh nhân dân ba nước Việt - Miên - Lào, Trường Nguyễn Ái Quốc (tiền thân của Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh) khai giảng khoá III, Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc
lần thứ I.
Đây là Đại hội đầu tiên do Đảng ta tổ chức có đông đủ đại biểu các Đảng bộ được chọn cử từ cơ sở ở trong
nước và cho đến nay là Đại hội duy nhất họp ngoài thủ đô Hà Nội. Đại hội cũng quyết định đưa Đảng ra hoạt
động công khai với tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam, đề ra cương lĩnh và chính sách mới.

Khu di tích Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng bao gồm 52 điểm di tích, mỗi điểm di tích tái hiện
chân thực và sinh động hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh tụ của Đảng, Nhà nước; các cơ
quan Trung ương, đơn vị quốc phòng, an ninh, kinh tế, tài chính... về quá trình chuẩn bị nội dung, cơ sở vật
chất, diễn biến của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng; quá trình triển khai, phổ biến các văn kiện
của Đại hội, lãnh đạo thắng lợi các Nghị quyết Đại hội đề ra.

Danh lam thắng cảnh Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang - Lâm Bình, huyện Na Hang và huyện Lâm Bình, tỉnh
Tuyên Quang.

+ Tên gọi: Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1820/QĐ-TTg, đợt 9 (2018)

+ Lịch sử hình thành:

Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang Được thành lập trên quyết định số 274/UB-QĐ ngày 09/05/1994 của UBND
tỉnh Tuyên Quang, Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang có diện tích 22.401,5 ha nằm trên địa bàn 4 xã Khau Tinh,
Côn Lôn, Sơn Phú, Thanh Tương của huyện Na Hang.

+ Giá trị nổi bật:

Khu bảo tồn nằm giữa những cánh rừng đại ngàn dọc đôi bờ sông Gâm và sông Năng, có hệ sinh thái đa dạng
với nhiều loài động, thực vật quý hiếm, hệ thống hang động độc đáo, kỳ thú; có hệ động vật phong phú và đa
dạng sinh học về thành phần, chủng loại, cũng như về số lượng cá thể. Cho đến nay, các nhà khoa học đã xác
định được trên 2.000 loài thực vật, nhiều loại được ghi trong Sách đỏ Việt Nam như: Trai, nghiến, lát hoa,
đinh, thông tre, hoàng đàn, trầm gió, nhiều loài lan hài, cây thuốc quý...

Tuy chưa điều tra đầy đủ nhưng khu bảo tồn bước đầu đã ghi nhận được 88 loài thú, 294 loài chim, 30 loài bò
sát và 18 loại lưỡng cư, 300 loài bướm, 40 loài dơi, hàng nghìn loại cá, trong đó có cá dầm xanh, anh vũ, lăng,
chiên, bỗng. Nhiều loài động vật trong khu bảo tồn được ghi trong Sách đỏ Việt Nam, Sách đỏ thế giới. Tại đây
có 8 loài khỉ, trong đó voọc mũi hếch, voọc đen má trắng thuộc loại quý hiếm. Quỹ Bảo tồn thế giới của Mỹ
(WWF-US) đã xác định đây là một trong những hệ sinh thái có giá trị đa dạng sinh học cao nhất trên thế giới.

Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang - Lâm Bình có các danh thắng cảnh nổi tiếng như: Thượng Lâm, hang Nà
Chao, Pác Khoang, thác Pác Ban, Pác Hẩu, Khuổi Nhi... Nơi đây có nhiều di chỉ khảo cổ thời đại đồ đá mới và
kim khí, là vùng đất sinh sống của đồng bào các dân tộc Tày, Dao, Mông và nhiều dân tộc khác với những nét
văn hóa truyền thống độc đáo còn được lưu giữ.
6. THÁI NGUYÊN
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt: 1

Di tích lịch sử An toàn khu (ATK) Định Hóa (huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 10/5/2012, 548/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Cách đây tròn 75 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng nhiều lãnh đạo Trung ương Đảng và Chính phủ đã chuyển từ
Thủ đô Hà Nội về các an toàn khu (ATK) vùng Việt Bắc để lập căn cứ lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp. Trong số này, ATK Định Hoá được xác định là trung tâm của “Thủ đô kháng chiến” - nơi ra đời những
quyết sách lớn, quan trọng với vận mệnh đất nước.

+ Giá trị nổi bật:

ATK Định Hoá là địa bàn có vị trí chiến lược hiểm yếu với đồi núi xen lẫn thung lũng thuận tiện cho việc ẩn náu,
có thể sản xuất tự cấp và giữ được bí mật; phía sau lưng là miền rừng núi đại ngàn, trước mặt là vùng trung du
đồi gò bát úp và những dải đồng bằng hẹp tạo nên địa thế “tiến có thể đánh, lùi có thể giữ”.

Định Hoá có mạng lưới đường mòn tỏa đi các tỉnh khác trong căn cứ địa Việt Bắc thuận lợi cho việc tiếp tế,
đảm bảo sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ mau chóng, song lại gây trở ngại lớn cho việc hành
quân cơ giới của địch; đồng thời có thể dễ dàng sang Cao Bằng, Lạng Sơn thông ra biên giới để đảm bảo giao
lưu quốc tế.

Điều quan trọng hơn cả để ATK Định Hoá trở thành lựa chọn của lịch sử là bởi truyền thống yêu nước, sự thật
thà, chất phác, thuỷ chung của đồng bào các dân tộc nơi đây.

ATK Định Hoá xứng đáng được tôn vinh là di tích gắn với trung tâm của “Thủ đô kháng chiến”. Điều này xuất
phát từ 2 lý do: Định Hoá là nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các cơ quan Trung ương Đảng - Bộ
Tổng chỉ huy và là “bộ não” của cuộc kháng chiến trường kỳ; đây cũng là nơi ra đời hàng loạt quyết sách quan
trọng, mang tính quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Nhiều sắc lệnh quan trọng của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng được ký tại ATK Định Hoá. Cũng tại nơi
đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đón tiếp nhiều vị khách quốc tế, đặt cơ sở cho việc xây dựng nền ngoại giao giữa
Việt Nam với nhiều nước trên thế giới.
Còn rất nhiều nữa những địa danh và sự kiện lịch sử quan trong diễn ra tại ATK Định Hoá. Điều đó khẳng định,
đây là một trong những cụm di tích lịch sử quan trọng bậc nhất của nước ta.

7. LAI CHÂU
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 20
Cấp quốc gia: 5
Cấp quốc gia đặc biệt:
8. LÀO CAI
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 31
Cấp quốc gia: 22
Cấp quốc gia đặc biệt:
9. YÊN BÁI
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 105
Cấp quốc gia: 12
Cấp quốc gia đặc biệt: 1

Danh lam thắng cảnh Ruộng bậc thang Mù Cang Chải, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1954/QĐ-TTg, đợt 10 (2019)

+ Lịch sử hình thành:

Lịch sử hình thành ruộng bậc thang ở Mù Cang Chải gắn liền với lịch sử cư trú của tộc người Mông, những
người sáng tạo ra những thửa ruộng bậc thang này và là những chủ nhân cư trú đầu tiên tại vùng đất này. Văn
hoá canh tác ruộng bậc thang của đồng bào dân tộc Mông ở La Pán Tẩn, Chế Cu Nha, Dế Su Phình đã biến tên
Mù Cang Chải (nghĩa là làng cây khô) thành đồi ruộng tươi xanh đầy sức sống.

+ Giá trị nổi bật:

Theo các nhà nghiên cứu địa chất, Mù Cang Chải là địa hình bị chia cắt mạnh, độ dốc lớn, đất đai chủ yếu là
đất feralit vàng đỏ. Điều này giải thích vì sao người Mông không thể trồng lúa theo phương thức nương rẫy
mà thay vào đó, họ phải tận dụng những quả đồi thấp, có diện tích rộng, độ dốc vừa phải, tận dụng được cả
nước mưa và nước suối dẫn từ độ cao tràn xuống ruộng thấp để hình thành ruộng bậc thang.
Ruộng bậc thang ở Mù Cang Chải là một di sản văn hóa đặc biệt, được tạo ra thông qua quá trình công phu
kéo dài qua nhiều thế hệ. Từ việc khai khẩn ruộng đến các nét văn hóa trong đời sống của người dân bản địa
đều xoay quanh những thửa ruộng bậc thang này.

Mù Cang Chải đẹp nhất trong năm vào hai dịp, khi những thửa ruộng vào mùa đổ nước và vào mùa lúa chin.
Ruộng bậc thang ở Mù Cang Chải có vẻ đẹp không lẫn vào đâu được và thu hút đông đảo khách du lịch cũng
như các nhiếp ảnh gia. Với diện tích trải rộng khắp các quả đồi, những thửa ruộng bậc thang này được xếp
tầng, xếp lớp trên địa hình núi cao với những khe suối, vực sâu và rừng thông bạt ngàn. Cảnh quan những
ruộng bậc thang hình mâm xôi, rừng, khe suối… tầng tầng, lớp lớp xếp lên nhau tạo nên bức tranh đa màu sắc
và hút hồn nhất, có lẽ độc đáo hơn bất cứ nơi nào trên thế giới.

Ngoài những hình ruộng bậc thang, trên các phiến đá còn có rất nhiều hình thù khác nhau thể hiện khát vọng
của người xưa về vùng đất khắc nghiệt Tây Bắc. Những thửa ruộng bậc thang này đã được hình thành từ bản
thiết kế do người xưa tạo nên cách đây vài thế kỷ.

10. ĐIỆN BIÊN


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 12
Cấp quốc gia: 41
Cấp quốc gia đặc biệt: 1

Di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ (Thành phố Điện Biên, huyện Điện Biên và huyện Tuần Giáo, tỉnh
Điện Biên).

+ Tên gọi: Khu di tích chiến trường Điện Biên Phủ

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1272/QĐ-TTg, đợt 1 (2009)

+ Lịch sử hình thành:

Quần thể di tích chiến trường Điện Biên Phủ là một quần thể các di tích lịch sử nằm tại tỉnh Điện Biên ghi lại
chiến công của Quân đội nhân dân Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

+ Giá trị nổi bật:

Các di tích nổi bật của chiến trường Điện Biên bao gồm đồi A1, C1, C2, D1, cứ điểm Hồng Cúm, Him Lam, đồi
Độc Lập, cầu Mường Thanh, sân bay Mường Thanh (nay là sân bay Điện Biên Phủ) và hầm chỉ huy tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đã để lại cho mảnh đất Điện Biên Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt chiến
trường Điện Biên Phủ, đây là một di tích có ý nghĩa giá trị lịch sử lớn lao đối với dân tộc Việt Nam cũng như đối
với nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, có giá trị rất lớn về lịch sử, văn hóa, xã hội và khoa học.

Nơi đây đã trở thành tượng đài của sự kế thừa, phát huy truyền thống, lịch sử vẻ vang hàng nghìn năm dựng
nước, giữ nước, truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường, bất khuất của dân tộc ta; là nơi
khắc ghi cống hiến, hy sinh của các tướng lĩnh, cán bộ, chiến sỹ, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến và
quân dân cả nước đã anh dũng chiến đấu, hy sinh làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ; đồng thời thể hiện tình
đoàn kết chiến đấu thuỷ chung, son sắt của quân và dân 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia và mối quan hệ
hữu nghị với các nước Xã hội chủ nghĩa .

Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ tại Mường Phăng là cơ quan đầu não quan trọng nhất của chiến dịch Điện
Biên Phủ. Tại đây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng với Bộ Chỉ huy chiến dịch đã đưa ra những chỉ thị, mệnh
lệnh tấn công có tính chất quyết định đến thắng lợi của từng trận đánh mà đỉnh cao là lệnh tổng công kích
trên toàn mặt trận vào 7/5/1954.

Di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ (thành phố Điện Biên Phủ, huyện Tuần Giáo và huyện Điện Biên,
tỉnh Điện Biên) Bổ sung thêm 23 điểm di tích vào Hồ sơ Di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ đã được
xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 1272/QĐ-TTg ngày 12/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2367/QĐ-TTg, đợt 6 (2015)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

11. SƠN LA
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 15
Cấp quốc gia: 46
Cấp quốc gia đặc biệt: 2

Di tích lịch sử Nhà tù Sơn La (thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:
+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 31-12-2014, 2408/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Nhà tù Sơn La do thực dân Pháp xây dựng năm 1908 với diện tích ban đầu là 500 m2, chủ yếu để giam cầm tù
thường phạm. Qua 3 lần xây dựng và mở rộng, nhà tù Sơn La có tổng diện tích là: 2.170m2. Thực dân Pháp đã
biến nơi đây thành một địa ngục trần gian để giam cầm, đầy ải và thủ tiêu ý chí đấu tranh của những người
Cộng sản.

+ Giá trị nổi bật:

Nhà tù Sơn La được xây dựng kiên cố, tường xây bằng đá lẫn gạch, mái lợp tôi. Giường nằm cho tù nhân xây
bằng đá, mặt láng xi măng, mặt ngoài gắn hệ thông cùm chân dọc theo chiều dài của sàn. Với thiết kế như vậy,
những đợt gió Lào của vùng Tây Bắc với cái nóng như đổ lửa vào mùa hè cùng những đợt sương muối giá rét
vào mùa đông đã khiển các loại bệnh phát sinh và lây lan nhanh chóng. Nhà tù Sơn La được ví như “chiếc quan
tài nắp mở, chỉ chờ tù nhân tắt thở đem chôn”.

Từ năm 1930 đến năm 1945, thực dân Pháp đã đày lên Nhà tù Sơn La 14 đoàn tù chính trị với tổng số 1.013
lượt tù nhân, trong đó có rất nhiều đồng chí là Ủy viên Trung ương, Xứ ủy, Thành ủy và nhiều cán bộ cốt cán
của Đảng. Trực diện với tội ác của kẻ thù, hơn bao giờ hết, khí tiết của những người cộng sản đã tỏa sáng và
thắp lên ngọn lửa đấu tranh cách mạng khắp núi rừng Tây Bắc, góp phần rất lớn vào sự thành công của cuộc
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Nơi đây đã trở thành một trường học cách mạng vĩ đại, đào tạo, bồi
dưỡng cho Đảng và cách mạng Việt Nam những chiến sĩ Cộng sản xuất sắc tiêu biểu như: Tô Hiệu, Lê Duẩn,
Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Trân, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc
Hoàng đồng chí trung kiến khác.

Trải qua 2 lần tàn phá bằng bom của giặc, di tích Nhà tù Sơn La không còn nguyên vẹn, những bức tường nhà
ngục đổ nát là minh chứng cho tội ác dã man của kẻ thù. Cây đào Tô Hiệu, biểu tượng gắn với tên tuổi người Bí
thư Chi bộ kiên trung của nhà tù vẫn đơm hoa kết trái mỗi độ mùa xuân về...

Di tích lịch sử Nhà tù Sơn La đã trở thành một địa chỉ đỏ trong công tác giáo dục truyền thống cách mạng cho
thế hệ các dân tộc Sơn La và nhân dân cả nước.

Di tích lịch sử Khu di tích lịch sử cách mạng Việt Nam - Lào, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 93/QĐ-TTg, đợt 12 (2022)


+ Lịch sử hình thành:

Vào những năm 1948 - 1951, đồng chí Kaysone Phomvihane từng hoạt động cách mạng tại bản Lao Khô, xã
Phiêng Khoài, huyện Yên Châu (Sơn La). Ngày ấy, đồng chí Kaysone Phomvihane và các đồng chí của Ban Xung
phong Lào - Bắc đã được gia đình cụ Tráng Lao Khô nuôi giấu và sau này ngôi nhà của cụ Tráng Lao Khô đã trở
thành Khu di tích lịch sử cách mạng Việt Nam - Lào.

+ Giá trị nổi bật:

Khu di tích lịch sử cách mạng Việt Nam-Lào là nơi lưu giữ những giá trị về lịch sử, sự gắn bó máu thịt của
tình đoàn kết giữa hai nước Việt Nam-Lào nói chung và nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La với các tỉnh Bắc
Lào nói riêng.

Nằm sát biên giới, bản Lao Khô có vị trí địa lý hết sức quan trọng, phía Tây và Nam giáp huyện Xiềng Khọ, tỉnh
Huaphanh (Lào); địa hình hiểm trở, núi cao, nhiều thung lũng sâu, rừng rậm là điều kiện thuận lợi cho việc
đóng quân và hoạt động bí mật của du kích trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

Theo đồng chí Nguyễn Hữu Đông, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Sơn La, ngay sau khi giành được
độc lập, tháng 9/1945, thực dân Pháp quay lại xâm lược Đông Dương lần thứ hai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương, nhân dân hai nước Việt Nam và Lào tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cách mạng giải phóng
dân tộc.

Nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã vinh dự được
đón, bí mật nuôi giấu, bảo vệ đồng chí Kaysone Phomvihane và Ban Xung phong Lào - Bắc trong thời gian đứng
chân ở địa bàn Bản Lao Khô, xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La để tiến vào hoạt động gây dựng cơ
sở cách mạng, xây dựng lực lượng, căn cứ kháng chiến ở các địa bàn của tỉnh Hủa Phăn và các tỉnh Bắc Lào,
đánh dấu thời kỳ phát triển mới, góp phần quan trọng để cách mạng Lào đi đến thắng lợi sau này.

Khu di tích là nơi giới thiệu, tôn vinh những giá trị lịch sử, mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa nhân dân
hai nước, khẳng định tinh thần quốc tế cao cả và sự hy sinh to lớn của quân đội và nhân dân Việt Nam dành
cho nhân dân Lào.

12. HÒA BÌNH


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 60
Cấp quốc gia: 41
Cấp quốc gia đặc biệt:
13. PHÚ THỌ
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 249
Cấp quốc gia: 73
Cấp quốc gia đặc biệt: 1

Di tích lịch sử Đền Hùng (Thành phố Việt Trì, huyện Lâm Thao và huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ).
+ Tên gọi: Khu di tích lịch sử Đền Hùng

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 12 tháng 8 năm 2009, Quyết định 1272/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Đền Hùng là quần thể đền chùa thờ phụng các Vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh (Việt Trì,
Phú Thọ). Thời xa xưa, với địa thế đồi núi, ao hồ lại có phù sa phì nhiêu màu mỡ nên vua Hùng đã lựa chọn
vùng đất này làm kinh đô Văn Lang. Hiện nay, theo các tài liệu khoa học đã công bố đa số đều thống nhất nền
móng kiến trúc đền Hùng bắt đầu được xây dựng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Đến thời Hậu Lê (thế kỷ
15) được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện tại.

+ Giá trị nổi bật:

Khu di tích lịch sử Đền Hùng là nơi thờ tự các Vua Hùng đã có công dựng nước. Xa xưa, vùng đất này là khu
vực trung tâm của nước Văn Lang, nằm giữa hai dòng sông, giống như hai dãy hào thiên nhiên khổng lồ bao
bọc lấy cố đô xưa của các vua Hùng. Đền Hùng được xây dựng trên núi Nghĩa Lĩnh từ thời vua Đinh Tiên Hoàng
(năm 968-979). Đến thời Hậu Lê (thế kỷ XV) được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện nay. Hàng ngàn
năm qua, Đền Hùng luôn là biểu tượng tôn kính, linh nghiêm quy tụ và gắn bó với dân tộc Việt Nam.

Toàn bộ Khu di tích có 4 đền: đền Hạ - đền Trung - đề Thượng - đền Giếng, 1 chùa và lăng vua Hùng hài hoà
trong cảnh thiên nhiên, có địa thế cao rất ngoạn mục, hùng vĩ, đất đầy khí thiêng của sơn thuỷ hội tụ. Mỗi năm
dân chúng đổ về đền Hùng rất đông vào ngày 10/03 âm lịch để tham gia lễ hội đền Hùng nhân ngày giỗ Tổ
Hùng Vương.

Đền Hùng được xây dựng trên núi Hùng. Tục truyền rằng, núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam ,
mình rồng uốn khúc thành núi Vặn, núi Trọc, núi Pheo,…. Núi Vặn cao 170m, xấp xỉ núi Hùng. Núi Trọc nằm
giữa núi Hùng và núi Vặn, cao 145m. Theo truyền thuyết. đây là ba đỉnh “Tam sơn cấm địa” được dân gian thờ
từ rất lâu đời.

Toàn khu di tích Đền Hùng xưa kia là rừng già nhiệt đới, đến nay chỉ còn núi Hùng là rậm rạp xanh tươi với 150
loài thảo mộc thuộc 35 họ, trong đó còn sót lại một số cây đại thụ như chò, thông, lụ,…và một vài giống cây cổ
sơ như kim giao, thiên tuế,..

14. VĨNH PHÚC


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 404
Cấp quốc gia: 66
Cấp quốc gia đặc biệt: 4

Di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Bình Sơn (huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc).
+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2367/QĐ-TTg, đợt 6 (2015)

+ Lịch sử hình thành:

Tháp Bình Sơn, còn gọi là Tháp chùa Vĩnh Khánh hay Tháp Then, là một ngôi tháp cổ, tương truyền nguyên
thủy có 13 tầng tuy hiện nay chỉ còn lại 11 tầng. Công trình được xây dựng từ khoảng thế kỷ 14 – thế kỷ 16, là
kiến trúc mang đậm dấu ấn phật giáo và có giá trị cao về mặt kiến trúc. Tháp nằm ở trong khuôn viên chùa
Vĩnh Khánh (chùa Then) thuộc thôn Bình Sơn, thị trấn Tam Sơn huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.

+ Giá trị nổi bật:

Là ngọn tháp tiêu biểu cho kiến trúc chùa tháp thời Lý - Trần ở Việt Nam và là ngọn tháp đất nung đời Trần
cao nhất còn lại đến ngày nay, tháp Bình Sơn với hình khối thanh thoát, đường nét mềm mại, trang trí
phong phú điêu luyện, là di tích lịch sử và di tích nghệ thuật có giá trị cao trên lãnh thổ Việt Nam.

Tháp Bình Sơn hiện nay cao 16,5 mét, (chỉ còn 11 tầng và 1 tầng bệ vì phần chóp của tháp đã bị vỡ), tháp được
cấu tạo với bình đồ hình vuông nhỏ dần về ngọn. Toàn bộ ngôi tháp được xây bằng gạch nung không tráng
men. Đặc biệt, tháp không sử dụng bất cứ vật liệu kết nối nào mà mỗi cạnh, mỗi tầng được tính toán chính xác
và kết nối chặt chẽ với nhau bằng chân, gờ hay các khớp nối.

Tháp Bình Sơn không chỉ có giá trị về kiến trúc nghệ thuật mà còn có giá trị mỹ thuật cao, được coi là “hòn
ngọc báu của kho tàng dân tộc”. Trên các viên gạch của tháp có rất nhiều loại hoa văn trang trí tinh xảo khác
nhau.

Từ bệ tháp đến hết tầng hai có chiều cao khoảng 6m. Đây là nơi được các nghệ nhân trang trí hoa văn tinh
xảo, kỹ lưỡng nhất. Bao gồm cánh sen, hoa cúc, rồng chạm nổi có sừng và cuộn tròn mình. Họa tiết hoa văn
trên tháp Bình Sơn vô cùng phong phú, nhưng cũng tùy theo vị trí mỗi tầng mà thiết kế, với nguyên tắc chung
là càng lên cao càng đơn giản.

Tuy nhiên, hiện nay, trải qua thời gian do tác động của thời tiết, nhiều họa tiết, hoa văn của tháp đang có dấu
hiệu phong hóa nghiêm trọng, nhiều viên gạch được khắc họa tiết đã không còn thể hiện rõ đường nét hoa
văn.

Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Tây Thiên - Tam Đảo (huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc).

+ Tên gọi: Khu di tích và danh thắng Tây Thiên

+ Loại di tích:
+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Ngày 23 tháng 12 năm 2015, Quyết định số 2367/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Tây Thiên là một quần thể kiến trúc cổ xưa với chùa, đền, miếu, bia đá... mang đậm dấu ấn của lịch sử và
văn hóa, cùng với đại danh lam thắng cảnh Tây Thiên với núi cao rừng thẳm, suối thác hữu tình còn là trung
tâm Phật giáo rộng lớn và ra đời sớm nhất ở Việt Nam.

Nơi đây bao gồm hệ thống các đình, chùa có giá trị văn hóa và khảo cổ như đền Thượng, đền Thõng, đền Mẫu,
đền Cậu, đền Cô... dọc theo con suối Tây Thiên giữa vùng rừng nguyên sinh Tam Đảo.

Trên nền cảnh ấy, cách đây cả ngàn năm, nhiều di tích gắn với những vấn đề lịch sử, tôn giáo và tín ngưỡng đã
được dựng nên, như: chùa Tây Thiên, chùa Đồng Cổ, chùa Thiên Ân (đền Thõng), đền Phù Nghì, Đồng Ma, Ao
Dứa,...

Đây là một hệ thống di tích danh thắng đa dạng, phong phú, thể hiện sinh động quá trình giao thoa, hội nhập
của các loại hình tôn giáo và tín ngưỡng như đạo Phật, đạo Lão, đạo Nho, đạo Mẫu và các hình thức tín
ngưỡng dân gian khác.

Bên cạnh đó, Tam Đảo còn là vùng chuyển tiếp từ vùng núi Đông Bắc xuống châu thổ Bắc Bộ, nên đây chính là
điểm dừng chân của nhiều lớp cư dân từ thời tiền - sơ sử. Những tư liệu văn hóa dân gian, dân tộc học hay
khảo cổ học đã cho thấy sự có mặt của nhiều lớp cư dân thuộc các ngữ hệ khác nhau đã từng có mặt trên vùng
đất này. Vì thế, Tây Thiên - Tam Đảo không chỉ là di sản thiên nhiên mà còn hàm chứa những giá trị di sản văn
hóa vật thể và phi vật thể to lớn, đặc biệt là di sản Phật giáo.

Đền Thõng được coi là “cửa ngõ” dẫn lên khu di tích đền Thượng trên đỉnh núi. Tại Đền còn lưu giữ một bia đá
4 mặt từ năm Bảo Thái thứ 5 (1723) ghi nhận nơi đây là “Tam Đảo linh sơn”, một quả chuông đúc vào năm
Thiệu Trị thứ 2 (1842), một bản thần tích vào năm Bảo Đại thứ 12 (1937), một khánh đồng và một số hoành
phi, câu đối. Đây là các chứng tích lịch sử – văn hoá rất giá trị, khẳng định sự quan tâm của nhiều triều đại đối
với danh thắng Tây Thiên cũng như vị thế “địa linh bậc nhất” cả nước của quần thể di tích này.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1820/QĐ-TTg, đợt 9 (2018)


+ Lịch sử hình thành:

Đình Thổ Tang thuộc thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc là một trong số các ngôi đình tiêu
biểu của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc đình làng Bắc Bộ (thế kỷ XVII).

+ Giá trị nổi bật:

Là một trong những ngôi đình cổ nhất còn lại hiện nay của tỉnh Vĩnh Phúc. Đình Thổ Tang thờ Lân Hổ Đô Thống
Đại Vương, vị tướng có công đánh giặc Nguyên Mông thời Trần.

Trải qua hàng trăm năm đến nay đình Thổ Tang còn bảo lưu được tương đối nguyên vẹn kiến trúc thời Hậu Lê.
Đình được xây dựng với quy mô đồ sộ, gồm hai tòa kiến trúc bố cục theo hình “chữ Đinh” với đại bái 5 gian 2
dĩ và 2 gian hậu cung, dựa trên hệ thống 60 cột làm bằng gỗ tốt đại khoa tạo ra diện tích sử dụng gần 400m2.
Kết cấu bộ vì chính của đình theo kiểu thức “chồng rường- giá chiêng”, liên kết phía dưới theo lối “thượng
chồng cốn, hạ kè- bẩy”, đây là kiểu kiến trúc khá đặc trưng cho các ngôi đình có niên đại sớm (thế kỷ XVII-XVIII)
đã tạo ra nhiều hơn các mảng cấu kiện kiến trúc để người thợ dân gian thoải mái phô diễn các mảng chạm trổ
tinh xảo.

Đình Thổ Tang là một trong những ngôi đình đạt đến đỉnh cao về mỹ thuật điêu khắc gỗ cổ dân gian thời Hậu
Lê, luôn được nhắc tới trong lịch sử mỹ thuật dân tộc

Trong đình hiện còn lưu giữ được 21 bức chạm khắc gỗ độc đáo và hết sức tinh tế trên các thành phần kiến
trúc: thân kè, thân bẩy, thân rường. Đây là những di sản vật thể, minh chứng cho sự tài hoa và phồn thịnh của
vùng đất học, đất nghề, đất giao thương với trăm miền.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Cụm đình Hương Canh (huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Quyết định số 1649/QĐ-TTg, ngày 29/12/2022

+ Lịch sử hình thành:

Cụm di tích đình Hương Canh gồm các đình Hương Canh, Tiên Canh và Ngọc Canh được xây dựng vào thời Hậu
Lê trong khoảng cuối thế kỷ 17 đến thế kỷ 18.

+ Giá trị nổi bật:

Di tích bao gồm 3 ngôi đình cổ là đình Hương Canh, đình Tiên Canh và đình Ngọc Canh. Trong đó, nghệ thuật
kiến trúc của cụm đình Hương Canh đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật điêu khắc gỗ cổ dân gian, tiêu biểu cho
nghệ thuật kiến trúc đình làng Bắc Bộ được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18.
Không chỉ có giá trị về mặt kiến trúc, điêu khắc dân gian, nơi đây còn là kho tàng chứa đựng nét văn hóa dân
tộc, nơi quy tụ, gắn kết cộng đồng.

Nghệ thuật kiến trúc của cụm đình Hương Canh đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật điêu khắc gỗ cổ dân gian với
kỹ thuật chạm trổ tinh vi, điêu luyện, phác họa bức tranh đời sống sinh hoạt của người dân trong xã hội phong
kiến xưa.

Được xây dựng với kỹ thuật điêu luyện, kiến trúc độc đáo, mỹ thuật trang trí nội thất có nội dung sâu sắc,
sinh động, đình Hương Canh là nơi gửi gắm những tình cảm thiêng liêng, những ước mơ cao đẹp, những
nguyện vọng chính đáng của Nhân dân ta.

**

Góp phần tạo nên cụm di tích là đình Ngọc Canh, được kiến tạo vào thời Hậu Lê. Theo nhiều nhà nghiên cứu,
xây dựng đình Ngọc Canh không thể sớm hơn đời Cảnh Hưng (1740-1786). Còn việc trùng tu đều diễn ra vào
đầu triều Nguyễn.

Nếu như kiến trúc, mỹ thuật ở đình Hương Canh tả nhiều về ngày hội làng, những trò chơi dân gian, tạo nên
không khí vui nhộn, thì ở đình Ngọc Canh lại thiên về đặc tả những cảnh lao động, những thú vui dân dã của
người lao động ở thôn quê. Tiêu biểu có các bức chạm sau: Bức chạm “dựng cột buồm”: Bức chạm “uống
rượu”: Bức chạm “chơi cờ”: Bức chạm “đến hát nhà quan”.

15. BẮC GIANG


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 605
Cấp quốc gia: 95
Cấp quốc gia đặc biệt: 5

Di tích lịch sử Những địa điểm Khởi nghĩa Yên Thế (huyện Yên Thế, huyện Tân Yên, huyện Việt Yên và huyện
Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang).

+ Tên gọi: Khu di tích khởi nghĩa Yên Thế

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 10-5-2012, Quyết định số 548/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Địa danh Yên Thế gắn liền với cuộc khởi nghĩa nông dân chống thực dân Pháp xâm lược do Hoàng Hoa Thám
lãnh đạo kéo dài gần 30 năm, một trong những cuộc khởi nghĩa bền bỉ nhất, oanh liệt nhất trong lịch sử chống
ngoại xâm của dân tộc
+ Giá trị nổi bật:

Đã hơn 1 thế kỷ qua, trên mảnh đất “địa linh nhân kiệt” này vẫn còn lưu giữ nhiều dấu tích, di tích quý báu của
cuộc khởi nghĩa, đó không chỉ là những chứng cứ và tài sản vô giá của lịch sử mà còn là địa chỉ đỏ cho tham
quan du lịch, lịch sử hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước.

Hệ thống khu di tích Khởi nghĩa Yên Thế đến nay còn lưu lại nhiều dấu tích đậm nét trên địa bàn các huyện Yên
Thế, Tân Yên, Việt Yên, Yên Dũng của tỉnh Bắc Giang. Đó là những dấu tích về những công trình kiến trúc cổ
(đình, chùa, đền, miếu, có niên đại khởi dựng vào thời Lê thế kỷ 17- 18 và thời Nguyễn thế kỉ thứ 19 đầu 20)
cùng các địa điểm đồn lũy tạo thành hệ thống đồn lũy liên hoàn. Những di tích này có giá trị đặc biệt lưu lại
những dấu ấn quan trọng của cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Mỗi di tích trong hệ thống di tích về cuộc khởi nghĩa
Yên Thế đều phản ánh trực tiếp quá trình xây dựng lực lượng, tổ chức chiến đấu của nghĩa quân từ những
ngày đầu của cuộc kháng chiến.

Trung tâm Khu di tích lịch sử văn hóa cuộc khởi nghĩa Yên Thế nằm trên địa bàn thị trấn Cầu Gồ - trung tâm
huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Nằm trên một ngọn đồi cao là đền Thề, nơi nghĩa quân cắt máu ăn thề làm lễ
xuất quân đánh Pháp

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Vĩnh Nghiêm (huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Quyết định số 2367/QĐ-TTg, ngày 23/12/2015

+ Lịch sử hình thành:

Tương tuyền chùa Vĩnh Nghiêm được khởi dựng vào thời Lý (thế kỷ XI). Cuối thế kỷ XIII, (1010-1028) Phật
hoàng Trần Nhân Tông cho mở mang, xây dựng nơi đây thành trung tâm Phật giáo lớn của thời Trần, đổi tên
chùa là Vĩnh Nghiêm, gắn liền với sự ra đời và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

+ Giá trị nổi bật:

Chùa Vĩnh Nghiêm - Bắc Giang là ngôi chùa cổ, là nơi lưu giữ lại bộ mộc bản gốc duy nhất của Phật phái Trúc
lâm.

- Giá trị lịch sử

Trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam, chùa Vĩnh Nghiêm là một trung tâm, một chốn Tổ quan trọng của Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử, cũng như trong đời sống văn hóa tinh thần mỗi người con đất Việt. Khi vua Trần Nhân Tông
từ bỏ ngôi vua thành người tu hành đến chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Ngọa Vân (Yên Tử) thụ giới, lấy hiệu là
Hương Vân Đại Đầu Đà, sáng lập lên phái Thiền tông của Phật giáo Việt Nam
Tư tưởng của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là yếu tố quan trọng cố kết nhân tâm, tạo nên sức mạnh đoàn kết
dân tộc, giúp nhà Trần lãnh đạo toàn dân đánh thắng quân xâm lược Nguyên-Mông, thi hành chính sách thân
dân, hoà hiếu với lân bang, xây dựng đất nước thịnh vượng.

- Giá trị kiến trúc nghệ thuật

Chùa Vĩnh Nghiêm là công trình kiến trúc cổ kính, quy mô lớn, tồn tại song song kiểu thức kiến trúc thế kỷ XVIII
và thế kỷ XIX. Trải gần một thiên niên kỷ với nhiều lần trùng tu, tôn tạo công trình kiến trúc hiện nay là sản
phẩm của hai triều đại: Lê Trung Hưng và triều Nguyễn. Sự tồn tại của hai kiểu thức này trong cùng một di tích,
chẳng những đã mang lại tính chất đa dạng của công trình, mà còn là một ví dụ tốt cho việc nghiên cứu so
sánh các giai đoạn kiến trúc cổ truyền Việt Nam..

Với vai trò là một trong chốn tổ của thiền phái, chùa Vĩnh Nghiêm được xây dựng với quy mô kiến trúc bề thế,
nhiều hạng mục, mang tính quy chuẩn, mẫu mực của kiến trúc chùa tháp truyền thống. Đây là ngôi chùa cổ có
kiến trúc giàu bản sắc Phật Việt nhất mà không ngôi chùa nào trong vùng có được, xứng danh là một “đại danh
lam cổ tự”.

Hệ thống tượng Phật chùa Vĩnh Nghiêm tương đối hoàn chỉnh về hình thức, vị trí, thứ bậc, chức năng... Điêu
khắc tượng tròn ở chùa Vĩnh Nghiêm chiếm một vị trí đặc biệt về giá trị mỹ thuật tiêu biểu của thời Nguyễn
(thế kỷ XIX).

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Bổ Đà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2499/QĐ-TTg, đợt 7 (2016)

+ Lịch sử hình thành:

Dấu vết vật chất và thư tịch còn lại ở chùa cho biết Chùa có từ thời nhà Lý thế kỷ 11 và được xây dựng lại vào
thời Lê Trung hưng, dưới triều vua Lê Dụ Tông (1705-1728).

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

Từ câu chuyện nhuốm màu Phật Pháp thủa sơ khai vùng đất thờ Linh Thạch đến truyền thuyết núi Bổ Đà và
quá trình hình thành chùa Quán Âm (thời Lý) cho đến các mốc lịch sử cụ thể còn khắc trên văn bia lưu truyền
ở chùa Bổ Đà cho thấy: Lịch sử Phật giáo chùa Bổ Đà liên tục phát triển và được khẳng định qua nhiều giai
đoạn kế tiếp không có sự suy vi. Đó là những nét riêng biệt, độc đáo ở chùa Bổ Đà mà ít nơi có được.
Chùa có kho mộc bản kinh Phật của thiền phái Lâm tế cổ nhất Việt Nam. Đây là kho di sản tư liệu quý giá
không chỉ về việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo mà còn có giá trị nghiên cứu trên nhiều phương diện: Văn hoá,
ngôn ngữ, văn học, mỹ học….

Chùa Bổ Đà còn sở hữu hệ thống tượng Phật cổ và nhiều di vật, cổ vật có giá trị. Mỗi một tài liệu, hiện vật đều
có giá trị và ý nghĩa nội dung riêng phản ánh về từng giai đoạn lịch sử theo sự hình thành và phát triển của
trung tâm Phật giáo Bổ Đà.

Kho tàng di sản Hán - Nôm lưu giữ ở chùa Bổ Đà rất phong phú về số lượng, đa dạng về loại hình. Đặc biệt nhà
chùa còn lưu giữ được bản chép tay về lịch sử chùa Bổ Đà của nhà văn Nguyên Hồng có giá trị nghiên cứu khoa
học.

- Giá trị kiến trúc nghệ thuật

Đỉnh ngọn Phượng Hoàng sơn, nơi di tích chùa Bổ Đà toạ lạc có thể bao quát toàn vùng phía Nam của huyện
Việt Yên và một phần cảnh quan của tỉnh Bắc Ninh.

Giá trị các công trình kiến trúc: Chùa Bổ Đà được thiết kế theo lối kiến trúc đặc biệt kiểu “nội thông ngoại bế”.
Đây là một nét kiến trúc độc đáo, đặc sắc không chỉ riêng trong tỉnh Bắc Giang mà các ngôi chùa truyền thống
ở miền Bắc Việt Nam cũng rất hiếm thấy.

Chùa Bổ Đà còn nổi tiếng bởi nét kiến trúc văn hoá tường đất cổ cách đây 200-300 năm. Một số cổng được xây
dựng từ thời Nguyễn (thế kỷ XIX) còn mang nét kiến trúc cổ có giá trị nghiên cứu nghệ thuật.

Di tích lịch sử Địa điểm Chiến thắng Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: ngày 31/12/2019, Quyết định số 1954/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Thành Xương Giang là một thành cổ hiện chỉ còn lại phế tích tại tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. Đây là thành được
nhà Minh xây dựng vào đầu thế kỷ XV sau khi xâm chiếm Đại Ngu. Thành tồn tại đến năm 1427 thì bị nghĩa
quân Lam Sơn hạ trong trận Xương Giang

+ Giá trị nổi bật:

Trung tâm quần thể di tích là công trình Đền Xương Giang có diện tích 1,3ha. Điểm đặc biệt của ngôi đền có lẽ
phải kể đến hệ thống hoành phi câu đối đều được viết bằng chữ Quốc ngữ.
Đến đầu năm 2017, công trình được hoàn thành và đưa vào sử dụng đúng dịp kỷ niệm 590 năm chiến thắng
Xương Giang. Đây là công trình văn hóa có ý nghĩa chính trị, lịch sử mang đậm tính nhân văn, là nơi để thế hệ
hôm nay và mãi mai sau thể hiện sự tôn kính, ghi nhớ công ơn các bậc tiền nhân đã có công giữ nước.

Đền Xương Giang ngày nay là vị trí trung tâm của Thành cổ Xương Giang, do nhà Minh xây dựng năm 1407.
Sau khi xâm lược nước ta, nhà Minh đã cho xây dựng các sở vệ, đắp thành lũy ở những nơi xung yếu để phòng
thủ.

