Professional Documents
Culture Documents
Kỷ yếu hội lão khoa 2022
Kỷ yếu hội lão khoa 2022
16
Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức khi là một trong 10 quốc gia có tốc độ già hóa
dân số nhanh nhất thế giới. Theo nghiên cứu trên người cao tuổi tại cộng đồng của bệnh viện Lão
khoa TW, các hội chứng lão khoa thường gặp ở người cao tuổi, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống, thúc đẩy và gây suy giảm chức năng và khuyết tật. Các hội chứng lão khoa phổ biến nhất là
ngã, hội chứng dễ bị tổn thương, sa sút trí tuệ, suy dinh dưỡng, tình trạng đa bệnh lý. Bên cạnh đó,
chi phí y tế tăng cao, khả năng cung cấp dịch vụ y tế cho người cao tuổi còn hạn chế, thiếu nhân lực
được đào tạo – thiếu người chăm sóc, việc thực thi các chính sách dành cho người cao tuổi còn gặp
nhiều khó khăn như thiếu các văn bản hướng dẫn, thiếu nguồn lực về kinh tế, con người…cũng là
những thách thức trong chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại Việt Nam.
Do đó, để đối phó với tình trạng già hóa dân số, bệnh viện Lão khoa Trung Ương đã xây dựng chiến
lược nâng cao chất lượng chăm sóc trên người cao tuổi, thông qua các chương trình tăng cường
các nghiên cứu chuyên sâu về người cao tuổi giữa bệnh viện Lão khoa Trung ương và các trường đại
học uy tín trên thế giới, hỗ trợ phát triển khung chương trình đào tạo bác sĩ lão khoa, điều dưỡng
lão khoa, người chăm sóc; trao đổi học viên liên viện, liên trường đại học.
Vietnam is facing challenges as it is one of the 10 fastest-aging countries. According to a study on older
adults in the community of the National Geriatric Hospital, geriatric syndromes were prevalent in older
adults and they had a major impact on quality of life, promote and cause decline of functional capacity
and disability. Among the most prevalent geriatric syndromes were falls, frailty, dementia, malnutrition,
multiple medical conditions. In addition, rising health care costs, limited ability to provide health care
services for the older adults, lack of qualified/training human resources - lack of care-givers...also
challenges in health care for the older adults in Vietnam.
Therefore, coping with population ageing, the National Geriatric Hospital has developed strategies to
improve the quality of care for the older adults, through strengthening scientific research on the older
adults, supporting the development of training programs for geriatric doctor, geriatric nurses, caregivers
for the elderly; inter-institutional and inter-university exchange students.
Y học tập trung vào việc kéo dài tuổi thọ mang lại nhiều lợi ích, nhưng tuổi thọ dài hơn đang mang
lại nhiều thách thức. Dân số của chúng tôi đang chứng kiến sự thay đổi đáng kể về tỷ lệ phần trăm
17
Medicine’s focus on prolonging life has had many benefits, but longer lifespans are bringing many
challenges. Our populations are seeing a significant shift in the percentage of elders (60+ years) vs.
younger generations. In Minnesota we are already feeling the impact of this shift.
We are working to train the state’s healthcare workers to recognize and understand geriatrics as a unique
discipline, as pediatrics is. Older patients may have very different goals than younger patients. They may
have more complex medical issues, need closer attention to prescribed medicine, and evaluation for
things like balance and mobility, memory loss, or adequate social support. Respecting and addressing
these differences can improve elder patients’ quality of life.
With a large rural population, many of our elderly are isolated. Using technology (like smart watches) to
monitor their health and activity remotely is one way they can age in place and retain their independence.
At the other end of the spectrum, there is a research into creating age-friendly communities that meet
the specific needs of elders: social support, safety, physical activity, nutrition, and access to health care.
Scientifically, our Institute on the Biology of Aging is looking at the impact of cellular deterioration over
time, specifically, cellular senescence. As we age, we accumulate cells that no longer function, but are
not removed from the body. They continue to interact with their cellular environment and cause an
inflammatory response. We are currently testing medications that could clear these senescent cells,
reducing the damage caused by inflammation.
While we do not have any universal answers, we are exploring diverse ways to help improve the quality
of life of our elder citizens. It is our hope that by exchanging information and ideas with others around
the world, we will learn new strategies and perhaps help others as well.
18
Để đáp ứng nhu cầu của dân số già, Việt Nam cần tăng cường năng lực nghiên cứu để cung cấp
thông tin cho các nhà hoạch định chính sách và cải thiện các dịch vụ và hỗ trợ chăm sóc sức khỏe.
Trong phần trình bày này, chúng tôi mô tả một chương trình nâng cao năng lực nghiên cứu quốc
gia tại Việt Nam do Viện Y tế Quốc gia tài trợ và tập trung vào bệnh Alzheimer và các rối loạn liên
quan. Chương trình nâng cao năng lực nghiên cứu bao gồm chương trình tài trợ thí điểm có cố vấn
cũng như các hoạt động kết nối và đào tạo nghiên cứu khác. Chương trình tài trợ thí điểm tài trợ
cho các nhà nghiên cứu Việt Nam trong 1-2 năm để thực hiện nghiên cứu với sự hợp tác của chuyên
gia quốc tế. Các hoạt động đào tạo và kết nối bao gồm hội thảo về các chủ đề nghiên cứu về sa sút
trí tuệ - bệnh Alzheimer (ADRD) và các cuộc họp thường xuyên kết hợp với Hội nghị Quốc gia về sa
sút trí tuệ hàng năm của Việt Nam. Trong ba năm đầu tiên (2019-2022) của chương trình kéo dài 5
năm này, 17 điều tra viên Việt Nam đã được chọn để tài trợ (4-6 người mỗi năm). Các điều tra viên
này đến từ các chuyên ngành khác nhau (ví dụ: lão khoa, thần kinh, tâm thần kinh, điều dưỡng,
dược, công tác xã hội) và các tổ chức trên khắp Việt Nam. Chương trình nâng cao năng lực nghiên
cứu này là chương trình đầu tiên thuộc loại hình này ở Việt Nam và có thể là một mô hình hữu ích
để tăng cường năng lực nghiên cứu về lão khoa ở Việt Nam và các nước khác ở Châu Á.
To meet the needs of an aging population, Vietnam needs to strengthen research capacity to inform
policy makers and to improve healthcare services and supports. In this presentation, we describe a
national research capacity building program in Vietnam funded by the National Institutes of Health
and focused on Alzheimer’s disease and associated disorders. The research capacity building program
includes a mentored pilot grant program as well as other research training and networking activities.
The pilot grant program funds Vietnamese researchers for 1-2 years to conduct research in collaboration
with an international expert. Training and networking activities include workshops on ADRD research
topics and regular meetings in conjunction with Vietnam’s annual national dementia conference.
During the first three years (2019-2022) of this five-year program, 17 Vietnamese investigators were
selected for funding (4-6 per year). These investigators were from diverse disciplines (e.g., geriatrics,
neurology, neuropsychology, nursing, pharmacy, social work) and institutions across Vietnam. This
research capacity building program is the first of its kind in Vietnam and may serve as a useful model for
strengthening research capacity in geriatrics in Vietnam and in other countries in Asia.
Hội chứng sa sút trí tuệ là một trong những thách thức lớn đối với sức khỏe nhân loại, ảnh hưởng
đến 50 triệu người trên toàn thế giới. Cùng với quá trình già hóa của dân số, sa sút trí tuệ ngày càng
19
Dementia poses one of the greatest global health challenges, affecting 50 million people worldwide. As
Vietnam’s population ages, dementia is becoming more prevalent and being the leading cause of dis-
ability and mortality in older adults. However, dementia assessment, care and treatment presents many
challenges included stigma about dementia, poor patient engagement in and access to healthcare, in-
adequate cultural validation, limited dementia capable workforce, competing healthcare system priori-
ties, and insufficient health financing. In response to the global action plan on dementia, Vietnam needs
solutions to improve the health and care of people with dementia and their carers through increasing
public awareness of dementia, improve the capacity of the health system to diagnose dementia and
dementia-related health policy
Sa sút trí tuệ là một vấn đề sức khỏe và xã hội quan trọng ở tất cả các quốc gia có dân số già. Hiện
không có cách chữa trị cho các nguyên nhân phổ biến của chứng sa sút trí tuệ như Bệnh Alzheimer,
Sa sút trí tuệ mạch máu, Sa sút trí tuệ thể Lewy và Thoái hóa thùy não trước. Do đó, điều quan
trọng là phải xem xét làm thế nào để ngăn ngừa sa sút trí tuệ hoặc trì hoãn sự khởi phát của nó.
Có 12 yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được, được cho là chiếm 40% các trường hợp sa sút trí tuệ trên
toàn thế giới. Đó là trình độ học vấn thấp, hút thuốc, khiếm thính, tăng huyết áp, trầm cảm, béo
phì, ít vận động, ít tiếp xúc với xã hội, đái tháo đường, uống quá nhiều rượu, chấn thương sọ não và
ô nhiễm không khí (Lancet 2020; 396: 413-446.)
Điều quan trọng là các chuyên gia chăm sóc sức khỏe phải hiểu tầm quan trọng của những yếu tố
nguy cơ có thể sửa đổi này và tìm cách giải quyết những yếu tố này trong cộng đồng.
Dementia is a significant health and social problem in all countries with an ageing population. There is
currently no cure for the common causes of dementia such as Alzheimer’s Disease, Vascular Dementia,
Dementia with Lewy Bodies, and Frontotemporal Lobar Degeneration. It is therefore important to
consider how dementia can be prevented or its onset delayed.
There are 12 modifiable risk factors which are thought to account for 40% of cases of dementia
worldwide. These are less education, smoking, hearing impairment, hypertension, depression, obesity,
physical inactivity, low social contact, diabetes, excessive alcohol consumption, traumatic brain injury,
and air pollution (Lancet 2020; 396: 413-446.)
It is important for health care professionals to understand the importance of these modifiable risk factors
and look at ways to address these in the community.
20
Là một trong 10 quốc gia già hóa nhanh nhất thế giới, Việt Nam đang đối mặt với sự gia tăng số
lượng người cao tuổi mắc bệnh sa sút trí tuệ. Hiện tại, đa số bệnh nhân SSTT sống tại gia đình và
được chăm sóc bởi người thân, mặc dù những người chăm sóc trong gia đình thường thiếu kiến
thức, kỹ năng, và các nguồn lực cộng đồng để hỗ trợ hoạt động chăm sóc của họ. Do vừa phải cáng
đáng việc chăm sóc người bệnh SSTT vừa tiếp tục các hoạt động đời sống hàng ngày, những người
chăm sóc trong gia đình thường bị suy giảm sức khỏe thể chất, trầm cảm, căng thẳng, và gặp các
vấn đề khác, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng cuộc sống của họ cũng như của người bệnh và toàn
gia đình. Vì thế, việc hỗ trợ cho NCS trong gia đình là hết sức cần thiết để Việt Nam xây dựng một xã
hội già hóa lành mạnh. Tuy vậy, các chương trình này hầu như chưa được xây dựng và thử nghiệm
theo tiêu chuẩn khoa học tại Việt Nam. Bài thuyết trình này của chúng tôi có hai mục đích: (1) nâng
cao nhận thức về sự cần thiết phải xây dựng các chương trình hỗ trợ NCS trong gia đình; và (2) cung
cấp các mô hình tại Mỹ và giới thiệu một thử nghiệm ứng dụng bước đầu tại Việt Nam. Bài thuyết
trình gồm 4 phần. Phần thứ nhất sẽ trình bày sơ bộ về hiện trạng và thách thức của NCS bệnh nhân
SSTT trên thế giới và tại Việt Nam. Phần thứ hai sẽ phác họa bức tranh chung về các chương trình
hỗ trợ cho NCS tại Mỹ, đặc biệt là mô hình D.I.C.E.. Phần thứ ba sẽ trình bày về can thiệp REACH VN,
một chương trình đã được chuyển đổi từ Mỹ và đang thử nghiệm ứng dụng tại Việt Nam với những
kết quả khả quan ban đầu. Phần cuối bài trình bày sẽ đưa ra một số gợi ý về một loạt hướng đi để
Việt Nam tự xây dựng hoặc ứng dụng các can thiệp hiệu quả từ nước ngoài nhằm hỗ trợ cho NCS
gia đình tại Việt Nam.
Being one of 10 fastest aging countries in the world, Vietnam is facing an increasing number of older
adults with dementia. The majority of Vietnamese dementia patients currently live at home with their
family and are cared for by family members who are known to lack knowledge, skills, and community
resources to support caregiving tasks. Vietnamese family caregivers are also known to face physical
health problems, depression, stress, and other adverse psychological outcomes due to juggling family
caregiving and their other daily life tasks. Supporting family caregivers, therefore, is critical for Vietnam
to develop a healthy aging society; yet, very few evidence-based interventions or support programs
exist in the country. This talk aims to (1) raise awareness about the need to develop family caregiving
interventions in Vietnam and (2) to provide suggestions to develop such interventions. The talk will
include four parts. The first part will provide an overview about the status and challenges of family
dementia caregivers in the world and Vietnam. The second part will provide a brief overview about
family caregiving interventions in the U.S., with particular attention to D.I.C.E. model. The third part will
present REACH-VN, an evidence-based intervention adapted from the U.S. for use in Vietnam. The final
part of the talk will include recommendations for Vietnam to “home-grow” or culturally tailored global
interventions to support Vietnamese family caregivers.
21
Suy tim ở người cao tuổi là biến chứng cuối cùng của tất cả các bệnh liên quan đến tim mạch, bệnh
tăng huyết áp hay toàn bộ các bệnh toàn thân khác… Tuy bệnh không thể điều trị khỏi hoàn toàn,
nhưng việc điều trị kịp thời và có chế độ chăm sóc phù hợp sẽ ngăn ngừa bệnh tiến triển, giảm gánh
nặng bệnh tật cho người bệnh.
Điều trị suy tim cần cá thể hóa theo đặc điểm bệnh nhân và càng phải thận trọng trên bệnh nhân
lớn tuổi khi có nhiều bệnh lý đồng mắc. 4 thông số quan trọng trong điều trị bao gồm: tần số tim,
huyết áp, rung nhĩ và suy thận. Trong đó tần số tim là thông số ảnh hưởng lớn đến bệnh nhân trên
nhiều giai đoạn và cần được quan tâm.
Phối hợp sớm hoặc thay thế thuốc chẹn beta với Ivabradine giúp giảm nhập viện và tử vong do suy
tim ở những BN nhịp xoang > 70 bpm được khuyến cáo class IIa trong những hướng dẫn hiện nay.
Tăng huyết áp (THA) và đái tháo đường (ĐTĐ) có mối liên quan chặt chẽ làm tăng biến chứng trên
tim mạch (nhồi máu cơ tim, đột quỵ), mạch máu lớn và mạch máu nhỏ. Chiến lược điều trị cần phải
kiểm soát toàn diện đa yếu tố cho người bệnh như đường huyết, huyết áp, lipid máu. Theo phân
tầng nguy cơ trong VNHA2022, người bệnh ĐTĐ được xếp vào nhóm nguy cơ tim mạch cao và việc
điều trị theo phân tầng nguy cơ sẽ giúp dự đoán và thay đổi can thiệp hiệu quả. Lựa chọn thuốc
cho người bệnh được dựa theo khuyến cáo uy tín cũng như các bằng chứng được đưa ra thông qua
các nghiên cứu.
Thứ nhất, theo khuyến cáo mới nhất của VNHA2022, chiến lược điều trị cho người bệnh ĐTĐ có
THA nên bao gồm phối hợp sớm ức chế hệ RAS + CCB/Thiazide-like và đặc biệt nhấn mạnh sử dụng
Thiazide-like chứ không đề cập đến Thiazide truyền thống. Theo ESC và VNHA, nhóm ACEi cũng
được ưu tiên hơn ARB. Theo ADA2022 cũng khuyến cáo ưu tiên Thiazide-like để giảm các biến cố
tim mạch trên người bệnh ĐTĐ.
Thứ hai là việc lựa chọn thuốc dựa theo chứng cứ khoa học từ các bằng chứng. Với một bài phân
tích gộp Cheng từ 35 nghiên cứu RCT chỉ ra ưu điểm vượt trội của ACEI so với ARB (giảm tần suất
tử vong, tử vong tim mạch và biến cố tim mạch) có ý nghĩa thống kê và trong đó, Perindopril
vượt trội hơn các thuốc cùng nhóm với tỷ lệ giảm tử vong cao nhất (0.87). Về lợi tiểu Thiazide-like
(Indapamide) hiệu quả bảo vệ tim mạch (đột quỵ, biến cố tim mạch và suy tim) đều nổi bật hơn với
thiazide truyền thống (HCTZ) theo nghiên cứu phân tích gộp 19 RCT. Ngoài ra, Thiazide-like còn có
ưu thế trung tính với các chỉ số chuyển hóa (glucose, lipid) cũng như trung tính với chức năng thận.
Theo khuyến cáo ADA 2022, điều trị tăng huyết áp trên người bệnh đái tháo đường nên bao gồm
nhóm thuốc chứng minh được giảm biến cố tim mạch (A). Phối hợp liều cố định Perindopril và
Indapamide là phối hợp chứng minh được giảm đạm niệu tiên phát và tiến triển, giảm biến cố thận
tử vong chung và do tim mạch cho người bệnh THA kèm ĐTĐ qua nghiên cứu Advance.
22
Suy yếu là biến chứng mới dẫn tới tàn phế bên cạnh biến chứng mạch máu lớn và mạch máu nhỏ
ở bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi. Tỉ lệ suy yếu gặp nhiều hơn ở bệnh nhân đái tháo đường và
tỉ lệ mắc đái tháo đường cũng cao hơn khi có suy yếu. Suy yếu làm tăng nguy cơ hạ đường huyết và
là yếu tố tiên lượng chính cho kết cục xấu (tử vong và tàn phế). Quản lý bệnh nhân đái tháo đường
cao tuổi thì phức tạp bởi vì người cao tuổi thường đa bệnh, kỳ vọng sống ngắn, sử dụng nhiều
thuốc và dễ bị tác dụng phụ từ điều trị. Đặc biệt, người cao tuổi dễ bị hạ đường huyết và hậu quả
bao gồm té ngã, gãy xương, nhập viện, các biến cố tim mạch và tử vong do mọi nguyên nhân. Chính
vì vậy, đánh giá suy yếu nên thực hiện thường quy trên bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi. Các lựa
chọn điều trị thay đổi theo mức độ suy yếu và mức HbA1c. Đơn giản hóa phác đồ điều trị để làm
giảm nguy cơ hạ đường huyết cho bệnh nhân.
Từ khóa: đái tháo đường typ 2, suy yếu, người cao tuổi
23
Đau là một tình trạng lâm sàng phổ biến và quan trọng trên người cao tuổi. Đau ở người cao tuổi có
liên quan đến gia tăng các biến cố bất lợi như suy giảm chức năng, ngã, trầm cảm và rối loạn giấc
ngủ. Tuy nhiên, khó khăn trong đánh giá cơn đau, sự phức tạp của nhiều bệnh đi kèm và tình trạng
suy giảm nhiều chức năng khiến việc xác định loại thuốc, liều lượng và duy trì điều trị thích hợp là
một thách thức trong điều trị trên đối tượng người cao tuổi. Kiểm soát đau trên người cao tuổi bao
gồm các biện pháp dùng thuốc hoặc không dùng thuốc hoặc kết hợp cả hai. Thuốc bôi tại chỗ di-
clofenac là một giải pháp thay thế cho thuốc NSAID đường uống trong điều trị đau cơ xương khớp,
có hiệu quả tương đương, cải thiện chức năng thể chất và giảm cứng khớp so với NSAID đường
uống và ít tác dụng phụ toàn thân hơn. Diclofenac tại chỗ nên được coi là lựa chọn hàng đầu, trước
khi sử dụng NSAID đường uống đối với bệnh nhân lớn tuổi đau cơ xương khớp và những người có
các bệnh lý đi kèm và / hoặc các yếu tố nguy cơ đối với các tác dụng ngoại ý toàn thân (tiêu hóa,
gan, thận hoặc tim mạch) khác nhau liên quan với NSAID đường uống, đặc biệt khi dùng liều cao
hoặc trong thời gian dài.
Pain is a highly prevalent and clinically important problem in the older adults. Chronic pain in the older
adults is associated with an increased incidence of adverse outcomes, including functional impairment,
falls, depression, and sleep disturbances. Unfortunately, difficulties in assessing pain in geriatric
patients, the complexities of multiple comorbidities, and the high prevalence of polypharmacy make it a
challenge to determine the appropriate drug, dosage, and maintenance of therapy. Various treatment
options are available for chronic pain management in the elderly including either pharmacological
or non-pharmacological measures or both combined. Topical diclofenac is an alternative to oral
administration, often with similar efficacy but potentially a more favorable tolerability profile. Topical
diclofenac should be considered as a first-line option, before oral NSAID use, especially for older patients
with osteoarthritis and those who have comorbid conditions and/or risk factors for various systemic
(gastrointestinal, hepatic, renal, or cardiovascular) adverse events associated with oral NSAIDs,
particularly when used at high doses or for long durations.
24
Bệnh lý liên quan tới kháng thể kháng MOG là nhóm bệnh lý mất myelin trung ương mới được
xác định trong vài năm gần đây. Chúng tôi mô tả các đặc điểm lâm sàng và đáp ứng điều trị của 8
trường hợp được chẩn đoán MOGAD tại bệnh viện Đại học y Hà Nội.
Phương pháp
Mô tả chuỗi ca bệnh.,
Kết quả
Tuổi khởi phát từ 18 tới 72, tỷ lệ nữ / nam là 5/3. Các triệu chứng khởi phát gồm: mất thị lực 1 mắt
(2/8), mất thị lực 2 mắt (3/8), viêm tuỷ ngang cấp (2/8), hội chứng não – màng não cấp – (1/8). Tất
cả các trường hợp đều đáp ứng tốt với ức chế miễn dịch liều cao. 1 trường hợp được chẩn đoán hội
chứng FLAMES. 4/8 trường hợp điều trị nền bằng Rituximab, trong đó có 1 trường hợp tái phát. 1
trường hợp điều trị nền bằng Mycophenolate Mofeltyl.
Kết luận
Bệnh lý liên quan tới kháng thể kháng MOG có biểu hiện lâm sàng đa dạng. Chẩn đoán bệnh có vai
trò quan trọng của việc nhận diện dấu hiệu gợi ý tổn thương mất Myelin trung ương và xét nghiệm
kháng thể kháng MOG trong huyết thanh. Điều trị đợt cấp chủ yếu dùng Corticoid liều cao trong khi
điều trị nền cần cân nhắc dựa trên nguy cơ tái phát.
Từ khoá: Myelin Oligodendrocyte Glycoprotein Associate Disease – MOGAD, Neuromyelitis Optica
Spectrum Disorders – NMOSD, Multiple Sclerosis - MS, FLAIR-hyperintense lesions in anti-MOG as-
sociated encephalitis with seizures FLAMES.
Les maladies associées aux anticorps Anti-MOG (MOGADs) sont des maladies démyélinisantes centrales
nouvellement identifiées ces dernières années. Nous discutons à travers ces cas les aspects cliniques et
la réponse au traitement de ces nouvelles maladies.
Môts clés: MOGADs, FLAMES, NMOSD, MS
Méthode
Une observation des cas cliniques qui sont diagnostiqués MOGADs au CHU de Ha Noi pour une période
de juillet à novembre 2022
Résultat
Notre série compose de 8 patients, l’âge d’apparition est de 18 à 72 ans, les premiers symptômes inclu-
ent : perte de vision unilaterale (2/8), bilaterale (3/8), myélite transverse aiguë (2/8), méningoencépha-
lite aiguë - (1/8). 1 patient a été diagnostiqué avec le syndrome de FLAMES. Tous les patients ont bien
répondu à l’immunosuppression à haute dose. 4/8 patients ont eu le traitement de fond par Rituximab,
dont 1 cas de rechute et 1 patient par Mycophénolate Mofeltyl.