Thành Xương Giang được xem là trung tâm của chiến trận và có ý nghĩa quyết định trong Chiến dịch Chi
Lăng - Xương Giang khi năm 1427, Lê Lợi chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn công thành, phá tan quân Minh do Liễu
Thăng cầm đầu. Đây chính là chiến thắng quyết định cho nền độc lập của dân tộc ta ở thế kỷ thứ XV, lật đổ ách
thống trị bạo tàn của nhà Minh kéo dài 2 thập kỷ, đồng thời mở ra trang mới trong lịch sử dựng nước và giữ
nước vinh quang của dân tộc.

Di tích lịch sử An toàn khu (ATK) II Hiệp Hòa, tỉnh Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2280/QĐ-TTg ngày 31/12/2020

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

16 xã nằm men theo triền đê bờ Bắc sông Cầu thuộc huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang) đã được lãnh đạo Đảng chọn
là vùng An toàn khu (ATK II) trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân xâm lược.

Di tích ATK II Hiệp Hòa là nơi bảo vệ an toàn cho các cơ quan, cán bộ của Trung ương, Xứ ủy Bắc Kỳ và Ủy ban
Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ; là nơi lưu niệm sự kiện lịch sử, cách mạng và kháng chiến gắn với các hoạt động
của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ; đồng thời, lưu dấu ấn của các đồng chí lãnh đạo cách mạng.

Nơi đây là vùng “đất đỏ” kháng chiến, khơi dậy, lưu giữ những ký ức hào hùng của quân và dân tỉnh Bắc Giang
trong thời kỳ kháng chiến, lan tỏa những giá trị yêu nước sâu sắc cho các thế hệ mai sau

**

+ Di tích ATK II Hiệp Hòa là nơi bảo vệ an toàn cho các cơ quan, cán bộ của Trung ương, Xứ ủy Bắc Kỳ và Ủy
ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ; là nơi lưu niệm sự kiện lịch sử, cách mạng và kháng chiến gắn với các hoạt
động của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ; đồng thời, lưu dấu ấn của các đồng chí lãnh đạo cách mạng như:
Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng... là nơi tổ chức nhiều Hội nghị quan trọng
của Trung ương và Xứ uỷ Bắc Kỳ.
+ ATK II Hiệp Hòa cũng là nơi đã diễn ra Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kỳ lần thứ Nhất do Ban Thường vụ
Trung ương Đảng triệu tập. Hội nghị được tổ chức họp tại nhà cụ Ngô Văn Đông (Lý Đông), thuộc thôn Liễu
Ngạn, xã Hoàng Vân. Tham dự hội nghị có đồng chí Võ Nguyên Giáp, Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng, các cán bộ
lãnh đạo các chiến khu, cán bộ xây dựng kinh tế, hậu cần cho quân đội và các đại biểu du kích, tự vệ ở nhiều
địa phương khác về dự, dưới sự chủ trì của đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng. Đây là Hội nghị đặc
biệt quan trọng đã đề ra chủ trương thúc đẩy hoạt động vũ trang, tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền trong
phạm vi cả nước bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

+ Di tích cấp quốc gia đặc biệt ATK II Hiệp Hoà gồm 8 địa điểm, tập trung chủ yếu ở 4 xã Hoàng Vân, Hoàng An,
Hòa Sơn, Xuân Cẩm. 8 địa điểm gồm: Nhà ông Ngô Văn Thấu (cụ Đồ Ba), nhà ông Nguyễn Văn Chế, nhà ông
Ngô Văn Đông (Lý Đông), Soi Đền, đình Vân Xuyên, đình Chợ Vân, đình Xuân Biều và chùa Y Sơn.

16. HÀ NỘI
Tổng số lượng di tích:
Di sản thế giới: 4
Cấp tỉnh: 1202
Cấp quốc gia: 1182
Cấp quốc gia đặc biệt: 21

Di tích lịch sử và khảo cổ Khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long - Hà Nội (quận Ba Đình, Thành phố Hà
Nội)

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1272/QĐ-TTg, đợt 1 (2009)

+ Lịch sử hình thành:

Hoàng thành Thăng Long được xây dựng vào thế kỷ XI dưới triều nhà Lý ở Việt Nam, đánh dấu nền độc lập của
Đại Việt. Được xây dựng trên tàn tích của một pháo đài Trung Quốc vào thế kỷ VII, nơi đây là trung tâm chính
trị và quyền lực của Đại Việt trong suốt 13 thế kỷ. Ngày nay, Hoàng thành cùng khu khảo cổ số 18 Hoàng Diệu
phản ánh nền văn hóa Đông Nam Á đặc sắc nơi Đồng bằng Sông Hồng, cửa ngõ thông thương giữa Trung Hoa
cổ đại và Vương quốc cổ Champa

+ Giá trị nổi bật:

Lấy từ WIKI

Tiêu chí II: Những di tích trên mặt và khai quật được trong lòng đất tại khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long
– Hà Nội là minh chứng về quá trình giao lưu văn hóa lâu dài, là nơi tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa từ bên
ngoài, nhiều học thuyết, tư tưởng có giá trị toàn cầu của văn minh nhân loại, đặc biệt là Phật giáo và Nho giáo,
thuyết phong thủy, mô hình vương thành phương Đông, mô hình kiến trúc quân sự phương Tây (thành
Vauban), để tạo dựng nên những nét độc đáo, sáng tạo của một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của một
quốc gia vùng châu thổ sông Hồng. Kết quả giao thoa, tiếp biến văn hóa đó được biểu đạt trong tạo dựng cảnh
quan, quy hoạch các khu cung điện, trong nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí cung đình với diễn biến
văn hóa đa dạng qua các thời kỳ lịch sử.

Tiêu chí III: Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là minh chứng duy nhất về truyền thống văn hóa
lâu đời của người Việt ở châu thổ sông Hồng trong suốt lịch sử liên tục 13 thế kỷ (trải dài từ thời tiền Thăng
Long, qua thời Đinh- Tiền Lê, đến thời kỳ Thăng Long-Đông Kinh-Hà Nội với các vương triều Lý-Trần-Lê-
Nguyễn) và vẫn được tiếp nối cho đến ngay nay. Những tầng văn hóa khảo cổ, di tích kiến trúc và nghệ thuật
của di sản phản ánh một chuỗi lịch sử nối tiếp nhau liên tục của các vương triều cai trị đất nước Việt Nam trên
các mặt tư tưởng, chính trị, hành chính, luật pháp, kinh tế và văn hoá trong gần một ngàn năm. Trên thế giới
rất hiếm tìm thấy một di sản thể hiện được tính liên tục dài lâu như vậy của sự phát triển chính trị, văn hoá
như tại khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội.

Tiêu chí VI: Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội minh chứng rõ nét về một di sản có liên hệ trực
tiếp với nhiều sự kiện trọng đại của lịch sử của một quốc gia dân tộc vùng Đông Nam Á trong mối quan hệ khu
vực và thế giới. Di sản đề cử là bằng chứng thuyết phục về sức sống và khả năng phục hưng của một quốc gia
sau hơn mười thế kỷ bị nước ngoài đô hộ. Di sản đề cử còn ghi đậm dấu ấn thắng lợi của một nước thuộc địa
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc, có ảnh hưởng rộng lớn trong phong
trào giải phóng dân tộc trên thế giới bao gồm hai cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất của Việt Nam.

**

Lấy từ DI SẢN THẾ GIỚI VN

- Giá trị khảo cổ

Trong lịch sử, Hoàng thành Thăng Long trải qua khá nhiều thay đổi, nhưng trung tâm của Hoàng thành, đặc
biệt là Tử Cấm Thành thì gần như không thay đổi. Chỉ có kiến trúc bên trong là đã qua nhiều lần xây dựng, tu
sửa. Chính đặc điểm này giải thích tại sao trên khu khảo cổ 18 Hoàng Diệu, các lớp di tích kiến trúc và di vật
nằm chồng lên nhau qua các thời kỳ lịch sử. Các di tích đó có mối quan hệ và sự liên kết lẫn nhau, tạo thành
một tổng thể liên hoàn rất phức tạp nhưng phong phú và hấp dẫn, phản ánh rõ mối quan hệ về qui hoạch đô
thị và không gian kiến trúc, cũng như sự tiếp nối giữa các triều đại trong lịch sử xây dựng kinh đô Thăng Long.
Đó chính là giá trị nổi bật và độc đáo của khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội. Tại đây, các
nhà khảo cổ học còn khai quật được một số lượng lớn đồ gốm sứ là những vật dụng dùng hàng ngày trong
hoàng cung qua nhiều thời kỳ. Những khám phá này đã thực sự mở ra một cánh cửa mới cho việc nghiên cứu
về gốm Thăng Long và gốm dùng trong hoàng cung Thăng Long qua các triều đại, là minh chứng cụ thể về trình
độ phát triển cao của kinh tế và văn hoá. Ngoài ra, nhiều tiền đồng, đồ gốm sứ của Trung Quốc, Nhật Bản, Tây
Á... được tìm thấy ở đây là bằng chứng cho thấy Thăng Long là trung tâm giao lưu văn hoá với các nước trong
khu vực và tiếp nhận những giá trị tinh hoa của nhân loại.

Vào lúc 20h30 ngày 31/7/2010 tại thủ đô Brasilia của Braxin, Ủy ban di sản thế giới của UNESCO đã thông qua
Nghị quyết công nhận khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di sản văn hóa thế giới dựa
trên 3 tiêu chí nổi bật: (ii) là minh chứng đặc sắc về quá trình giao lưu văn hóa lâu dài, là nơi tiếp nhận nhiều
ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài, nhiều học thuyết, tư tưởng có giá trị toàn cầu của văn minh nhân loại để tạo
dựng nên những nét độc đáo, sáng tạo của một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của quốc gia, (iii) là minh
chứng duy nhất về truyền thống văn hóa lâu đời của người Việt ở vùng châu thổ sông Hồng qua các thời kỳ lịch
sử, (vi) có liên hệ trực tiếp với nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của quốc gia trong mối quan hệ với khu vực và
thế giới.

Tại lễ khai mạc đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội vào ngày 1/10/2010, bà Irina Bokova - tổng giám
đốc UNESCO đã trao bằng công nhận khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là Di sản văn hóa
thế giới cho lãnh đạo thành phố Hà Nội.

Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch (quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội).

+ Tên gọi: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch, gọi tắt là Khu di tích Phủ Chủ tịch

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: 12/8/2009, theo Quyết định số 1272/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Khu đất này nguyên là phần đất phía tây bắc của Hoàng thành thuộc Kinh thành Thăng Long xưa. (Khi Pháp
xâm lược Việt Nam, sau khi chiếm xong miền Bắc đã chọn Hà Nội làm trung tâm đầu não cho toàn bộ Đông
Dương và Phủ toàn quyền Đông Dương được xây dựng trên mảnh đất này). Sau khi cuộc kháng chiến chống
Pháp kết thúc, nơi này được chọn là nơi làm việc của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước, đồng thời là nơi
sống và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nơi đây cũng là nơi Hồ Chí Minh đã qua đời.

+ Giá trị nổi bật:

Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người (từ
ngày 19 tháng 12 năm 1954 đến ngày 02 tháng 9 năm 1969), đồng thời là trụ sở làm việc của Trung ương Đảng
và Nhà nước Việt Nam sau khi Cách mạng tháng Tám thành công (1945).

(Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc tại nơi đây từ năm 1954 đến năm 1969. Trong 15 năm đó Người đã cùng Bộ
Chính trị Trung ương Đảng đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn cho cách mạng Việt Nam và lãnh đạo nhân
dân vượt qua những thử thách cam go ác liệt để thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã từng gặp nhiều đoàn khách là đại biểu của các chính Đảng, đoàn thể, tôn giáo; đại biểu của công nhân, nông
dân, trí thức, quân đội; đại biểu của đồng bào các dân tộc thiểu số; đại biểu của người dân miền Nam Việt Nam và quân
nhân thuộc Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (ở Việt Nam gọi tắt là "đồng bào chiến sĩ miền Nam"). Cũng tại nơi đây,
Người còn tiếp những người là đại biểu những người Việt sống ở nước ngoài về thăm Việt Nam; đại biểu của các đội
thiếu niên, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ...)
Khu di tích cũng là nơi sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức các cuộc đón tiếp các đoàn khách quốc tế, gặp
gỡ đại biểu nhân dân Việt Nam. Khu di tích, với việc lưu giữ vẹn nguyên nơi ở, sinh hoạt và làm việc của Bác
lúc sinh thời, chính là nơi lưu giữ hết sức cụ thể mà xúc động, thiêng liêng, hình ảnh một vị lãnh tụ suốt đời
quên mình vì đất nước, nhưng cũng là một vị lãnh tụ có cuộc sống thường nhật hết sức giản dị, gần gũi, thanh
cao.

Với tất cả những ý nghĩa đó, sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa, nơi Người ở và làm việc cùng với các di tích,
kỷ vật ở đây đã trở thành những vật chứng quý giá, biểu tượng thiêng liêng về cuộc sống, hoạt động của
Người trong 15 năm cuối đời, phản ánh những giá trị cao đẹp nhất của tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh.

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Văn Miếu - Quốc Tử Giám (quận Đống Đa và quận Ba Đình, thành phố
Hà Nội).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 12/5/2012

+ Lịch sử hình thành:

Quốc Tử Giám Thăng Long được thành lập năm 1076, dưới thời vua Lý Nhân Tông. Trải qua các triều đại Lý,
Trần rồi Hậu Lê, Quốc Tử Giám đã trở thành trung tâm giáo dục lớn nhất của cả nước.

+ Giá trị nổi bật:

Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một trong những quần thể xây dựng lâu đời và quan trọng bậc nhất tại Thủ đô Hà
Nội. Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã đào tạo nên hàng ngàn các bậc đại khoa, hiền tài cho đất nước, nơi đây còn
lưu giữ 82 bia Tiến sĩ của triều Lê và triều Mạc. Với ý nghĩa đó, Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã để lại cho chúng
ta nhiều giá trị lịch sử trong lòng dân tộc.

Khuê Văn Các tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám được chọn là biểu tượng của Thủ đô theo Luật Thủ đô được, 82
tấm bia Tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu và ghi vào danh mục Ký
ức thế giới toàn cầu. Những điều này đã cho thấy, Văn Miếu - Quốc Tử Giám không chỉ là tài sản quý giá của
Thủ đô, của Việt Nam, mà nó đã trở thành tài sản, di sản văn hóa của nhân loại.

(Văn Miếu - Quốc tử Giám có giá trị biểu trưng đối với Nho giáo. Ngày nay, Nho giáo không còn ảnh hưởng sâu rộng đến
nhiều mặt đời sống như xưa. Sự hiện diện của Văn Miếu - Quốc Tử Giám khiến chúng ta không thể lãng quên nét văn
hiến ngàn đời của dân tộc.

Quốc Tử Giám được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam, giống như mùa xuân là mùa khởi đầu của một năm, từ
đó giúp rất nhiều vương triều mở đầu công cuộc chấn hưng đất nước. Văn Miếu - Quốc Tử Giám là biểu tượng của
“nguyên khí quốc gia” vì là nơi đào tạo sĩ tử và hơn thế nữa, là nơi tôn vinh nhân tài. Trong thời đại kinh tế tri thức,
những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của Văn Miếu - Quốc Tử Giám càng trở nên giàu ý nghĩa).

Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Cổ Loa (huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội).

+ Tên gọi: Thành Cổ Loa

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1419/QĐ-TTg, đợt 3 (2012)

+ Lịch sử hình thành:

Thành Cổ Loa là toà thành có niên đại cổ nhất ở Việt Nam được xây dựng từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên
để làm Kinh đô nước Âu Lạc, nay thuộc huyện Đông Anh – Hà Nội.

+ Giá trị nổi bật:

Cổ Loa đã từng là một trung tâm kinh tế phát triển suốt một chặng đường dài của quá trình dựng nước, mang
cả ba chức năng: kinh thành, quân thành và thị thành.

Cổ Loa ngày nay còn bảo lưu nhiều giá trị văn hóa phi vật thể có giá trị, trong đó nổi bật là Lễ hội Cổ Loa

Dấu tích còn lại ở Cổ Loa hiện nay là một tòa thành cổ nhất, không chỉ đồ sộ về quy mô, mà còn độc đáo về
kiểu thức với cấu trúc nhiều lớp thành uốn lượn; là tòa thành cổ nhất, to lớn nhất của Việt Nam và toàn Đông
Nam Á thời cổ đại, đồng thời là một công trình lao động có quy mô lớn nhất, sáng tạo nhất của quân dân Âu
Lạc.

Bên cạnh đó, Cổ Loa còn cả một quần thể các công trình kiến trúc vô cùng phong phú bao gồm nhiều loại hình
với nhiều chức năng khác nhau. Đó là những công trình tưởng niệm, những công trình mang chức năng tôn
giáo, tín ngưỡng ở đây không chỉ là những công trình mang giá trị lịch sử văn hóa, mà thực sự là những kiến
trúc – nghệ thuật, được thể hiện bằng chính bản thân kiến trúc cùng với những tác phẩm của nghệ thuật chạm
khắc, tạo hình và trang trí trên nhiều chất liệu, có giá trị thẩm mỹ cao.

Khu di tích Cổ Loa là địa điểm khảo cổ học có giá trị nổi bật đánh dấu các giai đoạn văn hóa của người Việt
cách đây từ 4000 – 2000 năm, trải qua các giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn.

Các di chỉ khảo cổ và các phát hiện về khảo cổ học ở Cổ Loa và vùng phụ cận đã cho thấy sự phát triển liên tục
của cư dân thời Phùng Nguyên cho đến các thời tiếp sau mà đỉnh cao là Văn hóa Đông Sơn, còn được gọi là
“văn minh sông Hồng”. Đặc biệt, sự phát hiện hàng vạn mũi tên đồng, các loại vũ khí, dụng cụ sản xuất cùng
với trống đồng Cổ Loa và khuôn đúc mũi tên đồng đã làm sáng tỏ thêm những truyền thuyết lịch sử thời kỳ An
Dương Vương tại khu di tích Cổ Loa.

Di tích lịch sử Đền Hai Bà Trưng (huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội).
+ Tên gọi:

+ Loại di tích: Di tích lịch sử – văn hóa

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: ngày 9 tháng 12 năm 2013, Quyết định 2383/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Đền thờ được xây dựng ở vị trí đắc địa, chính nơi Hai Bà sinh ra, lớn lên, tế cờ khởi nghĩa giành thắng lợi, xưng
Vương và định đô ngay từ những tháng năm đầu sau Công nguyên năm 40-43.

+ Giá trị nổi bật:

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (từ năm 40-43 SCN) là cuộc khởi nghĩa lớn đầu tiên của người Việt trong
suốt thời gian dài bị đô hộ bởi các triều đại phong kiến phương Bắc. Cuộc khởi nghĩa mở ra một trang sử bất
diệt cho dân tộc ta buổi đầu công nguyên, đó là sự thức tỉnh tinh thần dân tộc về quyền sống, quyền tự do của
người Việt.

Chính vì vậy, Hai Bà Trưng và cuộc khởi nghĩa của Hai Bà đã in đậm trong tâm tư, tình cảm của mỗi người dân
Việt Nam như một huyền thoại.

Để tưởng nhớ công ơn của Hai Bà, người dân Việt Nam đã thương kính, lập Đền thờ Hai Bà Trưng cũng như
đền thờ các tướng lĩnh của Hai Bà ở nhiều nơi trong cả nước. Trong hệ thống các di tích thờ Hai Bà Trưng, thì
ngôi Đền tại huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội có ý nghĩa đặc biệt, bởi đây là quê hương của Hai Bà, nơi Hai Bà
sinh ra, lớn lên, tế cở khởi nghĩa và dành thắng lợi.

Di tích lịch sử Đền Hát Môn (huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích: Di tích lịch sử – văn hóa

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 09 tháng 12 năm 2013, Quyết định 2383/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Theo một số tài liệu ghi lại, vùng Hát Môn là nơi Hai Bà Trưng tổ chức hội quân sĩ sau khi hội tại thành Phong
Châu. Đây cũng là nơi tuẫn tiết của Hai Bà Trưng khi cuộc khởi nghĩa thất bại. Tương truyền, đền Hát Môn
được khởi dựng sau khi Hai Bà Trưng hoá sinh vào cõi bất diệt.

+ Giá trị nổi bật:


Trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, Đền Hát Môn được chọn làm nơi sinh hoạt, luyện tập của dân quân du
kích địa phương. Những sự kiện lịch sử và hệ thống di tích quanh vùng sông Hát góp phần làm giàu thêm nội
dung và tôn cao giá trị của đền thờ Hai Bà Trưng.

Cùng kiến trúc độc đáo, trong đền còn lưu giữ rất nhiều di vật quý và có giá trị lịch sử như: Đôi kiệu song loan,
nhiều đồ thờ cúng, hoành phi, câu đối,... Ngoài ra, trong đền còn lưu giữ 6 bia đá, 22 đạo sắc phong của các
triều đại phong kiến.

Trên đất nước ta có rất nhiều nơi thờ Hai Bà Trưng nhưng di tích ở đây là di tích xảy ra 3 sự kiện lớn: Hai Bà
mất, tế cờ khởi nghĩa và tắm rửa sạch sẽ để xưng Vương. Bởi thế, trong số những đền thờ được lập nên để
tưởng nhớ công lao của 2 bà Trưng thì đền Hát Môn là nơi lưu giữ nhiều dấu ấn và những câu chuyện lịch sử
giá trị nhất về khởi nghĩa Hai Bà Trưng.

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Đền Phù Đổng (huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội).

+ Tên gọi: Đền Phù Đổng hay còn gọi là đền Gióng, đền Thượng

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 09 tháng 12 năm 2013, Quyết định 2383/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Đền Phù Đổng tương truyền được dựng trên nền nhà cũ của Thánh Gióng, bên trong đê sông Đuống, còn đền
Hạ (đền mẫu) thờ mẹ của Thánh Gióng nằm ngoài đê, gần nơi được cho là có dấu chân khổng lồ mà bà đã
ướm thử rồi sinh ra Thánh Gióng. Năm 1010 khi rời đô về Thăng Long, Lý Thái Tổ đã cho dựng đền, đến nay đã
được trùng tu nhiều lần.

+ Giá trị nổi bật:

(Lễ hội Gióng là là một Lễ hội thể hiện tinh thần chống giặc ngoại xâm của người Việt cổ, vừa thể hiện mong
ước "Quốc thái dân an" của nhân dân. Sức hấp dẫn của Hội Gióng còn là ý nghĩa giáo dục, lòng yêu nước,
truyền thống và ý chí quật cường và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc.)

Lễ hội Gióng cùng với Khu di tích lịch sử Phù Đổng hòa quyện và gắn chặt trở thành một thực thể không thể
thiếu trong đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân Phù Đổng nói riêng và nhân dân Gia Lâm nói chung.

Cùng với giá trị về mặt kiến trúc, hệ thống di vật của các di tích thờ Thánh Gióng như đền Thượng, đền Hạ,
miếu Ban lại rất đa dạng, phong phú về chủng loại và chất liệu, có niên đại nghệ thuật từ thời Lê Trung hưng
đến thời Nguyễn. Trong đó, phải kể đến 37 đạo sắc phong có niên đại thời Lê Trung Hưng, Tây Sơn và thời
Nguyễn; hệ thống bia đá, rồng đá, nghê đá, hoành phi, câu đối, cửa võng, long ngai, kiệu, hương án, tượng
thờ, bát bửu…, mang giá trị nghệ thuật cao, gắn với nhiều giai đoạn lịch sử của lịch sử dân tộc, hàm chứa
những quan niệm, triết lý nhân sinh sâu sắc.
Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Hồ Hoàn Kiếm và Đền Ngọc Sơn (quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội).

+ Tên gọi: hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn

+ Loại di tích: Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 9/12/2013, Quyết định 2383/QĐ- TTg

+ Lịch sử hình thành:

Trước kia, hồ còn có các tên gọi là hồ Lục Thủy (vì nước có màu xanh quanh năm), hồ Thủy Quân (dùng để
duyệt thủy binh)… Đến thế kỷ XV, hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, gắn liền với truyền thuyết trả gươm
thần cho Rùa Vàng.

Đền Ngọc Sơn là một ngôi đền thờ nằm trên đảo Ngọc của hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội, Việt Nam. Đền hiện nay
được xây dựng từ thế kỷ 19.

+ Giá trị nổi bật

Cảnh quan khu vực Hồ Hoàn Kiếm với trung tâm tín ngưỡng là đền Ngọc Sơn đã trở thành một trong những
biểu tượng văn hóa đặc biệt của Thủ đô.

Hồ Hoàn Kiếm là dấu tích của một khúc sông Nhị Hà bị những bãi cát chèn ở phía Bắc và phía Đông. Hồ Hoàn
Kiếm chính là phần "để lại" của sông Hồng-sông Cái-sông Mẹ, con sông đã lưu lại đặc tính nền văn minh sông
Hồng của người Việt đã và đang là một bảo tàng nước của thiên nhiên, của lịch sử và huyền thoại, nó vẫn là đề
tài muôn thuở của giới nghiên cứu, người yêu nghệ thuật trên nhiều lĩnh vực ở trong và ngoài nước.

Bên cạnh đó, xung quanh Hồ Gươm còn có rất nhiều di tịch nổi tiếng khác càng làm tăng thêm giá trị cổ kính
trong đó nổi bật lên có: Cầu Thê Húc, Đền Ngọc Sơn, Tháp Bút, Đền bà Kiệu, Đền vua Lê Thái Tổ, Tháp Hoà
Phong…

Đền Ngọc Sơn là di tích văn hoá tín ngưỡng tôn giáo, nơi thờ Thánh Trần Hưng Đạo và Quan Vũ Đế cùng hai vị
võ tướng được xếp vào hàng “Thánh” và cũng là nơi chứng kiến những buổi tập thuỷ chiến của quân đội Đại
Việt. Lịch sử và huyền thoại được hoà quyện tạo thành không gian văn hoá lịch sử quanh Hồ Hoàn Kiếm

Những thế kỷ sau, đền Ngọc Sơn-Hồ Hoàn Kiếm lại chứng kiến những sự kiện lịch sử vẻ vang của nước nhà,
nhất là cuộc đấu tranh giành chính quyền Cách mạng tháng Tám năm 1945 và cuộc chiến đấu anh dũng để bảo
vệ Thủ đô trong những ngày đầu toàn quốc kháng chiến. Những sự kiện lịch sử và hệ thống di tích quanh Hồ
Hoàn Kiếm đã làm giàu thêm nội dung và tôn cao giá trị của di tích đền Ngọc Sơn-Hồ Hoàn Kiếm.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Tây Đằng (huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội).

+ Tên gọi:
+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 09 tháng 12 năm 2013, Quyết định 2383/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Không rõ đình Tây Đằng được xây dựng vào năm nào. Trên một đầu cột của đình có ghi hàng chữ Quý Mùi
niên tạo, nhưng lại không ghi niên hiệu. Ngày nay phần lớn các nhà nghiên cứu ở Việt Nam cho rằng đình Tây
Đằng có niên đại khởi dựng vào thời nhà Mạc còn nắm quyền ở Thăng Long (khoảng thời gian rộng hơn có thể
là trong thời kỳ văn hóa Lê–Mạc). Các hoa văn mang phong cách cuối thời Lê Sơ (thế kỷ 16), song một số hình
rồng lại mong phong cách thời Trần.

+ Giá trị nổi bật:

Theo các nhà khoa học đánh giá, đình Tây Đằng là một bảo tàng sống về nghệ thuật chạm khắc và trang trí
trên kiến trúc với những đề tài phong phú phản ánh chân thực đời sống của nhân dân ta và được coi như một
bảo tàng nghệ thuật dân gian của thế kỷ XV

Đình Tây Đằng, một di tích tiêu biểu vào bậc nhất trong các ngôi đình cổ nổi danh toàn quốc với câu ca “Cầu
Nam, chùa Bắc, đình Đoài”. Đình Tây Đằng bao gồm các hạng mục chính: Cổng đình, hồ bán nguyệt, cổng nghi
môn, tả hữu mạc, tòa đại đình và giếng đình. Các hạng mục kiến trúc này được hòa quyện với nhau trong
khuôn viên di tích đã có tường bao xung quanh, với các nếp nhà cao thấp, mái đao cong cổ kính xen nhau tạo
nên.

Đình Tây Đằng có tới 1.300 họa tiết được chạm khắc hết sức tinh xảo, đậm nét tài hoa của những con người
làm ra nó. Nét đặc biệt có một không hai của ngôi đình này là không một chi tiết nào giống nhau từ họa tiết kẻ
liền bẩy bốn góc, đến các đầu dư đầu duôi, xà thượng,… đều có hoa văn đẹp, mỗi hoa văn một kiểu. Các họa
tiết hoa văn mang tính đặc sắc của các vùng miền văn hóa khác nhau như: đua thuyền của Nam bộ, voi chầu
của vùng Tây Nguyên, ngựa hý của vùng cao,…

Nghệ thuật điêu khắc, trang trí kiến trúc được thể hiện trên toàn bộ kết cấu gỗ của ngôi đình, hầu như không
có mảng trống nào trên gỗ là không có chạm khắc trang trí. Các đề tài được tập trung vào ít nhất ba loại hình
cơ bản sau: linh vật, hình tượng con người, biểu tượng tự nhiên và cây cỏ được “vũ trụ” hóa. Về các linh vật:
Phổ biến nhất là rồng rồi lân, hươu, phượng, voi, ngựa…

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Thầy và khu vực núi đá Sài Sơn, Hoàng Xá, Phượng Cách (huyện
Quốc Oai, thành phố Hà Nội).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:
+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 31 tháng 12, 2014, Quyết định 2408/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Chùa Thầy là một nhóm những ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn. Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được
gọi là chùa Thầy. Theo các tài liệu ghi lại, ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ (gọi là Hương Hải am), xây
dựng từ trước thời Lý. Đến khi Lý Nhân Tông (1072-1127) lên ngôi Vua đã cho xây dựng lại.

+ Giá trị nổi bật:

Quần thể di tích và danh thắng chùa Thầy nổi tiếng với nhiều điểm tham quan, nhưng giá trị kiến trúc nổi bật
nhất nằm ở 3 tòa của chùa Thầy với những dấu ấn đặc trưng của kiến trúc thế kỷ XVII. Chùa Thầy là nơi gắn
liền với tên tuổi của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, người có những đóng góp to lớn cho nhân dân, là ông tổ của bộ
môn múa rối nước. Ông đã tu hành ở đây rồi hóa thánh tại một hang đá trên núi Thầy có tên gọi là hang Thánh
Hóa.

Chùa Thầy được xây dựng cách đây hơn 1000 năm. Trải qua 7 lần trùng tu lớn, đến nay chùa Thầy vẫn giữ
được không gian cổ kính và kiến trúc độc đáo ở Xứ Đoài. Không chỉ là danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong và
ngoài nước, chùa Thầy còn là địa chỉ đỏ cách mạng của cả nước. Đây cũng là nơi thành lập chi bộ Đảng đầu
tiên của tỉnh Sơn Tây (cũ), cũng là địa danh được nhiều lần đón Bác Hồ về ở và làm việc trước khi Người lên
chiến khu Việt Bắc chỉ đạo kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Quần thể di tích chùa Thầy còn lưu giữ được hệ thống các di vật, cổ vật rất phong phú thuộc nhiều chủng loại,
chất liệu. Trong đó, bộ tượng Di Đà Tam Tôn được công nhận là Bảo vật quốc gia, nằm trong Di tích quốc gia
đặc biệt cho nên được ví như "báu vật nằm trong báu vật". Ngoài ra, quần thể này còn có một loạt các di tích
quan trọng khác như: chùa Hoa Vân, đền Văn Xương, quán Hoàng Xá, chùa Hoàng Kim...

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đền Sóc (huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 31 tháng 12 năm 2014, Quyết định 2408/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Tương truyền, đền Sóc bắt nguồn từ ngôi miếu thờ nhỏ mang tên Đổng Thiên Vương có từ xa xưa. Quần thể di
tích đền Sóc trải từ chân núi lên đỉnh núi Vệ Linh, nằm trong địa bàn thôn Vệ Linh, xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn,
Hà Nội. Đền được xây dựng từ thời vua Lê Đại Hành, vào khoảng năm 980

+ Giá trị nổi bật:


Khu di tích lịch sử đền Sóc là nơi thờ Phù Đổng Thiên Vương - một trong tứ bất tử của dân tộc Việt Nam. Theo
truyền thuyết, Thánh Gióng là người có công giúp vua Hùng Vương thứ VI dẹp giặc phương Bắc, đem lại thái
bình cho đất nước và Nhân dân.

Sau khi dẹp giặc xong, Thánh Gióng đến nơi đây, cởi áo chiến bào để lại đỉnh núi đá Chồng rồi cả người và
ngựa bay thẳng về trời. Nhà vua và Nhân dân biết ơn người anh hùng, lập đền thờ và hàng năm mở hội từ
mùng 6 - 8 tháng Giêng âm lịch để tưởng nhớ công ơn của Ngài.

Khu di tích lịch sử đền Sóc đã được xây dựng hơn 1.000 năm, trải qua nhiều biến thiên của lịch sử và thời gian,
qua nhiều lần trùng tu nhưng vẫn giữ được kiến trúc nghệ thuật độc đáo, cùng nhiều cổ vật có giá trị.

Quần thể di tích đền Sóc hiện nay gồm đền Trình, đền Mẫu, chùa Non Nước, chùa Đại Bi, đền Thượng, hòn đá
Chồng, tượng đài Thánh Gióng và các lăng bia đá ghi lại lịch sử và lễ hội đền Sóc. Mới đây, Học viện Phật giáo
Việt Nam đã được xây dựng trong khu vực di tích.

Chùa Non Nước là ngôi chùa vào hàng cổ nhất Việt Nam, có bề dày trên 1.000 năm lịch sử. Đền Sóc - nơi có
tượng Phật Tổ đúc bằng đồng cao 6,5m, nặng 30 tấn, là pho tượng đại Phật liền khối lớn nhất Đông Nam Á.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Tây Phương (huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2408/QĐ-TTg, đợt 5 (2014)

+ Lịch sử hình thành:

Truyền thuyết kể lại rằng, sự ra đời của ngôi chùa gắn liền với quá trình truyền bá Phật giáo vào Việt Nam.
Muộn hơn vài thế kỷ, câu chuyện lại nghiêng sang một hướng khác, gắn với nhân vật Cao Biền – Tiết độ sứ
thời nhà Đường (864 - 868) đã từng cai trị An Nam và đến đây xây dựng một kiến trúc tôn giáo, với ý đồ chặn
long mạch xứ này. Truyền thuyết vẫn là truyền thuyết, còn chứng tích vật chất liên quan tới ngôi chùa, đó là
thời Mạc Phúc Nguyên (1547 – 1561).

+ Giá trị nổi bật:

Chùa Tây Phương nổi tiếng không chỉ ở sự cổ kính qua truyền thuyết và lịch sử, nó còn nổi tiếng ở cảnh quan
mê hồn, bởi tọa lạc trên đỉnh núi Câu Lâu, đột khởi giữa vùng đồng bằng màu mỡ, với núi, non, sông, nước
gắn liền với quan niệm phong thủy phương Đông. Tây Phương còn nổi tiếng ở bộ tượng thờ bằng gỗ sơn son
thếp vàng, có thể coi là Phật điện đông đúc nhất trong các ngôi chùa ở Việt Nam có giá trị tiêu biểu, xuất sắc
về tượng gỗ, được công nhận là Bảo vật Quốc gia năm 2013.
(Chùa Tây Phương hiện nay là một quần thể các đơn nguyên, bao gồm các hạng mục sau: Tam quan hạ, Tam
quan thượng, Miếu Sơn Thần, Tiền đường, Trung đường, Thượng điện, Nhà tổ, Nhà Mẫu và Nhà khách.)

Điểm nhấn của Tây Phương là hệ thống tượng pháp, với những kiệt tác hiếm có trong nghệ thuật điêu khắc
tôn giáo. Tiêu biểu là các pho Tuyết Sơn, Thập bát vị La Hán, Bát Bộ kim cương, có niên đại thế kỷ 18. Ngoài ra
còn có nhiều pho tượng nổi tiếng khác, thuộc thế kỷ 19, cũng vô cùng ấn tượng.

Chùa Tây Phương là một công trình kiến trúc độc đáo vào hạng nhất trong các ngôi chùa ỏ Việt Nam, với sự
kết hợp giữa phong cách kiến trúc truyền thống và không gian sinh cảnh tự nhiên, do đó, giá trị thẩm mỹ và
nghệ thuật của nó, cùng với bộ tượng Phật trong chùa, xứng đáng để Tây Phương là “đệ nhất cổ tự”.

Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Quần thể Hương Sơn (Chùa Hương), huyện Mỹ Đức, thành phố Hà
Nội.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Quyết định số 2082/QĐ-TTg ngày 25/12/2017

+ Lịch sử hình thành:

Chùa Hương có lịch sử từ thế kỷ 15. Ngôi chùa được xây dựng với quy mô chính vào khoảng cuối thế kỷ 17, sau
đó bị hủy hoại trong chiến tranh Đông Dương năm 1947, sau đó được phục dựng lại từ năm 1989 do Hòa
thượng Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hoà thượng Thích Thanh Chân.

+ Giá trị nổi bật:

Danh thắng Hương Sơn được tạo hoá ban tặng những nét độc đáo riêng, có giá trị đặc biệt; tạo ra bởi hệ
thống các núi đá vôi với nhiều hang động được hình thành từ hàng trăm triệu năm, kết nối với nhau bằng
dòng chảy quanh co uốn lượn như dải lụa của Suối Yến; có hệ sinh thái động, thực vật phong phú, với trung
tâm là cụm đền chùa, hang động - nổi tiếng nhất là động Hương Tích nơi có Chùa Hương. Lễ hội chùa Hương
truyền thống hàng năm thường kéo dài từ mùng 6 tháng Giêng đến hết tháng 3 âm lịch luôn được xem là lễ
hội có quy mô lớn nhất miền Bắc, thu hút đông đảo khách thập phương. Đặc biệt Chùa Hương đã vinh dự
được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm cách đây tròn 60 năm.

Quần thể di tích thắng cảnh Hương Sơn có những giá trị đặc biệt cả về hệ sinh thái, kiến trúc, phong cảnh, giá
trị phật giáo, kinh tế, lịch sử…

Quần thể danh thắng Hương Sơn mang trong mình giá trị văn hóa truyền thống của người Việt. Quần thể di
tích lớn nhất quốc gia này bao gồm phức hệ núi non, hang động, thảm thực vật, thủy văn, hệ động vật và hệ
thống đình, đền, tu viện phật giáo với 21 ngôi chùa, đền, hang động được xây dựng từ hàng nghìn năm trước,
có giá trị to lớn về văn hóa và khảo cổ học.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhiều ngôi chùa, hang động ở đây từng là nơi che giấu và tổ chức các
cuộc họp bí mật của Việt Minh trong vùng.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Chèm, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 25/12/2017, Quyết định 2082/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Đình Chèm là ngôi đình của làng Chèm (tên chữ là Thụy Phương), thờ Thượng đẳng Thiên vương Lý Ông Trọng
(Lý Thân hay Đức Thánh Chèm) - nhà ngoại giao đầu tiên của dân tộc và là người có công dẹp giặc ngoại xâm
cứu nước.. Đình Chèm là một trong những ngôi đình được coi là cổ nhất nước Nam và là một công trình kiến
trúc có nghệ thuật chạm khắc độc đáo.

Theo sách Việt điện u linh cũng như ngọc phả của đình, đình Chèm được xây dựng từ thế kỷ thứ VII, thuộc loại
cổ nhất Việt Nam

+ Giá trị nổi bật:

Từ một ngôi đền thờ, qua những diễn biến văn hóa của nhiều thời đại, dưới nhiều ảnh hưởng của Đạo giáo,
Nho giáo, nay ngôi đền đã thành ngôi đình, dân gian quen gọi là Đình Chèm.

Đình Chèm không chỉ là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ kính mà nó còn mang trong mình sự tích về
một vị tướng tài, đức có công dẹp giặc cứu nước.

Đình Chèm được xây dựng theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc, chắc chắn và công phu. Nghi môn ngoại là
kiểu nghi môn trụ với bốn cột xây cao to, gần đỉnh trụ đắp hình lồng đèn, đỉnh trụ và thân trụ được trang trí tứ
linh, tứ quý và đắp các câu đối chữ Hán ca ngợi Đức Thánh Lý Ông Trọng. Nghi môn nội (hay còn gọi là Tàu
tượng) là một nếp nhà bốn mái, ba gian, hai chái, mái lợp ngói mũi hài, các góc uốn cong tạo thành những đầu
đao đắp nổi hình đầu rồng. Nghi môn nội mở 3 cửa lớn có cánh gỗ. Đây là nơi đặt tượng ông quản tượng, voi
chiến và ngựa chiến của Đức Thánh. Khu nhà bia, sân đình, tả hữu mạc, phương đình 8 mái và tòa đại bái, hậu
cung tạo thành hình chữ công.

Hiện đình Chèm còn lưu giữ được cuốn sách chữ Hán ghi các đạo sắc, lễ nghi, văn tế, 3 đạo sắc phong của các
vua Nguyễn phong thần cho ngài Lý Ông Trọng, 4 tấm bia đá, trong đó có 1 tấm thời Lê Cảnh Hưng và 3 tấm
thời Nguyễn, 10 tượng thờ, 8 bức hoành phi câu đối, 2 chuông đồng đúc thời Nguyễn. Đặc biệt là hệ thống
máng đồng là di vật độc đáo, hiếm có ở các di tích khác, có niên đại thời Lê, Tây Sơn và Nguyễn.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Tường Phiêu, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
+ Tên gọi: Đình Tường Phiêu (tên gọi khác là Đình Cả)

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 24/12/2018, Quyết định 1820/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Đình Tường Phiêu được khởi công xây dựng những năm 1430, và được tu bổ nhiều lần từ thế kỷ 17 đến thế kỷ
20. Hiện nay, đình Tường Phiêu thờ phụng 4 vị Thành hoàng làng là Ba vị đức Thánh Tản Viên và Quán Sơn
Thành hoàng

+ Giá trị nổi bật:

Đình Tường Phiêu là một công trình kiến trúc cổ, có quy mô to lớn, có nhiều mảng phù điêu mang phong cách
nghệ thuật thời Hậu Lê (khoảng thế kỉ 17 – 18).

Đình Tường Phiêu là một nơi bảo tồn và lưu trữ một khối lượng hiện vật lâu đời như ngai thờ, bài vị, bát bửu,
sắc phong…, có thể coi là báu vật hiếm có trong các di tích. Đáng chú ý là cửa võng gỗ thời Lê trung hưng thế
kỷ 17 tại trước cửa gác lửng thờ Thành hoàng làng.

Giá trị kiến trúc nghệ thuật của ngôi đình được xem là tập trung chủ yếu vào toà Đại bái. Đại bái là một ngôi
nhà ngang gồm 5 gian 2 dĩ. Trên bờ nóc đắp nổi lưỡng long chầu nguyệt. Đầu bờ nóc đắp nổi hai con kìm, bờ
giải có từng cặp sấu, nghê đối xứng nhau, ở vị trí này có những con sấu được tạo thành bởi chất liệu sành
nung mang rõ nét dấu ấn kiến trúc nghệ thuật thời Hậu Lê. Điều khác biệt của ngôi đình này với các ngôi đình
trong vùng còn thể hiện ở bờ nóc. (Người xưa cho rằng bờ nóc của ngôi đình này như một con rồng lớn đang
bay lên trời. Vì vậy, các nghệ nhân dân gian đã đắp cả đầu và đuôi rồng ở hai đầu bờ nóc.) Đây là một hiện
tượng kiến trúc đặc sắc mà về sau những công trình kiến trúc thời Nguyễn không còn giữ được.

Đình Tường Phiêu được phát hiện đã điền một gạch nối quan trọng. Nó chứng minh mạch liền suốt, không đứt
đoạn của một kiến trúc dân dã trong các xã hội đương thời. Ở đình Tường Phiêu, chúng ta có cả những chứng
cứ quan trọng cả về kết cấu kiến trúc. Thấy rõ giá trị của đình Tường Phiêu trong việc nghiên cứu của ngành
như khảo cổ học, lịch sử, mỹ thuật,...

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình So, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:


+ Số QĐ: 24 tháng 12 năm 2018, Quyết định 1820/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Đây là một trong những ngôi đình đẹp nhất xứ Đoài, dân gian có câu "Đẹp đình So - To đình Cấn". Đình được
xây dựng năm 1673 thờ Tam vị Đại Vương là tướng nhà Đinh có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng - Đinh Bộ Lĩnh
dẹp loạn 12 sứ quân.

+ Giá trị nổi bật:

Kiến trúc của đình So được các nhà nghiên cứu đánh giá và công nhận là một trong những ngôi đình cổ có kiến
trúc mẫu mực nhất. Sơ khai đình là một ngôi miếu nhỏ được xây dựng vào thời nhà Đinh thờ tam vị nguyên
soái đại vương. Đến năm 1673 thời Lê Trung Hưng, miếu được tu bổ cũng như mở rộng thành đình và công
trình hoàn thành vào văn 1674. Đến năm 1953 làng So tách làm hai xã Tân Hòa và Cộng Hòa thì cả hai xã có
chung một đình So, đây là điều đặc biệt của di tích này. Quy mô hiện nay của đình là kiến trúc theo kiểu nội
công ngoại quốc.

Trong đình hiện còn giữ được 40 đạo sắc phong thần từ năm Hoằng Định 2 (1601) thời nhà Lê đến năm Khải
Định 9 (1924) thời nhà Nguyễn, cùng nhiều hoành phi, câu đối cổ.

Trang trí mỹ thuật của đình So khá phong phú và đa dạng với những mảng chạm có giá trị mỹ thuật và mang
tính kỹ thuật cao. Các mảng chạm khắc ở đình So tập trung chủ yếu ở Nghi môn, gian giữa tòa Đại đình và Ống
muống. Đình so trải qua nhiều giai đoạn lịch sử và các đợt trùng tu nên các mảng trang trí trong đình cũng có
những kỹ thuật thể hiện khác nhau nhưng chung lại vẫn tạo được sự tổng thể và thống nhất tạo nên một công
trình bề thế về không gian và giá trị về thẩm mỹ của đình So nói riêng và cho các ngôi đình Việt Nam nói chung.

Di tích lịch sử Gò Đống Đa, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.

+ Tên gọi: Gò Đống Đa nay có tên gọi là Công viên văn hóa Đống Đa,

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 24/12/2018, 1820/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Di tích lịch sử Gò Đống Đa không chỉ là minh chứng cho chiến thắng vang dội của vị anh hùng áo vải Quang
Trung mà còn gắn liền với nhiều sự kiện văn hoá quan trọng của người dân thủ đô hàng trăm năm qua.

Gò Đống Đa là nơi ghi dấu chiến thắng vang dội của quân Tây Sơn trong sáng sớm ngày mùng 5 Tết Nguyên
đán năm Kỷ Dậu (1789). Trong mạch chiến thắng, trận Ngọc Hồi – Đống Đa có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi
chung của cuộc kháng chiến chống quân Thanh xâm lược, ghi thêm một võ công oai hùng trong lịch sử dân tộc,
được xem là một trong những biểu tượng tiêu biểu cho truyền thống yêu nước của tinh thần, khí phách chống
ngoại xâm. (Trận Ngọc Hồi – Đống Đa cũng thể hiện tập trung cách đánh thần tốc, táo bạo, bất ngờ, mãnh liệt,
nhanh chóng giành thắng lợi – là một đặc trưng nổi trội của thiên tài quân sự Quang Trung, đóng góp không
nhỏ vào kho tàng nghệ thuật quân sự của dân tộc.)

Tương truyền sau chiến thắng, vua Quang Trung cho thu nhặt xác giặc xếp vào 12 cái hố rộng, lấp đất chôn và
đắp cao thành gò gọi là "Kình nghê quán". Theo truyền thuyết, 12 gò này nằm rải rác từ làng Thịnh Quang đến
làng Nam Đồng. Năm 1851, do mở đường mở chợ, đào xẻ nhiều nơi thấy nhiều hài cốt, lại cho thu vào một hố
cao lên nối liền với núi Xưa, thành gò thứ 13, tức là gò còn lại hiện nay. Còn 12 gò khác đã bị phạt đi khi Hoàng
Cao Khải lập Thái Hà Ấp vào những năm 1890.

Nhưng trên thực tế, có nhiều chứng cứ cho rằng Gò Đống Đa là một gò tự nhiên được hình thành từ cách đây
khoảng 4000 năm.

Ngày mùng 5 Tết Nguyên đán hằng năm, trong niềm kính tưởng, người dân lại nô nức “trảy hội Đống Đa” như
một nét đẹp du xuân. Lễ hội Gò Đống Đa cũng là lễ hội đầu tiên, mở đầu cho một mùa lễ hội của Hà Nội.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Đại Phùng, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 31 tháng 12 năm 2019, Quyết định 1954/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Tên đình Đại Phùng được gọi theo tên làng, nay thuộc thị trấn Phùng, huyện Đan Phượng. Tên gọi này được
định hình từ ít nhất là năm 1684. Dựa vào dấu tích nghệ thuật còn tồn tại, ngôi đình này được tin rằng đã xây
dựng vào khoảng cuối thế kỉ 17. Đình Đại Phùng thờ hai vị thần là Tích Lịch Hòa Quang và tướng Vũ Hùng

+ Giá trị nổi bật:

Theo lời thần phả thì đình Đại Phùng có từ thời Trần, song hiện nay kiến trúc nghệ thuật mang niên đại từ thế
kỷ XVII, XVIII, XI và cả XX. Ta có thể nhận dạng ngôi đình được làm quy mô lớn, trang trí đẹp vào thế kỷ XVII
(ngôi đại đình). Sang thế kỷ XVIII, XIX làm thêm tiền tế và hậu cung… nhiều lần tu bổ thêm.

Giá trị đặc biệt về kiến trúc đình Đại Phùng là tòa đại đình, hình chữ nhất được làm hoàn toàn bằng gỗ xoan,
hàng cột cái to lớn, người ôm không xuể. Đặc biệt là các mảng chạm khắc gỗ phản ánh sinh hoạt của xã hội
đương thời. Tiêu biểu là mô típ trang trí hoạt cảnh “Vinh quy bái tổ”. Đám rước về làng có cảnh ca công của lối
hát ca trù truyền thống, các bức diễn tả hội làng đông vui với nhiều trò diễn xướng, trò chơi như: Đấu vật, đá
cầu… Đặc sắc là các cảnh: Trai gái tình tự, tiên tắm đầm sen,… từ các loài vật linh thiêng như: Rồng, Phượng,
Ngựa, Voi đến các con vật gần gũi với người như: Mèo, Thạch Sùng, Chim, Cá… đều được trạm khắc sinh động
trong nội thất ngôi đình. Những tác phẩm điêu khắc đồ sộ, hoành tráng trở thành không gian sinh hoạt vui vẻ,
gần gũi, đầm ấm của quê hương.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đền - Chùa - Đình Hai Bà Trưng, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội

+ Tên gọi: Đền Hai Bà Trưng, còn gọi là Đền Đồng Nhân

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: ngày 31 tháng 12 năm 2019, Quyết định 1954/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Đền Hai Bà Trưng nằm trên cùng một khuôn viên với hai di tích khác là chùa Viên Minh và đình Đồng Nhân, tạo
thành Cụm di tích Đền – Chùa – Đình Hai Bà Trưng.

Vua Lý Anh Tông cho dựng đền thờ Hai Bà Trưng ở ngay khu đất bãi sông của làng Đồng Nhân. Đến năm Gia
Long thứ 18 (1819), do đất bị xói lở, dân làng phải dời ngôi đền tới khu Cựu Võ Sở của triều Lê ở thôn Hương
Viên, nhưng vẫn giữ tên đền cũ.

+ Giá trị nổi bật:

Năm 40, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa. Năm 43, cuộc khởi nghĩa thất bại. Hai Bà đã tuẫn tiết ở sông Hát.
Tương truyền, anh linh của Hai Bà hóa thành pho tượng đá, trôi đến bãi Đồng Nhân. Vua nhà Lý đã cho dựng
đền thờ Hai Bà Trưng ở bãi Đồng Nhân, nơi tượng đá dạt vào. Sau này, do bãi bị lở nên người dân di dời ngôi
đền về địa chỉ ngày nay, ở phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng.

Đền Hai Bà Trưng có kiến trúc theo kiểu “Nội công ngoại quốc” là nơi đặt tượng thờ Hai Bà Trưng và tượng 6
nữ tướng dàn hai bên. Trong đền còn bảo lưu nhiều di vật quý như 27 đạo sắc phong của triều Lê và triều
Nguyễn, 8 pho tượng thờ, 2 tấm bia đá cổ ghi sự tích của Hai Bà, 2 bộ kiệu thời Nguyễn cùng nhiều cửa võng,
hoành phi, câu đối, hương án... có giá trị lịch sử nghệ thuật và thẩm mỹ.

Chùa Viên Minh nằm bên trái đền. Trong chùa Viên Minh hiện còn lưu giữ tấm bia cổ có tiêu đề viên “Viên
Minh Thiền tự kỷ niệm bi chí” được tặng dưới triều Bảo Đại thứ 7 năm 1932. Hiện trong chùa Viên Minh còn
bảo lưu được nhiều di vật, hiện vật có giá trị như 76 pho tượng thờ được tạo tác dưới triều Nguyễn.

Đình Đồng Nhân nằm sát bên phải đền Hai Bà Trưng, thờ thần Cao Sơn đại vương, Quốc Vương Thiên tử, thần
Đô Hồ đại vương..

Đây là quần thể di tích hiếm có tại trung tâm Thủ đô, bảo tồn gần như nguyên vẹn với đầy đủ các loại hình kiến
trúc tiêu biểu đền, chùa, đình; đồng thời, còn có hồ nước lớn phía trước.

Cụm di tích đền thờ Hai Bà Trưng còn là địa chỉ đỏ cách mạng chùa Viên Minh đã được công nhận là địa điểm
địa điểm lưu giữ sự kiện cách mạng kháng chiến.
Giá trị nghệ thuật của di tích còn thể hiện qua hệ thống các sinh vật phong phú, được chạm khắc tinh xảo với
các đề tài trang trí truyền thống, chứa đựng nhiều giá trị nghệ thuật độc đáo và mang ý nghĩa tượng trưng, có
giá trị cao về lịch sử, văn hóa, khoa học và thẩm mỹ. Di tích còn là một quần thể kiến trúc cảnh quan đẹp là nơi
hội tụ các công trình nghiên cứu về lịch sử văn hóa của nhiều học giả trong nước và quốc tế đã trở thành một
địa chỉ văn hóa du lịch tâm linh lịch sử hấp dẫn của Thủ đô.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Hạ Hiệp, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 31/12/2020, Quyết định 2280/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Căn cứ vào phong cách nghệ thuật trên kiến trúc cùng những đạo sắc phong thần, ngôi đình này được xác định
là có niên đại từ triều nhà Lê (khoảng đầu Thế kỉ 17 trở về trước). Đình Hạ Hiệp thờ Hoàng Đạo, một danh
tướng tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng trong những năm 40 – 43.

+ Giá trị nổi bật:

Hạ Hiệp là một trong số ít ngôi đình niên đại khởi dựng từ nửa đầu thế kỉ 17 còn bảo tồn được nguyên vẹn về
kiểu dáng kiến trúc. Các mảng trang trí chạm khắc có niên đại trải dài từ thế kỉ 17 đến đầu thế kỉ 20 tương đối
phong phú, tạo nên đặc trưng riêng. Những mảng chạm khắc trang trí ở đình làng Hạ Hiệp thể hiện "tính dân
gian sâu sắc với nhiều đề tài phong phú".

Ngôi đình cổ này còn bảo tồn đầy đủ các di vật có giá trị, trải qua nhiều thế kỉ. Những chiếc kiệu, hòm sớ, sắc
phong, bia đá, bể cảnh,... đã tạo nên một bộ sưu tập các đồ thờ tự có giá trị cao về mặt lịch sử, văn hóa.
Những hiện vật được coi như độc bản đã trở thành niềm tự hào của người dân làng Hạ Hiệp, thậm chí còn cho
thấy sự bền vững của di tích qua gần 4 thế kỉ tồn tại.

Đặc biệt, đình làng Hạ Hiệp còn giữ được 2 bể cảnh bằng đá có kiểu dáng tương tự nhau. Trên thân mỗi bể này
còn ghi rõ niên đại tạo dựng là năm Gia Long thứ 15 (1816). Đây là hai hiện vật khá độc đáo, lại được ghi niên
đại cụ thể, có thể xem là rất hiếm gặp trong các di tích cùng loại

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Thăng Long tứ trấn, gồm: đền Bạch Mã (quận Hoàn Kiếm), đền Voi
Phục, đền Quán Thánh (quận Ba Đình), đền Kim Liên (quận Đống Đa), thành phố Hà Nội.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:
+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 18 tháng 1 năm 2022, Quyết định số 93/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Đền Bạch Mã

Đền Bạch Mã được khởi dựng dưới thời nhà Đường khi Cao Biền xây La thành vào năm 866. Sau khi Lý Thái Tổ
dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long vào năm 1010 thì đền được xây dựng lại. Đền được xây theo hình chữ "tam",.
Điểm đặc sắc của công trình kiến trúc này chính là hệ thống mái hình "vỏ cua" (hình mai con cua) liên kết giữa
các hạng mục kiến trúc. Đền hiện còn bảo quản được tượng và nhiều di vật quý như tượng thần Long Đỗ từ
thời nhà Lê - thế kỷ XVII, 18 bia đá cổ, 17 đạo sắc phong thời Nguyễn, nhiều đồ thờ tự khác

- Đền Voi Phục

Đền Voi Phục thờ thần Linh Lang Đại vương, người có công đánh dẹp quân Tống trên vùng đất Thăng Long
xưa. Tương truyền, đền Voi Phục được xây dựng vào đời vua Lý Thánh Tông. Đền có kết cấu kiểu chữ "công"
gồm tiền tế, trung đường, hậu cung. Trong đền có hai pho tượng đồng và hòn đá to có vết lõm, tương truyền
là nơi Linh Lang nằm gối đầu lên rồi hóa thành con giao long. Ngoài cổng đền có tượng hai con voi quỳ phục,
do đó mà thành tên gọi

- Đền Kim Liên

Đền Kim Liên được lập nên từ thời vua Lý Thái Tổ xây dựng kinh thành Thăng Long để thờ thần Cao Sơn Đại
Vương. Tương truyền, thần Cao Sơn là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ, là một trong 50 người con theo
mẹ lên núi. Đền chính được xây theo kiểu chữ "Đinh". Về sau người dân làng Kim Liên đã lập thêm cổng tam
quan, bổ sung một số kiến trúc mới tạo thành đình Kim Liên. Đến nay, tại đình Kim Liên còn lưu giữ 39 đạo sắc
phong cho thần Cao Sơn Đại Vương và tấm bia đá dựng phía trái đền.

- Đền Quán Thánh

Theo sử sách, đền Quán Thánh hay Quán Trấn Vũ thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, tương truyền là người đã có công
giúp vua An Dương Vương khi xây thành Cổ Loa. Đền được dựng trong Kinh thành từ thời nhà Lý (1160). Trong
đền có tượng thánh Trấn Vũ bằng đồng đen, đúc năm 1677 đời Lê Hy Tông, cao 3,72 m và nặng khoảng 4 tấn.

 Đây còn được coi là bốn ngôi đền linh thiêng bậc nhất chốn kinh kì chính bởi lịch sử hình thành và vẻ
đẹp văn hóa của nó trong tín ngưỡng của người Việt Nam ta.
17. BẮC NINH
Tổng số lượng di tích:
Di sản thế giới: 4
Cấp tỉnh: 443
Cấp quốc gia: 204
Cấp quốc gia đặc biệt: 4
Di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Bút Tháp (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2383/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 12 năm 2013

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

•Chùa Bút Tháp còn có tên gọi khác là “chùa Ninh Phúc, Ninh Phúc tự, Ninh Phúc thiền tự, chùa Thiếu Lâm”.
Nay thuộc thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành.

•Chùa có lối kiến trúc độc đáo, bố cục hài hòa với môi trường thiên nhiên. Kiến trúc của chùa được giới
chuyên môn đánh giá là ngôi chùa có kiến trúc quy mô hoàn chỉnh nhất còn lại ở Việt Nam, là kiệt tác của lịch
sự, thể hiện tay nghề điêu luyện của các nghệ nhân Việt Nam.

•Chùa Bút Tháp còn lưu giữ bốn nhóm bảo vật quốc gia gồm: Tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt, nghìn tay
được công nhận năm 2012 và ba pho tượng Tam Thế, tòa Cửu phẩm Liên Hoa, Hương án cùng được công
nhận là bảo vật quốc gia năm 2020.

- Giá trị văn hóa:

•Chùa là nơi lưu giữ và truyền bá tín ngưỡng Phật Giáo của dân tộc Việt Nam, thể hiện nét văn hóa cộng đồng,
cũng như ước vọng và tình cảm một cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Dâu (huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2383/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 12 năm 2013

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử, nghệ thuật:


•Chùa Dâu còn có tên là chùa Cả, Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Pháp Vân tự. Chùa Dâu tọa lạc tại xã Thanh
Khương, huyện Thuận Thành.

•Quá trình hình thành và tồn tại của chùa Dâu gắn bó mật thiết với lịch sử phát triển của nước ta. Cùng với
một số chùa lân cận, chùa Dâu tạo nên một trung tâm Phật giáo lớn nhất của Việt Nam và khu vực. Đây là
trung tâm Phật giáo được hình thành sớm hơn cả hai trung tâm Phật giáo nổi tiếng của Trung Quốc thời kỳ
nhà Hán là Bành Thành và Lạc Dương. Nhiều đại sư danh tiếng thời xưa đã từng tu hành, trụ trì ở chùa Dâu
như: Mâu Bác ở thế kỷ II, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương ở thế kỷ III và Thiển sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi ở thế kỷ
VI.

•Chùa có lối kiến trúc cổ độc đáo, với nhiều nét chạm khắc tinh xảo thể hiện tay nghề thâm hậu của nghệ nhân
thời đó.

- Giá trị văn hóa:

•Chùa Dâu là công trình văn hóa tín ngưỡng có giá trị lịch sử về văn hóa hết sức lớn lao và sâu sắc. Chùa có tục
thờ Mẫu, là một tôn giáo bản địa thuần Việt. Chùa còn thờ các lực lượng thiên nhiên của cư dân nông nghiệp
trồng lúa nước, thể hiện nét văn hóa lúa nước đặc trưng của dân tộc ta.

•Chùa Dâu đã dung hội, cải tiến một cách điển hình các tín ngưỡng, tôn giáo bản địa với các tôn giáo lớn trong
khu vực nhưng vẫn mang đậm đà bản sắc dân tộc. Hội Dâu tổ chức vào ngày 8 tháng 4 Âm lịch hàng năm, đây
là lễ hội lớn của cả tổng Dâu xưa với nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo vẫn được duy trì.

Di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2408/QĐ-TTg, ngày 31 tháng 12 năm 2014

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

•Khu Lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý tọa lạc tại phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

•Đây là nơi an nghỉ và thờ phụng của các vị vua triều Lý – triều đại tinh hoa bậc nhất của dân tộc. Di tích có giá
trị giáo dục về tinh thần yêu nước và đức tính biết ơn những anh hùng, nhân vật có công dựng nước và giữ
nước. Nơi đây cũng mang đậm giá trị văn hóa Việt Nam, là dấu ấn về một triều đại hùng cường thời kỳ phong
kiến nước nhà.

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Phật Tích (huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh).
+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2408/QĐ-TTg, ngày 31 tháng 12 năm 2014

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử:

•Chùa Phật Tích (hay còn gọi là chùa Vạn Phúc) có vị trí tọa lạc trên núi Lạn Kha thuộc địa phận xã Phật Tích;
huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh. Đây là một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời với kiến trúc mang đậm dấu
ấn thời Lý. Là vết tích Phật học thời cổ đại của Viêt Nam.

•Chùa được vua Lý Thánh Tông cho xây dựng và trong suốt nhiều niên đại của triều Lý – Trần, Chùa Phật Tích
đều được coi là Quốc tự, là trung tâm Văn hóa Phật Giáo của Đại Việt. Ngoài ra, Chùa Phật Tích còn được các
triều đại sử dụng tổ chức thi Tiến sĩ.

- Giá trị văn hóa:

•Chùa Phật Tích còn là nơi gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống. Trong đó nổi tiếng nhất là lễ hội Khán hoa mẫu
đơn hay lễ hội Phật Tích được tổ chức vào 4 – 5 tháng Giêng.

•Chùa Phật Tích không chỉ là nơi tìm được sự an yên nơi cửa Phật, mà còn tìm lại được những giá trị tôn giáo –
lịch sử – mỹ thuật vô giá của dân tộc. Chùa Phật Tích là một trong số những điểm đến tạo nên tên tuổi cho cái
nôi Phật giáo – vùng đất Bắc Ninh.

18. HẢI DƯƠNG


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 244
Cấp quốc gia: 142
Cấp quốc gia đặc biệt: 4

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Côn Sơn - Kiếp Bạc (thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:


+ Số QĐ: 548/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2012

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

•Quần thể di tích Côn sơn - Kiếp Bạc thuộc địa bàn phường Cộng Hòa, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

•Nơi đây gồm rất nhiều các di tích lịch sử liên quan đến những chiến công lẫy lừng trong ba lần quân dân thời
Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông (thế kỷ XIII) và trong cuộc kháng chiến 10 năm của nghĩa quân
Lam Sơn chống quân Minh (thế kỷ XV). Đây cũng là nơi gắn liền với thân thế, sự nghiệp của các vị anh hùng
dân tộc như Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo cùng với nhiều danh nhân văn hoá như Trần Nguyên Đán, Pháp Loa,
Huyền Quang…

•Di tích này có giá trị giáo dục về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, là nơi
dung dưỡng ý chí đấu tranh giành lấy tự do, thề không khuất phục trước bọn lang sói xâm lăng.

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật

•Khu vực chùa Côn Sơn được xây dựng từ thế kỷ XIV, hiện còn bảo lưu được những dấu ấn kiến trúc từ thế kỷ
14 - 19 và nhiều bia ký, trong đó đặc biệt có bia “Thanh Hư động” thời Trần (thế kỷ XIV) được Thủ tướng Chính
phủ ký quyết định công nhận là bảo vật Quốc gia vào năm 2015. Có thể thấy khu vực chùa mang đậm nét văn
hóa tín ngưỡng truyền thống, là nơi để tìm hiểu về Phật pháp cũng như tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

•Chùa tổ chức lễ hội hằng năm, tổ chức các trò chơi dân gian và dâng hương cúng Phật, tưởng nhớ ông bà tổ
tiên, thể hiện truyền thống nhớ ơn của dân tộc Việt Nam.

•Đền Kiếp Bạc mang đậm nét nghệ thuật chạm khắc thời xưa với kỹ nghệ tinh xảo, điêu luyện. Đền cũng tổ
chức lễ hội hằng năm để tưởng nhớ công ơn Đức Thánh Trần, thể hiện tinh thần ái quốc, đức tính quý báu của
dân tộc ta.

Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Quần thể An Phụ - Kính Chủ - Nhẫm Dương (huyện Kinh Môn, tỉnh
Hải Dương).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2499/QĐ-TTg, đợt 7 (2016)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:


- Giá trị lịch sử:

•Di tích này là vùng đất địa linh gắn với tên tuổi các bậc vua chúa, văn nhân, danh sĩ như An Sinh Vương Trần
Liễu, vua Lê Thánh Tông, Phạm Sư Mạnh, Trương Quốc Dụng, Vũ Cán, tổ Thủy Nguyệt phái Tào Động, Đốc Tít...
Nơi đây cũng gắn liền với lịch sử chống ngoại xâm trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc như chống quân
xâm lược Nguyên Mông (thời Trần), chống quân Minh (thời Lê), 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế
quốc Mỹ...

•Động Kính Chủ còn sở hữu tấm bia hình chữ nhật nằm ngang trên nóc động khắc thơ của vua Lê Thánh Tông
(1442 - 1497), chủ súy hội Tao Đàn khi ông đến thăm nơi này, qua đó giúp thế hệ sau tìm hiểu về giai đoạn lịch
sử cũng như cuộc đời huy hoàng của vua Lê Thánh Tông.

•Có thể thấy rằng nơi đây gắn liền với những dấu ấn lịch sử rõ nét, qua đó giáo dục thế hệ mai sau về một dân
tộc Việt Nam hùng cường đánh bật mọi quân xâm lăng, giữ yên bờ cõi. Bức tượng Đức Thánh Trần mắt hướng
ra nơi biên ải Tổ quốc thể hiện ý chí sắt đá, thề nguyện gìn giữ non sông, không khuất phục trước mọi kẻ thù.

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật, khảo cổ

•Động Kính Chủ đã được xếp vào một trong sáu động đẹp của trời Nam. Với cảnh thiên nhiên như cõi cực lạc,
động được người xưa tạo thành chùa thờ Phật. Ở bên trái động có bốn chữ lớn “Vân Thạch thư thất” (Nhà
sách Vân Thạch) là nơi đọc sách của Nhập nội hành khiển Phạm Sư Mạnh, một vị quan nổi danh thời Trần.

•Nơi đây còn có ngôi chùa cổ được xây dựng từ thời Trần (1225 - 1400), là chốn tổ thiền phái Tào Động, từng
góp phần chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Chùa còn bảo lưu được 2 tháp đá thời Lê chứa xá lỵ đệ nhất tổ thiền
sư Thủy Nguyệt và đệ nhị tổ Tông Diễn.

•Các hang, động này lưu giữ những hiện vật của thời tiền sử thu hút sự chú ý của giới khảo cổ học. Tại động
Thánh Hóa, năm 2000 người ta đã tìm thấy nhiều xương voi, tê giác, khỉ, lợn rừng, đặc biệt là xương vượn
người... hóa thạch, tổng cộng 17 loài động vật thuộc kỷ Đệ tứ, cách chúng ta 3-5 vạn năm. Ngoài ra còn phát
hiện nhiều xương người dính vào thành động đã bị thạch nhũ bám kín thuộc về thời kỳ tiền sử cách chúng ta
hàng vạn năm.

Di tích lịch sử Văn miếu Mao Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2082/QĐ-TTg, đợt 8 (2017)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:


- Giá trị lịch sử:

• Văn miếu Mao Điền thuộc xã Cẩm Điền (Cẩm Giàng) hiện nay vốn là nơi kế thừa, tiếp nối của Văn miếu
trấn Hải Dương được khởi dựng từ thời Lê Sơ (thế kỷ XV) tại xã Vĩnh Lại, huyện Đường An (nay là xã Vĩnh Tuy,
Bình Giang). Năm 1800, Văn miếu trấn Hải Dương được di chuyển về hợp nhất với Trường thi hương ở xã Mao
Điền (cũng được xây dựng cùng thời) tạo thành một trung tâm đào tạo nhân tài, tôn vinh học vấn, tạo nguồn
lực xây dựng đất nước và tồn tại cho đến ngày nay.

• Ngày nay, Văn miếu Mao Điền trở thành địa chỉ giáo dục quan trọng cho các thế hệ trẻ về lịch sử, văn
hóa, truyền thống khoa bảng và được coi là nơi tôn vinh đạo học của tỉnh Đông. Sự ra đời, tồn tại của Văn
miếu Mao Điền suốt hơn 2 thế kỷ qua chứng minh Hải Dương là vùng đất học, đất danh nhân, đất văn hiến.

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Đền Xưa – Chùa Giám – Đền Bia, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2082/QĐ-TTg, đợt 8 (2017)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử:

Nơi đây gắn liền với tên tuổi và là bằng chứng vật chất về cấp độ nổi tiếng, sức lan tỏa ảnh hưởng của Đại
danh y - Thiền sư Tuệ Tĩnh. Đền Xưa ở xã Cẩm Vũ (nơi ông sinh ra) được khởi dựng vào khoảng thế kỷ XVII còn
lưu giữ nhiều cổ vật có giá trị. Chùa Giám ở xã Cẩm Sơn (nơi Tuệ Tĩnh tu tập, học hành, nghiên cứu các bài
thuốc dân gian) tương truyền được khởi dựng từ thời Lý. Nơi đây hiện còn bảo lưu Tòa Cửu phẩm Liên hoa - 1
trong 3 kiệt tác kiến trúc gỗ Phật giáo chỉ xuất hiện vào thế kỷ XVII đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là
bảo vật quốc gia năm 2015. Đền Bia ở xã Cẩm Văn được khởi dựng từ thời Lê, thờ Đại danh y Tuệ Tĩnh và tấm
bia đá thời Lê.

Có thể nói di tích này là nơi để tìm hiểu về cuộc đời của danh y Tuệ Tĩnh, cũng như sự phát triển của y học dân
tộc nước nhà.

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật

Các di tích trên là bằng chứng xác thực về đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “tri ân những người có công với
dân, với nước”. Các di tích càng khẳng định thiên tài y dược học cổ truyền của Tuệ Tĩnh đã có ảnh hưởng sâu
rộng trong đời sống xã hội. Ông đã sáng tạo ra tác phẩm nổi tiếng “Nam dược thần hiệu - Hồng nghĩa giác y
thư” gồm 581 vị thuốc Nam trị 181 loại chứng bệnh cho người Việt Nam với tư tưởng “Nam dược trị Nam
nhân”. Qua đây, có thể thấy Tuệ Tĩnh có tinh thần độc lập về văn hóa. Đó là nhân tố quan trọng làm nên bản
sắc văn hóa Việt Nam.

Tài năng sáng tạo và ý thức độc lập tự chủ trong lĩnh vực y dược học cổ truyền là phẩm chất nổi trội nhất và
cũng là di sản tinh thần mà Đại danh y - Thiền sư Tuệ Tĩnh đã góp phần làm nên sự đa dạng trong kho tàng di
sản văn hóa dân tộc. Phẩm chất văn hóa cao đẹp của Đại danh y - Thiền sư Tuệ Tĩnh được đời sau ngợi ca, tôn
vinh khi ông đã dấn thân, dâng hiến, tận tụy, dứt bỏ quan trường chọn nghề thuốc nhằm cứu nhân độ thế,
mượn đạo Phật để tu nhân tích đức, thực hành từ bi, hỉ xả... Qua đó cũng thể hiện truyền thống và phẩm chất
quý báu của đất nước, con người Việt Nam.

19. HƯNG YÊN


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 265
Cấp quốc gia: 175
Cấp quốc gia đặc biệt: 3

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Khu di tích Phố Hiến (thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2408/QĐ-TTg, ngày 31 tháng 12 năm 2014

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử, văn hóa nghệ thuật

Quần thể di tích Phố Hiến nằm trên địa phận của Phố Hiến xưa, hiện nay thuộc phần đất từ thôn Đằng Châu,
phường Lam Sơn tới thôn Nễ Châu, phường Hồng Châu, thành phố Hưng Yên. Những điều kiện thuận lợi về
địa hình dòng chảy của các con sông như sông Hồng, sông Thái Bình, sông Đáy đã giúp Phố Hiến trở thành
trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của xứ Đàng ngoài vào khoảng thế kỷ XVII – XVIII. Phố Hiến thời bấy giờ
đóng vai trò như một thương cảng quan trọng bậc nhất với cảnh trên bến dưới thuyền, các thuyền buôn nước
ngoài với trọng tải lớn thường xuyên đậu kín sông Xích Đằng.

Phố Hiến là nơi sinh sống, lập nghiệp của cộng đồng người Hoa, Xiêm, Mã Lai và các nước phương Tây, bởi vậy
cũng trở thành điểm hội tụ, giao thoa của các nền văn hóa, kèm theo sự hình thành các công trình kiến trúc,
tôn giáo, nhà ở mang phong cách của nhiều quốc gia khác nhau. Trải qua nhiều thăng trầm, dấu tích của các
cộng đồng người nước ngoài từng sinh sống tại đây không hề mất đi. Rất nhiều di tích, di sản phi vật thể được
hình thành từ thời hoàng kim của Phố Hiến vẫn còn tồn tại đến ngày nay, có thể kể đến các công trình kiến
trúc tuyệt tác như: Đền Mây; Văn Miếu Xích Đằng; đền Kim Đằng (phường Lam Sơn); đền Trần; đến Mẫu; đền
Thiên Hậu…

Có thể thấy rằng, Phố Hiến là chứng nhân của một giai đoạn lịch sử quan trong của dân tộc. Thông qua di tích
này, chúng ta có thể tìm hiểu về giao lưu văn hóa khu vực thời bấy giờ, cũng như hiểu thêm về những sự kiện
lịch sử đã diễn ra, qua đó làm phong phú thêm nền tảng kiến thức và nền tảng đa văn hóa, góp phần nâng cao
nhận thức cộng đồng và từ đó phát triển xã hội ngày nay

Di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Thái Lạc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1820/QĐ-TTg, ngày 24 tháng 12 năm 2018

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật

Ngôi chùa nằm cách quốc lộ 5 khoảng 2km, tọa lạc tại thôn Thái Lạc, xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng
Yên.

Không chỉ là chốn tâm linh chứa đựng hệ tôn giáo, tín ngưỡng của người dân trong vùng mà ngôi chùa còn
toát lên vẻ đẹp và những giá trị hiếm thấy. Ngoài các pho tượng Tứ Pháp, tương truyền được tạc từ cành dâu
lấy từ chùa Dâu, tỉnh Bắc Ninh thì tại gian giữa tòa thượng điện kết cấu bằng gỗ rất vững trãi là những mảng
chạm khắc nằm ở bộ vì gỗ, được coi là những bức phù điêu quý giá. Trên bộ vì được kết hợp hài hòa giữa kiến
trúc và trang trí. Trên các cốn, các đố của bộ vì và trên các cột, đấu có nhiều mảng chạm khắc lớn vô cùng tinh
xảo. Trải qua bao thăng trầm, biến cố lịch sử , ngôi chùa đã được trùng tu rất nhiều lần nhưng những bức phù
điêu bằng gỗ tại đây vẫn còn được giữ nguyên vẹn với 24 bức chạm gỗ và bức cốn thể hiện nhiều đề tài phong
phú.

Ngoài thờ Phật, ngôi chùa còn thờ 4 vị nữ thần của tín ngưỡng thờ Tứ Pháp ở Việt Nam (Pháp Vân, Pháp Vũ,
Pháp Lôi, Pháp Điện) tượng trưng cho những thế lực của tự nhiên mây, mưa, sấm, chớp. Vì vậy chùa còn có
tên Pháp Vân Tự - một trong 4 ngôi chùa thờ Tứ Pháp của huyện Văn Lâm, được cư dân của nền văn hóa nông
nghiệp rất coi trọng với ước vọng cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Qua đó cho thấy tín ngưỡng
thờ phụng nơi đây thể hiện tryền thống sống chan hòa cùng khát vọng hòa thuận với thiên nhiên, trân trọng
thiên nhiên của dân tộc Việt Nam.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đền An Xá, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên
+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2280/QĐ-TTg, đợt 11 (2020)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật

Đền An Xá tọa lạc tại xã An Viên, huyện Tiên Lữ, đây là nơi thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế cùng các vị thần tiên.
Đền được đánh giá là trung tâm văn hóa tiêu biểu, đặc sắc, hiếm hoi, duy nhất và lớn nhất của văn hóa Đạo
giáo còn sót lại trên mảnh đất Hưng Yên.

Đền An Xá là nơi thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngũ Lão Tiên Ông (những vị thần tiên của văn hóa Đạo giáo),
cùng các vị Thiên tiên, Địa tiên - là những người có công khai phá vùng đầm lầy hoang vu, diệt trừ thú dữ, dậy
dân cầy cấy, lập làng, dựng "Thụy Ứng Quán", để cầu mong mưa thuận, gió hoà, mùa màng bội thu.

Đền là nơi thể hiện ước vọng sống hòa thuận với thiên nhiên, trân trọng thiên nhiên của nhân dân Việt Nam,
đồng thời cũng thể hiên nét văn hóa nông nghiệp đặc trưng của nước ta, hài hòa cùng văn hóa Đạo giáo tạo
nên một nét đặc trưng của văn hóa nước nhà.

20. HÀ NAM
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 128
Cấp quốc gia: 92
Cấp quốc gia đặc biệt: 2

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Đền Trần Thương (huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2367/QĐ-TTg, đợt 6 (2015)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:


- Giá trị lịch sử

Đền Trần Thương (xã Trần Hưng Đạo, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) là nơi thờ vị anh hùng dân tộc Quốc công
Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng các tướng có công trong cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên-Mông lần thứ hai vào thế kỷ XIII.

Nơi đây tương truyền được Trần Hưng Đạo chọn làm kho lương của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống
quân Nguyên, góp phần to lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

Đền là nơi giáo dục về những giá trị lịch sử, quân sự mà quân dân ta đã áp dụng từ bao đời nay, qua đó thể
hiện ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm của nhân dân Việt Nam.

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật

Đền Trần Thương còn có giá trị về kiến trúc nghệ thuật mang đậm nét phong cách nghệ thuật cổ truyền của
dân tộc. Đền có kiến trúc độc đáo theo tư duy phong thủy. Không gian tổng quan của đền Trần Thương có sự
kết hợp hài hòa giữa phong thủy hữu tình, trời mây, sông nước.