Conclusion
Les Maladies associées aux anticorps anti-MOG ont diverse manifestatitions cliniques. L’identification
des signes évocateurs d’un processus démyélinisante centrale et la recherche d’anticorps anti-MOG
jouent le rôle important pour le diagnostic MOGADs. Le traitement des exacerbations repose principale-
ment sur le Glucocorticoide à forte dose alors que le traitement de fond de est basé sur le risque récidive.
25
Bệnh Parkinson là một bệnh lí thoái hoá thần kinh trung ương thường gặp ở người cao tuổi, đặc
trưng bởi sự kết hợp triệu chứng vận động và ngoài vận động. Rối loạn nuốt là vấn đề thường gặp
ở bệnh Parkinson, với hơn 80% người bệnh Parkinson có rối loạn nuốt trong quá trình bị bệnh.
Điều này gây ảnh hưởng trực tiếp đến lượng dinh dưỡng người bệnh đưa vào cơ thể cũng như việc
chuyển hoá và có tác dụng của thuốc điều trị, làm tăng nguy cơ bị viêm phổi sặc (Aspiration pneu-
monia) đe dọa tính mạng người bệnh. Việc đánh giá vấn đề rối loạn nuốt bao gồm: khai thác bệnh
sử, thăm khám lâm sàng và sử dụng các cận lâm sàng. Chẩn đoán sớm và chính xác, cũng như áp
dụng các biện pháp xử lí, can thiệp thích hợp có thể đem lại hiệu quả cải thiện chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân, có thể giúp ngăn ngừa các biến chứng nguy hiểm và tử vong.
26
Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu: Trầm cảm và sarcopenia đều là những mối quan tâm về sức
khỏe cộng đồng mà các xã hội già hóa phải đối mặt. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra trầm cảm và
sarcopenia liên quan nhau qua nhiều yếu tố nguy cơ, tuy nhiên các mối liên quan này lại không
đồng nhất giữa các nghiên cứu. Mục đích của nghiên cứu này là để xác định tỷ lệ trầm cảm và tìm
hiểu mối liên quan giữa trầm cảm với các thành phần của sarcopenia và một số yếu tố nguy cơ trên
người bệnh sarcopenia cao tuổi. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên người
bệnh ≥ 60 tuổi được chẩn đoán sarcopenia khám và điều trị tại bệnh viện Lão khoa Trung ương. Đối
tượng nghiên cứu được chẩn đoán sarcopenia dựa trên tiêu chuẩn của Hiệp hội Sarcopenia Châu
Á 2019 và được đánh giá tình trạng trầm cảm dựa vào thang điểm GDS-15 với điểm cắt là 5. Kết
quả: Nghiên cứu thực hiện trên 312 người bệnh sarcopenia (66.03% nữ, tuổi trung bình 75.25±8.06
(năm)). Tỷ lệ trầm cảm ở người bệnh sarcopenia cao tuổi là 44.87%. Tỷ lệ mắc trầm cảm cao hơn ở
nhóm người bệnh có tình trạng giảm sức mạnh cơ tay, có tình trạng sarcopenia nặng, có suy dinh
dưỡng, có mức HĐTL thấp (p<0.01). Phân tích hồi quy đa biến cho thấy trầm cảm có liên quan với
suy dinh dưỡng (OR: 3.39; 95%CI: 1.74 – 6.61), với mức độ HĐTL thấp (OR: 3.14; 95%CI: 1.64 – 6.03)
tuy nhiên không liên quan với các thành phần của sarcopenia sau khi đã hiệu chỉnh với các yếu tố
gây nhiễu. Kết luận: Tỷ lệ trầm cảm ở người bệnh sarcopenia cao tuổi tại bệnh viện Lão khoa Trung
ương là khá cao. Trầm cảm có liên quan đến suy dinh dưỡng, mức độ HĐTL thấp và một số thành
phần của sarcopenia. Dự phòng và điều trị sớm sarcopenia có ý nghĩa quan trọng để phòng tránh
các biến cố bất lợi, trong đó có trầm cảm.
Từ khóa: trầm cảm, sarcopenia, người cao tuổi.
Từ viết tắt: HĐTL – hoạt động thể lực.
Contexte et objectifs : La dépression et la sarcopénie sont deux problèmes de santé publique auxquels
sont confrontées les sociétés vieillissantes. De nombreuses études ont montré que la dépression et la
sarcopénie sont liées par de multiples facteurs de risque, mais ces associations ne sont pas uniformes
d’une étude à l’autre. L’objectif de cette étude était de déterminer la prévalence de la dépression et
d’étudier l’association entre la dépression et les composants de la sarcopénie et certains facteurs
de risque chez les patients âgés atteints de sarcopénie. Sujets et méthodes : Une étude descriptive
transversale a été réalisée chez des patients sarcopéniques âgés de 60 ans ou plus, qui ont été traités
à l’hôpital national de gériatrie. Tous les participants ont reçu un diagnostic de sarcopénie sur la base
des critères du groupe de travail asiatique sur la sarcopénie 2019. La dépression a été évaluée sur la
base de l’échelle GDS-15 avec un seuil de 5. Résultats : Un total de 312 patients sarcopéniques ont été
recrutés (66.03 % de femmes, moyenne âge 75.25 ± 8.06 (ans)). La prévalence de la dépression chez les
patients âgés sarcopéniques était de 44,87 %. La prévalence de la dépression était plus élevée dans le
groupe de patients présentant une faible force de préhension, une sarcopénie sévère, une malnutrition
et de faibles niveaux d’activité physique (p<0.01). L’analyse de régression multivariée a montré que la
dépression était associée à la malnutrition (OR : 3.39; IC95% : 1.74 – 6.T61), à de faibles niveaux d’activité
physique (OR : 3.14; IC95% : 1.64 – 6.03) mais non associée aux composantes de la sarcopénie après
27
HIỆU QUẢ CỦA BOTULINUM TOXIN TRONG ĐIỀU TRỊ CO THẮT NỬA
MẶT NGUYÊN PHÁT DO XUNG ĐỘT THẦN KINH - MẠCH MÁU
EFFICACY OF BOTULINUM TOXIN IN TREATMENT OF PRIMARY
HEMIFACIAL SPASM CAUSED BY NEUROVASCULAR CONFLICT
Co thắt nửa mặt là bệnh lý đặc trưng bởi các cử động co giật hoặc co cứng không chủ ý và không
đều của các cơ ở một bên mặt vốn do thần kinh VII cùng bên chi phối. Co thắt nửa mặt nguyên phát
chiếm phần lớn, nguyên nhân được cho là do sự chèn ép của mạch máu vào dây thần kinh VII tại lối
ra của dây này ở thân não. Sự phát triển của kỹ thuật MRI mới đã cải thiện việc phát hiện xung đột
thần kinh VII– mạch máu. Hiện nay, tiêm Botulinum toxin (BTX) là phương pháp điều trị đầu tay để
cải thiện các triệu chứng của co thắt cơ mặt. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện chưa có nhiều nghiên cứu
về tác dụng của BTX trong điều trị co thắt cơ mặt nguyên phát và mối liên quan của nó với mức độ
xung đột thần kinh – mạch máu.
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị bằng Botulinum toxin ở bệnh nhân co thắt nửa mặt nguyên
phát có xung đột thần kinh - mạch máu. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả. Kết quả: 48 bệnh nhân
co thắt nửa mặt nguyên phát, được phát hiện thấy có xung đột thần kinh VII - mạch máu trên chuỗi
xung T2 CISS, tuổi trung bình là 57 ± 10,43, được điều trị bằng tiêm BTX (Dysport®) tại Bệnh viện
đa khoa Tâm Anh trong khoảng thời gian từ tháng 6/2021 đến tháng 6/2022. Tỷ lệ điều trị có hiệu
quả là 91,7%, hiệu quả duy trì trong 5,50 ± 0,97 tháng (ngắn nhất là 3 tháng và dài nhất là 8 tháng).
Xung đột thần kinh – mạch máu được chia thành 3 bậc theo mức độ nặng dần: độ I (12,5%); độ II
(62,5%) và độ III (25%). Khả năng điều trị bằng BTX đạt hiệu quả tốt của nhóm không phải xung đột
độ III cao gấp 6,20 lần nhóm xung đột độ III. Hở khe mi (45,83%), sụp mi (4,17%) và bầm tụ máu
chỗ tiêm (12,5%) là biến chứng hay gặp. Không có biến chứng nặng được ghi nhận. Kết luận: Tiêm
BTX là phương pháp điều trị hiệu quả triệu chứng co thắt nửa mặt nguyên phát do xung đột thần
kinh-mạch máu.
Từ viết tắt: BTX: Botulinum toxin, MRI (Magnetic resonance imaging): Hình ảnh cộng hưởng từ
CÁC CHƯƠNG TRÌNH VÀ MÔ HÌNH PHÒNG NGỪA VÀ CAN THIỆP HỘI CHỨNG
DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRONG CỘNG ĐỒNG
FRAILTY PREVENTION AND INTERVENTION PROGRAMS IN THE COMMUNITY
GS.TS. Susan Kurrle
Trường Y khoa Sydney,
Đại học Sydney, Úc
Hội chứng dễ bị tổn thương là sự suy giảm chức năng liên quan đến tuổi tác trên nhiều hệ thống
sinh lý dẫn đến tăng khả năng bị tổn thương đối với các tác nhân gây căng thẳng và tăng nguy
cơ của các biến cố sức khỏe kém. Những biến cố không tốt này bao gồm tăng nguy cơ ngã và gãy
xương, tăng nguy cơ nhập viện với thời gian nằm viện dài hơn và suy giảm chức năng sau đó, tăng
nguy cơ biến chứng sau phẫu thuật, tăng nguy cơ nằm viện và tăng nguy cơ tử vong.
Hội chứng dễ bị tổn thương có thể được xác định bằng một số công cụ sàng lọc bao gồm Thang đo
FRAIL (FRAIL Scale), Thang đo hội chứng dễ bị tổn thương lâm sàng (CFS) và Thang đo hội chứng dễ
bị tổn thương Edmonton. Có bằng chứng chắc chắn rằng hội chứng dễ bị tổn thương có thể được
điều trị và trong nhiều trường hợp có thể đảo ngược một khi nó được chẩn đoán.
Phần trình bày này thảo luận về việc sàng lọc và chẩn đoán hội chứng dễ bị tổn thương ở cả bệnh
viện và cộng đồng và các biện pháp can thiệp đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc điều
trị hội chứng dễ bị tổn thương và giảm nguy cơ các biến cố bất lợi cho sức khỏe.
Frailty is an age associated decline in functioning across multiple physiological systems resulting in
an increased vulnerability to stressors, and an increased chance of poor health outcomes. These poor
outcomes include increased risk of falls and fractures, increased likelihood of hospitalisation with
longer length of stay and subsequent functional decline, increased risk of post operative complications,
increased risk of institutionalisation, and increased risk of death.
Frailty can be identified using a number of screening tools including FRAIL Scale, Clinical Frailty Scale,
and the Edmonton Frail Scale. There is strong evidence that frailty can be treated and in many cases
reversed once it is recognised.
This presentation discusses the screening and diagnosis of frailty in both hospital and community
settings and the interventions that have been shown to be effective in treating frailty and reducing the
risk of poor health outcomes.