Giá trị đền Trần Thương còn được thể hiện ở phần trang trí kiến trúc với các đề tài, họa tiết được chạm khắc
công phu như: lưỡng long chầu nguyệt, rồng bay, phượng múa, sóng nước, mây trời… tạo nên một bức tranh
thiên nhiên vừa sống động, vừa cổ kính trang nghiêm hàm chứa triết lý dân gian.

Cùng với vẻ đẹp về công trình kiến trúc độc đáo, linh thiêng, đền Trần Thương còn lưu giữ một số hiện vật, đồ
thờ có giá trị nghệ thuật cao như: hoành phi, câu đối, đại tự, ngai thờ, khám thờ, lục bình, bát hương, nghê đá,
rùa đá…và chiếc kiếm bạc có vỏ làm bằng đồi mồi rất quý, chỉ được đưa ra thờ vào những ngày lễ hội.

Cùng với giá trị lịch sử - văn hoá, đền Trần Thương còn mang đậm giá trị văn hoá tâm linh thông qua lễ hội. Lễ
hội đền Trần Thương hằng năm được nhân dân mở từ ngày 20-8 Âm lịch đã trở thành một nét văn hóa tín
ngưỡng lâu đời của người dân Hà Nam nói riêng và du khách thập phương nói chung. Trong lễ hội diễn ra
nhiều hoạt động văn hóa dân gian, tục thi đặc sắc, độc đáo nhất là lễ rước nước và thi bơi chải trên sông. Các
nghi thức trên vừa mang ý nghĩa cầu cho mưa thuận, gió hòa, “Phong đăng, hòa cốc”, “Quốc thái dân an”,
nhắc nhở đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, đồng thời gợi nhớ nguồn gốc của dòng tộc nhà Trần vốn quen nghề
sông nước.

Lễ hội đền Trần Thương là một trong ba lễ hội vùng của tỉnh Hà Nam. Lễ hội này có ý nghĩa là một cuộc hành
hương về cội nguồn không chỉ đối với người dân địa phương mà đối với người dân cả nước.

Có thể thấy rằng đền Trần Thương còn mang đậm nét đặc sắc văn hóa dân tộc, giáo dục thế hệ trẻ về đạo lý
“uống nước nhớ nguồn”, cũng như những phẩm chất tốt đẹp khác của dân tộc.

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Đọi Sơn (Chùa Long Đọi Sơn), huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:
+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2082/QĐ-TTg, đợt 8 (2017)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

Chùa Long Đọi Sơn Hà Nam còn có tên khác là chùa Đọi, tiếng Hán gọi là Diên Linh Tự. Chùa có vị thế đẹp, nằm
trên đỉnh ngọn núi Đọi, thuộc xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, do vua Lý Thánh Tông và Vương phi Ỷ
Lan chủ trì cho xây dựng năm 1054 - 1058.

Nơi đây lưu giữ nhiều bảo vật của nhà Lý, ngoài ra chùa còn là chứng nhân lịch sử với các cuộc chiến tranh vĩ
đại của dân tộc. Từ cuộc kháng chiến chống quan Minh cho đến kháng chiến chống Pháp, dẫu cho có bị phá
hủy bao lần, chùa vẫn còn giữ được nét đặc sắc riêng, thể hiện tinh thần và ý chí không khuất phục trước mọi
thế lực thù địch của dân tộc ta.

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật

Chùa là nơi lưu giữ các bảo vật từ thời Lý, cũng như mang đậm dấu ấn chạm khắc thời ấy, thể hiện tay nghề
điêu luyện của nghệ nhân Việt Nam xưa, là nguồn tư liệu quý giá để các thế hệ ngày nay học tập.

Chùa cũng là nơi thể hiện tín ngưỡng dân gian truyền thống của dân tộc, là nơi truyền thừa Phật pháp – tôn
giáo đi cùng dân tộc trong mọi việc kể cả chiến tranh mưa bom bão đạn.

21. NINH BÌNH


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt: 3

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Cố đô Hoa Lư (huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 548/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2012

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:


- Giá trị lịch sử

Cố đô Hoa Lư là di tích có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hóa. Nơi đây là trung tâm kinh tế - chính trị - quân sự
và văn hóa của Nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền đầu tiên của Việt Nam, nơi phát tích sự nghiệp
của 3 triều đại Đinh - Tiền Lê và khởi đầu triều Lý trong 42 năm (968 - 1010).

Hoa Lư là kinh đô có quy mô lớn do chính người Việt tự thiết kế và tổ chức xây dựng. Nó khẳng định lòng dũng
cảm, trí thông minh, sáng tạo và ý thức độc lập, tự chủ của người Việt ở thế kỷ X. Đây cũng là nơi tạo thế và
lực cho dân tộc ta bước sang một thời kỳ phát triển rực rỡ dưới các thời kỳ Lý – Trần trong các thế kỷ tiếp
theo. Có thể nơi cố đô Hoa Lư gắn liền với sự nghiệp dựng nước và giữ nước cả dân tộc ta, thể hiện nhiều
phẩm chất và đức tính quý báu của nhân dân Việt Nam.

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật

Nơi đây cũng là một trung tâm văn hóa lớn, là nơi sản sinh nghệ thuật sân khấu chèo. Ngoài ra, những lễ hội
và tập tục địa phương vẫn còn được lưu truyền đến ngày nay, thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo của nước ta.

Danh lam thắng cảnh Tràng An - Tam Cốc - Bích Động (huyện Hoa Lư, huyện Gia Viễn, huyện Nho Quan và
thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 548/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2012

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Tiêu chí (v): Tràng An "thí dụ nổi bật về môi trường sống của người tiền sử". Nơi mà thiên nhiên và văn hóa
không thể tách biệt, nơi mà văn hóa chứa đựng sự kỳ diệu, bí ẩn và hùng vĩ của thế giới tự nhiên và đã được
tự nhiên cải biến.

Tràng An là địa điểm nổi bật trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới với những bằng chứng cho thấy cách
con người tương tác với cảnh quan thiên nhiên và thích ứng với những thay đổi quan trọng về môi trường kéo
dài hơn 30.000 năm (từ 1.200 đến 33.100 năm).

Lịch sử văn hóa liên tục và tương đối dài có mối quan hệ chặt chẽ với tiến hóa địa chất gần đây của khối karst
đá vôi Tràng An. Con người cổ là một phần không thể tách khỏi cộng đồng sinh vật đã được thiết lập trong khu
vực đá vôi ít nhất là từ thời kỳ Băng hà cực đại cuối cùng.

Tràng An cũng là một trong số ít các di sản có giá trị ở Đông Nam Á giữ lại nhiều đặc điểm ban đầu không chịu
ảnh hưởng lớn từ con người, động vật và các nhân tố khác ở thời gian sau đó. Tràng An mang đặc điểm về quá
trình tương tác giữa con người - môi trường và là một kho tư liệu vô giá toàn cầu cho việc tìm hiểu quá trình
thích ứng và thay đổi cảnh quan trong điều kiện biến đổi môi trường.

Tiêu chí (vii): cảnh quan tháp karst Tràng An là một trong những khu vực đẹp và ngoạn mục nhất thuộc loại
này trên thế giới. Cảnh quan gồm chủ yếu một loạt các tháp karst dạng nón, với vách dốc đứng cao 200m so
với nền đất và mực nước xung quanh.

Những rặng núi hẹp nối liền hai đỉnh núi, được ví như những thanh kiếm khổng lồ, bao quanh các thung,
trũng, hố sụt tròn và dài, với những dòng sông, suối nối với nhau, chảy quanh co xuyên qua các hang động vô
số những thạch nhũ, rèm nhũ lôi cuốn …ngầm dài vài trăm mét.

Rừng nhiệt đới nguyên sinh bao trùm, thậm chí bám vào các vách đá và đỉnh núi. Các yếu tố đá, nước, rừng,
bầu trời kết hợp với nhau tạo nên một thế giới thiên nhiên sinh động, không thể đẹp và quyến rũ hơn

Tiêu chí (viii): Tràng An là ví dụ nổi bật đại diện cho các giai đoạn lịch sử chính của Trái đất, bao gồm cả tiến
trình phát triển sự sống, những quá trình địa chất quan trọng đang hình thành nên các dạng địa hình, các đặc
điểm địa mạo hoặc sơn văn nổi bật.

Tràng An được các nhà địa chất quốc tế đánh giá là một ví dụ điển hình cho tháp đá vôi nhiệt đới ẩm ở giai
đoạn cuối của quá trình phát triển địa mạo, và là một mô hình để nhận biết và so sánh với các khu vực tương
tự trên thế giới.

**

Lấy từ DI SẢN THẾ GIỚI VN

Tràng An là địa điểm nổi bật ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới chứa đựng những bằng chứng khảo cổ
phong phú và vẫn còn được bảo tồn gần như nguyên trạng, chủ yếu là vỏ ốc, vỏ sò, xương động vật, đồ gốm,
công cụ bằng đá, nền bếp, gốm vặn thừng và di cốt người. Đây là kho tư liệu vô giá cho thấy sự thích ứng của
người tiền sử với những biến đổi quan trọng về môi trường kéo dài hơn 30.000 năm, ít nhất từ thời kỳ Băng hà
cuối cùng. Trong thời gian này, họ đã trải qua một số biến đổi địa lý và khí hậu khắc nghiệt nhất trong lịch sử
trái đất. Bên cạnh đó, các di tích văn hóa lịch sử như đền, chùa, cung điện cũng góp phần bổ sung và củng cố
nhiều tư liệu khảo cổ học.

- Giá trị thẩm mỹ

Cảnh quan tháp karst Tràng An là một trong những khu vực đẹp và ngoạn mục nhất thuộc loại này trên thế
giới, gồm chủ yếu một loạt các tháp karst dạng nón với vách dốc đứng cao 200m so với nền đất và mực nước
xung quanh. Đan xen các đỉnh núi hình tháp là hệ thống các thung lũng và hố sụt karst có độ nông sâu khác
nhau. Trong các hố sụt là các đầm lầy bồi tích rộng, nối thông với nhau bởi các dòng suối ngầm xuyên qua núi
tạo thành vô số hang luồn, trên trần hang lấp lánh những thạch nhũ muôn hình vạn trạng. Hòa vào vẻ đẹp của
cảnh quan karst là thảm rừng nguyên sinh dày, bao phủ các vách đá, mang lại không khí mát mẻ, hoang sơ.
Điểm xuyết giữa những ngọn núi hùng vĩ, hang động huyền bí, sông nước thanh tĩnh là những đền, chùa, miếu
linh thiêng. Đặc biệt, cảnh quan của vùng đệm xung quanh Tràng An tạo nên một bức tranh cuộc sống nông
thôn truyền thống sinh động, quyến rũ với những ngôi làng nhỏ nối với nhau bởi các con đường đất hoặc
đường mòn cùng mạng lưới sông suối và kênh rạch.

**

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật, địa chất

• Quần thể danh thắng Tràng An có diện tích 6.172ha thuộc địa bàn huyện Hoa Lư, Gia Viễn, Nho Quan,
thị xã Tam Điệp và thành phố Ninh Bình.

• Tràng An là địa điểm nổi bật ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới chứa đựng những bằng chứng
khảo cổ phong phú và vẫn còn được bảo tồn gần như nguyên trạng, chủ yếu là vỏ ốc, vỏ sò, xương động vật,
đồ gốm, công cụ bằng đá, nền bếp, gốm vặn thừng và di cốt người. Đây là kho tư liệu vô giá cho thấy sự thích
ứng của người tiền sử với những biến đổi quan trọng về môi trường kéo dài hơn 30.000 năm, ít nhất từ thời kỳ
Băng hà cuối cùng. Bên cạnh đó, các di tích văn hóa lịch sử như đền, chùa, cung điện cũng góp phần bổ sung
và củng cố nhiều tư liệu khảo cổ học.

• Cảnh quan tháp karst Tràng An là một trong những khu vực đẹp và ngoạn mục nhất thuộc loại này trên
thế giới, gồm chủ yếu một loạt các tháp karst dạng nón với vách dốc đứng cao 200m so với nền đất và mực
nước xung quanh. Đan xen các đỉnh núi hình tháp là hệ thống các thung lũng và hố sụt karst có độ nông sâu
khác nhau. Trong các hố sụt là các đầm lầy bồi tích rộng, nối thông với nhau bởi các dòng suối ngầm xuyên qua
núi tạo thành vô số hang luồn, trên trần hang lấp lánh những thạch nhũ muôn hình vạn trạng. Hòa vào vẻ đẹp
của cảnh quan karst là thảm rừng nguyên sinh dày, bao phủ các vách đá, mang lại không khí mát mẻ, hoang
sơ. Điểm xuyết giữa những ngọn núi hùng vĩ, hang động huyền bí, sông nước thanh tĩnh là những đền, chùa,
miếu linh thiêng. Đặc biệt, cảnh quan của vùng đệm xung quanh Tràng An tạo nên một bức tranh cuộc sống
nông thôn truyền thống sinh động, quyến rũ với những ngôi làng nhỏ nối với nhau bởi các con đường đất hoặc
đường mòn cùng mạng lưới sông suối và kênh rạch.

• Tràng An minh chứng cho các giai đoạn cuối cùng của quá trình tiến hóa karst trong môi trường khí hậu
nhiệt đới ẩm. Sự hiện diện rộng rãi của một loạt các ngấn xâm thực trên các vách đá với những hang động,
nền sóng vỗ, lắng đọng bãi biển và vỏ sò là những bằng chứng cho mực nước biển cũ.

• Hang động Tràng An xưa chính là hệ thống phòng thủ phía Nam của kinh thành Hoa Lư (còn gọi là
thành Nam). Đây là hệ thống núi non, sông suối kỳ vĩ được quy hoạch thành một trong những khu du lịch sinh
thái lớn nhất cả nước, là một “món quà” mà mẹ thiên nhiên đã trao tặng cho đất nước, là tài sản vô giá của
nhân loại.

Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Núi Non Nước, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:


+ Số QĐ: 1954/QĐ-TTg, đợt 10 (2019)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

• Núi Non Nước (tên cổ là Dục Thúy Sơn), là một núi nhỏ nằm bên ngã ba sông Vân với sông Đáy, ở giữa
cầu Non Nước và cầu Ninh Bình. Núi là một tiền đồn nằm ở cửa ngõ phía đông thành phố Ninh Bình

• Xưa núi là một vọng gác tiền tiêu bảo vệ thành Hoa Lư. Đặc biệt đây là nơi chứng kiến cuộc chuyển
giao chế độ quan trọng trong lịch sử đất nước: từ bến Vân Sàng dưới chân núi, hoàng thái hậu nhà Đinh
Dương Vân Nga đã trao áo Long Bào và chờ đợi ngày về cho tướng quân Lê Hoàn cầm quân đánh đuổi quân
xâm lược nhà Tống lần thứ nhất, mở ra chiến thắng vang dội trong lịch sử dân tộc.

• Hòn Non Nước nằm ở vị trí rất trọng yếu, án ngữ toàn bộ ngã ba sông Đáy, sông Vân, quốc lộ 10,
đường sắt Bắc Nam và gần Quốc lộ 1. Dọc đường lên núi vẫn còn lô cốt với vết tích bom đạn thời chiến. Trên
núi có tượng chiến sĩ Lương Văn Tụy.

• Trong chiến dịch Quang Trung, cũng trên núi này, thượng tá Giáp Văn Khương làm nhiệm vụ đột kích
đồn Hồi Hạc rồi leo lên đỉnh Non Nước mở đột phá khẩu.

• Gắn với lịch sử hình thành vùng đất Ninh Bình, núi Thúy - sông Vân trở thành hình ảnh biểu tượng độc
đáo đặc trưng của thành phố Ninh Bình.

• Qua những di tích trên, có thể thấy Núi Non Nước là chứng nhân của các giai đoạn lịch sử hào hùng của
dân tộc, là minh chứng cho sự quyết tâm giữ vững biên cương bờ cõi, thề không khuất phục ngoại xâm.

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật

• Núi là nguồn cảm hứng vô tận của các thi nhân nổi tiếng, tiêu biểu như Trương Hán Siêu. Núi Non
Nước đã đi vào kho tàng thi ca Việt Nam, tô điểm cho nền văn học nước nhà. Ngoài ra, các công trình kiến trúc
nơi đây cũng mang nét nghệ thuật đặc trưng của dân tộc.

22. QUẢNG NINH


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 90
Cấp quốc gia: 72
Cấp quốc gia đặc biệt: 5

Di tích lịch sử Bạch Đằng (thị xã Quảng Yên, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:
+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1419/QĐ-TTg, ngày 27 tháng 9 năm 2012

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

• Di tích này là nơi chứng kiến thắng lợi to lớn của quân dân ta trong công cuộc dựng nước và giữ nước,
nổi bật nhất với chiến thắng của Ngô Quyền, chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc.

• Có thể nói Bạch Đằng là chứng nhân vĩ đại của lịch sử nước nhà, là mồ chôn của bọn xâm lăng. Nơi đây
còn nổi bật với các chiến thuật quân sự sáng tạo mà hiệu quả, góp phần giáo dục thế hệ sau về truyền thống
nồng nàn yêu nước, đánh giặc ngoại xâm của dân tộc.

Danh lam thắng cảnh Vịnh Hạ Long (thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng
Ninh).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích: di tích quốc gia đặc biệt

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: quyết định số 1272/QĐ-TTg, (đợt 1) năm 2009.

+ Lịch sử hình thành:

Vịnh Hạ Long nằm trong Vịnh Bắc Bộ là một quần thể gồm hơn 1.600 đảo lớn nhỏ, tạo nên một phong cảnh
tuyệt đẹp giữa biển với những cột đá vôi nhô lên. Hầu hết những hòn đảo đều không có người và không có sự
tác động của con người do đặc tính dốc của chúng. Ngoài vẻ đẹp kỳ diệu, vịnh Hạ Long còn sở hữu hệ sinh thái
đặc sắc

+ Giá trị nổi bật:

Lấy từ UNESCO

Tiêu chí (vii): Vịnh Hạ Long nổi bật với hệ thống đảo đá và hang động tuyệt đẹp. Đảo ở Hạ Long có hai dạng là
đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở hai vùng chính là vùng phía đông nam vịnh Bái Tử Long và vùng
phía tây nam vịnh Hạ Long. Đây là hình ảnh cổ xưa nhất của địa hình có tuổi kiến tạo địa chất từ 250 - 280
triệu năm, là kết quả của quá trình vận động nâng lên, hạ xuống nhiều lần từ lục địa thành trũng biển. Quá
trình Carxto bào mòn, phong hoá gần như hoàn toàn tạo ra một Hạ Long độc nhất vô nhị trên thế giới.

Hàng trăm đảo đá, mỗi đảo mang một hình dáng khác nhau hết sức sinh động: hòn Đầu Người, hòn Rồng, hòn
Lã Vọng, hòn Cánh Buồm, hòn Trống Mái, hòn Lư Hương... Tiềm ẩn trong lòng các đảo đá ấy là những hang
động tuyệt đẹp gắn với nhiều truyền thuyết thần kỳ như động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, động Sửng Sốt, hang
Trinh Nữ, động Tam Cung... Đó thực sự là những lâu đài của tạo hoá giữa chốn trần gian. Từ xưa, Hạ Long đã
được đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi mệnh danh là "kỳ quan đất dựng giữa trời cao”.

Tiêu chí (viii): là một di sản độc nhất về giá trị địa chất và địa mạo vùng đá vôi Karst. Vịnh Hạ Long là một điển
hình phát triển lớn nhất và mạnh nhất trên thế giới về cảnh quan tháp Karst đã bị biển làm chìm ngập. Vùng di
sản này mang đặc trưng của cả hai vùng Karst fenglin và fengcong. Vịnh Hạ Long được hình thành và mở rộng
do quá trình tiến hóa về mặt địa mạo kể từ khi đồng bằng thứ sinh xuất hiện cùng với những lớp cắt đặc trưng
trên những đồi đá vôi ở các mực nước cơ sở bị biển xâm thực.

Vịnh Hạ Long là một thắng cảnh Karst mang ý nghĩa toàn cầu với nền tảng cơ bản là khoa học địa chất. Hạ Long
bao gồm tất cả địa hình dạng Fengcong, Fenglin, và các hang động vẫn đang trong quá trình phát triển. Cùng
với giá trị về cảnh quan, giá trị về địa chất của Hạ Long cần phải được bảo tồn vì lợi ích của loài người.

**

Lấy từ DI SẢN THẾ GIỚI VN

- Giá trị lịch sử địa chất:

Vịnh Hạ Long được đánh giá qua hai yếu tố: lịch sử kiến tạo và địa chất, địa mạo. Đặc trưng cơ bản của Vịnh
Hạ Long 1000 năm qua là biển lấn mở rộng Vịnh, xói lở mạnh các bãi bằng sú vẹt, nước Vịnh trong hơn, mặn
hơn và san hô phát triển. Quá trình ăn mòn của nước biển tích cực tạo nên các ngấn sâu làm tăng thêm vẻ đẹp
kỳ thú độc đáo của địa tầng Carxtơ. Vịnh Hạ Long là kết quả của quá trình tiến hoá địa chất lâu dài. Du khách
đến vịnh Hạ Long không chỉ đến với kỳ quan của thế giới mà còn đến với một bảo tàng địa chất quý giá được
gìn giữ ngoài trời đến 300 triệu năm. Những hang động chính là bằng chứng sinh động về quá trình xâm thực
của mực nước biển qua các kỷ địa chất. Môi trường địa chất vịnh Hạ Long còn là nền tảng phát sinh các giá trị
khác như đa dạng sinh học, văn hóa khảo cổ và các giá trị nhân văn khác.

Vịnh Hạ Long tập trung đa dạng sinh học cao với các hệ sinh thái của vùng biển nhiệt đới như: Hệ sinh thái
rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái cỏ biển, hệ sinh thái rừng cây nhiệt đới và đặc biệt là hệ
sinh thái tùng áng đặc thù.

Đến nay sơ bộ đánh giá hệ thực vật trong vùng vịnh Hạ Long có khoảng 347 loài, thực vật có mạch thuộc 232
chi và 95 họ. Trong tổng số 347 loài thực vật đã biết, có 16 loài đang nằm trong danh sách đỏ của Việt Nam đã
nguy cấp và sắp nguy cấp. Trong các loài thực vật quý hiếm, có 95 loài thuộc cây làm thuốc, 37 loài cây làm
cảnh, 13 loài cây ăn quả và 10 nhóm có khả năng sử dụng khác nhau.

Các đảo tại vịnh Hạ Long có các loài động vật thân mềm đa dạng, đặc biệt là các loài cư trú trong hốc đá, và có
tới 60 loài động vật đặc hữu. Hải sản Hạ Long được khai thác và nuôi trồng bao gồm bào ngư, hải sâm, sá sùng,
tôm, cá, mực (mực ống, mực nang, mực thước), bạch tuộc, sò huyết, trai và điệp nuôi lấy ngọc…

Vịnh Hạ Long còn là vùng đất mang trong mình những trang sử vẻ vang, hào hùng của dân tộc Việt Nam với
những địa danh nổi tiếng như Vân Đồn - nơi có thương cảng cổ sầm uất vào thế kỷ thứ 12, có núi Bài Thơ lịch
sử, và cách đó không xa là dòng sông Bạch Đằng - chứng tích của hai trận thuỷ chiến lẫy lừng của các thế hệ
ông cha chống giặc ngoại xâm. Không chỉ có vậy, Hạ Long còn là một trong những cái nôi của con người với
nền Văn hoá Hạ Long huy hoàng thời Hậu kỳ Đồ Đá mới tại những địa danh khảo cổ học nổi tiếng như Đồng
Mang, Xích Thổ, Soi Nhụ, Thoi Giếng...

Ngày 17/12/1994, trong phiên họp lần thứ 18 của Hội đồng Di sản Thế giới thuộc UNESCO tổ chức tại Thái Lan,
vịnh Hạ Long chính thức được công nhận là Di sản Thiên nhiên thế giới với giá trị ngoại hạng về mặt thẩm mĩ,
theo tiêu chuẩn của Công ước quốc tế về bảo vệ tự nhiên và văn hóa thế giới.

Ngày 2/12/2000, tại Hội nghị lần thứ 24 tại thành phố Cairns, Queensland, Úc, Hội đồng Di sản Thế giới đã
công nhận vịnh Hạ Long là Di sản thế giới lần thứ 2 theo tiêu chuẩn về giá trị địa chất, địa mạo. Hiện nay, tỉnh
Quảng Ninh đang xúc tiến đệ trình UNESCO công nhận Vịnh Hạ Long là Di sản thế giới lần thứ 3, dựa trên
những giá trị về khảo cổ học và đa dạng sinh học trong vùng Vịnh.

**

- Giá trị lịch sử

• Vịnh Hạ Long là một trong những cái nôi của người Việt Cổ với 3 nền văn hóa nối tiếp nhau như: Soi
Nhụ, Cái Bèo, Hạ Long cách ngày nay từ 18.000 đến 3.000 năm; là nơi lưu giữ nhiều giá trị văn hoá vật thể và
phi vật thể nổi bật như: Các di chỉ Tiên Ông, Mê Cung, Thiên Long...

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật, địa chất

• Vịnh Hạ Long là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ Tây Vịnh Bắc Bộ, là trung tâm của khu vực rộng lớn, có
những yếu tố tương đồng về địa chất, địa mạo, cảnh quan, khí hậu và văn hóa. Là địa danh duy nhất của Việt
Nam được tôn vinh là Di sản thiên nhiên thế giới.

• Vẻ đẹp vĩnh cửu có được của Hạ Long được tạo nên từ 3 yếu tố chính: Đá, Nước và Bầu trời. Đây được
xem là đặc ân của thiên nhiên dành cho vịnh Hạ Long mà chưa có 1 nơi nào trên thế giới có được. Chính vì vậy,
vượt qua 200 kỳ quan từ hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, vịnh Hạ Long đã lọt vào TOP 7 kỳ quan thiên
nhiên của thế giới.

• Vịnh Hạ Long được ví như tạo hình kỳ lạ của tạo hóa, là sự kết hợp giữa điêu khắc và hội họa, là sự hài
hòa, uyển chuyển giữa bố cục, màu sắc, hình khối và không gian…Được biểu hiện bởi hàng ngàn đảo lớn nhỏ
trên mặt biển xanh với những hình thù khác nhau như có 1 bàn tay nào đó cố tình sắp đạt nhằm khơi gợi trí
tưởng tượng vô hạn của con người.

• Không chỉ có giá trị về cảnh quan, với số lượng đảo lớn nhất nước, chiếm gần 2/3 tổng số lượng đảo
toàn Việt Nam, lịch sử địa chất lâu dài, Vịnh Hạ Long được biết đến có ít nhất trên 500 triệu năm bao gồm
nhiều hệ tầng trầm tích có nguồn gốc lục địa và cacbonat. Tất cả đều được thể hiện trên màu sắc, thành phần
vật chất, sự sắp xếp, cấu tạo các lớp đá, các di tích hoá thạch còn được bảo tồn cho đến ngày nay.

Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Yên Tử (thành phố Uông Bí, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh).

+ Tên gọi:
+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1419/QĐ-TTg, ngày 27 tháng 9 năm 2012

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

• Di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử là nơi hình thành, ra đời và phát triển của Trung tâm Phật giáo
Thiền Tông thuần Việt, do người Việt trực tiếp sáng tạo ra. Đây là một trong những di tích lớn và ra đời sớm ở
nước ta. Ở Yên Tử là những tư liệu lịch sử vật chất quý báu, gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp tu hành của Điều
Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông và các thế hệ thiền sư tu hành tại đây.

• Đặc biệt các văn bia ở Yên Tử đều chứa đựng một lượng thông tin rất lớn, qua nghiên cứu các văn bia
ở đây chúng ta có thể lập lại được một phả hệ những nhà sư đã tu hành tại đây cùng với lược sử của họ, từ đó
có thể nghiên cứu được tình hình phát triển của Phật giáo Trúc Lâm qua từng thời kỳ.

• Trải qua các thời kỳ: Lý, Trần, Lê, Nguyễn, danh sơn Yên Tử trở thành nơi hội ngộ của các bậc thiền sư
đạo cao đức trọng như Tổ Chân Nguyên, ni sư Đàm Thái, Đệ Nhất Tổ Trần Nhân Tông, Đệ Tam Tổ Huyền
Quang...

• Có thể nói nơi đây gắn liền với sự phát triển của Phật giáo – tôn giáo đi cùng dân tộc Việt Nam qua mọi
cuộc chiến tranh cũng như công cuộc dựng nước, giữ nước.

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật

• Sự ra đời và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã để lại cho hậu thế những bản kinh văn và các
bản sách quý giá, những sách dạy cho các tăng môn và dân chúng của Thiền phái Trúc Lâm tu tập, sám hối, tu
hành thập thiện như: Thiền tâm thiết chuỷ ngữ lục, Đại Hương Hải ấn thi tập, Tăng già Toái sự, Thạch thất Mỹ
Ngữ, Truyền Đăng Lục, Thượng Sĩ hành trang… Đây là những di sản văn hoá phi vật thể quý giá đang đồng
hành cùng sự phát triển của lịch sử dân tộc.

• Bên cạnh đó, Thiền phái Trúc Lâm cũng để lại cho đời sau nhiều công trình văn hoá vật thể quý báu:
chùa chiền, am, tháp được hình thành trong quá trình ra đời và phát triển của chốn tổ Trúc Lâm tại Yên Tử.
Những di sản vật thể quý báu đó đã phản ánh khá rõ nét về sự phát triển của kiến trúc, mỹ thuật, điêu khắc
Việt Nam qua các triều đại Lý - Trần - Lê - Nguyễn. Đó là những báu vật, cổ vật có một không hai trong kho
tàng văn hoá Việt Nam.

• Phật giáo ở nước ta từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 18 đều do Thiền tông chủ yếu lãnh đạo và truyền
bá. Các hệ phái Thiền tông hầu hết từ Trung Hoa truyền sang. Những vị tổ đứng đầu mỗi hệ phái đa phần là
người Trung Hoa, Ấn Độ, chỉ có phái Thiền Trúc Lâm mới có ông tổ là người Việt Nam, mới thông cảm với tâm
tư nguyện vọng, phong tục tập quán của người Việt Nam, giáo hoá thích ứng với nhu cầu của Phật tử Việt
Nam.

• Yên tử - một trong những linh sơn của đất nước, bên cạnh cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, còn là nơi
bảo tồn được rất nhiều loài động thực vật quý hiếm mà không một vùng núi nào có được, đặc biệt là các loài
cây quý như Tùng, Trúc, Mai và các loại cây thuốc nam quý hiếm. Vẻ đẹp của Yên Tử là sự kỳ vĩ của núi non
hoà với nét cổ kính, trầm mặc của chùa tháp, là sự thơ mộng của suối nước trời mây chen trong cây cỏ hoa lá
và chim muông, là sự phong phú của thảm thực vật đa dạng và những loại cây dược liệu có giá trị. Chính vì vậy
mà từ xa xưa Yên Tử được xếp là một trong 72 phúc địa của nước ta.

Di tích lịch sử Khu di tích Nhà Trần tại Đông Triều (huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2383/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 12 năm 2013

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử, văn hóa

• Các di tích lịch sử về nhà Trần có ở khá nhiều nơi, nhưng không ở đâu phong phú, đặc biệt và còn nhiều
dấu tích dưới lòng đất như ở Đông Triều.

• Quần thể Khu di tích lịch sử nhà Trần tại Đông Triều nằm ở phía Nam dãy núi Đông Triều thuộc địa bàn
4 xã, phường: An Sinh, Bình Khê, Tràng An và Thủy An. Đây là khu di tích quốc gia đặc biệt gồm lăng mộ, đền,
chùa, am tháp với 14 di tích trải rộng. Đây là vùng thánh địa linh thiêng mang đậm tinh thần lịch sử, văn hoá là
nơi quê gốc nhà Trần.

• Đây là khu di tích còn lưu giữ nhiều dấu ấn văn hoá quan trọng của triều đại nhà Trần và có giá trị tiêu
biểu về lịch sử, văn hoá nghệ thuật của dân tộc, góp phần quan trọng để huyện Đông Triều tiếp tục xây dựng
và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Di tích lịch sử Đền Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả và huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:


+ Số QĐ: 2082/QĐ-TTg, đợt 8 (2017)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

• Đền Cửa Ông thuộc phường Cửa Ông (TP Cẩm Phả) là một trong những di tích lịch sử văn hoá nhà Trần
nổi tiếng linh thiêng của vùng Đông Bắc, gắn liền với sự tích Đức Ông Quốc Khảo Hưng Nhượng Đại Vương
Trần Quốc Tảng, người đã đóng góp những chiến công hiển hách trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân
tộc Việt Nam.

- Giá trị văn hóa

• Là quần thể kiến trúc vừa cổ kính tôn nghiêm, vừa hiện đại trên một vị trí “tựa sơn hướng hải”, đền
Cửa Ông chia làm 3 khu vực thờ cúng, đó là đền Hạ, đền Trung, đền Thượng. Các khu đền này nằm theo một
trục từ thấp lên cao. Dưới cùng là đền Hạ thờ Mẫu Thượng Thiên (Tam Tòa Thánh Mẫu) và thờ Trung Thiên
Long Mẫu (Mẹ Rồng Đất Việt). Ở giữa là đền Trung thờ Khâm Sai Đông Đạo Tiết Chế Hoàng Cần và Sơn thần,
Thủy thần. Trên cùng là đền Thượng thờ Quốc Khảo Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng (thần điện
chính), ngoài ra còn phối thờ Cửu Thiên Vũ Đế Quốc Phụ Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và các
gia thần. Đền Cửa Ông là ngôi đền thờ đầy đủ nhất các tướng lĩnh, gia thất nhà Trần. Đền còn lưu giữ sắc
phong thời Khải Định thứ 2 năm Đinh Tỵ (1917).

• Hội đền Lễ hội đền Cửa Ông diễn ra vào mùng 3, mùng 4 tháng 2 và mùng 3, mùng 4 tháng 8 (âm lịch)
hằng năm, nhằm biểu dương tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm, xây dựng, bảo vệ đất nước của nhân
dân và tôn vinh nhân vật lịch sử, người anh hùng dân tộc Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng.

Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô, huyện Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 93/QĐ-TTg, đợt 12 (2022)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử, văn hóa


• Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đảo Cô Tô gắn liền với sự kiện ngày 9/5/1961,
Bác Hồ ra thăm đảo Cô Tô và đây cũng là nơi duy nhất trong cả nước được Bác Hồ đồng ý cho dựng tượng
Người lúc sinh thời.

• Nơi đây là điểm tựa tinh thần vững chắc của cán bộ, chiến sỹ, nhân dân huyện đảo; đồng thời giáo dục
cho các thế hệ trẻ lòng biết ơn, trách nhiệm bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc. Mỗi người dân Cô Tô sẽ là
một cột mốc văn hóa, một chiến sỹ kiên cường bám trụ bảo vệ, xây dựng đảo tiền tiêu phía Đông Bắc của Tổ
quốc giàu đẹp, văn minh.

23. HẢI PHÒNG


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 356
Cấp quốc gia: 112
Cấp quốc gia đặc biệt: 2

Danh lam thắng cảnh Quần đảo Cát Bà (huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2383/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 12 năm 2013

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử, khảo cổ

• Quần đảo Cát Bà chứa đựng nhiều dấu tích của thời kỳ tiền sử biển Việt Nam, thời kỳ phong kiến,
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Theo đó, các di chỉ thời tiền sử ở quần đảo Cát Bà được các nhà khoa học
đánh giá cao về vai trò, vị trí và ý nghĩa lịch sử trong diễn trình nghiên cứu văn hóa khảo cổ tiền sử vùng duyên
hải Bắc Bộ Việt Nam. Đặc biệt là văn hóa biển thời tiền sử ở phía Bắc nước ta, trong đó nổi lên là di chỉ Cái Bèo.
Có thể khẳng định, di chỉ Cái Bèo là một trong số những di chỉ khảo cổ học quan trọng nhất trong khu vực ven
biển, hải đảo của miền Đông Bắc Việt Nam.

• Tại Cát Bà, những dấu ấn của thời văn minh Đông Sơn, Hán thuộc, của ngàn năm Bắc thuộc đấu tranh
giữ nước thời Trần, thời Lê, Nguyễn, kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đều có rải rác khắp nơi. Điều đó minh
chứng cho một quá trình vận động liên tục của lịch sử hòn đảo nhỏ này trong quá trình vận động chung của
lịch sử cả nước.

- Giá trị cảnh quan thiên nhiên và đa dạng sinh học


• Quần đảo Cát Bà - Long Châu là quần đảo tự nhiên hình thành do quá trình kiến tạo địa chất cách ngày
nay hàng chục ngàn năm. Ngoài rừng, biển, ẩn sâu trong lòng núi đá là các hang động thiên nhiên kỳ thú với
những nhũ đá hàng triệu năm tuổi còn nguyên vẻ hoang sơ, như: động Thiên Long, Hoa Cương, Cây Thị, Hiền
Hào, Trung Trang, ... tạo nên hệ thống thắng cảnh đa dạng, không phải nơi nào cũng có.

• Được hình thành từ vùng địa hình núi đá vôi nằm giữa biển khơi, quần đảo Cát Bà hình thành nên các
bãi tắm đẹp và nhiều đảo nhỏ chưa có người đặt chân đến, chưa được đặt tên còn giữ lại vẻ đẹp hoang sơ.
Trong đó nổi bật như bãi tắm: Cát Cò 1, Cát Cò 2, Cát Cò 3, Cát Dứa, Cát Ông, Cát Trai, Dượng Tranh….

• Quần đảo Cát Bà với 3.860 loài thực vật và động vật trên cạn và dưới biển. Trong số này có tới 137 loài
được chính phủ Việt Nam xác định là các loài quý hiếm đưa vào Sách Đỏ để bảo vệ và cũng có tới 76 loài nằm
trong danh mục quý hiếm của IUCN. Đặc biệt loài Voọc Đầu Trắng là loài đặc hữu hiện nay chỉ còn một quần
thể với 63 cá thể, trên thế giới duy nhất còn có ở Cát Bà.

Di tích lịch sử Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm (huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2367/QĐ-TTg, đợt 6 (2015)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

• Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm (đền quan Trạng, đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm), thuộc thôn
Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của vị Trạng
nguyên triều Mạc Nguyễn Bỉnh Khiêm.

• Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm có sứ mệnh lịch sử đặc biệt, vừa là nơi để tri ân những đóng góp của một
danh nhân trong lịch sử, vừa là địa điểm diễn ra các hoạt động, sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của nhân dân
trong vùng.

- Giá trị văn hóa

• Đền thờ còn lưu giữ một số cổ vật có giá trị như bản chúc, bát bửu, long ngai… Đền thờ còn tổ chức lễ
hội Đền Trạng hàng năm với nhiều chương trình văn hóa nghệ thuật dân gian, cũng như là nơi mà Thành phố
Hải Phòng tổ chức biểu dương học sinh sinh viên xuất sắc. Qua đó có thể thấy đền thờ ẩn chứa giá trị văn hóa
phi vật thể đặc sắc, thể hiện vai trò quan trọng của di tích này trong tâm thức, đời sống tinh thần của nhân dân
địa phương.
24. THÁI BÌNH
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 595
Cấp quốc gia: 151
Cấp quốc gia đặc biệt: 2

Di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Keo (huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1419/QĐ-TTg, ngày 27 tháng 9 năm 2012

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị nghệ thuật:

• Chùa Keo có tên chữ là Thần Quang Tự – nằm ở thôn Dũng Nhuệ, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư (xưa là xã
Dũng Nhuệ, tổng Hành Dũng, tỉnh Nam Định).

• Quần thể kiến trúc chùa Keo xây theo kiểu “nội công, ngoại quốc”, với những cụm kiến trúc đăng đối
chặt chẽ… Đặc biệt, bộ cánh cửa phần trung gian hết sức sinh động công phu. Đó là một bức phù điêu hoàn
chỉnh thể hiện rất chuẩn xác luật xa gần tối sáng của nghệ thuật trạm trổ truyền thống. Kiến trúc Chùa Keo thể
hiện tài năng điêu khắc tinh xảo của nghệ nhận nước nhà, có giá trị nghệ thuật sâu sắc, thể hiện rõ nét đặc
trưng nghệ thuật phong kiến Việt Nam.

• Chùa Keo là một trong những ngôi chùa còn đầy đủ tượng pháp nhất. Các pho tượng ở đây hội tụ
những giá trị nghệ thuật của thế kỷ 17, 18, đặc biệt có pho tượng đã gần nghìn năm tuổi.

- Giá trị văn hóa:

• Chùa Keo từ lâu đã đi vào đời sống tâm linh và là niềm tự hào của cư dân nơi đây. Chùa Keo thể hiện
văn hóa tín ngưỡng Phật Giáo truyền thống của dân tộc Việt Nam, gửi gắm tình cảm và ước vọng của nhân dân
nguyện lòng hướng thiện, cầu mong yên lành đến khắp chốn nhân gian.

• Chùa Keo rất gần gũi với nhân dân, nơi đây một giếng nước được xếp bằng 33 chiếc cối đá thủng rất
cổ, tương truyền chính là 33 chiếc cối giã gạo nuôi thợ, nuôi thầy để xây dựng chùa Keo.

Di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).

+ Tên gọi:
+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2408/QĐ-TTg, ngày 31 tháng 12 năm 2014

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử:

• Di tích lịch sử Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần tọa lạc tại Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Khu lăng
mộ và đền thờ các vị vua triều Trần thuộc phủ Long Hưng xưa, là vùng đất có vị thế địa - kinh tế - chính trị -
văn hóa đặc biệt quan trọng, gắn với nhiều sự kiện lịch sử thời Trần và lịch sử dân tộc, là hậu phương, nền
tảng vững chắc, để của nhà Trần thay thế vai trò chính trị của nhà Lý.

• Nơi đây là nơi lập nghiệp của nhà Trần, cũng là nơi an nghỉ cuối cùng của các vua triều đại Trần. Khu
lăng mộ và đền thờ có ý nghĩa lịch sử sâu sắc, giáo dục thế hệ trẻ về một triều đại hùng mạnh của dân tộc,
từng đánh thắng bè lũ ngoại xâm, đưa Đại Việt phát triển vượt bậc.

- Giá trị văn hóa, khảo cổ:

• Khu di chỉ khảo cổ học Tam Đường (thời Trần), xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đã được
khai quật khảo cổ nhiều lần, phát hiện được dấu vết kiến trúc và nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, với niên đại từ thời Lý đến Nguyễn, đặc biệt là nhóm hiện vật thời Trần, … minh chứng cho giá trị và sự
tồn tại của di tích qua các thời kỳ lịch sử.

• Giá trị lịch sử - văn hóa của di tích còn được biểu hiện qua lễ hội truyền thống, được tổ chức thường
niên tại khu vực đền thờ các vua Trần từ ngày 13 đến ngày 16 tháng Giêng. Ngoài nghi thức rước nước và tế
tự, trong hội còn có nhiều tục, lệ, trò diễn dân gian, như thi cỗ cá, vật cầu, đấu gậy, thả diều, chọi gà, nấu cơm
cần..., đặc biệt là những sinh hoạt văn hoá gắn với tục kết chạ giữa hai làng Tam Đường và Vân Đài.

• Di tích luôn đóng vai trò là một trung tâm sinh hoạt văn hóa đặc biệt quan trọng của nhân dân địa
phương và vùng phụ cận. Việc bảo tồn và phát huy hiệu quả những giá trị di sản văn hóa nơi đây sẽ góp phần
vào việc giáo dục truyền thống yêu nước, tự hào dân tộc, cố kết cộng đồng, tạo động lực phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương.

25. NAM ĐỊNH


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 295
Cấp quốc gia: 87
Cấp quốc gia đặc biệt: 2

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Đền Trần và Chùa Phổ Minh (thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định).
+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1419/QĐ-TTg, ngày 27 tháng 09 năm 2012

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử:

• Chùa Phổ Minh cùng với Đền Trần thuộc thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng (TP Nam Định) đã tạo
thành một khu di tích không những có giá trị về mặt nghệ thuật mà còn mang ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn.

• Cụm di tích Đền Trần, Chùa Phổ Minh có vị trí đặc biệt quan trọng, mang ý nghĩa tôn vinh triều đại nhà
Trần. Đền Trần được xây dựng trên nền tảng của cung điện Trùng Quang, Trùng Hoa xưa, nơi nghỉ ngơi và tĩnh
dưỡng của các Thái Thượng hoàng nhà Trần và là nơi ngự của các vua đương triều mỗi khi về yết kiến các vua
cha, bàn chính sự. Đền Trần ngày nay được xây dựng từ khu Thái Miếu của nhà Trần xưa. Nguồn thư tịch cổ
như văn bia, gia phả, sắc phong, câu đối… cùng truyền thuyết địa phương xác nhận, Đền Thiên Trường đã
được dân làng Tức Mặc dựng lên để thờ phụng vua cha, lúc đó gọi là nhà thờ Đại tôn.

• Chùa Phổ Minh là nơi thờ và là nơi tu hành của nhiều sư tăng cao cấp dưới thời Trần, đặc biệt là Đức
Vua - Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Ông là vị vua có công trong hai lần kháng chiến chống quân xâm lược
Nguyên - Mông (1285, 1288) và là vị Tổ thứ Nhất của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật

• Di tích này mang đậm nét nghệ thuật chạm khắc và xây dựng thời xưa với tay nghề tinh xảo của các
nghệ nhân, lưu giữ văn hóa dân tộc suốt hàng nghìn năm.

• Các di tích trên thể hiện ý nghĩa tri ân, tỏ đạo “Uống nước nhớ nguồn” đối với những bậc anh hùng dân
tộc cùng các vua triều Trần đã có công giữ yên bờ cõi nước nhà.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Chùa Keo Hành Thiện, gồm Chùa Keo trong và Chùa Keo ngoài (huyện Xuân
Trường, tỉnh Nam Định).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:
+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2499/QĐ-TTg, đợt 7 (2016)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật

• Chùa Keo (tên chữ là Thần Quang tự), là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam được bảo tồn gần
như nguyên vẹn, với nét kiến trúc độc đáo hơn 400 năm tuổi. Tương truyền, nguyên thủy chùa do Thiền sư
Không Lộ xây dựng ven sông Hồng từ năm 1061 dưới thời vua Lý Thánh Tông. Ban đầu, chùa có tên là Nghiêm
Quang tự, đến năm 1167 đổi thành Thần Quang tự.

• Sau gần 500 năm tồn tại, năm 1611, nước sông Hồng lên làm ngập chùa. Một bộ phận cư dân dời sang
phía nam sông Hồng lập thành làng Hành Thiện và xây dựng ngôi chùa Keo mới (gọi là Keo Hạ). Một bộ phận
dời sang tả ngạn sông Hồng, lập làng Dũng Nhuệ trên đất Thái Bình, dựng chùa Keo (gọi là Keo Thượng).

• Ngoài vẻ đẹp kiến trúc, trong chùa còn lưu giữ, bảo tồn những di vật cổ từ thế kỷ 17 thời Hậu Lê rất giá
trị. Đó là những án thư, sập thờ, tượng pháp, nhiều chuông, khánh, văn bia cổ, hoành phi, câu đối và sách chữ
Hán nói về chùa Keo.

• Sự tồn tại của chùa Keo cho thấy dưới thời Lý, Nam Định là một trung tâm tôn giáo lớn của cả nước.

• Hằng năm, Lễ hội chùa Keo tỉnh Nam Định diễn ra từ mồng 10 đến 16-9 âm lịch. Nét độc đáo tại đây
làm môn đua thuyền gồm 10 người mà dân làng Hành Thiện gọi là “trải”, nhưng là bơi chải đứng giống như
chèo đò diễn ra trên con sông bao quanh làng. Song song là rước kiệu trong Lễ Phụng Nghinh, một nghi thức
quan trọng nhất của lễ hội.

26. THANH HÓA


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 711
Cấp quốc gia: 139
Cấp quốc gia đặc biệt: 5

Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Thành Nhà Hồ (huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:


+ Số QĐ: 548/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2012

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

• Thành Nhà Hồ – tên thường gọi của tòa thành bằng đá độc đáo còn khá nguyên vẹn giữa vùng đồng
bằng lưu vực sông Mã và sông Bưởi, thuộc địa phận các thôn Tây Giai, Xuân Giai (xã Vĩnh Tiến), Đông Môn (xã
Vĩnh Long), huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

• Với tư cách là kinh đô của nhà nước Đại Việt cuối Trần đầu Hồ, Tây Đô được xây dựng dựa trên những
nguyên tắc cơ bản về địa thế, phong thủy, tiền án hậu chẩm đều có hình sông thế núi bao bọc. Thành cũng là
chứng nhân cho giai đoạn lịch sử hào hùng nhưng cũng đầy bi thương của dân tộc ta khi đối mặc với giặc Minh
xâm lược.

• Được xây dựng và gắn chặt với một giai đoạn đầy biến động của xã hội Việt Nam, với những cải cách
của vương triều Hồ và tư tưởng chủ động bảo vệ nền độc lập dân tộc, Thành Nhà Hồ trở thành một công trình
mang giá trị nổi bật toàn cầu với kiến trúc kiểu kinh thành phương Đông, vừa là trung tâm quyền lực, vừa là
một pháo đài quân sự, thể hiện sự gắn kết tài tình giữa công trình kiến trúc với cảnh quan văn hóa và thiên
nhiên.

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật, khảo cổ

• Toàn bộ tường thành và bốn cổng chính được xây dựng bằng những phiến đá vôi màu xanh, được đục
đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau mà không cần chất kết dính, cho thấy tài năng và kỹ thuật
xây dựng đạt đến đỉnh cao của dân ta thời đó.

• Nơi đây cũng sỡ hữu hàng nghìn di vật và nhiều mảng kiến trúc thể hiện sự giao thoa, tiếp biến kiến
trúc các thời Trần, Hồ và Lê sơ như sân lát gạch, các trụ chân tảng bằng đá, Giếng Vua… Đó là những lớp trầm
tích văn hóa, thể hiện sự tiếp nối các giai đoạn lịch sử, các triều đại phong kiến mà vương triều Hồ là một mắt
xích không thể thiếu.

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam Kinh (huyện Thọ Xuân, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1419/QĐ-TTg, ngày 27 tháng 9 năm 2012

+ Lịch sử hình thành:


+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

• Sau khi lên ngôi Hoàng đế, năm 1430 Lê Thái Tổ cho đổi Đông Đô làm Đông Kinh, Tây Đô làm Tây Kinh
còn gọi là Lam Kinh (để phân biệt với Đông Kinh - Thăng Long). Đồng thời, để tôn vinh vùng đất quê hương ông
đã cho xây dựng các công trình kiến trúc điện, miếu... tại đây.

• Đến năm 1433 vua Lê Thái Tổ băng hà tại kinh thành Thăng Long, ngày 23-10 cùng năm được đưa về
Lam Kinh an táng, từ đây Lam Kinh trở thành khu sơn lăng, nơi an nghỉ của 6 vị vua và 2 Hoàng Thái Hậu. Đồng
thời, các công trình điện miếu tiếp tục được xây dựng để làm nơi thờ cúng tổ tiên, hoàng tộc nhà Hậu Lê.

- Giá trị văn hóa

• Tại đây hiện đang lưu giữ 5 Bảo vật quốc gia, gồm: bia Vĩnh Lăng (tức bia ghi công đức Vua Lê Thái Tổ),
bia Khôn Nguyên Chí Đức (tức bia ghi công đức Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao), bia Chiêu Lăng (tức bia ghi
công đức Vua Lê Thánh Tông), bia Dụ Lăng (tức bia ghi công đức Vua Lê Hiến Tông), bia Kính Lăng (tức bia ghi
công đức Vua Lê Dụ Tông). Mỗi bảo vật này không chỉ là một công trình nghệ thuật giàu giá trị, mà còn có thể
ví như một “lát cắt” lịch sử phản ánh qua thân thế, sự nghiệp của nhân vật được ghi khắc trên bia, lưu giữ
nhiều câu chuyện thú vị về văn hóa, lịch sử, về truyền thống dân tộc được hình thành từ chiều sâu quá khứ và
lưu lại cho mai sau.

• Khu Di tích lịch sử Lam Kinh với những công trình kiến trúc nghệ thuật hết sức độc đáo, giàu giá trị đã
trở thành một biểu tượng của văn hóa thời Lê, góp phần làm dầy thêm và phong phú hơn cho nền văn hóa
Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời, trở thành niềm tự hào của người dân xứ Thanh, của con dân đất
Việt biết trân quý các tinh hoa giá trị truyền thống.

• Từ nhiều đời trước, Lam Kinh linh thiêng đã là một chốn trở về nguồn cội của người dân đất Việt. Đó là
biểu tượng của văn hóa truyền thống dân tộc, là tinh thần tự hào, tự tôn, tự cường dân tộc, đã được nâng lên
thành giá trị mới từ thời Hậu Lê và trao truyền cho lớp lớp thế hệ. Ngày nay, Lam Kinh còn là điểm đến du lịch
tâm linh - sinh thái hấp dẫn, bởi “khối kiến trúc xanh” tự nhiên, hình thành từ những vạt rừng già cùng khe
Ngọc, bởi hàng chục công trình kiến trúc - nghệ thuật, uy nghi thần thái cung đình.

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Khu di tích Bà Triệu (huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2408/QĐ-TTg, ngày 31 tháng 12 năm 2014

+ Lịch sử hình thành:


+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

• Khu di tích Bà Triệu thuộc xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc là một quần thể bao gồm các công trình thờ tự,
tưởng nhớ công lao anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh và các bậc tiền nhân trong công cuộc chống giặc ngoại
xâm thời kỳ đầu Bắc thuộc, có giá trị lớn cả về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật.

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật

• Quần thể di tích Đền Bà Triệu là những công trình kiến trúc mang ý nghĩa thờ tự. Bên cạnh giá trị về
mặt kiến trúc nghệ thuật, thì những vấn đề về nghệ thuật trang trí, cách thiết trí thờ tự và những vấn đề lịch
sử còn được lưu giữ, đã góp phần “nâng tầm” giá trị văn hóa - lịch sử của di tích.

• Nơi đây thể hiện đức tính “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, đó là sự tri ân, tưởng nhớ công ơn của
vị anh hùng đã hy sinh khi chiến đấu bảo vệ non sông. Đây chính là nét văn hóa đặc trưng xen lẫn cùng tín
ngưỡng thờ phụng nhân gian của nhân dân ta.

Di tích khảo cổ Hang Con Moong và các di tích phụ cận (huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2367/QĐ-TTg, ngày 23 tháng 12 năm 2015

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị khảo cổ

• Nằm trong vùng đệm rừng Quốc gia Cúc Phương, hang Con Moong được phát hiện lần đầu vào năm
1974, khai quật lần đầu năm 1976.

• Các nghiên cứu đã cho thấy, địa tầng hang Con Moong thực sự là chứng cứ đặc biệt về truyền thống
văn hóa đã mất, là nơi quần cư liên tục của ba nền văn hóa tiền sử tiêu biểu nhất cho Việt Nam và Đông Nam
Á là văn hóa Sơn Vi, qua văn hóa Hòa Bình đến văn hóa Bắc Sơn; là sự tiếp nối giữa thời kỳ đá cũ đến đá mới,
từ kỹ thuật ghè đẽo đến mài lưỡi công cụ, từ săn bắn hái lượm đến trồng trọt sơ khai. Các nghiên cứu cho thấy
con người thời tiền sử đã có mặt ở hang Con Moong từ khoảng 60.000 năm trước.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đền thờ Lê Hoàn, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

+ Tên gọi:
+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1820/QĐ-TTg, đợt 9 (2018)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

• Trong cuộc đời 64 năm với 10 năm làm Thập đạo tướng quân, 24 năm làm vua, Lê Đại Hành hoàng đế
đã lãnh đạo quân dân Đại Cồ Việt phá Tống, bình Chiêm, mở mang bờ cõi, xây dựng đất nước hưng thịnh. Lê
Đại Hành khi cai trị đã cho xây dựng nhiều công trình, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp để
chấn hưng đất nước. Ông là vị vua mở đầu cho lễ tịch điền nhằm khuyến khích sản xuất nông nghiệp dưới chế
độ phong kiến Việt Nam. Hoàng đế Lê Đại Hành cũng là vị vua đầu tiên tổ chức đào sông. Công trình đào sông
Nhà Lê do Lê Hoàn khởi dựng là con đường giao thông thủy nội địa đầu tiên của Việt Nam

- Giá trị văn hóa, nghệ thuật

• Đền thờ bảo tồn được hệ thống các mảng chạm khắc như chạm thủng, chạm nổi, chạm bong được
trang trí trong kiến trúc của toàn bộ công trình với đề tài phong phú và đa dạng theo những mô tuýp truyền
thống cùng những bức phù điêu, con giống làm bằng đất nung của thế kỷ XVIII đã tạo nên những giá trị nghệ
thuật đặc sắc của di tích.

• Nơi đây còn lưu giữ nhiều tài liệu hiện vật như: văn bia, sắc phong, lệnh chỉ, địa tự, hương án, chóe,
đĩa, bát cổ, 14 đạo sắc phong của các đời vua từ 1674 – 1887 và một chiếc đĩa đá tương truyền là của vua Tống
tặng Lê Hoàn... Trong số những hiện vật quý giá tại di tích Quốc gia đền thờ Lê Hoàn, còn có hai tấm bia đá cổ
được dựng lên dưới thời Lê Trung Hưng.

Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Sầm Sơn, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1954/QĐ-TTg, đợt 10 (2019)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:


- Giá trị lịch sử, văn hóa, cảnh quan

• Khu di tích danh thắng là địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có
giá trị về lịch sử - văn hóa; là khu vực thiên nhiên rất đa dạng về sinh học (rừng đặc dụng), gồm: núi Trường Lệ,
Đền Độc Cước, Hòn Trống Mái, Đền Tô Hiến Thành, Đền Cô Tiên... Sầm Sơn, Thanh Hóa là thành phố du lịch
biển nổi tiếng cả nước. Không chỉ sở hữu bãi tắm đẹp, Sầm Sơn còn lưu giữ được nhiều di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể có giá trị.

• Nơi đây gắn liền với nhiều di tích thể hiện đặc trưng văn hóa Việt Nam như: Hòn Trống Mái gắn liền các
câu chuyện về mối tình thủy chung, son sắt, về tình nghĩa vợ chồng thể hiện đức tính tốt đẹp cả dân tộc, Đền
Độc Cước ca ngợi công đức của thần Độc Cước bảo hộ cho dân chúng diệt trừ quỷ dữ, Đền Cô Tiên ca ngợi
công lao cô gái làm thuốc cứu người, Đền thờ Tô Hiến Thành ghi nhận công lao của một vị anh hùng.

27. NGHỆ AN
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 197
Cấp quốc gia: 147
Cấp quốc gia đặc biệt: 6

Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Kim Liên (huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An)

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 548/QĐ-TTg ngày 10 tháng 5 năm 2012

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử, văn hóa

• Khu di tích Kim Liên nằm trên địa bàn các xã Kim Liên, Nam Giang thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An,
cách thành phố Vinh 15 km theo quốc lộ 49 (nay là quốc lộ 46), là một trong những di tích có giá trị đặc biệt
liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà
văn hoá kiệt xuất. Nơi đây lưu giữ những di tích, di vật gắn liền với quê hương, gia đình, thời niên thiếu và hai
lần Bác về thăm quê.

• Khu di tích là địa điểm tham quan nghiên cứu và học tập về quê hương, gia đình, thời niên thiếu của
Chủ tịch Hồ Chí Minh và hai lần Người về thăm quê. Qua đó thấu hiểu hơn về cuộc đời và sự nghiệp của Bác,
từ đó vận dụng vào viêc phát triển đất nước ngày nay.
Di tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2383/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 12 năm 2013

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Giá trị lịch sử:

• Hình thành (1959-1965): Năm 1959, khi xung đột quân sự lên cao giữa Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam và chính phủ Ngô Đình Diệm, chính phủ Hà Nội gửi Đoàn 559 (thành lập vào tháng 5 năm 1959)
vào Nam để xây dựng hệ thống đường Trường Sơn với lực lượng gồm một tiểu đoàn giao liên D301 với 440
người. Đoàn có nhiệm vụ vừa vận chuyển vừa mở đường hành quân. Với phương châm "đi không dấu, nấu
không khói, nói không tiếng" để đảm bảo bí mật tối đa, toàn bộ vũ khí và hàng mang theo đều là các loại cũ từ
thời Pháp, thậm chí đoàn còn dùng ván gỗ để khi đi không để lại dấu vết trên đất rừng.Trong những năm đầu
của cuộc xung đột (1960-1964), đường Trường Sơn chủ yếu được dùng để chuyển quân, do hệ thống hạ tầng
đường sá trên tuyến còn hạn chế, chưa phát huy được phương tiện cơ giới, nên khi đó việc vận chuyển tiếp
viện hậu cần, súng đạn vào Nam chủ yếu là thông qua tuyến đường chi viện trên biển bằng những "con tàu
không số" đã thực sự có hiệu quả cao hơn. Có 5 khu căn cứ lớn trong vùng cán xoong của Lào. Căn cứ 604 là
trung tâm hậu cần chính. Căn cứ 611 hỗ trợ vận tải từ căn cứ 604 tới căn cứ 609; cung cấp xăng dầu và đạn
dược cho căn cứ 607 và tới tận thung lũng A Sầu ở Thừa Thiên. Căn cứ 612 được dành để hỗ trợ Mặt trận B3
tại Tây Nguyên. Căn cứ 614 vận chuyển quân và hàng hóa vào Vùng 2 chiến thuật và Mặt trận B3. Căn cứ 609
giữ vai trò quan trọng, do mạng lưới đường ở đây có thể dùng để vận chuyển vật chất hậu cần trong mùa mưa

• Ngăn chặn và mở rộng (1965-1968): Đến năm 1965, việc đánh phá ngăn chặn tuyến đường Trường Sơn
đã trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu của Mỹ. tháng 4/1965 quân số của Đoàn 559 đã phát triển lên
tới 24.000 người thường xuyên làm nhiệm vụ vừa chiến đấu ngăn chặn sự phá hoại của địch, vừa mở rộng hệ
thống giao thông để phục vụ chiến trường miền Nam. Mùa khô năm 1966 - 1967 đánh dấu bước chuyển lớn
về chiến thuật vận tải của Đoàn 559 từ “phòng tránh tích cực” sang “tiến công” hợp đồng binh chủng. Các sở
chỉ huy được chuyển ra gần đường, các lực lượng phòng không, công binh đóng sát đường để dễ hỗ trợ kịp
thời và hiệu quả hơn cho lực lượng vận tải chủ công. Nhiều tuyến đường phụ, đường vòng được mở thêm để
đảm bảo thông đường cho xe chạy. Đến cuối năm 1967, mạng lưới đường đã lên đến 2.959km đường ô tô,
trong đó có 275km đường chính, 576km đường vòng và 450km đường vào các vùng kho chứa. Trong năm
1967, để chuẩn bị cho tổng tấn công Mậu Thân 1968, đã có hơn 81.000 tấn hàng đã được vận chuyển và cất
giữ, với 200.000 quân, trong đó có 07 trung đoàn bộ binh và 20 tiểu đoàn độc lập đã di chuyển vào Nam an
toàn bằng con đường này.
• Thời kì 1968-1972: Đây là thời kỳ mà tình báo Mỹ đã có một phát hiện gây sốc đối với nhà cầm quyền
Mỹ về đường Trường Sơn, đó là, có một hệ thống đường ống dẫn xăng dầu chạy ở phía Tây Nam từ Vinh vào
Nam, đến năm 1969 hệ thống này đã vượt qua biên giới với Lào và đến năm 1970 đã vươn tới gần thung lũng
A Sầu tỉnh Thừa Thiên Huế. Được hỗ trợ bởi nhiều trạm bơm nhỏ, đường ống bằng nhựa đã có thể chuyển dầu
diesel, xăng và dầu hỏa qua cùng một ống. Hành lang vận chuyển từ rộng 20 dặm nay trải rộng 90 dặm từ
Đông sang Tây Trường Sơn. Đến năm 1971 “đường kín” dưới tán rừng bắt đầu được xây dựng, đến năm 1973
xe tải có thể chạy suốt dọc đường mà không ra khỏi mái ngụy trang. Theo đó, chỉ trong vòng 02 năm 1969 -
1970 mức di chuyển quân của Quân đội nhân dân Việt Nam qua đường Trường Sơn vào miền Nam lên tới 348
đoàn quân. Đặc biệt sau khi Hàng rào McNamra bị chọc thủng năm 1970, kỹ thuật quân sự Mỹ đã rơi vào bế
tắc, không tìm ra lời giải mới nào khả quan cho ý định cắt đứt hệ thống Đường Trường Sơn.

• Đường tới chiến thắng (1973-1975): Đây là thời kỳ Hiệp định Paris được ký kết và thực thi, Mỹ ngừng
ném bom miền Bắc Việt Nam và Lào, tuyến chi viện chiến lược Đường Trường Sơn được phát triển nhanh
chóng, toàn diện, quy mô lớn trên tất cả các mặt. Hệ thống Đường Trường Sơn được nâng cấp tuyến phía Tây,
đến năm 1974 Đường được mở thêm tuyến phía Đông. Với ưu thế của hệ thống giao thông này, Quân đội
nhân dân Việt Nam lần đầu tiên đã mở các cuộc tiến công mà không giống bất cứ trận chiến nào trước đó - đó
là, có sự hiệp đồng binh chủng: bộ binh tấn công với sự hỗ trợ của xe tăng và pháo hạng nặng đã đè bẹp các vị
trí của Quân lực Việt Nam cộng hòa tại các cánh và đội hình chính. Quân đội nhân dân Việt Nam khép chặt
gọng kìm và chặn đánh liên tục làm cho Quân lực Việt Nam công hòa thiệt hại nặng nề không thể chống đỡ
nổi. Đây là một thất bại đẫm máu của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, song hành với sự thất bại nặng
nề của địch thì phía ta khối lượng xe vận tải và hàng hóa chuyển vào các chiến trường qua con đường huyết
mạch này tăng lên gấp hai lần, thời gian đưa hàng đến đích chỉ còn bằng nửa thời gian trước đó. Đến đầu mùa
hè năm 1974, đường Đông và Tây Trường Sơn đã hình thành một hệ thống liên hoàn, vững chắc, là cơ sở hạ
tầng bảo đảm chi viện liên tục vật chất, cơ động lực lượng, binh khí kỹ thuật, bảo đảm cho đòn tấn công chiến
lược khi thời cơ đến. Đồng thời tuyến hành lang Đông - Tây Trường Sơn đã hình thành một căn cứ hậu cần
chiến lược, nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam, là chỗ dựa vững chắc cho các
chiến trường. Đây là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi nhiệm vụ chi viện của hậu phương chiến
lược miền Bắc cho các chiến trường tại miền Nam, Lào và Campuchia nói chung và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử tháng 4/1975 nói riêng toàn thắng. Quân đội nhân dân Việt Nam đã nhờ hệ thống đường này mà hành
quân vượt đèo, lội suối với chiếc gậy Trường Sơn là công cụ hỗ trợ đắc lực giúp đôi chân thêm vững vàng,
cùng với đôi dép cao su, còn gọi là “đôi dép Bác Hồ” là hành trang vô cùng quý giá của bộ đội ta vững bước
hành quân tiến vào giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, với tốc độ “một ngày bằng 20 năm”; “thần
tốc, thần tốc hơn nữa/ táo bạo,tạo bạo hơn nữa/ tranh thủ từng phút, từng giờ/ sốc tới mặt trận/ giải phóng
miền Nam/ quyết chiến và toàn thắng” để thực hiện lời dặn của Bác trước lúc đi xa “đánh cho Mỹ cút, đánh
cho ngụy nhào/tiến lên chiến sỹ đồng bào/Bắc - Nam sum họp xuân nào vui hơn” , với mục tiêu cao cả là “
không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

Di tích lịch sử Khu lưu niệm Phan Bội Châu tại Nam Đàn (huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:
+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2499/QĐ-TTg, đợt 7 (2016)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

• Nơi đây vẫn lưu giữ nhiều di tích gốc, hàng trăm tư liệu, hiện vật có giá trị rất lớn về cuộc đời và sự
nghiệp của cụ Phan Bội Châu.

• Khu di tích lưu niệm nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu là điểm du lịch văn hóa tâm linh, nơi giáo dục
truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Hoành Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ


+ Số QĐ: Ngày 25/12/2017, Quyết định số 2082/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

đình Hoành Sơn được xây dựng vào tháng Chạp năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 23 (1763) và đến
cuối năm sau (Quý Tỵ 1764) thì hoàn thành.

+ Giá trị nổi bật:

Đây là công trình kiến trúc lịch sử có quy mô đồ sộ bậc nhất miền Trung và là một trong những ngôi đình có
quy mô lớn và nghệ thuật chạm khắc đẹp nhất cả nước.. Đình có 5 gian chính, 2 chái, 8 vì, 36 cột (16 cột cái, 20
cột phụ) với diện tích khoảng 150m2, gồm Tiền điện và Hậu điện phía sau tạo thành mặt bằng kiểu chữ T. Cột
đình được làm bằng gỗ lim và chò chỉ, đường kính lớn, đều nhau. Đình có lối kết cấu vì kèo kiểu “giá chiêng,
chồng rường”.

Điều đặc biệt là trong khi các đề tài dân dã hầu như không còn ở thế kỷ XVIII, thì tại di tích này, các hình tượng
đó vẫn còn phổ biến và thể hiện sinh động như “chèo thuyền”, “đi cấy”, “thưởng trà”, “câu cá”... Ngoài việc
chạm khắc, các đề tài trên các cấu kiện gỗ, ở gian giữa của Đại đình, các nghệ nhân xưa còn tô điểm thêm cho
không gian thiêng bằng những bức y môn tuyệt đẹp, đậm chất nghệ thuật cùng nhiều bức đại tự cổ bằng chữ
Hán ca ngợi đình Hoành Sơn.

Ngoài giá trị về kiến trúc nghệ thuật đặc sắc thì Đình Hoành Sơn còn có giá trị về mặt tâm linh, là nơi sinh hoạt
văn hóa cộng đồng. Xưa, Đình Hoành Sơn là trung tâm diễn ra các hoạt động văn hóa tâm linh của làng. Tại
đình hàng năm diễn ra hai kỳ lễ lớn là lễ kỳ phúc vào tháng 2 và lễ rước thần vào rằm tháng 6.

**

- Giá trị nghệ thuật, văn hóa

• Đình Hoành Sơn thuộc xóm 4, xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, Nghệ An, được xây dựng và hoàn thành
năm 1763, thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang con trai thứ 8 của vua Lý Thái Tổ, đây là công trình kiến trúc lịch
sử có quy mô đồ sộ bậc nhất miền Trung.

• Đây là công trình kiến trúc lịch sử có quy mô đồ sộ bậc nhất miền Trung. Đình có 5 gian chính, 2 chái, 8
vì, 36 cột (16 cột cái, 20 cột phụ) với diện tích khoảng 150m2, gồm Tiền điện và Hậu điện phía sau tạo thành
mặt bằng kiểu chữ T. Các hoa văn được chạm khắc công phu, có độ tinh xảo cao như: bát tiên, cưỡi hạc, đánh
cờ, đua thuyền, tứ linh, tứ quý, đại bàng đối xứng từng gian, rồng ổ…

• Ngoài giá trị về kiến trúc nghệ thuật đặc sắc thì Đình Hoành Sơn còn có giá trị về mặt tâm linh, là nơi
sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Xưa, Đình Hoành Sơn là trung tâm diễn ra các hoạt động văn hóa tâm linh của
làng. Tại đình hàng năm diễn ra hai kỳ lễ lớn là lễ kỳ phúc vào tháng 2 và lễ rước thần vào rằm tháng 6.

Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lăng mộ và Đền thờ Nguyễn Xí, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:
+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2280/QĐ-TTg, đợt 11 (2020)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

• Nơi đây là nơi thờ Nguyễn Xí – vị anh hùng trong khởi nghĩa Lam Sơn. Trải qua các triều đại phong kiến
Lê, Tây Sơn, Nguyễn đều phong cho ông là thượng đẳng phúc thần và vẫn duy trì chế độ quốc tế ở đền thờ
ông tại Thượng Xá (Nghi Hợp ngày nay)

- Giá trị văn hóa nghệ thuật

• Đền thờ Nguyễn Xí được xây dựng trên một gò đất cao ráo, thoáng đãng, là công trình kiến trúc cổ còn
tương đối nguyên vẹn và có giá trị lớn về khoa học và thẩm mỹ. Đền quay về hướng Nam "toạ quý hướng
đinh". Bốn phía giáp đền là ruộng hoa màu. Đền thờ cách lăng mộ khoảng 300m. Bao bọc xung quanh di tích là
những non kỳ thủy tú của xứ Cửa Lò như núi Cờ, núi Kiếm, núi Mão, núi Đai, núi Voi, núi Ngựa, Lô Sơn, Cửa Xá,
Cửa Lò… đây đều là những địa danh gắn liền với các giai thoại, huyền tích liên quan đến Cương Quốc công
Nguyễn Xí và dòng họ Nguyễn Đình.

• Về kỹ thuật xây dựng, công trình đã được nâng cao hơn nhiều so với mức trung bình của các công trình
đồng đại. Trong điều kiện thiên nghiên khắc nghiệt như ở Nghệ An, mỗi năm phải hứng chịu cả chục cơn bão
lớn, vị trí công trình lại gần biển, vật liệu hoàn toàn truyền thống, thủ công, không có bê tông cốt thép làm lõi
nhưng công trình vẫn vươn cao cùng trời xanh, đương đầu với tuế nguyệt chứng tỏ kỹ thuật xây dựng của
người xưa đã đạt đến trình độ điêu luyện. Vì thế mà trải qua cả trăm năm, công trình vẫn đứng vững cùng trời
đất, những màu sơn kẻ vẽ vẫn tươi nhuận cùng năm tháng.

• Nghệ thuật trang trí trên kiến trúc rất được chú trọng và tỷ mỹ đến từng chi tiết nhỏ. Các đề tài trang
trí phong phú và đa dạng, về linh vật có: tứ linh, lưỡng long triều nguyệt, long ngư hí thủy, phượng hàm thư,
phượng vũ, hổ phù, hổ, long mã phụ hà đồ, thần quy phụ lạc thư, rùa đội hạc, nghê, lân, sư tử, voi, ngựa, dơi,
cá chép, chim, chuột… Về cỏ cây hoa lá có: tứ quý, mai hóa long, trúc hóa long, dây leo hóa rồng, hoa thị, lựu,
đào, nho, phật thủ, cúc, sen, lá đề… về người và bảo vật có: lính canh, bát tiên, bát bửu, lược, đàn, sáo, kiếm,
quạt, dây thao, bầu rượu, túi thơ, văn triện… chủ yếu là thể hiện trên chất liệu vôi vữa và chạm khắc trên chất
liệu gỗ.

Di tích lịch sử Đền thờ Vua Mai Hắc Đế (huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:
+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Quyết định số 1649/QĐ-TTg; ngày 29/12/2022

+ Lịch sử hình thành:

Đền thờ Vua Mai Hắc Đế được nhân dân lập từ xa xưa và được xây dựng khang trang vào thời Nguyễn. Cho
đến nay, đền đã qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, hiện có các công trình: Tam quan, nhà chờ, thượng điện,
trung điện, hạ điện...

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử

• Nơi đây là nơi thờ Mai Hắc Đế – lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hoan Châu lật đổ ách đô hộ của nhà Đường
lập nên nhà nước Vạn An (713 - 722).

- Giá trị văn hóa

• Tại đền thờ Vua Mai Hắc Đế còn lưu giữ nhiều hiện vật cổ có giá trị, như long ngai, bài vị, câu đối.

• Quần thể Di tích Vua Mai và Lễ hội Vua Mai gắn liền với các di tích này được tổ chức hàng năm là di sản
vô giá khẳng định sự trường tồn của cuộc khởi nghĩa Hoan Châu, thân thế, sự nghiệp của Vua Mai trong dòng
chảy của lịch sử dân tộc.

28. HÀ TĨNH
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử Khu lưu niệm Nguyễn Du (huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: ngày 27/9/2012, Quyết định số 1419/QĐ - TTg

+ Lịch sử hình thành:

Ngôi nhà thờ Nguyễn Du được xây dựng năm 1825 tại quê nhà của ông ở xóm Tiền Giáp. Hơn 400 sinh sống tại
xã Tiên Điền, con cháu dòng họ Nguyễn Tiên Điền đã xây dựng nên một số đền, chùa, văn bia, cầu cống, đình
làng...
+ Giá trị nổi bật:

Di tích lịch sử Khu lưu niệm cụ Nguyễn Du được xây dựng để các nho sỹ, văn sỹ và du khách trong và ngoài
nước yêu thích Truyện Kiều đến thắp hương tưởng niệm tại mộ cụ Nguyễn Du - một Đại thi hào dân tộc, một
Danh nhân văn hóa thế giới.

Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du là một quần thể công trình kiến trúc thờ tự, tưởng niệm Nguyễn Du cùng
những bậc tài danh kiệt xuất của dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền, như Giới hiên công Nguyễn Huệ, Xuân Quận
công Nguyễn Nghiễm, Lam Khê hầu Nguyễn Trọng, Địch Hiên công Nguyễn Điều, Quế Hiên công Nguyễn Nễ...
Những di sản văn hóa trong Khu di tích còn được bảo tồn có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học...
giúp chúng ta tìm hiểu về nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển, truyền thống văn hóa, khoa bảng... của
dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền cũng như việc nhìn nhận về cuộc đời, sự nghiệp, những đóng góp của Đại thi hào
Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền cho nền văn học Việt Nam. Đây cũng là nguồn tư liệu đáng tin cậy
để tìm hiểu về tín ngưỡng, phong tục tập quán, đời sống văn hóa tinh thần của làng quê Tiên Điền nói riêng,
văn hóa làng xã Việt Nam nói chung trong sự phát triển của lịch sử dân tộc.

Di tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2383/QĐ-TTg, đợt 4 (2013)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

29. QUẢNG BÌNH


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng
Bình).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ.


+ Số QĐ: Quyết định số 1272/QĐ-TTg ngày 12/8/2009

VQG PNKB đã được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới năm 2003 với tiêu chí VIII; và năm 2015
được UNESCO lần thứ hai ghi danh vào danh sách Di sản thế giới theo 2 tiêu chí mới IX và X.

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có diện tích 126.236 héc ta và có chung đường biên giới với Khu bảo tồn
thiên nhiên Hin Namno của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Vườn quốc gia bao gồm các cao nguyên đá vôi và
rừng nhiệt đới. Bao gồm các đa dạng địa lý tuyệt vời, nhiều hang động và sông ngầm, vườn quốc gia có một hệ
sinh thái phong phú cùng nhiều loài sinh vật đa dạng

**

Lấy từ UNESCO

Tiêu chí (viii): Phong Nha – Kẻ Bàng được ví như một bảo tàng địa chất khổng lồ có giá trị và mang ý nghĩa
toàn cầu bởi cấu trúc địa lý phức tạp, tập hợp nhiều loại đá khác nhau như sa thạch, thạch anh, phiến thạch,
đá vôi chứa silic, đá mac-nơ, đá granodiorite, đá diorite, đá aplite, pegmatite... Phong Nha – Kẻ Bàng cũng
chứa đựng lịch sử phát triển địa chất phức tạp, lâu dài từ 400 triệu năm trước của trái đất. Trải qua các giai
đoạn kiến tạo quan trọng và các pha chuyển động đứt gãy, phối tảng, uốn nếp đã tạo ra các dãy núi trùng điệp
và các bồn trầm tích bị sụt lún. Những biến động trên cũng đã góp phần tạo nên sự đa dạng về địa chất, địa
hình, địa mạo.

Bên cạnh giá trị về lịch sử địa chất, địa hình, địa mạo, Phong Nha – Kẻ Bàng còn được thiên nhiên ưu đãi ban
tặng cho những cảnh quan kì bí, hùng vĩ. Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng ẩn chứa bao điều bí ẩn của tự
nhiên, những hang động như những lâu đài lộng lẫy trong lòng núi đá vôi được tạo tác từ hàng triệu năm
trước.

Cao nguyên này là một trong những ví dụ điển hình và đặc biệt nhất về địa hình karst phức tạp ở Đông Nam Á
và tài sản này có tầm quan trọng lớn đối với việc nâng cao hiểu biết của chúng ta về lịch sử địa chất, địa mạo
và địa thời gian của khu vực.

Tiêu chí (ix): Vùng đá vôi Phong Nha – Kẻ Bàng có những đặc trưng toàn cầu trong nhiều giai đoạn phát triển
từ kỷ Ordovic muộn – Silur (463,9 – 430 triệu năm trước) đến kỷ Đệ Tứ (1,75 triệu năm trước). Một đặc điểm
mang tính đặc thù ở đây là hệ thống sông chảy ngầm và các hang động trong lòng núi đá vôi.

Vùng địa mạo phi đá vôi có đặc điểm chung là núi thấp với thảm thực vật phủ trên bề mặt. Quá trình bào mòn
tạo ra các thềm dọc theo các thung lũng của các sông Son, sông Chày hay tại các bờ của các khối núi đá vôi ở
vùng trung tâm. Vùng địa hình chuyển tiếp là những dạng khác nhau xen giữa các núi đá vôi.