29
Bệnh Alzheimer là một trong những rối loạn thần kinh phổ biến nhất trên người cao tuổi và là
nguyên nhân chính của hội chứng sa sút trí tuệ. Cơ chế bệnh sinh của bệnh Alzheimer do nhiều
yếu tố, trong đó 2 giả thuyết được cho là nguyên nhân chính gây bệnh là giả thuyết cholinergic và
amyloid. Bên cạnh đó, một số yếu tố nguy cơ như tuổi cao, yếu tố di truyền, chấn thương, bệnh
mạch máu, nhiễm trùng và các yếu tố môi trường cũng đóng vai trò gây ra bệnh. Hiện tại, chỉ có hai
nhóm thuốc được phê duyệt để điều trị Alzheimer, bao gồm thuốc ức chế enzym cholinesterase
và thuốc đối kháng với N-methyl D-aspartate, chỉ có hiệu quả trong điều trị các triệu chứng của
bệnh, nhưng không chữa khỏi hoặc ngăn ngừa bệnh. Những tiến bộ nghiên cứu gần đây về bệnh
Alzheimer đã làm nổi bật vai trò tiềm năng của các liệu pháp chống amyloid, chống tau và chống
viêm. Tuy nhiên, các liệu pháp này vẫn đang trong các giai đoạn phát triển tiền lâm sàng/lâm sàng
khác nhau. Các liệu pháp điều chỉnh bệnh nhằm thay đổi tiến trình bệnh Alzheimer và cải thiện kết
quả thay vì kiểm soát các triệu chứng là một cách tiếp cận thú vị và đầy hứa hẹn khác để điều trị
bệnh Alzheimer. Ngoài ra, can thiệp đa yếu tố trong các nghiên cứu lớn cũng chứng minh làm giảm
nguy cơ mắc và tiến triển của sa sút trí tuệ.
Alzheimer’s disease (AD) is one of the most prevalent neurological disorders among the elderly and
is the main cause of dementia. AD is considered a multifactorial disease: two main hypotheses were
proposed as a cause for AD, cholinergic and amyloid hypotheses. Additionally, several risk factors such
as increasing age, genetic factors, head injuries, vascular diseases, infections, and environmental
factors play a role in the disease. Currently, there are only two classes of approved drugs to treat AD,
including inhibitors to cholinesterase enzyme and antagonists to N-methyl D-aspartate, which are
effective only in treating the symptoms of AD, but do not cure or prevent the disease. Recent research
advances in Alzheimer’s disease have highlighted the potential role of anti-amyloid, anti-tau, and anti-
inflammatory therapies. However, these therapies are still in different phases of pre-clinical/clinical
development. Disease-modifying therapy is another interesting and promising approach to explore
rationalized options for the treatment of Alzheimer’s disease. In addition, multifactorial interventions in
large studies have also been shown to reduce the risk and progression of dementia.
30
Suy yếu là tình trạng suy giảm DỰ TRỮ đa chức năng làm giảm khả năng đối kháng với những thay
đổi môi trường, thường đi kèm đa bệnh và có nguy cơ cao với các biến cố, biến chứng
Cần đánh giá suy yếu trên lâm sàng nói chung cho mọi bệnh nhân cao tuổi vì 4 lý do
1. Không bỏ sót bệnh tiềm tàng, bệnh đi kèm. Không nhầm lẫn bệnh với hội chứng lão hoá
2. Điều trị cá thể hoá khi BN có suy yếu: lưu ý không chỉ điều trị bệnh đang diễn tiến mà cả
kiểm soát bệnh nền và cãi thiện suy yếu
3. Theo dõi bệnh cấp, bệnh nền và cả suy yếu
4. Tiên lượng không chỉ dựa vào bệnh mà cả mức độ suy yếu
Người cao tuổi chiếm một tỷ lệ lớn trong số bệnh nhân nội trú do nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho
cả bệnh cấp tính và mãn tính. Để việc chăm sóc sức khỏe có hiệu quả, bệnh nhân cần được đảm
bảo an toàn khi nằm viện. Điều này đặc biệt phù hợp với những người cao tuổi, những người có
nhiều nguy cơ bị các biến cố bất lợi như ngã, sảng, loét áp lực và nhiễm trùng. Đại hội đồng Y tế Thế
giới năm 2019 đã kêu gọi các Quốc gia thành viên ‘công nhận an toàn của bệnh nhân là ưu tiên sức
khỏe’ và để các Quốc gia ‘thực hiện hành động phòng ngừa và thực hiện các biện pháp có hệ thống
để giảm thiểu rủi ro cho mọi cá nhân’. Điều này áp dụng như nhau đối với các quốc gia như Úc cũng
như các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình (LMIC).
Ngã trong bệnh viện là một trong những biến cố bất lợi thường gặp nhất trong bệnh viện. Mặc dù
vậy, rất ít tiến bộ đã đạt được trong việc giảm tỷ lệ ngã tại bệnh viện. Hầu hết các bằng chứng liên
quan đến phòng chống ngã trong bệnh viện cho thấy việc giáo dục bệnh nhân có mục tiêu và thiết
lập mục tiêu có thể có hiệu quả trong các bệnh viện phục hồi chức năng hoặc bệnh viện bán cấp
tính (lão khoa), nhưng cho đến nay vẫn chưa có biện pháp can thiệp hiệu quả nào được chứng
31
Older people makeup a large proportion of hospital inpatients due to the need for healthcare for both
acute and chronic conditions. In order for healthcare to be effective, patients need to be safe while
in hospital. This is particularly relevant for older people, who are at increased risk of adverse events
such as falls, delirium, pressure areas and infections. The World Health Assembly in 2019 urged Member
States to ‘recognize patient safety as a health priority’ and for States to ‘take preventive action and
implement systematic measures to reduce risks to all individuals’. This applies equally to countries such
as Australia as well as low and middle-income countries (LMICs).
Falls in hospitals are one of the most common adverse events in hospitals. Despite this, little progress
has been made in reducing rates of hospital falls. Most of the evidence related to falls prevention in
hospitals has shown that targeted patient education and goal setting can be effective in rehabilitation
or sub-acute (geriatric) hospitals, but there are, so far, no proven effective interventions for acute
hospitals. Another limitation is that most research has been conducted in countries such as Australia,
the United States and the United Kingdom and may not necessarily be directly relevant to hospitals in
LMICs. Different methods of research may need to be applied in LMICs to the previous studies and these
need to take into account the local context.
This presentation will showcase an approach to improving safety for patients, using hospital in-
patient falls as an example. The approach utilises the concept of ‘small data’, that is collecting detailed
information about factors contributing to adverse events at a local level. Information is collected
across multiple domains, including: staff factors, individual patient factors, environmental factors and
organisational/systems factors. As this approach takes into consideration the local health systems and
contextual factors, it can be applied to hospitals and aged care settings such as those in Vietnam.
32
Cùng với sự già hóa dân số, tỷ lệ sa sút trí tuệ gia tăng cao nhất được dự đoán là ở châu Á. Tuy nhiên,
nhiều quốc gia có thu nhập thấp và trung bình (LMIC) trong khu vực sẽ phải cố gắng để đáp ứng
nhu cầu chăm sóc gia tăng này do nguồn lực hạn chế và cạnh tranh. Điều này đặc biệt đúng nếu các
biện pháp can thiệp và mô hình chăm sóc được phát triển và thực hiện ở các nước có thu nhập cao
được chuyển giao trực tiếp. Cần có các giải pháp sáng tạo, bản địa hóa và phù hợp với văn hóa hơn.
Các công nghệ kỹ thuật số, chẳng hạn như hoạt ảnh và chương trình kết hợp với trí tuệ nhân tạo
(AI) để tương tác với con người, có tiềm năng đáng kể để cải thiện dịch vụ chăm sóc vì chúng hoạt
động 24/7, cung cấp câu trả lời tức thì và nhất quán, thúc đẩy sự tham gia của người tham gia và
giúp điều hướng các dịch vụ. Những công nghệ như vậy cũng vượt qua các rào cản về thời gian hạn
chế, sự cô lập về địa lý và hạn chế về khả năng đọc viết. Thông qua điện thoại thông minh, thiết bị
máy tính bảng và/hoặc máy tính, mọi người có thể truy cập thông tin trực tuyến, tìm hiểu về cách
phòng ngừa, nơi cần trợ giúp và cách cung cấp dịch vụ chăm sóc.
Tuy nhiên, nghiên cứu về các đổi mới công nghệ cho chứng sa sút trí tuệ còn hạn chế, đặc biệt là
trong các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Dựa trên các nghiên cứu hiện có, bài thuyết
trình này sẽ giới thiệu tiềm năng và cạm bẫy của công nghệ kỹ thuật số trong việc cải thiện khả
năng phòng ngừa, nhận thức và chăm sóc sa sút trí tuệ giữa các nhóm đa dạng về văn hóa và ngôn
ngữ ở Úc và Châu Á cũng như tiềm năng thay đổi.
With population ageing, the highest increases in dementia prevalence are anticipated in Asia. However,
many low and middle-income countries (LMICs) in the region will struggle to meet this rising care
demand due to limited and competing resources. This is especially the case if interventions and care
models developed and implemented in high-income settings are directly transplanted. More innovative,
localised, and culturally appropriate solutions are needed.
Digital technologies, such as animation and chat-bots, hold considerable potential to improve care
because they are available 24/7, offer instant and consistent answers, promote participant engagement,
and help to navigate services. Such technologies also overcome barriers of limited time, geographic
isolation, and limited literacy. Via smartphones, tablet devices, and/or computers people can access
information online, learn about prevention, where to seek help, and how to provide care.
However, research on technological innovations for dementia are limited especially in LMICs. Drawing
on existing studies, this presentation will showcase the potential and pitfalls of digital technologies
in improving dementia prevention, awareness, and care among culturally and linguistically diverse
groups in Australia and Asia and the potential for change.
33
Tổ chức Y tế Thế giới đã phát triển chương trình iSupport cho sa sút trí tuệ, một chương trình hỗ
trợ và đào tạo kỹ năng trực tuyến dành cho những người chăm sóc những người bị sa sút trí tuệ.
iSupport nhằm mục đích cải thiện sức khỏe tâm thần và hạnh phúc của gia đình và những người
chăm sóc không chính thức khác của những người bị sa sút trí tuệ.
Chúng tôi mong muốn dịch chương trình iSupport của WHO sang tiếng Bahasa, tiếng Maori và
tiếng Việt, đồng thời điều chỉnh theo ngữ cảnh và văn hóa của WHO iSupport để phù hợp với hệ
thống chăm sóc sức khỏe và xã hội của Úc, Indonesia, New Zealand và Việt Nam. Công việc này sẽ
đạt đến đỉnh cao trong việc phát triển Trợ lý ảo iSupport bao gồm một trang web và một ứng dụng
thiết bị thông minh cho phép người chăm sóc tìm kiếm các chủ đề bằng cách sử dụng văn bản hoặc
ra lệnh bằng lời nói và cung cấp hướng dẫn bằng video để hỗ trợ họ trong vai trò chăm sóc của họ.
Việc đánh giá tính khả thi, khả năng chấp nhận và các tác động có thể có của Trợ lý ảo iSupport đối
với căng thẳng, tâm lý và chất lượng cuộc sống sẽ được thực hiện thông qua một thử nghiệm ngẫu
nhiên có đối chứng.
The World Health Organization developed iSupport for dementia, an online skills training and support
program for carers of people with dementia. iSupport aims to improve the mental health and well-
being of family and other informal carers of people with dementia.
We aim to translate the WHO iSupport to Bahasa, te reo Māori and Vietnamese, and culturally and
contextually adapt the WHO iSupport to fit the health and social care systems of Australia, Indonesia,
New Zealand and Vietnam. This work will culminate in the development of an iSupport Virtual Assistant
comprising a website and a smart device app that will allow carers to search topics using text or voice
command and provide video instruction to support them in their caring role.
Evaluation of the feasibility, acceptability and possible effects of the iSupport Virtual Assistant on stress,
psychological distress and quality of life will be done through a randomised controlled trial.