Nằm trong vùng có lượng mưa trung bình hàng năm khá cao nhưng nước ở đây đã ngấm và chảy ngầm trong
lòng các núi đá vôi, trải qua hàng chục triệu năm đã tạo nên vô số hang động ở khu vực này. Tại Phong Nha -
Kẻ Bàng có khoảng 300 hang động lớn nhỏ được chia thành ba hệ thống chính: hệ thống động Phong Nha, hệ
thống hang Vòm và hệ thống hang Rục Mòn.

Hệ thống động Phong Nha có tổng chiều dài khoảng 80km bắt nguồn từ phía nam của vùng núi đá vôi Kẻ Bàng.
Cửa chính của hệ thống động này là động Khe Ry và động Én nằm ở độ cao khoảng 300m so với mặt nước
biển. Các hang trong hệ thống này phân bổ theo dạng cành cây chạy theo hướng đông bắc – tây nam.

Hệ thống hang Vòm có tổng chiều dài trên 35km bắt nguồn từ hang Rục Cà Roòng, nằm ở độ cao 360m so với
mặt nước biển và kết thúc là hang Vòm. Hệ thống hang Vòm nằm trên trục có hướng chung là nam – bắc. Sông
Rục Cà Roòng lúc ẩn mình trong núi đá, lúc lại xuất hiện trên những thung lũng hẹp và sâu, cuối cùng đổ ra
sông Chày ở cửa hang Vòm.

Một số hang động tiêu biểu ở Phong Nha – Kẻ Bàng là động Phong Nha, động Tiên Sơn, động Thiên Đường,
hang Tối, hang Én, hang Khe Ry, đặc biệt hang Sơn Đoòng được đánh giá là hang động lớn nhất thế giới với
chiều cao khoảng 200m, có nơi lên đến 250m, rộng 200m, chiều dài ít nhất là 8,5km.

Tiêu chí (x): Với đặc điểm về địa hình, khí hậu, đất đai, thủy văn của Phong Nha – Kẻ Bàng đã hình thành hệ
thực vật phong phú, đa dạng và độc đáo. Kết quả hoạt động điều tra, khảo sát đã ghi nhận Phong Nha – Kẻ
Bàng có thảm rừng nhiệt đới rộng lớn, phủ kín 93,57% diện tích tự nhiên, trong đó gần 83,74% diện tích được
che phủ bởi rừng nguyên sinh hoặc gần như rừng nguyên sinh. Sự phong phú, đa dạng về thành phần, chủng
loại động thực vật quý hiếm ở Phong Nha – Kẻ Bàng là hệ quả tất yếu của điều kiện sinh cảnh và là đặc trưng
tiêu biểu về sinh thái rừng tại đây.

Tại vườn quốc gia này các nhà khoa học đã thống kê được 2.400 loài thực vật bậc cao với 208 loài Lan trong đó
có nhiều loài quý hiếm được ghi trong Sách Đỏ của Việt Nam và IUCN. Bên cạnh đó còn có 140 loài thú, 356
loài chim, 97 loài bò sát, 47 loài lưỡng thể, 162 loài cá, 369 loài côn trùng, trong đó nhiều loài thuộc danh mục
Sách Đỏ của Việt Nam và thế giới như: Sao La, Mang Lớn, Mang Trường Sơn, voọc Hà Tĩnh... Phong Nha – Kẻ
Bàng có ý nghĩa như một bảo tàng sinh vật khổng lồ ở Việt Nam.

**

Lấy từ DI SẢN THẾ GIỚI VN

Bên cạnh giá trị về lịch sử địa chất, địa hình, địa mạo, Phong Nha – Kẻ Bàng còn được thiên nhiên ưu đãi ban
tặng cho những cảnh quan kì bí, hùng vĩ. Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng ẩn chứa bao điều bí ẩn của tự
nhiên, những hang động như những lâu đài lộng lẫy trong lòng núi đá vôi được tạo tác từ hàng triệu năm
trước.

Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng đã 2 lần được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới: lần thứ
nhất vào tháng 7/2003 tại Hội nghị lần thứ 27 họp ở Paris (Pháp) và lần thứ 2 vào tháng 7/2015 tại Hội nghị lần
thứ 39 họp ở Bonn (Cộng hòa Liên bang Đức).

Di tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh

+ Tên gọi:
+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1820/QĐ-TTg, đợt 9 (2018)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

30. QUẢNG TRỊ


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1820/QĐ-TTg, đợt 9 (2018)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Di tích lịch sử Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải (huyện Vĩnh Linh và huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2383/QĐ-TTg, ngày 09 tháng 12 năm 2013

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

- Giá trị lịch sử


• Cầu Hiền Lương và sông Bến Hải nằm trong cụm di tích đôi bờ Hiền Lương ở điểm giao nhau giữa
đường Quốc lộ 1A và sông Bến Hải; phía Bắc thuộc thôn Hiền Lương, xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Linh; phía
Nam thuộc thôn Xuân Hòa, xã Trung Hải, huyện Do Linh, tỉnh Quảng Trị. Đây là hai “nhân chứng lịch sử” mang
trên mình nỗi đau chia cắt đất nước thành hai miền Nam Bắc suốt hơn 20 năm ròng rã.

• Năm 1954, sau khi thất bại tại Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết. Theo Hiệp định Genève,
nước Việt Nam tạm thời chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải chạy ngang qua Do Linh và Vĩnh Linh)
làm đường ranh giới quân sự tạm thời. Cầu Hiền Lương chia làm hai phần, mỗi bên dài 89m, sơn hai màu khác
nhau. Bờ Bắc gồm 450 tấm ván mặt cầu, bờ Nam 444 tấm. Cuộc phân ly tạm thời tưởng rằng chỉ kéo dài 2 năm
và kết thúc sau khi tổng tuyển cử thống nhất, nhưng thực tế đã kéo dài tới 21 năm.

• Năm 1956, Ngô Đình Diệm-Tổng thống của Việt Nam cộng hòa với sự hậu thuẫn của Mỹ đã không thực
hiện tổng tuyển cử thống nhất đất nước như Hiệp định Giơnevơ quy định. Từ đây, cây cầu Hiền Lương đã trở
thành chứng tích lịch sử trong hơn 20 năm chia cắt hai miền Nam-Bắc. Cây cầu cũng chứng kiến nhiều sự kiện
đấu tranh ngoan cường, anh dũng và trở thành một biểu tượng to lớn cho khát vọng thống nhất non sông,
sum họp, đoàn tụ của biết bao gia đình và toàn dân Việt Nam.

• Cuộc kháng chiến 21 năm bên bờ Hiền Lương là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy hy sinh gian
khổ của quân và dân ta. Đất nước thống nhất hòa bình, người mất, người còn; Nhưng công lao của quân và
dân khu vực giới tuyến được sử sách khắc ghi. Để cho đến hôm nay, khi đến với mảnh đất này, ta vẫn như còn
thấy hiện ra trước mắt một quá khứ hào hùng và vô cùng sống động

**

+ Cầu Hiền Lương và sông Bến Hải nằm trong cụm di tích đôi bờ Hiền Lương. Đây là hai “nhân chứng lịch sử”
mang trên mình nỗi đau chia cắt đất nước thành hai miền Nam Bắc suốt hơn 20 năm ròng rã.

+ Sông Bến Hải bắt nguồn từ núi Động Chân thuộc dãy Trường Sơn và chảy dọc theo vĩ tuyến 17 từ Tây sang
Đông rồi đổ ra cửa Biển Cửa Tùng. Sông Bến Hải có tổng chiều dài gần 100 km là ranh giới giữa hai huyện Vĩnh
Linh và Gio Linh của tỉnh Quảng Trị.

+ Sông Bến Hải lúc đầu có tên Minh Lương. Vào thời vua Minh Mạng do trùng với chữ “Minh” phạm phải kiêng
húy tên của Vua. Do vậy tên làng, tên sông đều đổi thành Hiền Lương. Sông Bến Hải cũng còn được gọi là sông
“Bến Hói”, tiếng địa phương “hói” có nghĩa là dòng sông nhỏ, từ Bến Hói đọc lệch ra là Bến Hải.

+ Cầu Hiền Lương được xây dựng năm 1928 do Phủ Vĩnh Linh huy động nhân dân trong vùng đóng góp công
sức. Hồi ấy, cầu được làm bằng gỗ, đóng cọc sắt, rộng 2m. Năm 1931, cầu được người Pháp cho sửa chữa lại
rộng hơn. Năm 1943, cầu được nâng cấp, lúc này xe cơ giới loại nhỏ có thể qua lại được. Năm 1950, Pháp cho
xây cầu Hiền Lương bằng bê tông cốt thép. Hai năm sau, cầu bị quân ta đánh sập để ngăn chặn sự đánh phá
của địch ra miền Bắc. Tháng 5-1952, Pháp làm lại chiếc cầu mới nối liền hai bờ sông Bến Hải giữa huyện Vĩnh
Linh và Gio Linh.

+ Năm 1954, sau khi thất bại tại Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết. Theo Hiệp định Genève, nước
Việt Nam tạm thời chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải chạy ngang qua Do Linh và Vĩnh Linh) làm
đường ranh giới quân sự tạm thời. Cầu Hiền Lương chia làm hai phần, mỗi bên dài 89m, sơn hai màu khác
nhau. Cuộc phân ly tạm thời tưởng rằng chỉ kéo dài 2 năm và kết thúc sau khi tổng tuyển cử thống nhất,
nhưng thực tế đã kéo dài tới 21 năm.

+ Di tích đôi bờ Hiền Lương bao gồm: cầu Hiền Lương, sông Bến Hải, cột cờ ở bờ Bắc, nhà Liên hợp, Đồn công
an giới tuyến, giàn loa phóng thanh, cụm tượng đài Khát vọng thống nhất ở bờ Nam, Nhà Bảo tàng Vĩ tuyến
17…

+ Trong các cuộc chiến diễn ra tại Hiền Lương có lẽ “Chọi Cờ” là cuộc chiến gay gắt và quyết liệt nhất diễn ra
trong suốt 14 năm ròng. Từ khi giới tuyến được phân định, chiều cao của cột cờ không ngừng được nâng lên,
bởi cờ của ta không thể thấp hơn cờ của ngụy.

Di tích lịch sử Thành cổ Quảng Trị và những địa điểm lưu niệm sự kiện 81 ngày đêm năm 1972 (thị xã Quảng
Trị, huyện Hải Lăng và huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị).

+ Tên gọi: Thành cổ Quảng Trị hoặc Cổ thành Quảng Trị

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 09/12/2013, Quyết định Số 2383/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Theo tài liệu thì vào đầu thời Gia Long, thành Quảng Trị được xây dựng tại phường Tiền Kiên (Triệu Thành -
Triệu Phong), đến năm 1809, vua Gia Long cho dời đến xã Thạch Hãn (tức vị trí ngày nay).

+ Giá trị nổi bật:

Thành cổ Quảng Trị nổi tiếng là nơi diễn ra trận chiến 81 ngày đêm giữa lực lượng của Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam với liên minh Quân đội Hoa Kỳ-Quân lực Việt Nam Cộng hòa có sự yểm trợ tối đa của hỏa lực từ
pháo hạng nặng, pháo hạm và B-52 ném bom của quân đội Mỹ. Đây là một trận đánh gây thiệt hại nặng cho cả
hai bên và là trận đánh khốc liệt nhất toàn bộ cuộc chiến. Kết quả, Quân lực Việt Nam Cộng hòa tái chiếm
được Thành cổ và một phần thị xã nhưng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giữ được nửa bắc tỉnh Quảng
Trị, các vị trí chiến lược ở cực Tây tỉnh Quảng Trị và xung quanh Thành cổ cũng như các vị trí xung yếu trong thị
xã. Hiện nay tại bảo tàng Thành cổ Quảng Trị vẫn còn có những di vật, và những bức thư bộ đội gửi vĩnh biệt
gia đình trong thời gian xảy ra trận đánh này.

Chiến công ở Thành cổ Quảng Trị đi vào lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam những trang hào
hùng đầy máu và lữa. Nghĩ đến Thành cổ, chúng ta nghĩ đến mảnh đất rực lữa chiến công và sự hy sinh cao
quý của quân và dân Quảng Trị anh hùng.

Do phải gánh chịu một khối lượng bom đạn khổng lồ trong chiến tranh nên từ sau ngày đất nước giải phóng,
Thành cổ chỉ còn dấu tích của một vài đoạn tường thành loang lỗ vết đạn; các cổng thành đã bị đánh sập; các
công trình bên trong nội thành đã bị hoàn toàn bị phá hủy.
Di tích lịch sử Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh (huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2408/QĐ-TTg, đợt 5 (2014)

+ Lịch sử hình thành:

Trong chiến tranh, Vĩnh Linh trở thành mục tiêu đánh phá hàng đầu khi quân đội Mỹ mở cuộc chiến tranh phá
hoại miền Bắc bằng không lực.

Từ 1965 đến 1968, người dân Vĩnh Linh tạo nên hệ thống 114 địa đạo, làng hầm có mặt ở 70 làng của 15 xã,
thị trấn, được sử dụng đến 1972

+ Giá trị nổi bật:

Địa đạo Vịnh Mốc là di tích lịch sử văn hóa mang nhiều giá trị lịch sử, giáo dục to lớn, là biểu tượng cho tinh
thần yêu nước bất diệt, ý chí quật cường và sự sáng tạo của cha ông ta trong những năm kháng chiến.

Với ý chí "một tấc không đi, một ly không rời", bám trụ bảo vệ quê hương và giữ thông mạch máu chi viện cho
tiền tuyến, quân và dân Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị đã chuyển cuộc sống từ mặt đất xuống lòng đất, kiến tạo
một hệ thống làng hầm đồ sộ với 114 địa đạo với độ dài hơn 40 km cùng với hệ thống giao thông hào hơn
2.000 km, nối thông các làng hầm với nhau mà địa đạo Vịnh Mốc là tiêu biểu nhất - một kỳ tích cho sự tồn tại
để sống và chiến đấu vì độc lập, tự do.

Từ di chuyển trên mặt đất, cùng với sự leo thang của chiến tranh, người dân đào công sự đi bộ dành cho gia
súc liên kết với hệ thống hầm tránh bom đạn. Cuối cùng, nâng lên tầm cao về quân sự, kiến trúc và nghệ thuật,
cuộc sống chuyển hẳn xuống lòng đất.

Đến nay, địa đạo Vịnh Mốc (xã Vĩnh Thạch) được xem là còn nguyên vẹn nhất. Địa đạo này gồm 3 tầng, dài
1.701 m với 13 cửa. Quân và dân ở đây đã mất 18.000 ngày công, đào và vận chuyển hơn 6.000 m3 đất đá. Gọi
là làng hầm vì hình ảnh làng quê được kiến tạo đầy đủ dưới lòng đất với hội trường, căn hộ, nhà hộ sinh, bảng
tin, giếng nước, nhà vệ sinh, trạm phẫu thuật… Trong 2.000 ngày tồn tại, 17 cháu bé được sinh ra tại đây.

31. THỪA THIÊN HUẾ


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:
Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Quần thể kiến trúc Cố đô Huế (Thành phố Huế, huyện Hương Trà,
huyện Hương Thủy, huyện Phú Vang và huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1272/QĐ-TTg, đợt 1 (2009)

+ Lịch sử hình thành:

Từ năm 1306, sau cuộc hôn phối giữa công chúa Huyền Trân (Nhà Trần) với vua Chàm là Chế Mân, vùng đất
Châu Ô, Châu Lý (gồm Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và một phần của Bắc Quảng Nam ngày nay) được lấy tên là
Thuận Hoá. Vào nửa cuối thế kỷ 15, thời vua Lê Thánh Tông, địa danh Huế lần đầu tiên xuất hiện (?). Năm
1636 phủ Chúa Nguyễn đặt ở Kim Long (Huế), tới năm 1687 dời về Phú Xuân - thành Nội Huế ngày nay. Vào
những năm đầu của thế kỷ 18, Phú Xuân là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của xứ "Đàng Trong". Từ năm
1788 đến 1801, Phú Xuân trở thành kinh đô của triều đại Tây Sơn.

Từ 1802 đến 1945, Huế là kinh đô của nước Việt Nam thống nhất dưới sự trị vì của 13 đời vua nhà Nguyễn.
Cũng vào thời gian này, tại đây đã hình thành các công trình kiến trúc lịch sử văn hoá có giá trị mà tiêu biểu là
kinh thành Huế, đặc biệt là khu Đại Nội (có 253 công trình), 7 cụm lăng tẩm của 9 vị vua Nguyễn, đàn Nam
Giao, Hổ Quyền, điện Hòn Chén.

+ Giá trị nổi bật:

Quần thể kiến trúc cố đô Huế được công nhận với Tiêu chí (iv): Quần thể Di tích Cố đô Huế là một ví dụ tiêu
biểu của một kinh đô phong kiến phương Đông.

Bên bờ Bắc của con sông Hương, hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền
Nguyễn là ba tòa thành: Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử cấm thành Huế, lồng vào nhau được bố trí
đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực
của sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và Tây, được đặt trong một khung cảnh
thiên nhiên kỳ tú với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những
bộ phận của Kinh thành Huế - đó là núi Ngự Bình, dòng Hương Giang, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh...

Hoàng thành giới hạn bởi một vòng tường thành gần vuông với mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào mà
độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố đô: Ngọ Môn, chính là khu vực hành chính tối cao của
triều đình Nguyễn. Bên trong Hoàng thành, hơi dịch về phía sau, là Tử cấm thành - nơi ăn ở sinh hoạt của
Hoàng gia.

Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình những công trình
kiến trúc quan yếu nhất của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Ðình, Phu Văn Lâu, Kỳ Ðài, Ngọ Môn, điện Thái
Hòa, điện Cần Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiến Trung... Hai bên đường Thần đạo này là hàng
trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ bố trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa những
sắc màu thiên nhiên, luôn tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.

Xa xa về phía Tây của Kinh thành, nằm hai bên bờ sông Hương, lăng tẩm của các vua Nguyễn được xem là
những thành tựu của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Kiến trúc lăng tẩm ở đây mang một phong thái hoàn toàn
riêng biệt của Việt Nam

Ngoài ra, những địa danh tô điểm thêm nét đẹp của quần thể di tích Cố đô Huế có thể kể đến là: Sông Hương,
Núi Ngự, Chùa Thiên Mụ, Bạch Mã, Lăng Cô, Thuận An...

Tại phiên họp lần thứ 17 của Uỷ ban Di sản thế giới, Colombia từ ngày 6 đến 11/12/1993, UNESCO đã quyết
định công nhận quần thể di tích Cố đô Huế là di sản văn hoá của nhân loại. Một sự kiện trọng đại trong lịch sử
văn hoá Việt Nam, tài sản đầu tiên của Việt Nam được ghi tên vào danh mục Di sản thế giới, khẳng định giá trị
mang tính toàn cầu của quần thể di tích Cố đô Huế.

Quần thể di tích Cố đô Huế là di sản văn hóa thế giới theo tiêu chí số 4, đã hội đủ các yếu tố:

- Tiêu biểu cho những thành tựu nghệ thuật độc đáo, những kiệt tác do bàn tay con người tạo dựng.

- Có giá trị to lớn về mặt kỹ thuật xây dựng, nghệ thuật kiến trúc trong một kế hoạch phát triển đô thị hay một
chương trình làm đẹp cảnh quan tại một khu vực văn hoá của thế giới;

- Một quần thể kiến trúc tiêu biểu của một thời kỳ lịch sử quan trọng.

- Kết hợp chặt chẽ với các sự kiện trọng đại, những tư tưởng hay tín ngưỡng có ảnh hưởng lớn, hay với các
danh nhân lịch sử.

Di tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2383/QĐ-TTg, năm 2013

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Di tích lịch sử Hệ thống di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Thừa Thiên – Huế (thành phố Huế và huyện
Phú Vang), tỉnh Thừa Thiên – Huế

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:
+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Quyết định số 2280/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2020.

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Thừa Thiên Huế, mảnh đất đã nuôi dưỡng tuổi thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm tháng Người
cùng gia đình sinh sống, học tập và tham gia các hoạt động yêu nước trong giai đoạn 1895 -1901 và 1906 -
1909. Chính nơi đây đã góp phần hun đúc và hình thành tư tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh để từ đó
thôi thúc Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân.

Hệ thống di tích có trách nhiệm lưu giữ và truyền bá những di sản vô giá mà Bác đã để lại. Di sản mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh và gia đình Người để lại trên mảnh đất Thừa Thiên Huế là niềm tự hào và là tài sản vô giá cho
mãnh đất và con người xứ Huế. Những địa điểm di tích này thu hút đông đảo nhân dân mỗi khi đến Huế, cũng
là nơi để người dân Cố đô Huế viếng thăm mỗi khi nhớ đến Người.

32. ĐÀ NẴNG
Tổng số lượng di tích:
Di sản thế giới: 2
Cấp tỉnh: 63
Cấp quốc gia: 17
Cấp quốc gia đặc biệt: 2

Di tích lịch sử Thành Điện Hải, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 25/12/2017, Quyết định số 2082/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Thành Điện Hải trước là đồn Điện Hải ở tả ngạn phía Tây sông Hàn nên người Pháp gọi là Fort de l’,Ouest, có
nghĩa là Pháo đài phía Tây. Thành được xây dựng từ năm 1813 (Gia Long thứ 12, gần cửa biển Đà Nẵng) mang
đậm phong cách thiết kế Vauban châu u, với vật liệu chính là đất với tên gọi là Bảo Điện Hải

+ Giá trị nổi bật:


Theo các nhà nghiên cứu, thành Điện Hải có giá trị về mặt lịch sử khá đặc biệt, đây là di tích minh chứng sự va
đập giữa nền văn minh phương Tây và phương Đông; mốc chuyển tiếp từ thời kỳ lịch sử trung đại sang cận đại
của Việt Nam và biểu tượng cho lòng yêu nước, truyền thống đấu tranh bất khuất của cha ông ta trong những
năm đầu chống Pháp.

Thành Điện Hải là một di tích lịch sử, văn hóa mang nhiều giá trị về mặt lịch sử. Trải qua gần 200 năm tồn tại,
di tích từng chứng kiến nhiều trận đánh lớn của nhân dân ta chống lại liên quân Pháp - Tây Ban Nha (giai đoạn
1858-1860) và cả sau này. Thành là biểu tượng cho ý chí quật cường, thể hiện tinh thần yêu nước mãnh liệt
của nhân dân Đà Nẵng nói riêng và cả nước nói chung trong buổi đầu kháng Pháp. Di tích thành Điện Hải mang
giá trị tiêu biểu và như một pho sử vàng son trong quá trình hình thành và phát triển của thành phố Đà Nẵng

Danh lam thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 24-12-2018, Quyết định số 1820/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Danh thắng Ngũ Hành Sơn là một tuyệt tác về cảnh quan thiên nhiên “sơn kỳ thủy tú” huyền ảo thơ mộng mà
tạo hóa đã ban tặng cho Đà Nẵng. Đứng trên đỉnh cao của núi, một cảnh tượng độc đáo mở ra trước mắt du
khách với phía Tây là dãy Trường Sơn hùng vĩ, bên dưới là dòng sông Cẩm Lệ, dòng sông Hàn uốn quanh mềm
mại như dải lụa và phía Đông với cả một vùng trời biển mênh mông và đảo Cù Lao Chàm xa xa ẩn hiện.

Ngũ Hành Sơn có một vẻ đẹp riêng có, đó là vẻ đẹp hài hòa của một vùng sinh thái tự nhiên đan xen đời sống
văn hóa tâm linh. Chùa chiền, hang động hòa quyện với nhau như hình với bóng. Chính với yếu tố này, Ngũ
Hành Sơn mang một vẻ đẹp vừa thoáng đãng lãng mạn, vừa trầm mặc cổ kính.

(Tại đây có nhiều hang động đẹp như: động Huyền Không, động Huyền Vi, động Vân Thông, động Tàng Chơn,
động Quan Âm. Bên cạnh đó, tại danh thắng Ngũ Hành Sơn đã có 14 ngôi chùa lớn nhỏ tồn tại. Trong đó có
chùa Tam Thai và chùa Linh Ứng đã được vua Minh Mạng sắc phong Quốc tự vào năm 1825.)

Ngoài vẻ đẹp hiếm có, danh thắng Ngũ Hành Sơn chứa đựng giá trị lịch sử, văn hóa vô cùng quý giá. Những
văn bia, hiện vật văn hóa Phật giáo... đang còn lưu giữ tại danh thắng cho thấy Ngũ Hành Sơn là mảnh đất có
lịch sử lâu đời, vốn là một trung tâm cư trú, giao thương và trung tâm tín ngưỡng của người Chăm - cư dân
bản địa trong lịch sử. Sau khi thuộc về Đại Việt, nơi đây trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng.

(Danh thắng Ngũ Hành Sơn cũng chứa đựng giá trị lịch sử, văn hóa vô cùng quý giá. Lưu giữ nhiều văn bia và
hiện vật văn hóa Phật giáo như: Văn bia Phổ Đà Sơn linh trung Phật (Phật trong hang thiêng núi Phổ Đà) ở
động Hoa Nghiêm được khắc trực tiếp trên vách đá vào năm Canh Thìn (1640), do Thiền sư Huệ Đạo Minh trụ
trì chùa Phổ Đà biên soạn...)

Về giá trị khảo cổ, Ngũ Hành Sơn là nơi lưu dấu của nền văn hóa cổ Champa, một thời đã phát triển rực rỡ ở
miền Trung trong nhiều thế kỷ mà dấu vết di tích và di vật hiện vẫn còn để lại đến ngày nay.

33. QUẢNG NAM


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích kiến trúc nghệ thuật Khu đền tháp Mỹ Sơn (huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Quyết định số 1272/QĐ-TTg ,đợt 1 (2009)

+ Lịch sử hình thành:

Khu di tích Mỹ Sơn (thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), là một quần thể kiến trúc nổi tiếng
nhất của người Chăm ở Việt Nam. Khu di tích Mỹ Sơn được xây dựng từ cuối thế kỷ IV đến thế kỷ XIII.

Năm 1898, một người Pháp tên là M.C Paris đã phát hiện khu đền tháp Mỹ Sơn nằm kín đáo trong một thung
lũng hẹp, giữa những khu rừng rậm rạp. Cũng chính họ đã vén lên bức màn bí mật về Mỹ Sơn và cho thấy đây
là khu di tích tôn giáo kỳ vĩ nhất, đặc trưng nhất của người Chămpa, xây dựng liên tục trong suốt hơn 1000
năm.

+ Giá trị nổi bật:

Lấy từ trang UNESCO:

Trong suốt thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 13, có một nền văn hóa độc đáo trên bờ biển của Việt Nam đương đại, do
nguồn gốc tinh thần của nó từ Ấn Độ giáo của Ấn Độ. Điều này được minh họa bằng hình ảnh qua phần còn lại
của một loạt các ngôi đền tháp ấn tượng tại một địa điểm ấn tượng từng là thủ đô tôn giáo và chính trị của
Vương quốc Champa trong phần lớn thời gian tồn tại của nó.

Thánh địa Mỹ Sơn có niên đại từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 13 sau Công nguyên. Khách sạn nằm ở biên giới
miền núi huyện Duy Xuyên của tỉnh Quảng Nam, miền Trung Việt Nam. Nó nằm trong một lòng chảo địa chất
cao được bao quanh bởi một vòng núi, cung cấp đầu nguồn cho dòng sông Thu Bồn linh thiêng. Đầu nguồn
của sông Thu Bồn là đây và nó chảy qua các di tích, ra khỏi lưu vực và qua trung tâm lịch sử của Vương quốc
Champa, đổ ra Biển Đông ở cửa sông gần cảng thị cổ Hội An. Vị trí mang lại cho các trang web ý nghĩa chiến
lược của nó vì nó cũng dễ dàng được bảo vệ.

Các ngôi đền tháp được xây dựng trong hơn mười thế kỷ phát triển liên tục ở trung tâm của quê hương tổ tiên
của bộ tộc Dừa cầm quyền đã thống nhất các thị tộc Chăm và thành lập vương quốc Champapura (tiếng Phạn
cho Thành phố của người Chăm) vào năm 192 CE. Trong suốt thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ 13 sau Công nguyên, nền
văn hóa độc đáo này, trên bờ biển của Việt Nam đương đại, có nguồn gốc tâm linh từ Ấn Độ giáo của tiểu lục
địa Ấn Độ. Dưới ảnh hưởng này, nhiều ngôi đền được xây dựng để thờ các vị thần Hindu như Krishna và
Vishnu, nhưng trên hết là thần Shiva. Mặc dù Phật giáo Đại thừa đã thâm nhập vào văn hóa Chăm, có lẽ từ thế
kỷ thứ 4 sau Công nguyên, và được thiết lập mạnh mẽ ở phía bắc của vương quốc, nhưng Ấn Độ giáo Shivite
vẫn là quốc giáo lâu đời.

Khu di tích thánh địa Mỹ Sơn là công trình quan trọng nhất của nền văn minh Mỹ Sơn. Các ngôi đền tháp có
nhiều kiểu dáng kiến trúc tượng trưng cho sự vĩ đại và thuần khiết của Núi Tu Di, ngọn núi linh thiêng trong
thần thoại, ngôi nhà của các vị thần Hindu ở trung tâm của vũ trụ, giờ đây được tái tạo một cách tượng trưng
trên Trái đất ở quê hương miền núi của người Chăm. Chúng được xây dựng bằng gạch nung với những cột đá
và được trang trí bằng những bức phù điêu bằng đá sa thạch mô tả những cảnh trong thần thoại Hindu. Sự
tinh vi về công nghệ của họ là bằng chứng về kỹ năng kỹ thuật của người Chăm trong khi hình tượng và biểu
tượng phức tạp của các ngôi đền-tháp cho ta cái nhìn sâu sắc về nội dung và sự phát triển của tư tưởng tôn
giáo và chính trị của người Chăm.

Thánh địa Mỹ Sơn là một quần thể kiến trúc đặc sắc được phát triển trong khoảng thời gian mười thế kỷ. Nó
trình bày một bức tranh sống động về đời sống tinh thần và chính trị trong một giai đoạn quan trọng của lịch
sử Đông Nam Á.
**
Lấy từ trang DI SẢN THẾ GIỚI VIỆT NAM
Mỹ Sơn thuộc địa phận xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 70 km về
hướng tây nam, cách thành phố Hội An khoảng 40km.
Khu đền tháp Mỹ Sơn nằm trong một thung lũng có đường kính khoảng 2km, xung quanh là đồi, núi, trong mạch núi cao
khoảng 100m đến 400m từ Đông Trường Sơn qua Mỹ Sơn đến kinh đô Trà Kiệu.

Mỹ Sơn là thánh địa Ấn Độ giáo của Vương quốc Chămpa. Mỗi vị vua, sau khi lên ngôi, đều đến Mỹ Sơn làm lễ
thánh tẩy, dâng cúng lễ vật và xây dựng đền thờ. Mỹ Sơn là điểm duy nhất của nghệ thuật Chăm có quá trình
phát triển liên tục từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13. Vào đầu thế kỷ thứ 7, vua Sambhuvarman đã xây dựng ngôi đền
bằng những vật liệu rất bền vững, còn tồn tại đến ngày nay. Các triều vua sau đó đều tu sửa các đền tháp cũ
và xây dựng đền tháp mới để dâng lên các vị thần của họ.

(Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ Linga hoặc hình tượng của thần Siva - Ðấng bảo hộ của các dòng vua
Chămpa. Vị thần được tôn thờ ở Mỹ Sơn là Bhadrésvara, là vị vua đã sáng lập dòng vua đầu tiên của vùng Amaravati vào
cuối thế kỷ 4 kết hợp với tên thần Siva, trở thành tín ngưỡng chính thờ thần - vua và tổ tiên hoàng tộc.
Vào năm 1885, di tích Mỹ Sơn được phát hiện bởi một toán lính Pháp. Năm 1898 - 1899, hai nhà nghiên cứu của Viễn
thông Pháp là L.Finot và L.de Lajonquière và nhà kiến trúc sư kiêm khảo cổ học H. Parmentier đã đến Mỹ Sơn để nghiên
cứu văn bia và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Chăm. Cho đến những năm 1903-1904 những tài liệu cơ bản nhất về bia
ký và nghệ thuật kiến trúc Mỹ Sơn đã được L.Finot chính thức công bố.
Đền tháp ở Mỹ Sơn được chia thành nhiều cụm, xây dựng theo cùng một nguyên tắc. Kết cấu mỗi cụm gồm có một ngôi
đền thờ chính (Kalan), bao quanh bằng những ngôi tháp nhỏ hoặc công trình phụ. Ngôi đền chính tượng trưng cho núi
Meru - trung tâm vũ trụ, là nơi hội tụ của thần linh và thờ thần Siva. Các đền phụ (miếu phụ) thờ các vị thần trông coi
hướng trời. Ngoài ra còn có những công trình phụ là những ngôi tháp thường có mái lợp ngói, là nơi khách hành hương
sửa lễ, cất giữ đồ tế lễ. Đền thờ của người Chăm không có cửa sổ, chỉ các công trình tháp phụ mới có cửa sổ.)

Đền, tháp Chăm xây bằng gạch, ghép với những mảng trang trí bằng sa thạch. Chúng được xếp khít với nhau
và ngày nay chưa có công trình nghiên cứu nào xác định được chất kết dính. Sau khi tường tháp được xây lên,
những nhà điêu khắc mới bắt đầu chạm trổ hoa lá, hình người, hình thú... lên tháp. Kỹ thuật điêu khắc trên
gạch của người Chăm rất ít xuất hiện trong các nghệ thuật khác ở khu vực.

Mỗi ngôi đền tháp ở Mỹ Sơn có 3 bộ phận chính: đế tháp, thân tháp và mái tháp:Đế tháp: theo quan niệm của người
Chămpa, đế tháp tượng trưng cho thế giới trần tục, thường được xây trên nền hình vuông hoặc hình chữ nhật, bằng
gạch hoặc đá phiến to. Xung quanh đế được trang trí các môtip hoa văn, hình con thú, hình người cầu nguyện đứng
trong các vòm cuốn nhỏ…
Thân tháp: cũng theo quan niệm của người Chămpa, thân tháp tượng trưng cho thế giới tâm linh, nơi con người gột rửa
bụi trần được thoát tục để có thể tiếp xúc với tổ tiên và hoà nhập với thần linh.
Mái tháp: mái tháp tượng trưng cho thần linh, thường có ba tầng càng lên cao càng thu hẹp. Mỗi tầng lại mô phỏng đầy
đủ cấu trúc cửa chính và cửa giả giống tầng dưới và được trang trí những ngẫu tượng, vật cưỡi của các vị thần trong Ấn
Độ Giáo như: chim thần, ngỗng thần, bò thần, voi, sư tử... Tầng một và hai ở mỗi góc thường trang trí các tháp nhỏ.

Theo các nhà nghiên cứu tháp Chàm cổ, nghệ thuật kiến trúc tháp Chàm tại Mỹ Sơn hội tụ được nhiều
phong cách, mang tính liên tục từ phong cách cổ thế kỷ 7 đến thế kỷ 8, phong cách Hoà Lai thế kỷ 8 đến thế
kỷ thứ 9, phong cách Ðồng Dương từ giữa thế kỷ 9, phong cách Mỹ Sơn và chuyển tiếp giữa Mỹ Sơn và Bình
Ðịnh, phong cách Bình Ðịnh

Lâu nay người ta vẫn gọi các đền tháp ở Mỹ Sơn theo vần A, A', B, C, D... là theo qui ước phân chia và đặt tên của Henri
Parmentier. Ông đã dựa vào những tường bao quanh cụm đền tháp để xếp chúng cùng nhóm mang một chữ cái. Quan
sát trực tiếp, người ta thấy rằng việc đánh số trong mỗi nhóm của ông dường như dựa vào công năng của mỗi đền, tháp.
Bắt đầu từ ngôi đền chính - tháp quan trọng nhất của nhóm, mang số 1; tháp cổng số 2; các tháp còn lại tuỳ theo chức
năng trong nhóm được gán các số kế tiếp. Phương pháp đặt tên của ông rất có ý nghĩa trong việc nghiên cứu và quản lý
khu di sản Mỹ Sơn trong nhiều năm qua.

Trong số 225 di tích Chăm được phát hiện tại Việt Nam, riêng Mỹ Sơn có khoảng 70 đền tháp, 32 bi ký tồn tại ở
dạng này hay dạng khác. Những đền tháp ở đây tuy không còn cái nào nguyên vẹn nhưng vẫn là những cứ liệu
tốt nhất để tìm hiểu quá trình phát triển của nghệ thuật Chăm. Nghệ thuật điêu khắc Chăm tiếp nhận sâu sắc
ảnh hưởng của Ấn Độ, nhưng trong quá trình phát triển tính bản địa ngày càng đậm nét và tính dân tộc ngày
càng khẳng định, tạo nên vẻ độc đáo, sức hẫp dẫn kỳ lạ. Điêu khắc Chăm cũng có những hình ảnh thầy tu, vũ
nữ khắc kỷ và khoái lạc nhưng nổi bật lên là đặc điểm về sức sống mãnh liệt của con người với nội tâm lúc bay
bổng sảng khoái, lúc trầm tĩnh ưu tư, lúc trăn trở day dứt...

Tháng 12/1999, tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban Di sản thế giới được tổ chức ở Marrakesh (Maroc), Khu đền
tháp Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các Di sản Văn hóa thế giới theo tiêu chuẩn 2 như là một ví
dụ điển hình về trao đổi văn hoá và theo tiêu chuẩn 3 như là bằng chứng duy nhất của một nền văn minh châu
Á đã biến mất.
Di tích kiến trúc nghệ thuật Đô thị cổ Hội An (Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam).

+ Tên gọi: Phố cổ Hội An

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Quyết định số 1272/QĐ-TTg , đợt 1 (tháng 8/2009)

+ Lịch sử hình thành:

Thương cảng Hội An hình thành từ thế kỷ XVI, thịnh đạt nhất trong thế kỷ XVII-XVIII, suy giảm dần từ thế kỷ
XIX, để rồi chỉ còn là một đô thị vang bóng một thời.

+ Giá trị nổi bật:

Hội An đã đáp ứng tiêu chí (ii) và (v) trong 10 tiêu chí về di sản thế giới

Lấy từ trang UNESCO:

Là một kiểu cảng thị truyền thống Đông Nam Á duy nhất ở Việt Nam, hiếm có trên thế giới, Hội An giữ được
gần như nguyên vẹn hơn một nghìn di tích kiến trúc như phố xá, nhà cửa, hội quán, đình, chùa, miếu, nhà thờ
tộc, giếng cổ, mộ cổ... Các kiến trúc vừa có sắc thái nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, vừa thể hiện sự
giao lưu hội nhập văn hoá với các nước phương Đông và phương Tây.

Trải qua nhiều thế kỷ, những phong tục tập quán, nghi lễ, sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng cũng như các món ăn
truyền thống vẫn lưu giữ, bảo tồn cùng với bao thế hệ người dân phố cổ.

Các nhà nghiên cứu cho rằng kiến trúc cổ ở Hội An hầu hết được làm lại mới từ đầu thế kỷ 19, mặc dù năm
khởi dựng có thể xưa hơn nhiều. Kiến trúc cổ thể hiện rõ nhất ở khu phố cổ. Nằm trọn trong địa bàn của
phường Minh An, Khu phố cổ có diện tích khoảng 2km², tập trung phần lớn các di tích nổi tiếng ở Hội An.
Đường phố ở khu phố cổ ngắn và hẹp, có độ uốn lượn, chạy ngang dọc theo kiểu bàn cờ. Địa hình khu phố cổ
có dạng nghiêng dần từ bắc xuống nam. Các công trình kiến trúc trong khu phố cổ được xây dựng hầu hết
bằng vật liệu truyền thống: gạch, gỗ và không có nhà quá hai tầng. Du khách dễ nhận ra dấu vết thời gian
không chỉ ở kiểu dáng kiến trúc của mỗi công trình mà có ở mọi nơi. Nơi đây hẳn đã thu hút được các nghệ
nhân tài hoa về nghề mộc, nề, gốm sứ của người Hoa, người Nhật, người Việt, người Chăm... cho nên mỗi
công trình để lại hôm nay còn in dấu ấn văn hoá khá đa dạng, phong phú của nhiều dân tộc.

Trong nhiều thế kỷ, Hội An đã từng là nơi gặp gỡ, giao lưu của nhiều nền văn hoá khác nhau trên thế giới. Bên
cạnh những phong tục tập quán bản địa của người Việt còn có thêm những tập tục của cộng đồng cư dân
nước ngoài đến định cư như tục thờ đá; thờ Cá Ông của cư dân ven biển Trung bộ; thờ các hiện tượng tự
nhiên như mưa, gió, sấm, sét hay vật thiêng (cây cổ thụ),...
Phố cổ Hội An ngày nay là một điển hình đặc biệt về cảng thị truyền thống ở Đông Nam Á. Phần lớn những
ngôi nhà ở đây mang kiến trúc truyền thống có niên đại từ thế kỷ 17 -19. Năm trong lòng phố cổ là những công
trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưởng minh chứng cho sự hình thành, phát triển và suy tàn của cảng thị này. Có
rất nhiều dấu ấn về sự giao thoa, pha trộn văn hóa tại đây. Những hội quán, đền miếu mang dấu tích của
người Hoa nằm bên những ngôi nhà của người Việt và một số ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Pháp.
Ngoài ra, Hội An còn lưu giữ một nền văn hóa phi vật thể đa dạng và phong phú.

Rất nhiều di tích còn nguyên vẹn như bến cảng, phố cổ, nhà thờ tộc, đình chùa, đền miếu, các hội quán của
người Hoa, lăng mộ của người Nhật và đặc biệt là biểu tượng của Hội An – Chùa Cầu (chùa Nhật Bản). Cho
thấy Hội An vẩn còn lưu giữ lại những nét văn hóa, kiến trúc của các nước có quan hệ buôn bán với thương
cảng này như Nhật Bản, Trung Quốc, Hà Lan, Bộ Đào Nha, Pháp, Ý.

Di tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1820/QĐ-TTg, đợt 9 (2018)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Di tích khảo cổ Phật viện Đồng Dương (huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Ngày 22 tháng 12, 2016; Quyết định 2499/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Tháp Đồng Dương được xây dựng vào thế kỷ 9, trong thời kỳ Phong cách Đồng Dương của Chăm Pa, đây cũng
là thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng mạnh đến Chăm Pa, nên có tính chất đặc biệt so với các tháp khác trong hệ
thống tháp Chăm, nó được mệnh danh là tòa tu viện Phật giáo giữa đô thành. Hệ thống tháp Đồng Dương nằm
ngay chính trung tâm đô thành Indrapura trong thời kỳ vương triều Indrapura.

+ Giá trị nổi bật:


Phật viện Đồng Dương là chứng nhân lịch sử một thời vàng son của vương quốc Champa.

Đối với nghệ thuật điêu khắc, ngoài bệ thờ chính, tượng các vị Bồ tát trên Phật điện thì hai pho tượng được
phát hiện tại Đồng Dương là tài sản vô giá làm nên giá trị lịch sử và văn hóa cho Phật viện Đồng Dương.

Phật viện Đồng Dương là một công trình kiến trúc Phật giáo có quy mô và kích thước vào loại lớn nhất khu vực
Đông Nam Á thế kỷ IX-X. Những dấu tích để lại đã được phát lộ cho thấy, bên cạnh một loạt những yếu tố của
kiến trúc và nghệ thuật Phật giáo, những truyền thống nghệ thuật và kiến trúc Bà-la-môn giáo truyền thống
của Champa vẫn được duy trì và phát triển trong Phật viện Đồng Dương. Chính sự kết hợp sáng tạo giữa hai
dòng văn hóa và nghệ thuật này đã sản sinh ra phong cách nghệ thuật Phật giáo Đồng Dương, một trong
những phong cách nghệ thuật Phật giáo lớn nhất, đẹp nhất và cũng đặc sắc nhất của nghệ thuật Phật giáo thế
giới thế kỷ IX – X

Năm 1902, H. Parmentier đã khai quật di tích Đồng Dương và tìm thấy khu kiến trúc chính của khu đền thờ
cùng nhiều tác phẩm điêu khắc quý giá. Những tác phẩm điêu khắc của thời kỳ này mang những yếu tố của
Phật giáo đại thừa kết hợp với nghệ thuật Ấn Độ giáo, cùng với sự sáng tạo độc đáo của những nghệ nhân bản
địa, đã hình thành nên phong cách Đồng Dương nổi tiếng trong nghệ thuật Chămpa từ giữa đến cuối thế kỷ IX.
Đáng tiếc là khu di tích quan trọng vào bậc nhất của kiến trúc Phật giáo Chămpa đã bị tàn phá bởi thiên nhiên
và chiến tranh. Hiện nay, trong khu di tích này chỉ còn một mảng tường tháp cổng mà nhân dân địa phương
thường gọi là "Tháp Sáng" cùng với nền móng các công trình kiến trúc và một số đồ trang trí kiến trúc.

34. QUẢNG NGÃI


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử Địa điểm về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 25.12.2017, Quyết định số 2082/QĐ-TTg (đợt 8)

+ Lịch sử hình thành:

Địa điểm về cuộc khởi nghĩa Ba gắn liền với Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ ngày 11/3/1945 và sự ra đời, hoạt động của
Đội du kích Ba Tơ anh hùng. Các điểm di tích này phân bố chủ yếu trên địa bàn các xã Ba Vinh, Ba Động, Ba
Thành và thị trấn Ba Tơ, huyện Ba Tơ.
+ Giá trị nổi bật:

Lịch sử Việt Nam hiện đại ghi nhận Khởi nghĩa Ba Tơ là cuộc khởi nghĩa từng phần đầu tiên trong cả nước nổ ra
và giành thắng lợi. Cuộc khởi nghĩa Ba Tơ là một trang ngời sáng trong lịch sử Quảng Ngãi và lịch sử cả nước.

Đội du kích Ba Tơ là một trong những lực lượng vũ trang cách mạng ra đời trong thời kỳ tiền khởi nghĩa và trở
thành lực lượng nòng cốt của quần chúng cách mạng ở Quảng Ngãi trong những ngày tổng khởi nghĩa tháng
Tám năm 1945, góp phần xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ở Thừa Thiên - Huế và vùng Nam Trung Bộ.
Nhiều thành viên của đội du kích Ba Tơ về sau trở thành tướng lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, như các
ông Phạm Kiệt, Nguyễn Đôn, Trần Quý Hai, Võ Thứ...

Sau những ngày tháng 3.1945, một số địa danh ở Ba Tơ đã đi vào lịch sử, tô thắm thêm truyền thống cách
mạng của nhân dân Quảng Ngãi.

Di tích khảo cổ Văn hoá Sa Huỳnh (thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 29/12/2022, Quyết định số 1649/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Văn hóa Sa Huỳnh được nhà khảo cổ học người Pháp M. Vinet phát hiện năm 1909, tại Sa Huỳnh Quảng Ngãi
và được lấy tên địa danh Sa Huỳnh đặt tên cho nền văn hóa khảo cổ này là “Văn hóa Sa Huỳnh”.

+ Giá trị nổi bật:

Từ khu mộ chum Sa Huỳnh, qua các đợt khai quật, các nhà khảo cổ đã liên tục phát hiện các dấu vết của một
nền văn hóa thời tiền sử. Từ những hiện vật phát hiện trong quá trình khai quật khảo cổ tại các tỉnh Duyên hải
miền Trung, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên cho thấy Quảng Ngãi được xem là cái nôi của văn hóa Sa Huỳnh.
Không gian di tích văn hóa Sa Huỳnh các giá trị về cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp như đầm nước ngọt An
Khê, biển Sa Huỳnh với bãi cát, rừng dương, vũng vịnh còn nguyên sơ. Các giá trị di sản văn hóa Sa Huỳnh,
Chăm pa, Đại Việt vẫn còn giữ nguyên vẹn với tính xác thực cao.

Theo các nhà khảo cổ, căn cứ vào các hiện vật Văn hóa Sa Huỳnh được phát hiện tại tỉnh Quảng Ngãi như mộ
chum được làm bằng đất nung, đồ gốm tô màu trang trí, có kèm đồ trang sức quý gồm các chuỗi hạt, khuyên
tai ba chấu… đặc biệt là hình thức táng thức mộ chum, một số dụng cụ bằng đồng, sắt, đã xác định có niên đại
khoảng 2.500 năm.

35. BÌNH ĐỊNH


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử Khu đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt (huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định).

+ Tên gọi: Khu đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 31/12/2014, quyết định số 240/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Sau năm 1776 (Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế, đóng đô ở thành Đồ Bàn): Từ đường của ông bà Hồ Phi Phúc
(thân sinh ba anh em Nguyễn Huệ) được xây dựng ngay trên nền nhà cũ nơi ba anh em sinh ra

- Năm 1823: Đình làng Kiên Mỹ được xây dựng trên nền Từ đường đã bị phá hủy. Bề ngoài là thờ Thành Hoàng
nhưng bên trong lại bí mật thờ ba anh em nhà Tây Sơn.

- 1946: Đình bị thực dân Pháp đốt.

- 1958: Đình được xây lại và lấy tên là Điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt

- 1998: Đền thờ mới có quy mô to lớn hơn được xây dựng trên nền điện thờ cũ

+ Giá trị nổi bật:

Khu đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt gắn với tên tuổi ba vị anh hùng Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo
phong trào khởi nghĩa Tây Sơn giải phóng dân tộc thế kỷ 18

Theo các nhà sử học, điều làm nên giá trị Điện thờ Tây Sơn không phải ở kiến trúc điện thờ mà ở giá trị lịch sử
và nhân văn của nó. Mặc cho sự trả thù của nhà Nguyễn, nhân dân Tây Sơn vẫn tri ân, tưởng nhớ ba người anh
hùng áo vải và xây dựng đình trên chính nền nhà cũ của anh em Tây Sơn, bí mật thờ Tây Sơn Tam Kiệt bên
cạnh Thành hoàng làng. Đình bị phá thì nhân dân xây miếu, miếu đổ lại dựng điện, điện xuống cấp thì xây đền
thờ tri ân công đức các bậc anh hùng dân tộc.

Khu di tích đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt nằm trong quần thể của Bảo tàng Quang Trung. Điện thờ ba anh em
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cùng các tướng lĩnh phong trào Tây Sơn như Bùi Thị Xuân, Võ Văn
Dũng, Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Chăm Dương Long (huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định).

+ Tên gọi:
+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2367/QĐ-TTg, đợt 6 2015

+ Lịch sử hình thành:

Tháp Dương Long là cụm di tích gồm ba tháp Chăm thẳng hàng trên một gò cao thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh
Bình Định.

Tháp Dương Long được xây dựng vào cuối thế kỷ 12. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nền văn hóa
Chăm Pa.

+ Giá trị nổi bật:

Tính quy mô của tháp Dương Long được thể hiện không chỉ ở chiều cao của nó (cao nhất trong các tháp Chăm
còn lại ở Việt Nam) mà còn ở lối kiến trúc độc đáo, đặc biệt là các hoa văn, hoạ tiết được khắc tạc trực tiếp
trên những tảng đá đồ sộ đặt ngay trên đỉnh tháp với nghệ thuật điêu khắc chạm trổ điêu luyện, các đường
nét thể hiện vừa hoành tráng vừa lộng lẫy, vừa tinh tế mềm mại, những con vật và họa tiết trang trí vừa sống
động chân thực, vừa huyền ảo kì bí. Tháp Dương Long được đánh giá là một trong những tháp Chăm đẹp nhất
Việt Nam.

**

Gắn liền với phong cách Bình Định của nghệ thuật Chămpa thời kỳ Vijaya, các tháp Dương Long có được điểm
chung về vị trí xây dựng. (Xu hướng chuyển dần vị trí xây dựng từ đồng bằng lên đồi cao một cách rõ rệt và sự
biến đổi hình thức từ sự trang nhã của các tháp khoảng thế kỷ X sang sự khỏe khoắn của giai đoạn này là
những yếu tố phản ánh lịch sử kiến trúc cũng như lịch sử xã hội Chămpa thời kỳ Vijaya). Nhưng trên hết, tự
thân các tháp Dương Long với sự tồn tại hơn tám thế kỷ qua đã mang trong mình giá trị lịch sử đáng được trân
trọng.

Sự ảnh hưởng của những yếu tố văn hóa và kiến trúc Khơme giúp cho tháp Dương Long có giá trị nghệ thuật
kiến trúc đặc biệt. Về cơ bản, kiến trúc tháp Dương Long vẫn tuân thủ chặt chẽ về chức năng, bố cục… của
nghệ thuật tạo hình Chămpa như một đền thờ có bố cục hướng tâm rõ nét hay trang trí bằng các khung cửa,
cột ốp… Song tất cả dường như được thể hiện dưới một hình thức khác biệt. Lối kiến trúc tháp Dương Long là
trường hợp đặc biệt trong lịch sử kiến trúc Chămpa.

Về nghệ thuật trang trí, điêu khắc trên đá là yếu tố nổi bật nhất của tháp Dương Long. Hiện nay, trên các tháp
vẫn còn lại nhiều tác phẩm điêu khắc rất có giá trị.

Tháp Dương Long nổi bật lên trong số các di tích tháp cổ Champa không chỉ ở kích thước đồ sộ, mà còn ở hình
dáng đặc biệt của từng kiến trúc. Nếu tính về mặt kích thước, không một ngôi tháp Chăm hiện còn nào có thể
sánh nổi với các tháp ở Dương Long, còn nếu xét về hình dáng, các tháp Dương Long không hề giống bất kỳ
một ngôi tháp cổ Champa hiện còn nào khác.
Sự kết hợp thành công giữa kỹ thuật xây tháp gạch của người Chăm và kỹ thuật lắp ghép, tạo tác trên đá của
Khơmer đã tạo nên một kiệt tác Dương Long nổi bật trong nghệ thuật kiến trúc Champa. Dựa trên các yếu tố
và họa tiết trang trí kiểu Khơmer, các nhà nghiên cứu đã xác định niên đại tháp Dương Long ở khoảng thế kỷ
XII.

Theo các nhà nghiên cứu văn hóa Chăm, những tác phẩm có giá trị nhất của tháp Dương Long là phần vòm cửa
giả bằng đá khổng lồ với những hình tượng điêu khắc có giá trị nghệ thuật cao. Các cửa giả ở đây hầu như đều
đã mất, chỉ còn cửa giả phía nam của ngôi tháp Bắc vẫn còn khá nguyên vẹn để chúng ta có thể chiêm ngưỡng
vẻ đẹp tráng lệ của nó.

Một trong những đặc trưng nổi bật và có giá trị nhất về mặt nghệ thuật của tháp Dương Long là gần như tất cả
các chủ đề điêu khắc trang trí đều được tạc trên đá như chân tường, diềm mái, cửa giả, cửa ra vào... Vì thế mà
không một ngôi tháp Chăm hiện còn nào có nhiều tác phẩm điêu khắc đá như Dương Long.

36. PHÚ YÊN


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Nhạn, thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.

+ Tên gọi: Tháp Nhạn. Người Ê Đê và Gia Rai gọi là tháp Kơ H’meng, người Kinh gọi là Tháp Chàm còn người
Chăm gọi là Đền Kalan

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Quyết định số 1820/QĐ-TTg, ngày 24/12/2018 (đợt 9)

+ Lịch sử hình thành:

Tháp Nhạn trong tiếng Ê-Đê và Jarai gọi là Yang Kơ Hmeng là một tháp Champa nằm trên núi Nhạn, thắng cảnh
tiêu biểu của Tuy Hòa, tỉnh lị của Phú Yên. Tháp được người Chăm sinh sống ở lưu vực châu thổ sông Ba xây
dựng nên vào khoảng thế kỉ 12.

+ Giá trị nổi bật:

Sự xuất hiện và tồn tại hơn 800 năm cùng với những truyền thuyết về Tháp Nhạn đã phản ánh về quá trình
khai phá vùng đất Phú Yên của người Việt trong thế kỷ XVI, về sự giao thoa văn hóa, tinh thần đoàn kết giữa
hai dân tộc Việt - Chăm trong quá khứ và hiện tại.
Tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ 11 đầu thế kỷ 12, là nơi thờ phụng thần linh Chúa Thiên Yana, còn là công
trình kiến trúc tiêu biểu của người Chăm xưa. Tháp thể hiện nền văn minh phát triển rực rỡ ở khu vực Đông
Nam Á, là sự giao thoa của hai nền văn hóa lớn Ấn Độ và Đại Việt vào văn hóa kiến trúc Chămpa.

Tháp Nhạn là sự kết hợp hoàn hảo giữa kỹ thuật xây dựng và nghệ thuật điêu khắc. Mỗi một công trình kiến
trúc Chămpa đều gắn với điêu khắc. Ngoài chức năng thẩm mỹ, công trình còn thể hiện sinh động ước vọng về
cuộc sống tốt đẹp hướng thiện, vươn lên làm cho văn hóa Việt Nam thêm phong phú và đặc sắc

Danh lam thắng cảnh Gành Đá Đĩa, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 31 tháng 12 năm 2020, Quyết định số 2280/QĐ-TTg.

+ Lịch sử hình thành:

Khu ghềnh đặc biệt này được hình thành khi núi lửa tuôn trào dung nham xuống biển. Dòng dung nham nóng
gặp biển lạnh đông cứng lại, cùng với hiện tượng di ứng lực nên toàn bộ khối nham thạch bị rạn nứt đa chiều
tạo nên cảnh quan kỳ thú hôm nay.

+ Giá trị nổi bật:

Gành Đá Đĩa là một danh thắng thiên nhiên kỳ thú về cảnh quan và độc đáo về địa chất ở Việt Nam. Là một tập
hợp các trụ đá hình lăng trụ xếp liền nhau, hòn nọ nối hòn kia kề với sóng nước. Bãi đá trải rộng san sát nhau
chung màu đen huyền bí. Có trụ thẳng đứng, có trụ nghiêng vẹo nhưng vẫn chồng chất tầng tầng trông như
chồng bát dĩa nên có tên gọi là Gành Đá Đĩa. Nhìn từ xa, Gành đá trông giống một tổ ong thiên tạo khổng lồ vô
cùng kỳ vĩ.

Các cột đá badan của Gành Đá Đĩa được các nhà nghiên cứu cho là hình thành cách đây hàng triệu năm, khi
các dòng nham thạch nóng chảy phun ra từ các núi lửa ở cao nguyên Vân Hoà (cách 30km) gặp nước biển lạnh
nên đông cứng lại, đồng thời xảy ra hiện tượng ứng lực. Chính hiện tượng ứng lực này đã gây nên sự rạn nứt
toàn bộ khối nham thạch theo mạch dọc, xiên ngang thành những cột đá đứng liền khít nhau nửa chìm dưới
nước nửa nổi trên bờ và tạo nên một gành Đá Đĩa có một không hai của Việt Nam và là một trong số ít gành đá
có cấu tạo như vậy trên thế giới.

37. KHÁNH HÒA


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:
38. NINH THUẬN
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ Tháp Hòa Lai (huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận)

+ Tên gọi: Di tích tháp Hòa Lai hay còn có tên gọi là di tích Ba Tháp

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 22 tháng 12 năm 2016, Quyết định số 2499/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Tháp được xây dựng ở thế kỷ 9, trong giai đoạn phong cách Hoà Lai, hiện là một trong những cum tháp Chăm
cổ nhất hiện còn

+ Giá trị nổi bật:

Tại đây các nhà nghiên cứu đã tìm thấy nhiều hiện vật có giá trị, đặc biệt là tấm bia ký cổ gắn với tháp Hòa Lai
có giá trị lớn về lịch sử, văn hóa của Vương quốc Chămpa xưa.

Tháp Hòa Lai là cụm đền tháp có tuổi đời lâu nhất còn tồn tại đến ngày nay ở Ninh Thuận. Bên cạnh nét kiến
trúc văn hóa Ấn Độ, nghệ thuật Khmer và Java, cụm tháp Hòa Lai còn cho thấy một số giá trị riêng, đặc trưng
riêng đã được Chăm hóa từ các nền văn hóa nói trên để trở thành văn của người Chăm. Cụm tháp Hòa Lai có
vai trò quan trọng, làm nền tảng hình thành một số đặc điểm kiến trúc tháp Chăm giai đoạn sau Hòa Lai, ví dụ
như việc kế thừa bố cục và trang trí vòm cửa, cột ốp Hòa Lai…

Quá trình nghiên cứu tại đây, các nhà khoa học đã phát hiện một bộ Linga - Yoni gắn với tháp Hòa Lai. Đây là
bộ Linga – Yoni bằng đá liền khối thuộc loại cổ xưa, được chạm khắc chi tiết và sắc nét.

Đặc biệt, trong các đợt khai quật di tích vào các năm 2005, 2012 - 2013, 2016, đã phát hiện thêm 405 hiện vật
thuộc các loại hình tượng thờ, vật thờ, vật liệu kiến trúc có điêu khắc trang trí. Tại đây các nhà khoa học đã
phát hiện được bia ký gắn với tháp Hòa Lai mang giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa của Vương quốc Chămpa
xưa.

Di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Pô Klong Garai (thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:
+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Quyết định số 2499/QĐ-TTg ngày 22/12/2016

+ Lịch sử hình thành:

Tháp Poklong Garai nằm trên đồi Trầu, thuộc phường Đô Vinh, cách trung tâm thành phố Phan Rang – Tháp
Chàm 9 km về phía Tây Bắc, được xây dựng vào cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14 (thời vua Shihavaman, người Việt
gọi là Chế Mân) để thờ vua Po Klong Garai (1151-1205), vị vua đã có nhiều công lớn trong việc cai trị đất nước

+ Giá trị nổi bật:

Đây là di tích kiến trúc nghệ thuật hùng vĩ và đẹp nhất còn sót lại của nền văn minh Champa.

Sự dung hòa khéo léo phong cách nghệ thuật Chămpa và Khmer với những hình vòm, hình chóp nhọn hay các
chi tiết gốm, đá với đủ loại hình người, hình lá, hình đuôi rồng, hình bò thần… khiến cho công trình này trở nên
khác biệt với tất cả những quần thể tháp Chăm có trước và sau nó.

Các tháp Chăm ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ được làm từ vật liệu đặc biệt được gọi là gạch non. Gạch
này được làm hoàn toàn thủ công theo một công thức đặc biệt. Gạch có độ bền cao cùng với đó là khả năng
chống chọi với môi trường bên ngoài. Thật khó có thể tin được với trình độ xã hội lúc bấy giờ lại có thể sáng
tạo nên một vật liệu bền bỉ đến như vậy

Đặc biệt, việc sử dụng gạch xây tháp được làm hoàn toàn theo phương pháp cổ xưa của người Chăm, tức là
ghép chặt những viên gạch lại với nhau mà không có mạch vữa ở giữa. Ấy thế mà mà bao thế kỷ trôi qua với
bao biến cố, bao sóng gió mà ngọn tháp ấy vẫn đứng sừng sững, hiên ngang trên đỉnh đồi như một minh
chứng cho sự tài tình, khéo léo của người Chăm xưa.

39. BÌNH THUẬN


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:
40. KOM TUM
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:
+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1820/QĐ-TTg, đợt 9 (2018)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Di tích lịch sử Địa điểm Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh (huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: ngày 22/12/2016, Quyết định 2499/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Từ năm 1957 đến năm 1972, Mỹ-Nguỵ đã cho xây dựng tại Đăk Tô - Tân Cảnh một hệ thống phòng ngự kiên cố
nhất bao gồm căn cứ E42 ở Tân Cảnh và căn cứ Đăk Tô 2. Vì vậy, Đăk Tô - Tân Cảnh trở thành địa bàn diễn ra
nhiều trận chiến quyết liệt giữa ta và địch.

+ Giá trị nổi bật:

Đối với người dân Kon Tum, đây là khu di tích lịch sử có ý nghĩa rất lớn thể hiện tinh thần dân tộc và đoàn kết.
Không những thế, Khu di tích chiến thắng Đắk Tô còn là chiến trường ác liệt của Tây Nguyên. Theo sử sách ghi
lại, thời điểm tháng 4 năm 1972, khu di tích lịch sử này là căn cứ quân sự mạnh nhất của Mỹ và quân Ngụy Sài
Gòn ở khu vực các tỉnh thành Bắc Tây Nguyên.

Chiến thắng Đăk Tô - Tân Cảnh đã làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của Mỹ - Ngụy ở Tây Nguyên,
mở rộng vùng giải phóng và cùng với chiến thắng Quảng Trị, miền Đông Nam Bộ tạo ra một cục diện mới trên
chiến trường miền Nam, góp phần đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, “Học thuyết Nich Xơn” ở
Đông Dương, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari rút quân khỏi Việt Nam.

Di tích lịch sử Điểm cao 1015 và Điểm cao 1049, huyện Sa Thầy và huyện Đắk Tô, tỉnh Kon Tum

(bổ sung vào di tích quốc gia đặc biệt Địa điểm Chiến thắng Đắk Tô - Tân Cảnh xếp hạng tại Quyết định số
2499/QĐ-TTg ngày 22 tháng 12 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ.)

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:
+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 93/QĐ-TTg, đợt 12 (2022)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Điểm cao 1015 và 1049 là những mắt xích trọng yếu của tuyến phòng thủ bảo vệ thị xã Kon Tum và các căn cứ
Đăk Tô - Tân Cảnh, Plei Kần và Plei Kleng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Tại đây đã diễn ra các trận đánh vô cùng khốc liệt giữa ta và địch, đặc biệt là trận đánh then chốt mở màn cho
Chiến dịch Xuân - Hè năm 1972 trên chiến trường Tây Nguyên của Đại đoàn Đồng Bằng - Sư đoàn 320. Chiến
thắng trong các trận đánh này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, phá vỡ tuyến phòng thủ phía Tây sông Pô Kô của
địch, đánh bại âm mưu ngăn chặn của chúng, tạo thế phát triển cho toàn Chiến dịch tiến đến giải phóng căn
cứ E42 (Đăk Tô - Tân Cảnh) ngày 24/4/1972.

41. GIA LAI


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2383/QĐ-TTg, năm 2013

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Di tích lịch sử Quần thể di tích Tây Sơn Thượng Đạo, thị xã An Khê, huyện Đak Pơ, huyện Kbang và huyện
Kông Chro, tỉnh Gia Lai.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ


+ Số QĐ: Quyết định số 93/QĐ-TTg ngày 18/01/2022

+ Lịch sử hình thành:

Tây Sơn thượng đạo là vùng đất khởi nghiệp, căn cứ kêu gọi nông dân dấy binh khởi nghĩa chống lại Chúa
Nguyễn ở Đàng Trong của 3 anh em Nguyễn Huệ (Vua Quang Trung) - Nguyễn Nhạc – Nguyễn Lữ vào năm
1771.

+ Giá trị nổi bật:

Khu di tích Tây Sơn thượng đạo là tập hợp quần thể kiến trúc cổ xưa nằm trên đèo An Khê (Gia Lai). Nơi đây
gắn liền với lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam và hiện vẫn còn lưu giữ rất nhiều công trình kiến trúc cũng
như cổ vật quý cuối thế kỷ 18 từ thời Tây Sơn.

Quần thể Di tích Tây Sơn Thượng đạo gắn liền với Cuộc khởi nghĩa Nông dân Tây Sơn vào thế kỷ XVIII do 3 anh
em nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc-Nguyễn Huệ-Nguyễn Lữ lãnh đạo. Tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, Nhà Tây
Sơn đã có nhiều chiến công hiển hách vang danh trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, trong đó
có cuộc chiến chấm dứt sự chia cắt đất nước ngót 200 năm thời Trịnh- Nguyễn phân tranh và mở rộng lãnh
thổ đất nước. Hiển hách bậc nhất là chiến công đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược-mùa Xuân Kỷ Dậu 1789,
thu giang sơn về một mối.

Di tích khảo cổ Rộc Tưng - Gò Đá (thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1649/QĐ-TTg, đợt 13 (2022)

+ Lịch sử hình thành:

Di tích Gò Đá được các nhà khảo cổ học lần đầu tiên phát hiện năm 2014 khi triển khai đề tài “Lịch sử Gia Lai
từ nguồn gốc đến nay” do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Gia Lai chủ trì.

+ Giá trị nổi bật:

Song song với quá trình khai quật Gò Đá, các nhà khảo cổ học tiến hành điều tra, đào thám sát di tích Rộc
Tưng 1 vào tháng 11/2015, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy 12 điểm có dấu tích văn hóa của người nguyên
thủy ở Rộc Tưng.

Kết quả khai quật các di tích Gò Đá–Rộc Tưng đã thu được hàng trăm mảnh tectit và hàng ngàn di vật đá. Đặc
biệt là 4 rìu tay thu được trong quá trình điều tra, khảo sát.
Theo phân tích bằng phương pháp K/Ar, kết quả cho thấy niên đại ở di tích Gò Đá là khoảng 806.000 năm và
Rộc Tưng I là khoảng 782.000 năm trước.

Phát hiện kỹ nghệ Đá cũ An Khê đã làm thay đổi nhận thức về lịch sử vùng đất và đời sống của tổ tiên chúng
ta, lâu nay cho rằng, người sơ kỳ Đá cũ chỉ chế tác công cụ đá khi nào cực kỳ cần thiết, và công cụ họ làm ra
đều mang tính vạn năng.

Giá trị của di tích khảo cổ Rộc Tưng-Gò Đá ở chỗ, những bí ẩn sâu thẳm trong lòng đất cuối cùng dần lộ diện
qua những cuộc khai quật, hé mở một cách chân thực, sinh động về cuộc sống của tổ tiên chúng ta. Cái quý
giá của di tích là tất cả di vật đều được tìm thấy trong địa tầng văn hóa gần như nguyên vẹn, chứ không chỉ
là di vật đơn lẻ tìm thấy trên mặt đất.

Tháng 11/ 2016, Hội thảo khoa học quốc tế lần thứ nhất về kỹ nghệ sơ kỳ Đá cũ An Khê được tổ chức. Tại hội
thảo, các nhà khoa học khẳng định việc phát hiện các di tích khảo cổ học thuộc giai đoạn sơ kỳ Đá cũ ở An Khê
có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu giai đoạn bình minh lịch sử của nhân loại.

42. ĐĂK LẮK


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2383/QĐ-TTg, 2013

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Di tích lịch sử Nhà đày Buôn Ma Thuột, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1820/QĐ-TTg, đợt 9 (2018)


+ Lịch sử hình thành:

Nhà đày Buôn Ma Thuột do thực dân Pháp thiết lập trong thời kỳ 1930 - 1931 để đày biệt xứ và giam giữ
những người yêu nước, những đảng viên cộng sản bị bắt, bị xử án nặng ở các tỉnh Trung Kỳ, những người đi
đầu trong các cuộc đấu tranh phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.

+ Giá trị nổi bật:

Nhà đày Buôn Ma Thuột là một di tích lịch sử quan trọng ghi dấu tội ác của thực dân, đế quốc trên đất nước
Việt Nam và cũng là “trường học cách mạng” của những người cộng sản, nhà yêu nước.

Đúng như tên gọi “nhà đày”, các tù nhân - nhất là tù chính trị, bị giam giữ trong điều kiện chật chội, mất vệ
sinh, ăn uống thiếu thốn, kham khổ. Tuy nhiên, sự áp bức tàn bạo của thực dân - đế quốc không thể khuất
phục được ý chí của những người cộng sản. Họ đã biến nhà tù thành “trường học cách mạng”, nơi truyền bá
cho các tù nhân khác những tư tưởng tiến bộ, tinh thần yêu nước cùng quyết tâm tìm ra con đường giải phóng
dân tộc.

Vào khoảng cuối năm 1940, một số tù nhân cũ và mới liên hệ với nhau lập một tổ chức bí mật gọi là “Lực
lượng trung kiên” của Nhà đày. Tuy không gọi là Chi bộ Đảng, nhưng lực lượng này trên thực tế đã đóng vai
trò một Chi bộ cộng sản.

Việc hình thành Chi bộ Đảng trong Nhà đày Buôn Ma Thuột là một mốc son lịch sử vô cùng quan trọng của
Đảng bộ Đắk Lắk nhằm chuẩn bị mọi mặt để lãnh đạo đồng bào các dân tộc trong tỉnh đoàn kết đứng lên làm
cuộc cách mạng tháng Tám (24/8/1945) thành công ở Đắk Lắk.

43. ĐẮK NÔNG


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2383/QĐ-TTg, 2013

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

44. LÂM ĐỒNG


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích khảo cổ Cát Tiên (huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 31 tháng 12 năm 2014, Quyết định số 2408/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Khu di tích khảo cổ Cát Tiên là một phát hiện lớn của ngành khảo cổ Việt Nam cuối thế kỷ XX, có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong việc nghiên cứu các nền văn hóa cổ ở Nam Bộ và Tây Nguyên. Tư liệu khai quật khảo cổ
cho thấy văn hóa Cát Tiên có quá trình lịch sử phát triển khá dài: giai đoạn sớm khoảng thế kỷ IV đến VI và giai
đoạn muộn từ thế kỷ VII đến X sau Công nguyên.

+ Giá trị nổi bật:

Di tích khảo cổ Cát Tiên được biết đến là một thánh địa Balamon giáo, nơi lưu giữ những bằng chứng của một
nền văn hóa đặc sắc cách nay hơn 1000 năm. Đây là một quần thể các phế tích kiến trúc bằng gạch có quy mô
rộng lớn, trải dài khoảng 15km từ xã Quảng Ngãi đến xã Đức Phổ và Gia Viễn, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng

Đây là thánh địa ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ giáo – Quá trình phát triển gần gũi với văn hóa Chămpa ở Nam
Trung Bộ và văn hóa Óc Eo – hậu Óc Eo ở đồng bằng Nam Bộ. Các yếu tố văn hóa vật chất, như: Gạch, ngói và
các loại đồ gốm (bình, vỏ, vòi Kendi…) có ảnh hưỏng văn hóa Chân Lạp. Các yếu tố văn hóa tinh thần, như:
ngẫu tượng Linga – Yoni, hỉnh ảnh các vị thần, các linh vật… có hơi hướng văn hóa Chămpa. Sinh thời, giáo sư
Trần Quốc Vượng nhận định: “Di tích này có tính “đứng giữa” và “nó là chính nó”.

Trải qua hơn 3 thập niên phát hiện và nghiên cứu, các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra những bằng chứng xác
đáng về chủ nhân của thánh địa. Điều đó làm cho Khu di tích khảo cổ Cát Tiên thêm phần bí ẩn và hấp dẫn giới
nghiên cứu cũng như du khách.

45. ĐỒNG NAI


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích khảo cổ Mộ Cự thạch Hàng Gòn (thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai).
+ Tên gọi: Mộ cự thạch Hàng Gòn (còn được gọi là Di chỉ Hàng Gòn 7, Mộ Đông Dương, Mả Ông Đá)

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2367/QĐ-TTg, đợt 6 2015

+ Lịch sử hình thành:

Mộ cự thạch Hàng Gòn là một ngôi mộ cổ được phát hiện bởi một kỹ sư người Pháp tên là Jean Bouchot khám
phá vào năm 1927 (trong khi đào ủi mặt bằng để thi công tuyến giao thông Long Khánh đi Bà Rịa - Vũng Tàu.)
Mộ thuộc loại hình mộ táng Dolmen độc đáo trong hệ thống di chỉ khảo cổ học ở Việt Nam. Niên đại của di
tích được xác định trong khoảng thời gian 150 năm trước Công nguyên đến 240 năm sau Công nguyên, đại
diện cho nền văn minh sông Đồng Nai.

+ Giá trị nổi bật:

Mộ cự thạch Hàng Gòn là một di tích độc đáo cả về nghệ thuật và kỹ thuật của các tộc người cổ Nam Á nói
chung và người Việt cổ nói riêng.

Nhiều người cho rằng, đây là một ngôi mộ chôn dưới hình thức hỏa thiêu được xây dựng vào thời kỳ kim khí
thuộc giai đoạn đồng phát triển (hậu kỳ thời đại đồ đồng) có khả năng chuyển sang thời kỳ đồ sắt; đồng thời
khẳng định công trình này không chỉ có giá trị về kích thước (được xem là ngôi mộ đá lớn nhất Đông Nam Á đã
phát hiện vào thời điểm hiện nay) mà còn chứa đựng giá trị lớn về trí sáng tạo của người tiền sử được ví như "
nền văn minh sông Đồng Nai".

Trong xưởng chế tác đá đã tìm thấy trước đó, đoàn khảo sát cũng đã tìm thấy những tấm đá, cột đá, nhiều
phế vật mảnh tước đá và nhiều công cụ lao động. Qua đó cho thấy người xưa đã vận chuyển những khối đá
lớn về Hàng Gòn để gia công tạo ra những tấm đan, cột đá sử dụng cho kiến trúc mộ.

(Qua so sánh phân tích, các nhà nghiên cứu đã đưa ra phán đoán cho rằng, chủ nhân của Mộ Cự thạch là một
nhân vật quyền uy, là thủ lĩnh của một bộ lạc hay liên minh các bộ lạc hùng mạnh về kinh tế và quân sự; niên
đại của di tích được xác định trong khoảng thời gian 150 trước Công nguyên đến 240 năm sau Công nguyên.)

Các nhà khảo cổ cho rằng, để xây dựng công trình trên, người Việt cổ phải huy động sức lao động của cả cộng
đồng, tổ chức lao động một cách rất chặt chẽ. Đây là một công trình giống như "thạch tự tháp" của miền văn
hóa sông Đồng Nai.

46. BÌNH DƯƠNG


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:
47. BÌNH PHƯỚC
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Danh lam thắng cảnh Vườn quốc gia Cát Tiên (tỉnh Đồng Nai, tỉnh Lâm Đồng, tỉnh Bình Phước).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Ngày 27/9/2012, 1419/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Di tích Vườn Quốc gia Cát Tiên là một khu bảo tồn thiên nhiên được thành lập vào tháng 02/1998. Hiện nay,
Vườn có diện tích khu vực trung tâm là 71.920 ha, tọa lạc trên địa bàn của 3 tỉnh, trong đó: 39.627ha thuộc địa
phận tỉnh Đồng Nai, 27.850ha thuộc địa phận tỉnh Lâm Đồng và 4.443ha thuộc địa phận tỉnh Bình Phước.

+ Giá trị nổi bật:

Vườn quốc gia Cát Tiên là công trình khảo cổ có giá trị văn hóa, lịch sử và tín ngưỡng lớn để có thể xác định
được sự tồn tại, nguồn gốc của một vương quốc đã bị lãng quên hơn 1.300 năm. Vườn quốc gia Cát Tiên là
một khu rừng chứa đựng nguồn tài nguyên đa dạng sinh học quý báu không riêng của Việt Nam. Điểu đó đã
được khẳng định thông qua danh hiệu Khu Dự trữ sinh quyển thế giới mà tổ chức UNESCO công nhận vào năm
2001.

Những dấu tích về địa chất, địa mạo đã minh chứng Vườn Quốc gia Cát Tiên có quá trình biến đổi từ hàng
triệu năm trước. Vườn có hệ sinh thái đa dạng, bao gồm: Rừng thường xanh ẩm, đồng cỏ và đất ngập nước.
Vườn có nhiều địa điểm cảnh quan đẹp như thác Trời, thác Bến Cự, thác Dựng,… Một trong số những hệ sinh
thái nổi bật ở đây là hệ thống sông và các bàu. Vườn Quốc gia Cát Tiên có hệ động, thực vật đa dạng, phong
phú về thành phần loài với 1.610 loài thực vật và 1.529 loài động vật, có nhiều loài quý hiếm có ý nghĩa bảo
tồn nguồn gen trên toàn thế giới. Trong đó, 31 loài thực vật và 84 loài động vật có tên trong Sách Đỏ Việt
Nam, 50 loài chim được ưu tiên bảo vệ ở mức độ toàn cầu và được ghi vào Sách Đỏ IUCN năm 2008.

Trong khu vực Vườn Quốc gia Cát Tiên và vùng phụ cận đã phát hiện được nhiều di chỉ, di tích khảo cổ. Từ kết
quả nghiên cứu khảo cổ học, bước đầu có thể khẳng định trong khu vực này đã tồn tại một nền văn hóa hưng
thịnh từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VII sau công nguyên.Trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, nơi đây cũng
từng là căn cứ địa, chiến khu đóng vai trò rất quan trọng.

Di tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh

+ Tên gọi:
+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 1820/QĐ-TTg, đợt 9 (2018)

+ Lịch sử hình thành:

Xuất phát từ yêu cầu tăng viện cho miền Nam đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, ngày
19/5/1959, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở tuyến vận tải
chi viện chiến lược Trường Sơn-đường Hồ Chi Minh. Đây là một quyết định lịch sử, thể hiện quyết tâm và ý chỉ
sắt đá của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta “Xẻ dọc Truờng Sơn đi cứu nước”, “Tất cả để đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược”.

+ Giá trị nổi bật:

Hệ thống đường Trường Sơn (bao gồm cả tuyến xăng dầu vươt Trường Sơn) là tuyến hậu cần chiến lược vững
chắc, một trong những nhân tố quyết định thắng lợi nhiệm vụ chi viện của hậu phương chiến lược miền Bắc
cho các chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng cho trận chiến quyết định, giải phóng Sài Gòn, thống
nhất đất nước.

Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, đường Trường Sơn là tuyến giao thông quân sự chính chi viện sức người, vũ
khí, lương thực, của cải…cho chiến trường, góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng miền Nam.

Đường Trường Sơn là biểu tượng cho ý chí quyết thắng của dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ.