34
Sa sút trí tuệ do bệnh Alzheimer là bệnh lý thoái hóa thần kinh hay sặp nhất ở người cao tuổi. Tổn
thương giải phẫu đặc trưng của bệnh là mảng amyloid ngoài tế bào và đám rối tơ thần kinh trong tế
bào. Biểu hiện ban đầu trên lâm sàng là giảm trí nhớ ngắn hạn. Ở giai đoạn sau là các rối loạn chức
năng nhận thức khác cùng với rối loạn hành vi và tâm thần. Đánh giá đầy đủ bệnh nhân Alzheimer
cần dựa vào lâm sàng, trắc nghiệm thần kinh tâm lý, xét nghiệm hình ảnh học não, marker sinh học
và xét nghiệm gen. Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh nhân Alzheimer, các thuốc
điều trị hiện tại có hiệu quả trong cải thiện chức năng nhận thức và rối loạn tâm thần là các thuốc
điều trị triệu chứng.
Alzheimer’s dementia is the most common neurodegenerative disease in the elderly. The characteristic
pathological lesions of Alzheimer’s disease are extracellular amyloid plaques and intracellular
neurofibrillary tangles. The initial clinical manifestation is short-term memory decline. In the later
stages, the patient develops impairment of other domains of cognition, behavioral and mental
disturbances. Adequate assessment of patients with Alzheimer’s disease should be based on clinical,
neuropsychological testing, brain imaging, biomarkers, and genetic testing. Currently, there is no specific
treatment for Alzheimer’s disease. Current treatments for Alzheimer’s disease are “symptomatic” agents
that aim to improve cognitive and behavioral symptoms.
35
Chóng mặt và mất thăng bằng là một triệu chứng thường gặp tại phòng cấp cứu. Việc chẩn đoán
và xử trí có thể gặp khó khăn, đôi khi cần sự phối hợp nhiều chuyên khoa. Mất thăng bằng có nhiều
nguyên nhân lành tính và nguy hiểm. Cần quan tâm đặc biệt tới các rối loạn đe dọa tính mạng. Khi
chóng mặt đi kèm với các triệu chứng hoặc dấu hiệu đặc hiệu khác thì việc chẩn đoán phân biệt
có thể dễ dàng hơn. Ngược lai, nếu bệnh nhân chỉ biểu hiện triệu chứng chóng mặt đơn độc, tiếp
cận chẩn đoán có thể phức tạp hơn và chỉ thông qua việc hỏi bệnh sử kỹ lưỡng, thăm khám toàn
diện và làm các xét nghiệm cần thiết, người thầy thuốc mới có thể đạt được chẩn đoán chính xác.
Người thầy thuốc tại phòng cấp cứu phải phân biệt được phần lớn các nguyên nhân lành tính của
chóng mặt với các nguyên nhân nguy hiểm. Việc xử trí phù hợp chóng mặt/mất thăng bằng cấp tại
phòng cấp cứu rất quan trọng. Qua nhiều thập kỷ, dù chúng ta đã có rất nhiều tiến bộ trong chẩn
đoán và xử trí chóng mặt/mất thăng bằng cấp tại phòng cấp cứu cùng với sự phát triển của các kỹ
thuật chẩn đoán hình ảnh nhưng việc chẩn đoán nguyên nhân chóng mặt/mất thăng bằng vẫn dựa
nhiều vào các thăm khám tại giường bệnh.
Neurological vertigo and dizziness is a common symptoms presenting to the emergency department
(ED) and its evaluation and management may be challenging, requiring often the intervention of dif-
ferent medical specialties. Dizziness has an extensive differential diagnosis that includes both benign
and serious conditions. Particular attention should be paid to potentially life-threatening disorders as
a cause of acute dizziness/vertigo. When vertigo is associated with other specific symptoms or signs, a
differential diagnosis may be easier. Conversely, if the patient exhibits isolated vertigo, the diagnostic
approach becomes complex and only through a detailed history, a complete physical examination and
specific tests the clinician can reach the correct diagnosis. Emergency physicians must distinguish the
majority of patients with self-limiting conditions from those with serious illnesses that require acute
treatment. A new approach divides patients into three key categories using timing and triggers, guid-
ing a differential diagnosis and targeted bedside examination protocol: 1) acute vestibular syndrome,
where bedside physical examination differentiates vestibular neuritis from stroke; 2) spontaneous ep-
isodic vestibular syndrome, where associated symptoms help differentiate vestibular migraine from
transient ischemic attack; and 3) triggered episodic vestibular syndrome, where the Dix-Hallpike and
supine roll test help differentiate benign paroxysmal positional vertigo from posterior fossa structural
lesions. The proper management of acute dizziness/vertigo are very important in the ED. Over the past
decades, we have achieved marked progress in the evaluation and management of acute dizziness/
vertigo. Even with the splendid developments in imaging technology, the diagnosis of acute dizziness/
vertigo largely remains the realm of bedside examination.
36
Cúm mùa là một bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính do vi-rút cúm lưu hành ở tất cả các nơi
trên thế giới.Theo thống kê của WHO, thế giới có khoảng 5-10% người lớn nhiễm cúm mỗi năm.
Cúm mùa có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng, thậm chí là tử vong đặc biệt trên người lớn
tuổi do hệ miễn dịch suy giảm và thường mắc các bệnh nền kèm theo.
Người lớn tuổi trên 65 khi nhiễm cúm sẽ khởi phát các biến cố tim mạch như đau thắt ngực, đột
quỵ; rối loạn đường huyết trên bệnh nhân đái tháo đường. Lợi ích tiêm phòng cúm cho người lớn
tuổi đã được chứng minh qua các nghiên cứu lâm sàng như giảm nguy cơ các biến chứng và tử
vong liên quan tới cúm; giảm nguy cơ nhập viện; giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer…
Với những lợi ích mang lại, tiêm phòng cúm mỗi năm cho người lớn tuổi đã được khuyến cáo bởi Tổ
chức Y Tế Thế Giới (WHO), các Hiệp hội Y khoa chuyên ngành (ESC, ADA, AHA/ACC).
Việt Nam đã có vaccine cúm tứ giá giúp bảo vệ người lớn tuổi trước hai chủng cúm A (H1N1 và
H3N2) và hai chủng cúm B (Victoria và Yamagata) đang lưu hành phổ biến hiện nay.
VIÊM PHỔI CỘNG ĐỒNG TRÊN BỆNH NHÂN LỚN TUỔI CÓ BỆNH MẮC KÈM
TS.BS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
Khoa Hô hấp, bệnh viện Phổi trung ương, 463 Hoàng Hoa Thám, Hà Nội
Email: ngocn4@hotmail.com
Số điện thoại: 0983160705
Viêm phổi cộng đồng (Community Acquired Pneumonia-CAP) là một trong những căn nguyên gây
tử vong hàng đầu và là căn nguyên nhiễm khuẩn gây tử vong cao nhất trên toàn cầu. Nguy cơ mắc
viêm phổi ở bệnh nhân tăng lên theo tuổi, người càng cao tuổi tỷ lệ mắc viêm phổi càng tăng gấp
3-30 lần so với nhóm dưới 65 tuổi. Tỷ lệ tử vong do viêm phổi ở người cao tuổi cao. Căn nguyên gây
CAP ở người già không có khác biệt với người trẻ. Căn nguyên thường gặp là phế cầu, Hemophilus.
influenza, vi khuẩn không điển hình và viêm phổi do hít.
Đặc điểm của người già là: tình trạng miễn dịch suy giảm tự nhiên, suy dinh dưỡng, giảm khả năng
vận động, giảm khả năng nuốt, kém minh mẫn, có bệnh đồng mắc là những yếu tố nguy cơ làm
người già dễ mắc viêm phổi. Biểu hiện lâm sàng của người cao tuổi không rầm rộ rõ nét như người
trẻ, thường biểu hiện bằng sự suy giảm nhận thức, và các cơ quan ngoài phổi và thường liên quan
đến tình trạng xấu đi của bệnh nền.Điều trị bệnh cần cân nhắc dựa trên mức độ nặng, bệnh nền và
đặc điểm của người bệnh.Lựa chọn kháng sinh cần cân nhắc dựa trên căn nguyên vi sinh gây bệnh
nền và tình trạng kháng thuốc
Community Acquired Pneumonia (CAP) is one of the leading causes of death and the most leading
infectious cause of death globally. The risk of pneumonia in patients increases with age, the older the
37
Theo điều tra dịch tễ từ 2017, có khoảng 25% người trưởng thành trên thế giới đang bị hội chứng
tim mạch chuyển hóa, tỷ lệ tử vong do bệnh lý tim mạch đã giảm ở các nước phát triển nhưng lại
gia tăng ở các nước đang hoặc kém phát triển. Trong đó, suy tim và bệnh thận mạn là hai biến
chứng thường gặp, nguy hiểm và gây ra hậu quả nặng nề cho bệnh nhân Đái tháo đường: Đái tháo
đường typ 2 làm tăng 5 lần nguy cơ mắc suy tim và 40% bệnh nhân đái tháo đường sẽ tiến triển
thành bệnh thận mạn. Tuy nhiên, các biến chứng này thường bị bỏ sót chẩn đoán ở giai đoạn sớm.
Do vậy, tầm soát và phát hiện sớm các biến chứng tim mạch thận là cần thiết để có thể can thiệp
và điều trị kịp thời cho bệnh nhân.
Nhóm thuốc ức chế SGLT2 từ một thuốc ban đầu được nghiên cứu và phát triển điều trị đái tháo
đường typ 2, đã mở rộng thêm các bằng chứng phòng ngừa cũng như điều trị biến chứng Tim mạch
cho bệnh nhân. Theo các khuyến cáo cập nhật hiện nay, quản lý và điều trị bệnh nhân đái tháo
đường hiện tại cần tiếp cận toàn diện, không chỉ dựa vào mục tiêu đường huyết của bệnh nhân,
mà cần phân tầng bệnh nhân để lựa chọn các liệu pháp điều trị tối ưu cho bệnh nhân. Chẩn đoán,
phân tầng và can thiệp sớm các liệu pháp điều trị đã được chứng minh hiệu quả trên phòng ngừa
và điều trị biến chứng Tim thận cho bệnh nhân Đái tháo đường typ 2 là yếu tố tiên quyết giúp giảm
tử vong, giảm tỷ lệ nhập viện do suy tim, giảm diễn tiến dẫn đến suy thận giai đoạn cuối cho bệnh
nhân.
Nhóm thuốc SGL2i tương đối dễ sử dụng với chế độ liều đơn giản, an toàn và dung nạp tốt. Tuy
nhiên, cần lưu ý một số tác dụng không mong muốn trên lâm sàng bao gồm: nhiễm trùng sinh dục
– tiết niệu, nhiễm toan ceton trên bệnh nhân đái tháo đường (ở những bệnh nhân thiếu hụt insulin
hay đang trong giai đoạn cấp)…Cần tư vấn bệnh nhân các biện pháp để hạn chế các TDKMM như
uống đủ nước, vệ sinh đường tiết niệu sinh dục sạch sẽ, giảm liều insulin hợp lý khi phối hợp cũng
38
According to a study from 2017, about 25% of adults in the world are suffering from metabolic
cardiovascular syndrome, the death rate from cardiovascular disease has decreased in developed
countries but increased in under-developed and developing countries. underdeveloped or
underdeveloped. In particular, heart failure and chronic kidney disease are two common, dangerous
complications that cause serious consequences for patients with diabetes: Type 2 diabetes increases
the risk of heart failure by 5 times and 40% of patients with diabetes will develop chronic kidney disease.
However, these complications often go undiagnosed at an early stage. Therefore, screening and early
detection of cardiovascular and renal complications is necessary to be able to intervene and treat
patients promptly.
SGLT2i was initially researched and developed for the T2D treatment, has expanded the evidence for
prevention as well as treatment of cardiovascular complications for patients. According to current
up-to-date recommendations, the management and treatment of patients with diabetes requires a
comprehensive approach, based not only on the patient’s glycemic goals, but also need to stratify
patient’s risk before choosing therapies and should early use optimal treatment for the patients. Early
diagnosis, stratification, and intervention of therapies which are demonstrated for the prevention
and treatment complications for T2D patients is a key factor for reducing morbidity and mortality,
hospitalization rate due to heart failure, reducing progression leading to end-stage kidney disease.