Suốt 16 năm xây dựng và phát triển (1959-1975), hệ thống giao thông huyết mạch Trường Sơn không chỉ giữ
vai trò là tuyến vận tải quân sự, hậu cần chiến lược, mà còn là một chiến trường tổng hợp, một mặt trận chiến
đấu quyết liệt giữa ta và địch; nơi hội tụ sức mạnh, niềm tin và ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất vì độc
lập, tự do, hòa bình, thống nhất Tổ quốc; đồng thời là biểu hiện sinh động của mối quan hệ đoàn kết chiến đấu
giữa nhân dân ba nước Việt Nam - Lào – Campuchia.

Di tích lịch sử Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam (huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước).

+ Tên gọi: Căn cứ Tà Thiết

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Ngày 23/12/2015, 2367/QĐ-TTg, đợt 6 (2015)

+ Lịch sử hình thành:


Tiền thân nơi đây là sở Chỉ huy tiền phương của chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972. Ngày 7/4/1972, Lộc Ninh là
huyện đầu tiên của miền Nam được giải phóng, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền quyết định dời căn cứ
Quân ủy Miền từ Sóc Con Trăng (Tây Ninh) về đóng tại Tà Thiết.

Đầu tháng 3/1973, căn cứ Tà Thiết bắt đầu được xây dựng và được xác định đây là căn cứ cuối cùng của cách
mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

+ Giá trị nổi bật:

Căn cứ Tà Thiết không chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ và phát triển các hoạt động của Bộ Chỉ huy Miền, một căn cứ
dự trữ hậu cần chiến lược, mà còn là căn cứ cơ bản của Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn, góp phần
quan trọng làm nên thắng lợi vẻ vang của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước.

(Ngày 20/7/1974, tại Hội nghị quân chính Miền ở căn cứ Tà Thiết, đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục
miền Nam thay mặt Trung ương Đảng tuyên bố Quyết định thành lập quân đoàn 4. Đây là sự kiện quan trọng
làm nức lòng cán bộ, chiến sĩ vì nó đánh dấu bước trưởng thành mới của chủ lực Miền.)

Căn cứ Tà Thiết mang những sự kiện lịch sử đặc biệt: Thứ nhất, đây là nơi từng diễn ra các cuộc hội họp và tiếp
các phái đoàn cao cấp của Bộ Chính trị, Bộ trưởng tham mưu - Trung ương Cục miền Nam. Thứ hai, đặc biệt
hơn, cũng tại hội trường này, ngày 8/4/1975, đồng chí Lê Đức Thọ thay mặt Bộ Chính trị phổ biến Nghị quyết 7
của Trung ương Đảng về việc thành lập Bộ chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Thứ ba, để có một
tên gọi xứng tầm với một chiến dịch lớn nhất và có ý nghĩa nhất kết thúc cuộc chiến tranh trường kỳ 21 năm
chống Mỹ, Bộ Chỉ huy chiến dịch đề nghị Trung ương đặt tên cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Đáp ứng
nguyện vọng đó, Bộ Chính trị đồng ý đổi tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định thành chiến dịch mang
tên Bác - chiến dịch Hồ Chí Minh, bằng bức điện 37 TK do Tổng Bí thư Lê Duẩn ký. Bức điện lịch sử đó đã được
phổ biến cũng tại Hội trường này.

48. TÂY NINH


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử Căn cứ Trung ương Cục miền Nam (huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 10 tháng 5 năm 2012, Quyết định Số 548/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:


Căn cứ Trung ương Cục miền Nam là cơ quan cao nhất, có nhiệm vụ chỉ đạo và lãnh đạo trực tiếp cách mạng
miền Nam đặt tại Nam Bộ; được thành lập vào tháng 3-1951, là một bộ phận của Trung ương Đảng, được
Trung ương ủy nhiệm chỉ đạo toàn bộ công tác của Đảng ở miền Nam, lãnh đạo quân dân miền Nam tiến hành
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

+ Giá trị nổi bật:

Nơi đây đã được Trung ương Đảng chọn làm căn cứ cho một số cơ quan đầu não của cách mạng miền Nam
nước ta trong những năm tháng diễn ra cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước.

Trong 15 năm (1961-1975), tại đây đã cụ thể hóa được nhiều chủ trương, quyết sách của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh vào thực tiễn cách mạng miền Nam; từ đó cho ra đời nhiều chỉ thị, nghị quyết, quyết định đường lối
chiến lược của cách mạng miền Nam và triển khai thành công trong phạm vi toàn chiến trường miền Nam.

Căn cứ Trung ương Cục miền Nam trở thành Thủ đô của cách mạng miền Nam, là nơi lưu lại những chứng tích,
những kỷ niệm về cuộc đời hoạt động cách mạng hết sức gian khổ, hy sinh, nhưng rất đỗi tự hào của nhiều
đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng cùng bao cán bộ, chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
thần thánh của dân tộc trên địa bàn miền Nam, đặc biệt là chiến trường Nam Bộ.

49. TPHCM
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử Dinh Độc lập - Nơi ghi dấu thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước (quận I, Thành phố Hồ Chí Minh).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Quyết định số 1272/QĐ-TTg , ngày 12 tháng 8 năm 2009.

+ Lịch sử hình thành:

Dinh Thống Nhất đã được xây dựng lần đầu vào thời Pháp thuộc, năm 1868, do Thống đốc Nam Kỳ
Lagrandière làm lễ khởi công. Nhưng vào năm 1962, phần chính cánh trái và cổng Dinh đã bị bom sập hoàn
toàn. Sau đó, Ngô Đình Diệm đã quyết định san bằng và cho xây dựng lại dinh thự ngay trên nền đất cũ. Công
trình vẫn được bảo tồn rất tốt cho đến ngày nay.

+ Giá trị nổi bật:


Xét về mặt lịch sử, Dinh Độc Lập không chỉ là chứng nhân lịch sử quan trọng mà còn biểu tượng cho sự toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước. Bởi lẽ, đây chính là nơi lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt
Nam được kéo lên, đánh dấu chiến thắng của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam – thống nhất đất nước.

Dinh Độc Lập còn là một công trình văn hóa đặc sắc thể hiện qua lối kiến trúc và cách bài trí, nội thất bên trong
Khi thiết kế dinh thự, kiến trúc sư Ngô Viết Thụ mong muốn tạo ra một công trình có ý nghĩa văn hóa. Bởi vậy,
từ nội thất, tiền điện cho đến cảnh quan bên ngoài đều mang đậm nét văn hóa phương Đông, pha lẫn với
phong cách thiết kế hiện đại. Cụ thể, kiến trúc của công trình được mô phỏng theo các từ ngữ Hán Việt mang ý
nghĩa tốt đẹp như chữ CÁT (nghĩa là tốt lành) chính là hình dáng của toàn thể dinh thự hay phần mái hiên có
những nét gạch ngang tạo thành hình chữ TAM, chỉ con người hội tụ đủ 3 yếu tố Nhân, Minh, Võ.

Như vậy, nếu như giá trị lịch sử của Dinh Độc Lập gắn liền với các sự kiện chính trị, quân sự quan trọng của Sài
Gòn và của đất nước, thì giá trị văn hóa của Dinh lại được thể hiện thông qua kiến trúc, điêu khắc và cách bài
trí, thiết kế nội dung trong Dinh.

Di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi (huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2367/QĐ-TTg, đợt 6 (2015)

+ Lịch sử hình thành:

Địa đạo Củ Chi thuộc huyện Củ Chi, hình thành từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (khoảng năm
1948). Hệ thống này được quân kháng chiến Việt Minh và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
đào trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam. Từ năm 1961, khi Khu ủy, Bộ Chỉ huy
Quân khu Sài Gòn - Gia Định chọn Củ Chi làm căn cứ, thì hệ thống địa đạo càng phát triển.

+ Giá trị nổi bật:

Địa đạo Củ Chi là căn cứ địa cách mạng điển hình có giá trị vô cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, nhất là trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ từ năm 1965 đến năm 1975. Là nơi các đồng chí lãnh đạo
sống và làm việc, chỉ đạo công cuộc đánh Mỹ của nhân dân. Là quần thể giao thông hào chạy ngầm dưới mặt
đất dài trên hàng trăm kilomet tạo thành một pháo đài kiên cố.

Phân tích các giá trị của địa đạo Củ Chi theo hệ thống tiêu chí văn hóa thế giới cho thấy chúng có khả năng đáp
ứng được một số tiêu chí sau đây:

Tiêu chí 1, hệ thống địa đạo Củ Chi là một minh chứng hùng hồn cho sức lao động sáng tạo độc đáo của con
người nơi đây.
Tiêu chí 4, Địa đạo Củ Chi là minh chứng hùng hồn cho thể loại công trình khoa học quân sự được tổ chức
như một làng chiến đấu ngầm dưới mặt đất.

Tiêu chí 5, Địa đạo Củ Chi là một ví dụ tuyệt vời về một không gian sống mặc dù chỉ là bất đắc dĩ của một
quần cư đại diện cho một dân tộc bất khuất, không cam chịu làm nô lệ.

Với tầm vóc, giá trị lịch sử về quân sự, thể hiện ý chí kiên cường, bất khuất của con người vùng “đất thép”, địa
đạo Củ Chi là “địa chỉ đỏ” để giáo dục quốc phòng và an ninh cho các đối tượng.

Địa đạo Củ Chi như một pháo đài trong lòng đất, một kỳ quan về nghệ thuật quân sự độc đáo của Việt Nam,
thể hiện ý chí kiên cường, bất khuất của con người vùng “đất thép”, trở thành một địa danh nổi tiếng trên thế
giới, địa chỉ đỏ để giáo dục quốc phòng và an ninh cho nhân dân và lực lượng vũ trang.

50. BÀ RỊA – VŨNG TÀU


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử Nhà tù Côn Đảo (huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: 10/5/2012, Quyết định số 548/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Nhà tù Côn Đảo thuộc Huyện Côn Đảo tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, thành lập ngày 1/2/1862 bởi Thống đốc Nam kỳ
Bonard, bao gồm hệ thống nhà tù và các nghĩa trang.

+ Giá trị nổi bật:

Nhà tù Côn Đảo là một di tích đặc biệt, là nơi tập trung nhiều nhất hệ thống nhà tù khét tiếng của Pháp và Mỹ,
phơi bày chế độ cưỡng bức, tàn sát, hành hạ, giam cầm các chiến sỹ cách mạng, tù nhân lao động khổ sai.

Nhà tù Côn Đảo là di tích lịch sử, chứng tích cho tội ác tra tấn tàn bạo, dã man của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ
và tay sai với các tù nhân chính trị. Các màn tra tấn chuồng cọp, xay lúa, đập đá, cùm xích tập thể, đánh đập
tàn bạo được ví như “địa ngục trần gian”. Nơi đây là minh chứng cho tinh thần kiên cường, ý chí trung thành
với Tổ quốc và lý tưởng của các chiến sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày.
Nhà tù Côn Đảo còn là “trường học cộng sản” hun đúc phẩm chất, ý chí của người đảng viên Cộng sản trên
tuyến đầu, đồng thời là nơi phát huy truyền thống đấu tranh anh dũng và tinh thần yêu nước. Những hoạt
động cách mạng bất khuất của các bậc tiền bối dành cho hôm nay và thế hệ trẻ mai sau.

51. LONG AN
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:
52. TIỀN GIANG
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 162
Cấp quốc gia: 22
Cấp quốc gia đặc biệt: 2

Di tích lịch sử Địa điểm Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút (huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014

+ Lịch sử hình thành:

Năm 2001, khu di tích được khởi công xây dựng và khánh thành vào ngày 20-1-2005, nhân Kỷ niệm 220 năm
Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút.

+ Giá trị nổi bật:

Khu di tích lịch sử Rạch Gầm Xoài Mút gắn liền với lịch sử chiến thắng của quân Tây Sơn vị tướng Nguyễn Huệ
và trận đánh vang dội trên đoạn sông Rạch Gầm Xoài Mút với quân Xiêm La vào ngày 20 tháng 1 năm 1785.
Đây là một chiến công chống ngoại xâm lừng lẫy của nhân dân miền Nam và được coi là lớn nhất trong 5 thế
kỷ, kể từ chiến thắng Bạch Đằng ở thế kỷ thứ XIII.

Bằng chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, quân Tây Sơn đã giành được thắng lợi, quét sạch quân địch ra khỏi đất
Gia Định, thu hồi những vùng đất bị chiếm đóng. Cuộc kháng chiến chống Xiêm thắng lợi mà quyết định là trận
Rạch Gầm - Xoài Mút đã đưa phong trào Tây Sơn phát triển mạnh hơn. Từ đó, phong trào Tây Sơn làm chủ
toàn bộ đất Đàng trong và có điều kiện tiến ra Đàng ngoài lật đổ nền thống trị của tập đoàn phong kiến vua Lê
chúa Trịnh.

Trận quyết chiến chiến lược Rạch Gầm - Xoài Mút không chỉ là một chiến công vĩ đại của phong trào Tây Sơn
mà còn phản ánh quá trình chuyển hóa về chất của phong trào; đồng thời là cơ sở tạo sinh khí cho cuộc hành
quân thần tốc trong mùa Xuân năm Kỷ Dậu (1789) đại phá quân Mãn Thanh, với trận chiến Ngọc Hồi - Đống Đa
lịch sử. Việc hình thành khu di tích chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút thể hiện tầm vóc lớn lao của chiến thắng
này, đồng thời là sự tri ân, ghi nhớ của các thế hệ người Việt đối với các bậc tiền nhân.

Di tích lịch sử Địa điểm Chiến thắng Ấp Bắc (thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Quyết định số 1649/QĐ-TTg, đợt 13 (2022)

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Di tích Chiến thắng Ấp Bắc là di tích hàm chứa những giá trị lịch sử sâu sắc, là nơi ghi nhận, tái hiện và minh
chứng cho sự kiện lịch sử cách mạng tiêu biểu, chiến công oanh liệt của quân và dân miền Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Đây là nơi diễn ra trận đánh lớn nhất miền Nam kể từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ vào ngày 2-1-1963, báo hiệu sự
sụp đổ của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" mà Mỹ áp dụng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Tại đây, quân và dân Ấp Bắc đã đánh bại chiến thuật “Trực thăng vận” và “Thiết xa vận” mà Mỹ - ngụy tự hào
sẽ “nuốt tươi” Cộng sản.

Chiến thắng Ấp Bắc là một điển hình, có ý nghĩa lịch sử quan trọng không chỉ đối với nhân dân tỉnh Tiền Giang,
mà còn có ý nghĩa đối với toàn miền Nam. Thắng lợi này không những chứng tỏ quân và dân ta ở miền Nam
hoàn toàn có khả năng đánh thắng Mỹ về quân sự trong “Chiến tranh đặc biệt”, mà còn tạo ra nhiều tiếng
vang trên thế giới, nâng cao danh thế của phong trào cách mạng miền Nam Việt Nam. Qua đó để lại nhiều giá
trị lịch sử, văn hóa cho thế hệ mai sau.

53. BẾN TRE


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 50
Cấp quốc gia: 16
Cấp quốc gia đặc biệt: 2

Di tích lịch sử Mộ và Khu lưu niệm Nguyễn Đình Chiểu (huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:
+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 22 tháng 12 năm 2016, Quyết định số 2499/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Khu lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu ban đầu thuộc làng An Bình Đông.

Giai đoạn đầu, mộ của Nguyễn Đình Chiểu và bà Lê Thị Điền chỉ là mộ đất. Năm 1958, chính quyền Việt Nam
Cộng hòa sửa sang lại mộ của hai ông bà bằng xi măng. Một năm sau, mộ của nữ sĩ Sương Nguyệt Anh cũng
được cải táng từ làng Mỹ Nhơn về đây.[9] Năm 1972, chính quyền cho xây dựng đền thờ Nguyễn Đình Chiểu
trong khu lăng mộ. Từ năm 2000 đến năm 2002, khu di tích được mở rộng, xây dựng thêm các công trình đền
thờ mới và nhà bia.

+ Giá trị nổi bật:

Đây là một quần thế kiến trúc bề thế tọa lạc trong khuôn viên có diện tích hơn 1,5ha, được trùng tu vào năm
2000, gồm cả khu lăng mộ cũ được xây dựng vào năm 1972.Công trình bao gồm: cổng tam quan, nhà bia, đền
thờ mới, đền thờ cũ và khu mộ.

Cổng tam quan khu lăng mộ mang phong cách kiến trúc truyền thống của các đình chùa Việt Nam với hai mái
chồng, hình thuyền, lợp ngói âm dương màu đỏ gạch giả cổ, trên nóc và những bao lam, xiên, xà có đắp hoa
văn, phù điêu ước lệ với nét dựng chân phương. Cột trụ tam quan to, vững chãi, sơn màu đỏ son.

Nhà bia được xây dựng kiên cố cách đây không lâu với kiến trúc truyền thống, cao 12m, hai tầng mái. Tường
ngoài trang trí hoa văn hoa lá cách điệu, tường trong đắp nổi tứ linh. Đỉnh mái đắp nổi biểu tượng bút lông.
Giữa lòng nhà là tấm bia bằng đá. Mặt trước bia là bài văn ca ngợi công đức của Nguyễn Đình Chiểu và mặt
sau tóm tắt tiểu sử của ông.

Đền thờ mới được xây dựng năm 2000 – 2002 theo mẫu kiến trúc trùng thiềm điệp ốc. Đền có chiều cao 21m,
chất liệu bê – tông cốt thép nhưng mái là ngói âm dương và trang trí trên tường hoàn toàn là hoa văn truyền
thống với những điểm nhấn thể hiện sự thanh cao, trong sáng của nhà thơ yêu nước. Đền thờ có hai tầng.
Tầng dưới là nơi trưng bày hình ảnh các vị lãnh đạo, đoàn khách quốc tế, nhân dân cả nước đến viếng và thắp
hương. Tầng trên là chân dung nhà thơ, được đúc bằng đồng.

Hai bên tượng thờ là hai mảng phù điêu, miêu tả hình ảnh Nguyễn Đình Chiểu đọc bài văn tế Lục tỉnh sĩ dân
trận vong tại chợ Đập (Ba Tri) năm 1883 và hình ảnh trận đánh đầu tiên của người giáo làng Phan Ngọc Tòng
lãnh đạo nghĩa quân với vũ khí thô sơ chiến đấu với Pháp ở Giồng Gạch (An Hiệp) khi chúng hành quân lấn
chiếm vùng đất Ba Tri vào đêm 17-11-1868.

Đền thờ cũ được xây dựng năm 1972 với kiến trúc hai tầng mái, lợp ngói âm dương, với tổng diện tích 84m2.
Bờ nóc đền thờ trang trí hoa văn rồng, mây cách điệu. Bên trong là ban thờ. Hai cột chính đắp nổi hai câu thơ
như ở đền mới, trong tác phẩm Dương Tử – Hà Mậu. Ngoài ra là những hình ảnh, tư liệu về các thủ lĩnh, nghĩa
quân và một số phong trào chống Pháp của nhân dân Nam Kỳ cuối thế kỷ 19. Bên trái nhà tưởng niệm là phần
mộ của cụ Đồ với phu nhân.

- Giá trị lịch sử:

Nguyễn Đình Chiểu sinh ngày 1/7/1822, tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định) nay thuộc phường
Cầu Kho, quận 1, TP.HCM. Ông thi đỗ tú tài năm 1843. Đến năm 1849 đang ở Huế chờ khoa thi Hội, được tin
mẹ mất ông về chịu tang. Vì khóc thương mẹ nên 2 mắt bị mù. Sau đó ông mở trường dạy học, làm thuốc và
sáng tác thơ văn.

Năm 1859 khi giặc Pháp chiếm thành Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu về quê vợ ở Cần Giuộc, tỉnh Long An. Tại
đây Nguyễn Đình Chiểu viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc nổi tiếng, thống thiết ca ngợi tinh thần anh dũng hy
sinh vì Tổ quốc của những người nông dân bình thường.

Năm 1862, ông dời về ở làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Tại đây,
ông tiếp tục dạy học trò, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, đồng thời vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với những sĩ
phu yêu nước. Tại đây trước mọi thủ đoạn mua chuộc ông vẫn cương quyết không hợp tác với giặc, tiếp tục
dùng thơ văn làm vũ khí góp phần động viên cổ vũ nhân dân chống giặc. Ngày 24 tháng 5 năm 1888, Nguyễn
Đình Chiểu qua đời.

Di tích lịch sử Đồng Khởi Bến Tre (huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 2499/QĐ-TTg, đợt 7 (2016)

+ Lịch sử hình thành:

Khu di tích Đồng Khởi Bến Tre được UBND tỉnh ra quyết định xây dựng vào năm 1998, trong khuôn viên với
tổng diện tích hơn 4.600 m2. Công trình được khánh thành và đưa vào sử dụng năm 2000.

+ Giá trị nổi bật:

Di tích lịch sử Đồng Khởi Bến Tre, huyện Mỏ Cày Nam là địa điểm ghi dấu sự kiện Đồng khởi năm 1960, đánh
dấu bước chuyển biến đặc biệt quan trọng của lịch sử dân tộc, trong cuộc chiến tranh giành độc lập và thống
nhất đất nước đến năm 1975.

Đồng khởi Bến Tre đã trở thành nhân tố văn hóa cốt lõi, thấm vào tâm thức và trở thành niềm tự hào của
người dân và thế hệ trẻ tỉnh Bến Tre và Việt Nam.

Phong trào Đồng khởi Bến Tre là phong trào do những cán bộ và bộ đội của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã kêu gọi
nhân dân nổi dậy đồng lòng, đồng loạt chống lại ách đô hộ của Hoa Kỳ và sự độc tài của chính phủ ngụy quyền
Việt Nam Cộng hòa, là sự kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng, phối hợp với lực lượng quân sự ban đầu
của nhân dân, phát động toàn dân bao vây đồn bốt, trừng trị ác ôn và phá thế kìm kẹp; hạ uy thế của địch, làm
lay chuyển, tan rã ngụy quyền và giành quyền làm chủ ở khu vực nông thôn.

54. ĐỒNG THÁP


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 67
Cấp quốc gia: 14
Cấp quốc gia đặc biệt: 1

Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Gò Tháp (huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích: di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật

+ Hạng di tích: di tích quốc gia đặc biệt

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 27/9/2012, theo Quyết định số 1419/QĐ-TTg.

+ Lịch sử hình thành:

Di tích Gò Tháp được biết đến từ những năm cuối thế kỷ XIX và vào những thập kỷ đầu thế kỷ XX, một số nhà
nghiên cứu người Pháp đã đến đây khảo sát và công bố những phát hiện quan trọng về một số dấu tích kiến
trúc cổ, tượng thờ, bia đá và văn tự cổ… Từ sau khi đất nước hòa bình và thống nhất vào năm 1975, các nhà
khảo cổ học Việt Nam cũng đặc biệt quan tâm đến khu di tích Gò Tháp.

+ Giá trị nổi bật:

Khu di tích đặc biệt Gò Tháp hội tụ ba loại hình: di tích kiến trúc, di tích cư trú và di tích mộ táng. Đây còn là
những chỉ dấu quan trọng về các phương diện lịch sử, chính trị, kinh tế, nghệ thuật, tôn giáo của nền văn minh
cổ xưa, rực rỡ gắn với Vương quốc Phù Nam từ hàng nghìn năm trước. Ngoài giá trị khảo cổ, lịch sử, Gò tháp
được xem là tâm điểm của vùng Đồng tháp Mười, một trong số ít nơi còn lưu giữ nét hoang sơ của thiên
nhiên, với những thảm thực vật phong phú đặt trưng của vùng đất ngập nước.

Ngoài ra, Khu di tích Gò Tháp còn có các thiết chế tôn giáo và tín ngưỡng cổ truyền như: tháp cổ tự, đền thờ,
miếu bà Chúa Xứ, mộ Hoàng Cô, nền Tháp cổ và nhiều giai thoại dân gian mang màu sắc huyền bí, tâm linh.

Khu di tích Gò Tháp còn là nơi chiến đấu và ngã xuống của không ít anh hùng dân dộc. Chính nơi đây là đại bản
doanh của nghĩa quân Thiên hộ Võ Duy Dương, Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều thời kỳ đầu chống Pháp.

Không chỉ vậy, vùng đất này sau còn là căn cứ địa của Xứ ủy Nam bộ, nơi được mệnh danh là “Thủ đô kháng
chiến” với Ủy ban hành chính kháng chiến Nam bộ, Khu ủy khu 8, in dấu tích hoạt động cách mạng của các cán
bộ cao cấp của Đảng như: đồng chí Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Trần Văn Trà và nhiều đồng chí khác.
55. VĨNH LONG
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 50
Cấp quốc gia: 11
Cấp quốc gia đặc biệt:
56. CẦN THƠ
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 22
Cấp quốc gia: 14
Cấp quốc gia đặc biệt:
57. HẬU GIANG
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 7
Cấp quốc gia: 8
Cấp quốc gia đặc biệt: 1

Di tích lịch sử Chiến thắng Chương Thiện (thành phố Vị Thanh và huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09/12/2013

+ Lịch sử hình thành:

+ Giá trị nổi bật:

Chiến thắng Chương Thiện năm 1973 là minh chứng sống động cho một chủ trương đúng đắn, táo bạo, kịp
thời của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long. Chiến thắng này cũng góp phần tạo ra một trong những cơ sở
quan trọng để Nghị quyết 21 ra đời, tạo tiền đề cho sự chuyển hướng của cách mạng miền Nam, tiến tới cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy toàn thắng năm 1975.

Nhằm phát huy giá trị di tích lịch sử và giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.
Lãnh đạo tỉnh Hậu Giang đã cho xây dựng Khu di tích với tổng diện tích 144.227,5m2 (bao gồm: cụm tượng đài
Chiến thắng Chương Thiện, nhà trưng bày, khu trưng bày ngoài trời, sân lễ và các hạng mục phụ trợ khác).

58. TRÀ VINH


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 32
Cấp quốc gia: 16
Cấp quốc gia đặc biệt:
59. SÓC TRĂNG
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh: 43
Cấp quốc gia: 8
Cấp quốc gia đặc biệt:
60. AN GIANG
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại Mỹ Hòa Hưng (thành phố Long Xuyên, tỉnh An
Giang).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:

+ Số QĐ: 548/QĐ-TTg, năm 2012

+ Lịch sử hình thành:

Khu lưu niệm bao gồm ngôi nhà thời niên thiếu của Chủ tịch Tôn Đức Thắng, đền thờ và nhà trưng bày về cuộc
đời và sự nghiệp của ông

+ Giá trị nổi bật:

Khu di tích lưu niệm của Chủ tịch Tôn Đức Thắng là địa điểm lưu niệm danh nhân cách mạng. Tại đây, Bác
đã sinh ra, học tập, trưởng thành và chứng kiến đời sống lầm than cơ cực của người dân vùng quê Bác do
những áp bức, bóc lột của thực dân và phong kiến, để khi hết tiểu học Bác rời quê lên Sài gòn học nghề và
bước vào con đường đấu tranh cách mạng.

Các di vật tiêu biểu trong khu di tích lưu niệm: trong ngôi nhà sàn vẫn lưu giữ 12 hiện vật gốc được gia tộc họ
Tôn sử dụng từ khi dựng nhà, tiêu biểu như: bộ ngựa gõ, bộ bàn ghế tiếp khách, tủ thờ, đỉnh trầm, tủ áo...

Nhà Trưng bày thân thế, sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng có 36 hiện vật gốc gắn với cuộc đời niên thiếu và
sự nghiệp hoạt động cách mạng của Bác Tôn, tiêu biểu như: đôi hài hàm ếch, đồng hồ đeo tay, quần kaki, ... và
nhiều hiện vật phục chế khác.

Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Óc Eo - Ba Thê (huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang).

+ Tên gọi:
+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: ngày 27/9/2012, Quyết định 1419/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Qua khai quật khảo cổ, Louis Malleret cũng đã xác định được vòng thành cổ và nhận định, đây là một đô thị
cổ, hay còn gọi là thị cảng Óc Eo. Tên gọi Óc Eo được ông Louis Malleret đặt theo tên địa điểm gò Óc Eo ở
huyện Thoại Sơn (An Giang), khi di tích này được phát hiện và công bố năm 1942.

+ Giá trị nổi bật:

Di tích một minh chứng về sự tồn tại của nền văn minh Óc Eo. Di tích mang đậm giá trị văn hóa, lịch sử, kiến
trúc và khảo cổ của vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Óc Eo – Ba Thê chứa đựng sự giao thoa văn hóa khu vực và sự phát triển độc đáo về kiến trúc. Đây là bằng
chứng độc nhất, minh chứng cho sự tồn tại của một nền văn minh cổ đại, có tầm ảnh hưởng với nhiều quốc
gia trên thế giới.

Ở Óc Eo đã phát hiện ra nhiều di chỉ khác nhau như di chỉ cư trú, di chỉ kiến trúc tôn giáo, di chỉ mộ táng...
cùng rất nhiều hiện vật quý như tượng thờ, linh vật, phù điêu, con dấu, tiền tệ, di vật bằng vàng, cốt động -
thực vật...

Qua phân tích các mẫu vật, đã xác định được niên đại của di chỉ Óc Eo là cuối thế kỷ 2 đến thế kỷ 5. Các hiện
vật khảo cổ đã nói lên tầm quan trọng của nền văn hóa Óc Eo ở Đông Nam Á. Những hiện vật đa dạng đã
chứng minh rằng cư dân Óc Eo đã có chữ viết, tiền tệ, có hệ thống sản xuất với nhiều ngành nghề nông nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, có thương nghiệp phát triển và đời sống tinh thần phong phú, có sức lan tỏa rộng lớn ở
khu vực Đông Nam Á thời cổ đại.

61. KIÊN GIANG


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử Trại giam Phú Quốc (huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang).

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận:


+ Số QĐ: Quyết định số 2408/QĐ-TTg ngày 31/12/2014

+ Lịch sử hình thành:

Trại giam Phú Quốc được xây dựng từ năm 1953 và tồn tại đến khoảng năm 1973. Vốn là một trại giam do
thực dân Pháp xây dựng để giam cầm những người Việt, năm 1967, chính quyền Sài Gòn xây dựng lại Nhà lao
Cây Dừa hay còn gọi là Trại giam tù binh chiến tranh Phú Quốc, hay Trại giam tù binh cộng sản Phú Quốc trên
diện tích khoảng 400ha. Đây là trại giam tù binh trung tâm toàn Việt Nam Cộng hòa

+ Giá trị nổi bật:

Nhà tù Phú Quốc là một bằng chứng sống động ghi dấu tội ác vô cùng dã man của chế độ thực dân, đế quốc
xâm lược, đồng thời nói lên tinh thần bất khuất đấu tranh kiên cường của các chiến sĩ cách mạng. Đến đầu
năm 1973 thì Hiệp định Paris ký kết. Trại giam không còn hoạt động nữa. Chỉ trong thời gian tồn tại không đầy
6 năm (từ tháng 6/1967 đến 3/1973), tại đây đã có hơn 4.000 người chết, hàng đã bị địch dùng cực hình tra
tấn dã man (như đóng kim, chuồng cọp Catso, chuồng cọp kẽm gai, ăn cơm nhạt, lộn vỉ sắt, đục răng, đóng
đinh, roi cá đuối,...) và đã hy sinh tại đây, hàng chục ngàn người bị thương tật tàn phế. Những điều đó đã biến
Nhà tù Phú Quốc trở thành "chứng nhân" của lịch sử.

Di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc gồm có tượng đài hình nắm tay, là "biểu tượng của sự đàn áp khốc liệt và tinh
thần hiên ngang vùng lên phá xiềng của tù binh Phú Quốc", nghĩa trang liệt sĩ, và khu Trại giam Tù binh Phú
Quốc được phục dựng.

62. BẠC LIÊU


Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:

Di tích lịch sử Căn cứ Cái Chanh, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu

+ Tên gọi:

+ Loại di tích:

+ Hạng di tích:

+ Người công nhận: Thủ tướng Chính phủ

+ Số QĐ: Ngày 31 tháng 12 năm 2020, Quyết định số 2280/QĐ-TTg

+ Lịch sử hình thành:

Trong nửa đầu của thế kỷ XX, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta ngày càng ác liệt,
cách mạng Việt Nam nói chung, tại Nam Bộ và Bạc Liêu nói riêng đặt ra những yêu cầu ngày càng lớn, đòi hỏi
từng vùng, từng khu vực, từng địa bàn phải có những cơ sở, căn cứ cách mạng bí mật và vững chắc để đảm
bảo an toàn cho các cơ quan của Đảng, nhất là các đồng chí lãnh đạo để lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống
quân thù. Xuất phát từ yêu cầu đó, khu Cái Chanh, thuộc ấp Cây Cui, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân đã
được chọn làm Khu căn cứ cách mạng lúc bấy giờ.

+ Giá trị nổi bật:

Trong kháng chiến chống Pháp, giai đoạn 1949–1954, căn cứ Cái Chanh là nơi trú đóng và hoạt động cách
mạng của lãnh đạo Xứ ủy Nam Bộ, Trung ương Cục miền Nam, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ. Đây là
nơi hoạt động của nhiều nhà cách mạng như: Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Ung Văn Khiêm, Võ Văn Kiệt…

Từ khi được chọn làm Khu căn cứ cho đến khi kháng chiến giành thắng lợi hoàn toàn, Khu căn cứ Cái Chanh đã
làm tròn vai trò, sứ mệnh lịch sử quan trọng của mình, chở che, nuôi dưỡng và phát triển lực lượng cách
mạng, là niềm tự hào của Đảng bộ, quân và dân tỉnh Bạc Liêu.

Đến thời kháng chiến giai đoạn 1973–1975, Cái Chanh là nơi đặt Căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu. Tại đây, vào ngày 20
tháng 11 năm 1973 đã diễn ra Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bạc Liêu dưới sự chủ trì của ông Vũ Đình
Liệu (Tư Bình), Bí thư Khu ủy Tây Nam Bộ. Cũng tại khu căn cứ này, ngày 13 tháng 1 năm 1975, Tỉnh ủy đã họp
và quyết tâm giải phóng tỉnh Bạc Liêu; đồng thời quyết định dời Căn cứ Tỉnh ủy từ Cái Chanh về Lái Viết để
thuận lợi trong chỉ đạo điểm tấn công giải phóng thị xã Bạc Liêu.

63. CÀ MAU
Tổng số lượng di tích:
Cấp tỉnh:
Cấp quốc gia:
Cấp quốc gia đặc biệt:
Câu 1:

CÁC TIÊU CHÍ CÔNG NHẬN DSTG

Di sản thế giới là một điểm mốc hay khu vực được lựa chọn bởi Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên
Hợp Quốc (viết tắt là UNESCO) có giá trị về văn hóa, lịch sử, khoa học hoặc hình thức có ý nghĩa khác và được
pháp luật bảo vệ bởi các điều ước quốc tế. Các địa điểm này được đánh giá là có tầm quan trọng đối với lợi ích
tập thể nhân loại.

Theo quy định của Unesco hiện nay có 3 loại di sản thế giới: Di sản Văn hóa Thế giới, Di sản Thiên nhiên Thế
giới, Di sản Hỗn hợp.

Theo Công ước Di sản thế giới thì di sản văn hóa là:

 Các di tích: Các tác phẩm kiến trúc, tác phẩm điêu khắc và hội họa, các yếu tố hay các cấu trúc có
tính chất khảo cổ học, ký tự, nhà ở trong hang đá và các công trình sự kết hợp giữa công trình xây
dựng tách biệt hay liên kết lại với nhau mà do kiến trúc của chúng, do tính đồng nhất hoặc vị trí
trong cảnh quan, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật và khoa học.
 Các di chỉ: Các tác phẩm do con người tạo nên hoặc các tác phẩm có sự kết hợp giữa thiên nhiên và
nhân tạo và các khu vực trong đó có các di chỉ khảo cổ có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan
điểm lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân học.
Theo Công ước Di sản thế giới thì di sản thiên nhiên là:

 Các đặc điểm tự nhiên bao gồm các hoạt động sáng tạo vật lý hoặc sinh học hoặc các nhóm các
hoạt động kiến tạo có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm thẩm mỹ hoặc khoa học.
 Các hoạt động kiến tạo địa chất hoặc địa lý tự nhiên và các khu vực có ranh giới được xác định
chính xác tạo thành một môi trường sống của các loài động thực vật đang bị đe dọa có giá trị nổi
bật toàn cầu xét theo quan điểm khoa học hoặc bảo tồn.
 Các địa điểm tự nhiên hoặc các vùng tự nhiên được phân định rõ ràng, có giá trị nổi bật toàn cầu về
mặt khoa học, bảo tồn hoặc thẩm mỹ.
Di sản hỗn hợp:
 Năm 1992, Ủy ban Di sản thế giới đưa ra khái niệm di sản hỗn hợp hay còn gọi là di sản kép, cảnh quan
văn hóa thế giới để miêu tả các mối quan hệ tương hỗ nổi bật giữa văn hóa và thiên nhiên của một số
khu di sản. Một địa danh được công nhận là di sản thế giới hỗn hợp phải thỏa mãn ít nhất là một tiêu
chí về di sản văn hóa và một tiêu chí về di sản thiên nhiên.

Để được ghi vào danh sách Di sản Thế giới, một di sản phải đáp ứng được một hoặc nhiều tiêu chí về văn hoá
hoặc thiên nhiên theo Công ước Di sản Thế giới. Theo đó, có 10 tiêu chí, trong đó có 6 tiêu chí đối với Di sản
Văn hóa và 4 tiêu chí đối với Di sản Thiên nhiên.
1.TIÊU CHÍ CỦA DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI

i) là một tuyệt tác của thiên tài sáng tạo;

ii) thể hiện sự giao thoa quan trọng của các giá trị nhân văn, qua một thời kỳ hay bên trong một khu vực văn
hoá của thế giới, về những phát triển trong kiến trúc, (kỹ thuật) công nghệ, nghệ thuật điêu khắc, quy hoạch
đô thị hay thiết kế phong cảnh;

iii) chứa đựng một minh chứng duy nhất hoặc ít nhất cũng hết sức khác biệt về một truyền thống văn hoá hay
một nền văn minh hiện vẫn đang tồn tại hoặc đã tuyệt vong;

iv) là một ví dụ nổi bật về một loại công trình xây dựng, một quần thể kiến trúc hoặc công nghệ, hoặc một
cảnh quan minh họa một (hoặc nhiều) giai đoạn trong lịch sử nhân loại;

v) Là một ví dụ tiêu biểu về sự định cư của con người hoặc một sự chiếm đóng lãnh thổ mang tính truyền
thống và tiêu biểu cho một hoặc nhiều nền văn hóa, nhất là khi nó trở nên dễ bị tổn thương dưới tác động của
những biến động không thể đảo ngược được;

vi) có liên hệ trực tiếp hoặc có thể nhận thấy được với những sự kiện hay các truyền thống sinh hoạt, với các ý
tưởng hay các tín ngưỡng, với các công trình nghệ thuật hay văn học có ý nghĩa nổi bật toàn cầu (Uỷ ban cho
rằng tiêu chí này nên được sử dụng kết hợp với các tiêu chí khác);

2. TIÊU CHÍ CỦA DI SẢN THIÊN NHIÊN THẾ GIỚI

vii) Chứa đựng các hiện tượng, địa điểm tự nhiên hết sức nổi bật hoặc các khu vực có vẻ đẹp tự nhiên độc đáo
và tầm quan trọng về thẩm mỹ;

viii) Là những ví dụ nổi bật đại diện cho những giai đoạn lớn trong lịch sử của Trái Đất, trong đó có lịch sử về
sự sống, các quá trình địa chất quan trọng đang tiếp diễn trong sự phát triển của các địa mạo, hoặc các đặc
điểm quan trọng về địa chất hoặc địa lý tự nhiên;

ix) là những ví dụ nổi bật đại diện cho các quá trình sinh thái và sinh vật trong sự tiến hoá và phát triển của các
hệ sinh thái trên mặt đất, trong nước ngọt, nước biển và ven biển và các cộng đồng động - thực vật;

x) chứa đựng các môi trường sinh sống thiên nhiên quan trọng và có ý nghĩa nhất đối với việc bảo tồn tại chỗ
đa sạng sinh học, kể cả những nơi chứa đựng các giống loài bị đe doạ có giá trị nổi bật toàn cầu xét dưới góc
độ khoa học hoặc bảo tồn.

3.TIÊU CHÍ DI SẢN THẾ GIỚI HỖN HỢP (DI SẢN KÉP)

Di sản thế giới hỗn hợp (hay cảnh quan văn hóa thế giới) là một loại di sản thế giới kép, đáp ứng đủ cả hai yếu
tố nổi bật về văn hóa và thiên nhiên. Một địa danh được công nhận là di sản thế giới hỗn hợp phải thỏa mãn ít
nhất là một tiêu chí về di sản văn hóa (tiêu chuẩn i,ii,iii,iv,v,vi) và một tiêu chí về di sản thiên nhiên (tiêu chuẩn
vii,viii,ix,x).

You might also like