In general, SGLT2i is relatively easy to use with a simple dosing regimen, safe and well-tolerated. However,
it also has some rare adverse events including: genital mycotic infections, urinary tract infections
ketoacidosis (in T2D patients with insulin deficiency or in the acute conditions). It is necessary to consult
patients about some methods to limit those side effects such as drinking enough water, cleaning the
genitourinary tract, reducing insulin dose appropriately when combined as well as complying with
SADMANs rule when the patient is in the acute phase….
Bệnh võng mạc đái tháo đường (DR), ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân
và là nguyên nhân hàng đầu gây mất thị lực ở người lớn trong độ tuổi lao động (20–65 tuổi). Hiện
nay, khoảng 90 triệu bệnh nhân đái tháo đường bị DR, bao gồm 17 triệu bệnh nhân tiểu đường bị
bệnh võng mạc tiểu đường tăng sinh (PDR), 21 triệu bị phù hoàng điểm do tiểu đường (DME) và 28
triệu bệnh nhân bị DR đe dọa nghiêm trọng đến thị lực, và tỷ lệ mắc DR này dự kiến sẽ tăng gấp đôi
vào năm 2025 trong trường hợp không có các chiến lược điều trị dự phòng tốt hơn.
Việc chẩn đoán và điều trị sớm là những ưu tiên hàng đầu để giảm tỷ lệ suy giảm thị lực do đái tháo
đường do đái tháo đường. Tuy nhiên, khi các phương pháp điều trị thích hợp được áp dụng, ít nhất
90% các trường hợp mới bị DR có thể phục hồi chức năng cũng như cấu trúc võng mạc. Mặc dù đã
có nhiều tiến bộ điều trị đáng kể trong thập kỷ qua và nhiều phương pháp điều trị DR, nhưng chưa
39
Diabetic retinopathy (DR), significantly affects patients’ quality of life and is the leading cause of vision
loss in working-age adults (20–65 years). Currently, approximately 90 million diabetic patients have
DR, including 17 million diabetics with proliferative diabetic retinopathy (PDR), 21 million with diabetic
macular edema (DME) ) and 28 million patients have severe vision-threatening DR, and the incidence of
this DR is expected to double by 2025 in the absence of better preventive treatment strategies.
Early diagnosis and treatment are the top priorities for reducing the rate of diabetic vision loss due
to diabetes. However, when appropriate treatments are applied, at least 90% of new cases of DR can
restore retinal structure and function. Although there have been significant therapeutic advances in the
past decade and many treatments for DR, there is no cure. [6] Screening and monitoring programs for
retinopathy should promptly identify the disease status.
In the early stages of DR, tight control of blood glucose, blood pressure, and lipids and regular monitoring
can help prevent the progression of the disease to more advanced stages. In the late stages, the main
treatments of DR include anti-vascular endothelial growth factor (anti-VEGF) drugs, laser therapy, and
vitrectomy. In recent studies, the advantage of using intravitreal drugs in treating the progression of PD
and DME has been demonstrated, especially in the corticosteroid and anti-VEGF drugs.
40
Kiểm soát đường huyết đã được xem là một mục tiêu điều trị chính trong quản lý bệnh đái tháo
đường, được củng cố qua những bởi bằng chứng nghiên cứu quan sát và thực nghiệm. Các hướng
dẫn khác nhau [1, 2] đã chỉ ra tầm quan trọng của việc đạt và duy trì haemoglobin A1c (A1c) trong
mục tiêu; đặc biệt để ngăn ngừa các biến chứng mạch máu nhỏ. Vì bệnh đái tháo đường là một
bệnh tiến triển, nên thường cần tăng cường điều trị để đạt được và duy trì kiểm soát đường huyết
[3]. Bệnh lý mạch máu lớn cũng là một mối quan tâm lớn trong điều trị đái tháo đường típ 2 (T2DM).
Bệnh mạch máu lớn và mạch máu nhỏ đồng thời có liên quan đến nguy cơ tim mạch cao nhất [4].
Vì vậy, điều quan trọng là điều trị của T2DM không chỉ yêu cầu kiểm soát đường huyết, mà còn an
toàn và lợi ích trên tim mạch bằng cách giảm các biến chứng liên quan tim mạch trên lâm sàng.
Insulin nền là một liệu pháp điều trị hiệu quả cao trong việc giảm đường huyết lúc đói. Tuy nhiên,
nó có liên quan đến nguy cơ hạ đường huyết và tăng cân đáng kể [5]. Do những lo ngại này, việc
bắt đầu và tăng cường insulin nền thường bị trì hoãn. Mặt khác, đồng vận thụ thể GLP – 1 (GLP-1
RI) cũng có hiệu quả về mặt kiểm soát đường huyết (cả trước và sau ăn) và có khả năng giảm cân
cũng như nguy cơ hạ đường huyết thấp. Tuy nhiên, việc sử dụng chúng có thể gây ra tác dụng phụ
đường tiêu hóa, đặc biệt là buồn nôn, tuy nhiên, tác dụng phụ này phụ thuộc liều và có thể ngăn
ngừa bằng cách tăng liều chậm [6]. Những lợi ích tiềm năng của việc kết hợp GLP-1RAs với insulin
nền đã được cập nhật trong hướng dẫn của cả Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) [1] và Hiệp
hội Các nhà Nội tiết Lâm sàng Hoa Kỳ (AACE) [2]. Bài báo cáo đánh giá hiệu quả và độ an toàn của
việc phối hợp insulin nền với đồng vận thụ thể GLP1, nhất là đối với những liệu pháp GLP1 – RA có
lợi cho tim mạch đã được chứng minh.
Glycemic control has been considered a major therapeutic goal within the scope of diabetes management,
as supported by robust observational and experimental evidence. Different guidelines [1, 2] have
shown the importance of reaching and keeping haemoglobin A1c (A1c) in target; specially to prevent
microvascular complications. As diabetes is a progressive disease, intensification of treatment is often
needed to achieve and maintain glycemic control [3]. Macrovascular disease is also a major concern in
type 2 diabetes mellitus (T2DM) treatment. The coexistence of micro and macrovascular disease was
associated with the highest cardiovascular risks [4]. In this sense, it is important that pharmacological
treatment of T2DM provides not only glycemic control, but also cardiovascular safety and clinically
sound benefits in terms of reducing cardiovascular events. Basal insulin is a highly effective treatment
in reducing fasting blood glucose. However, it is associated with considerable risk of hypoglycemia and
weight gain [5]. Because of these clinical concerns, basal insulin initiation and intensification is often
delayed by prescribers. On the other hand, glucagon like peptide 1 receptor agonists (GLP-1 RAs) are
also effective in terms of glycemic control (both fasting and postprandial) and associated with weight
41
References:
1. American Diabetes Association. Pharmacological approaches to glycemic treatment:
standards of medical care in diabetes—2018. Diabetes Care. 2018;41(Suppl 1):S73–85.
2. Garber AL, Abrahamson MJ, Barziley JI, Blonde L, Bloomgarden ZT, Bush MA, et al. Consensus
statement by the American Association of Clinical Endocrinologists and American College of
Endocrinology on the comprehensive type 2 diabetes management algorithm—2018 executive
summary. Endocr Pract. 2018;24(1):91–120.
3. Bergenstal RM, Kendall DM, Franz MJ, et al. Management of type 2 diabetes: a systematic
approach to meeting the standards of care. II: oral agents, insulin, and management of
complications. In: DeGroot LJ, Jameson JL, editors. Endocrinology. Philadelphia: WB: Saunders
Co.; 2001. p. 821–35.
4. Mohammedi K, Woodward M, Marre M, Colgiuri S, Cooper M, Harrap S, Mancia G, Poulter
N, Williams B, Zoungas S, Chalmers J. Comparative effects of microvascular and macrovascular
disease on the risk of major outcomes in patients with type 2 diabetes. Cardiovasc Diabetol.
2017;16:95.
5. Blumer I, Clement M. Type 2 diabetes, hypoglycemia, and basal insulins: ongoing challenges.
Clin Ther. 2017;39(8S2):S1–11.
6. Tella SH, Rendell MS. Glucagon-like polypeptide agonists in type 2 diabetes mellitus: efficacy
and tolerability, a balance. Ther Adv Endocrinol Metab. 2015;6(3):109–34.
42
Sự già hóa dân số, cùng diễn tiến tự nhiên của đái tháo đường khiến tỉ lệ bệnh nhân mắc đái tháo
đường cao tuổi (≥65) ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đường huyết nhưng
không gặp nguy cơ hạ đường huyết là một thách thức lớn trong việc quản lý bệnh nhân đái tháo
đường (ĐTĐ) cao tuổi. Người bệnh ĐTĐ cao tuổi có nguy cơ cao hạ đường huyết vì nhiều lý do, bao
gồm thiếu hụt insulin, cần điều trị tăng cường insulin, suy thận tiến triển, suy giảm nhận thức và
nhiều bệnh đồng mắc, đa thuốc, chế độ điều trị phức tạp. Hạ đường huyết có thể dẫn đến kết cục
xấu như té ngã, tăng biến cố tim mạch (rối loạn nhịp, nhồi máu cơ tim, đột quỵ) và sa sút trí tuệ. Hạ
đường huyết nặng cần nhập viện có liên quan đến việc tăng nguy cơ phát triển chứng mất trí nhớ
cao hơn ở những bệnh nhân có các đợt lặp đi lặp lại.
Giảm thiểu nguy cơ hạ đường huyết là một yếu tố quan trọng trong việc xác định mục tiêu đường
huyết và lựa chọn chiến lược điều trị. Các thuốc tiết insulin như sulfonylurea và glitinide, cũng như
tất cả các loại insulin đều có nguy cơ hạ đường huyết cao và nên được sử dụng thận trọng ở người
lớn tuổi suy yếu. Nếu mục tiêu điều trị là ngăn ngừa các biến cố tim mạch, thuốc ức chế SGLT2
hoặc GLP1-RA đã được chứng minh lợi ích có thể được cân nhắc. Tuy nhiên, nâng cao chất lượng
cuộc sống là mục tiêu ưu tiên trong điều trị cho hầu hết người bệnh đái tháo đường cao tuổi, thay
vì phòng ngừa biến cố tim mạch. Theo đó, thuốc ức chế DPP-4 (DPP-4i) có thể là lựa chọn ưu tiên
ở người cao tuổi suy yếu, vì tính dung nạp tốt, ít tác dụng phụ, hiệu quả giảm đường huyết trung
bình và không làm tăng nguy cơ hạ đường huyết. Trong nhóm DPP-4i, linagliptin là thuốc mang lại
tính hiệu quả, an toàn và đơn giản trong điều trị, thuốc sử dụng 1 liều duy nhất/ ngày, bất kể tình
trạng chức năng gan, thận, hay bệnh lý nền của bệnh nhân.
Due to the growing aging population, as well as the progressive nature of T2D, increasing numbers
of patients with diabetes are elderly (≥65). However, achieving target glycaemic goals while avoiding
hypoglycaemia is a major challenge in the management of elderly patients with diabetes mellitus. Older
adults are at higher risk of hypoglycemia for many reasons, including insulin deficiency, necessitating
insulin therapy and progressive renal insufficiency, have higher rates of unidentified cognitive impairment
and Multi-comorbidities, poly-pharmacotherapy. Hypoglycemia can result in poor outcomes, such
as traumatic falls, adverse cardiovascular events, and dementia. In addition, severe hypoglycemia
requiring hospitalization has been associated with an increased risk of developing dementia that is
higher in patients with repeated episodes.
Avoidance of hypoglycemia is an important consideration in choosing therapeutic agents and
establishing glycemic goals. Insulin secretagogues such as sulfonylurea and meglitinides, as well as all
types of insulin are high risk of hypoglycemia and should be used with caution in frailty older adults. If
the goal of treatment is to prevent CV events, appropriate evidence-based treatments such as SGLT2-i or
GLP1-RA should be considered. Nevertheless, good quality of life is the primary goal of treatment for most
elderly people with T2D, rather than CV event prevention. DPP-4is can be important treatment options
in the such elderly/fraily population, as they are well-tolerated with few side effects and associated with
only modest HbA1c reductions without increased risk of hypoglycaemia. In the DPP-4i class, linagliptin
is an effective, safe and simple treatment choise, 1 single dose a day, regardless of the patient’s hepatic,
kidney function, or baseline medical situation.
43
Kết quả: Đặc điểm ban đầu của dân số nghiên cứu như sau: HbA1c trung bình là 9,8% với đường
huyết đói trung bình là 11 mg/dL; thời gian mắc đái tháo đường là 13,3 ± 8,33 năm; BMI trung bình
là 29,2 ± 5,86 kg/m2. Các lý do lựa chọn khởi trị hoặc chuyển đổi sang IDegAsp lần lượt (theo thứ tự
giảm dần của mức độ phổ biến) là: để cải thiện kiểm soát đường huyết, để giảm nguy cơ hạ đường
huyết, tính linh hoạt của phác đồ điều trị, số mũi tiêm ít hơn phác đồ basal – bolus, không cần lắc,
thay đổi chính sách bảo hiểm theo hướng tích cực với IDegAsp, và một số nguyên nhân khác. Kết
quả cho thấy IDegAsp làm giảm HbA1c và đường huyết đói so với trước điều trị lần lượt là 1,4% và
2,7 mmol/L (p<0,0001). Liều insulin nền ở những đối tượng đã sử dụng insulin trước đó giảm 2,3
đơn vị (p<0,001). Tỉ lệ hạ đường huyết không nặng (bao gồm hạ đường huyết chung và về đêm) và
hạ đường huyết nặng giảm có ý nghĩa (p<0,001) giữa thời kỳ trước khi bắt đầu nghiên cứu và trước
khi kết thúc nghiên cứu.
Kết luận: Nghiên cứu ARISE cho thấy trên bệnh nhân đái tháo đường típ 2, việc khởi trị hoặc chuyển
sang IDegAsp từ những liệu pháp điều trị đái thường trước đó liên quan đến cải thiện kiểm soát
đường huyết, giảm liều insulin nền trên bệnh nhân đã sử dụng insulin trước đó và giảm có ý nghĩa
tỉ lệ hạ đường huyết.
44
Quản lý bệnh nhân đái tháo đường cao tuổi gặp nhiều thách thức trong điều trị với nhiều bệnh
đồng mắc, kỳ vọng sống ngắn, đa thuốc, chế độ điều trị phức tạp, suy yếu và giảm nhận thức. Đặc
biệt, người cao tuổi dễ bị hạ đường huyết và dễ tổn thương vì hậu quả của hạ đường huyết như té
ngã, gãy xương, tăng tỉ lệ nhập viện, biến cố tim mạch và tử vong do mọi nguyên nhân. Quản lý,
đánh giá toàn diện để thiết lập mục tiêu điều trị cho người bệnh ĐT Đ cao tuổi là cần thiết. Đánh
giá tình trạng yếu cần là một bước thực hành thường quy trong quản lý bệnh nhân ĐT Đ cao tuổi,
và cần điều chỉnh các mục tiêu đường huyết và lựa chọn điều trị phù hợp.
Các lựa chọn điều trị đái tháo đường đã tăng lên nhanh chóng trong thời gian gần đây nhằm giúp
quản lý bệnh nhân tối ưu hơn. Trong đó, thuốc có lịch sử điều trị lâu nhất là metformin và SU.
Metformin là lựa chọn đầu tay ở bệnh nhân ĐTĐ, với hiệu quả kiếm soát đường huyết tốt. Thuốc
chống chỉ định ở bệnh nhân suy thận nặng, sử dụng thận trọng với bệnh nhân suy tim, suy giảm
chức năng gan, thận do có thể tăng nhiễm acid lactic. SU có hiệu quả kiểm soát đường huyết tốt,
tuy nhiên tăng nguy cơ hạ đường huyết cũng như tính an toàn tim mạch chưa rõ ràng. Các thuốc
kiểm soát đường huyết uống mới hiện nay bao gồm thuốc ức chế men DPP-4 và ức chế SGLT-2.
DPP-4i có tính dung nạp tốt, ít tác dụng phụ và giảm nguy cơ hạ đường huyết. Thuốc có tính hiệu
quả và an toàn ở bệnh nhân cao tuổi suy yếu tương tự ở bệnh nhân trẻ tuổi hơn. Trong nhóm DPP-
4i, linagliptin là thuốc mang lại tính hiệu quả, an toàn và đơn giản trong điều trị, thuốc sử dụng 1
liều duy nhất/ ngày, bất kể tình trạng chức năng gan, thận, hay bệnh lý nền của bệnh nhân. Thuốc
ức chế SGLT-2 cũng dễ dàng khởi trị ở bệnh nhân đái tháo đường. Thuốc giúp giảm biến cố và tử
vong tim mạch, giảm nhập viện do suy tim và bảo vệ thận ở bệnh nhân ĐTĐ. Trong nhóm SGLT-2i,
Empagliflozin được chỉ định để làm giảm nguy cơ tử vong ở bệnh nhân đái tháo đường. Hiện nay,
thuốc còn được chỉ định để làm giảm nguy cơ tử vong tim mạch và nhập viện do suy tim ở bệnh
nhân suy tim bất kể phân suất tống máu.
Management of elderly diabetic patients faces with many challenges including multiple comorbidities,
short life expectations, multidrug, poly-pharmacotherapy, frailty and cognitive impairment. In
particular, older adults are more prone to hypoglycaemia and are more vulnerable to its consequences,
including falls, fractures, hospitalisation, cardiovascular events and all-cause mortality. Accessment
and Comprehensive management to set appropriate treatment goals for elderly diabetic patients is
necessary. Assessment of frailty should be a routine component of a diabetes review for all older adults,
and glycaemic targets and therapeutic choices should be modified accordingly.
The pharmacological options for treating type 2 diabetes have increased greatly in recent years. The
two drug types with the longest history of use in type 2 diabetes are metformin and the SUs. Metformin is
widely regarded as a well-tolerated drug and it is routinely used as first-line therapy, with other agents
added over time, to maintain glycaemic control. It is contraindicated in severe renal failure and should
be used with caution in those with impaired hepatic function or cardiac failure due to increased risk of
lactic acidosis. SUs have had a more controversial history, with a well-documented hypoglycaemia risk
as well as concerns over CV safety. Oral dipeptidyl peptidase-4 inhibitors (DPP-4is) have few side effects
and are associ-ated with a minimal risk of hypoglycaemia [52]. They have been formally evaluated in frail
45
Tăng huyết áp là bệnh lý đồng mắc thường xuất hiện trên bệnh nhân đái tháo đường, làm tăng
đáng kể nguy cơ xuất hiện các biến chứng tim mạch và thận. Mục tiêu huyết áp <140/90 mmHg
được khuyến cáo cho bệnh nhân tăng huyết áp và đái tháo đường, và <130/80 mmHg trên bệnh
nhân đái tháo đường có yếu tố nguy cơ cao, bao gồm có trên 1 yếu tố nguy cơ tim mạch, bệnh tim
mạch, và bệnh thận mãn tính giai đoạn 3, 4 hoặc 5. Các bệnh nhân cao tuổi cần được đánh giá lão
khoa toàn diện để đưa ra phác đồ điều trị phù hợp, an toàn và hiệu quả. Nhóm thuốc ức chế thụ
thể angiotensin II (Irbesartan) dung nạp tốt khi điều trị đơn trị, cũng như kết hợp với các thuốc hạ
áp khác, giúp cải thiện khả năng tuân thủ điều trị và đã trở thành một trong những nhóm thuốc
chính trong điều trị tăng huyết áp giai đoạn 1 và 2. Trên bệnh nhân đái tháo đường và có albumin
niệu, Irbesartan làm giảm nguy cơ mắc bệnh thận giai đoạn cuối. Irbesartan đã được FDA công
nhận có hiệu quả kiểm soát huyết áp và bảo vệ thận trong cả giai đoạn đầu và giai đoạn cuối của
bệnh đái tháo đường.
Hypertension (BP) occurs frequently in patients with diabetes and, together, diabetes and hypertension
substantially increase the risk of cardiovascular and kidney disease. A general target BP of < 140/90
mmHg is recommended for patients with hypertension and diabetes mellitus, and BP should be
controlled to <130/80 mmHg in patients with diabetes mellitus who have high-risk clinical features,
including cardiovascular risk factor one or more, cardiovascular disease, and stage 3, 4, or 5 chronic
kidney disease. Older adults need a comprehensive geriatric assessment to develop an appropriate,
safe, and effective treatment. The Angiotensin receptor blockers (Irbesartan), are very well tolerated
as monotherapy as well as in combination with other anti-hypertensive medications that improve
adherence to therapy and have become a mainstay in the treatment of stage 1 and 2 hypertension. In
patients with diabetes and albuminuria, Irbesartan reduced risks of end-stage renal disease. Irbesartan
is an FDA-approved drug that effectively controls BP and protects the kidneys in both early and late
stages of diabetes.
46
Đặt vấn đề: Tăng acid uric máu không triệu chứng và thoái hóa khớp gối (THKG) là hai vấn đề
thường gặp ở người cao tuổi. Hai tình trạng này đều có chung một số yếu tố nguy cơ như tuổi tác
và BMI. Một số nghiên cứu quan sát thấy có mối liên quan giữa tăng acid uric máu và THKG thông
qua tác động cơ học tại chỗ và quá trình viêm. Tuy nhiên, dữ liệu về mối liên quan giữa hai vấn đề
này còn hạn chế, đặc biệt trên người cao tuổi.
Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan giữa tăng acid uric máu không triệu chứng và THKG ở người cao
tuổi tại phòng khám Nội cơ xương khớp và phòng khám Lão khoa, Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ
Chí Minh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, thực hiện trên 257 bệnh nhân cao
tuổi (≥ 60 tuổi) đến khám tại phòng khám Nội cơ xương khớp và phòng khám Lão khoa, bệnh viện
Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh từ tháng 11 năm 2020 đến tháng 05 năm 2021, với 195 bệnh nhân
THKG và 62 bệnh nhân không THKG. Các bệnh nhân được ghi các thông tin về nhân khẩu học, các
triệu chứng lâm sàng THKG, nồng độ acid uric máu và X-quang khớp gối.
Kết quả: Nồng độ acid uric máu trung bình ở nhóm THKG là 6,3 ± 1,74 mg/dL, cao hơn ở nhóm
không THKG là 5,71 ± 1,45 mg/dL với p=0,017. Tăng acid uric máu không triệu chứng là một rối loạn
thường gặp ở những bệnh nhân THKG cao tuổi (39% so với 19%, p=0,005). Sau khi hiệu chỉnh theo
tuổi, giới, BMI và một số tình trạng bệnh đồng mắc, ghi nhận tăng acid uric máu không triệu chứng
làm tăng tỉ lệ mắc THKG (OR 2,61, KTC 95% 1,22–5,60, p=0,013). Khi phân tích dưới nhóm theo giới
và BMI, mối liên quan giữa tăng acid uric máu không triệu chứng và THKG được ghi nhận ở nữ giới
(p=0,017) và nhóm có BMI bình thường – thiếu cân (p=0,009).
Kết luận: Tăng acid uric máu không triệu chứng là tình trạng đồng mắc thường gặp ở bệnh nhân
THKG cao tuổi. Sau khi hiệu chỉnh với các yếu tố gây nhiễu bao gồm tuổi, giới và BMI, ghi nhận có
mối liên quan độc lập giữa tăng acid uric máu không triệu chứng và thoái hóa khớp gối.
Từ khóa: thoái hóa khớp gối, tăng acid uric máu không triệu chứng, người cao tuổi
OBJECTIVE: To investigate the association between asymptomatic hyperuricemia and knee osteoarthritis
in older outpatients in Vietnam.
PATIENTS AND METHODS: This cross-sectional study included 257 older outpatients (195 in the knee
osteoarthritis group and 62 in the non-knee osteoarthritis group) aged ≥60 years (mean age 73.31 ±
7.96 years) attending rheumatologic and geriatric clinics from November 2020 to May 2021. Data were
collected for both groups, including demographics, symptoms and signs of knee osteoarthritis, serum
uric acid levels, and knee radiographs. The association between asymptomatic hyperuricemia and
knee osteoarthritis was assessed using logistic regression.
RESULTS: The mean serum uric acid level among patients with knee osteoarthritis was higher than
that among patients without knee osteoarthritis (6.3 ± 1.74 mg/dL versus [vs.] 5.71 ± 1.45 mg/dL, p =
0.017). Hyperuricemia was more common among older outpatients with knee osteoarthritis than
47
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ trầm cảm sau đột quỵ trong năm đầu tiên và các yếu
tố liên quan, đặc biệt tập trung vào chất lượng giấc ngủ và mức độ mệt mỏi.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 157 bệnh nhân đột quỵ tại Bệnh viện Lão
khoa Trung ương. Dữ liệu được thu thập bằng cách sử dụng bảng câu hỏi đã được chuẩn hóa nhằm
phỏng vấn và đánh giá bệnh nhân tại địa điểm nghiên cứu. Một số hiệp biến đã được trình bày bao
gồm nhân khẩu học, các đặc điểm liên quan đến đột quỵ, các hoạt động sinh hoạt hàng ngày, mệt
mỏi sau đột quỵ và chất lượng giấc ngủ (thang đo Chỉ số chất lượng giấc ngủ Pittsburgh (Pittsburgh
Sleep Quality Index - PSQI). Trầm cảm sau đột quỵ được đánh giá như một biến kết quả thông qua
thang điểm Patient Health Questionnaire-9 (PHQ-9). Nhằm mô tả các biến số xã hội học và lâm
sàng, thống kê mô tả đã được thực hiện. Mô hình hồi quy logistic được sử dụng để khám phá các
yếu tố liên quan đến trầm cảm sau đột quỵ.
Kết quả: Trầm cảm sau đột quỵ được tìm thấy ở 38,2% bệnh nhân tham gia nghiên cứu, với tuổi
trung bình là 73,1 (Độ lệch chuẩn (ĐLC): ± 9,6). Tổng điểm và điểm các thành phần của thang đo
PSQI của nhóm có trầm cảm cao hơn so với nhóm không bị trầm cảm sau đột quỵ. Ngoài ra, những
bệnh nhân được xác định trầm cảm sau đột quỵ có điểm số thang đo Hoạt động sinh hoạt hàng
48
Purpose: This study aimed to determine the prevalence of post-stroke depression (PSD) during the first
year and its associated factors, especially focusing on sleep quality and fatigue severity.
Methods: A cross-sectional study was conducted among 157 stroke patients in Vietnam’s National
Geriatric Hospital. Data was collected by using standardized questionnaires for interviewing and
evaluating patients at the research site. Several covariables were presented including demographics,
stroke-related characteristics, activities of daily living, post-stroke fatigue, and sleep quality (Pittsburgh
Sleep Quality Index (PSQI) scale). PSD was assessed as an outcome variable through the Patient Health
Questionnaire-9 scale. To summarize sociodemographic and clinical variables, descriptive statistics
were performed. The logistic regression model was used to explore the factors related to PSD.
Results: PSD was found to be prevalent in 38.2 percent of patients with a mean age of 73.1 (SD = ±9.6).
The global score and all PSQI components of participants with PSD showed higher levels than those
without depression. Furthermore, the prevalence of PSD was higher in patients with low IADL scores
and functional disability at high levels. In multivariate logistic regression analysis, PSD patients showed
higher Fatigue Severity Scale (FSS) scores (OR = 4.11; 95%CI = 1.39; 12.19), and higher scores in two
domains of the PSQI scale, including subjective sleep quality (OR = 3.03; 95%CI = 1.21; 7.58) and sleep
disturbance (OR = 5.22; 95%CI = 1.33; 20.47).
Conclusion: We report a significant prevalence of depression following stroke. Furthermore, post-stroke
fatigue and two PSQI scale components (subjective sleep quality and sleep disturbance) were shown
to be associated with PSD. This finding may guide early screening and intervention strategies to limit
depression following stroke.
Keywords: Stroke; Depression; Sleep Quality; Fatigue
49
Sarcopenia là một bệnh phổ biến có thể dẫn đến suy giảm chức năng, tăng nguy cơ ngã và
chấn thương, nhập viện và tử vong đồng thời làm tăng chi phí chăm sóc sức khỏe ở người cao tuổi.
Nghiên cứu này nhằm xác định một số yếu tố liên quan với các thành tố của đánh giá lão khoa
toàn diện (CGA) ở những người bệnh sarcopenia cao tuổi. Nghiên cứu mô tả cắt ngang đã được
thực hiện trên 367 bệnh nhân sarcopenia ≥ 60 tuổi khám và điều trị tại Bệnh viện Lão khoa Trung
ương. Các thành phần của CGA được đánh giá thông qua phỏng vấn và khám lâm sàng, bao gồm:
tình trạng dinh dưỡng, sử dụng nhiều thuốc, đa bệnh lý, thị lực, thính lực, tiểu không tự chủ, táo
bón, chức năng nhận thức, trầm cảm, rối loạn giấc ngủ, hoạt động chức năng hàng ngày (ADL),
hoạt động chức năng hàng ngày có sử dụng dụng cụ (IADL), nguy cơ ngã, khả năng vận động, mức
độ hoạt động thể lực và hội chứng dễ bị tổn thương. Kết quả nghiên cứu cho thất tỷ lệ suy giảm
các thành tố của CGA khá cao. Nữ có nguy cơ ngã cao hơn nam (p <0,05). Bệnh nhân ≥ 75 tuổi có
tỷ lệ các thành tố của CGA (ngoại trừ giảm thính lực, táo bón, rối loạn giấc ngủ) cao hơn có ý nghĩa
thống kê so với nhóm <75 tuổi. Người bệnh sarcopenia nặng có tỷ lệ các thành tố của CGA (ngoại
trừ sử dụng nhiều thuốc, chỉ số charlson ≥4) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm sarcopenia
không nặng. Nghiên cứu này nhấn mạnh rằng tuổi cao và sarcopenia nặng liên quan đến hầu hết
các thành phần của đánh giá lão khoa toàn diện ở đối tượng nghiên cứu.
Từ khóa: Yếu tố liên quan; đánh giá lão khoa toàn diện; sarcopenia; người cao tuổi
Sarcopenia is a common disease which may lead to functional impairment, increased risk of falls
and injuries, hospitalizations and deaths while increasing health care costs among the elderly. This
study aimed to identify factors associated with components of a comprehensive geriatric assessment
(CGA) in older people with sarcopenia. A cross-sectional study was conducted among 367 sarcopenic
patients aged ≥ 60 years old treated at the National Geriatric Hospital. Components of CGA were
assessed through interview and physical examination, consists of nutritional status, polypharmacy,
comorbidities, visual acuity, hearing, urinary incontinence, constipation, cognition, depression, sleep
disturbance, activity daily living (ADL), instrumental activity daily living (IADL), fall risk, mobility, physical
activity level and frailty syndrome. The results showed that prevalence of impairment in components
of the CGA was high. Female are more likely to fall than male (p<0.05). Patients ≥ 75 years old has a
statistically significant higher proportion of components of CGA (except hearing loss, constipation, sleep
disturbance) compared with the group <75 years old. Patients with severe sarcopenia has a statistically
significant higher proportion of components of CGA (except polypharmacy, charlson index ≥4) compared
with the non-severe sarcopenia group. This study highlights that advanced age and severe sarcopenia
associated with most components of a comprehensive geriatric assessment in this population.
Keywords: Related factor; comprehensive geriatric assessment; sarcopenia; older person
50
Nghiên cứu cắt ngang nhằm ước tính tỷ lệ hiện mắc suy giảm nhận thức (SGNT) và một số yếu tố
liên quan trên 2033 người cao tuổi được chọn ngẫu nhiên tại 12 xã thuộc 3 tỉnh Hà Nội, Ninh Bình
và Quảng Bình. Đối tượng nghiên cứu được phỏng vấn trực tiếp bằng một bộ câu hỏi cấu trúc thiết
kế sẵn trong đó bao gồm: trắc nghiệm đánh giá trạng thái tâm thần tối thiểu (MMSE), các thông tin
nhân khẩu và kinh tế xã hội. Kết quả cho thấy tại điểm cắt 23/24, tỷ lệ hiện mắc SGNT là 36,1%. Các
yếu tố làm tăng nguy cơ SGNT sau khi phân tích hồi quy logistic đa biến bao gồm tuổi cao, trình độ
học vấn thấp, công việc chính là lao động chân tay, nơi sinh sống, và giới tính nữ. Chưa thấy mối
liên quan giữa các yếu tố tình trạng lao động hiện tại và nguồn thu nhập chính.
Từ khoá: suy giảm nhận thức, người cao tuổi, trắc nghiệm đánh giá trạng thái tâm thần tối thiểu
(MMSE).
This cross-sectional study aimed to estimate the prevalence of cognitive impairment and analyze some
related factors among two thousand and thirty three older adults randomly selected in 12 communes
of 3 provinces Ha Noi, Ninh Binh and Quang Binh. All participants were directly interviewed using a
structured questionnaire that included the mini-mental state examination (MMSE), demographic and
socioeconomic information. The results show that, at the cut-off point 23/24 of MMSE, the prevalence of
cognitive impairment is 36.1%. In multivariable logistic regression analysis, risk factors were statistically
significantly associated with cognitive impairment include higher age, lower education level, main
occupation as manual labor, living in the central, and female. There was no association found between
cognitive impairment and working status and the main source of income.
Keywords: cognitive impairment, elderly, the mini-mental state examination (MMSE).
51
Đánh giá lão khoa toàn diện là phương pháp chẩn đoán liên ngành, đa chiều để xác định tất cả các
khía cạnh của người cao tuổi, từ đó phát triển một kế hoạch phối hợp đầy đủ để điều trị và theo
dõi lâu dài. Nghiên cứu nhằm mô tả kết quả bước đầu đánh giá lão khoa toàn diện ở người cao tuổi
có hội chứng dễ bị tổn thương tại Khoa Lão khoa - Bệnh viện E từ tháng 8/2022 – 10/2022. Nghiên
cứu mô tả cắt ngang trên 80 bệnh nhân ≥ 60 tuổi được chẩn đoán hội chứng dễ bị tổn thương theo
tiêu chuẩn Fried. Kết quả cho thấy tuổi trung bình chung của đối tượng nghiên cứu là 77±7.04
tuổi; phần lớn là nữ giới (64.6%). Đánh giá về tình trạng sức khỏe y tế: điểm Charlson trung bình
2,1±1,33; tổng số thuốc bệnh nhân đang sử dụng là 7,04±2,17 thuốc; tình trạng dinh dưỡng MNA-
SF là 11,33±1,98 điểm; điểm CLCS EQ-5D-5L trung bình 51,87±6,09. Đánh giá chức năng thể chất:
điểm hoạt động chức năng hàng ngày IADL 4,83±2,1; điểm ADL 4,14±1,86; toàn bộ bệnh nhân hoàn
thành test TUG với thời gian trung bình 20,42±8,06 phút; phần lớn các đối tượng có mức hoạt động
thể lực thấp và trung bình (80,4%); khả năng tự chăm sóc theo thang điểm SASE là 53,67±4,07.
Đánh giá thần kinh – tâm thần: điểm chức năng nhận thúc MMSE 26,84±1,36, điểm trầm cảm GDS
0,57±2,28, điểm chất lượng giấc ngủ PSQI 9,33±3,89. Hội chứng lão khoa có 37,5% tiểu không tự
chủ, 43,8% bị táo bón cơ năng; phần lớn bệnh nhân có giảm thị lực 68,5%, giảm thính lực 65,3%.
Kết quả cho thấy cần xác định sớm các vấn đề sức khỏe của người cao tuổi có hội chứng dễ bị tổn
thương, từ đó có chiến lược can thiệp và điều trị đặc hiệu nhằm giảm thiểu gánh nặng bệnh tật và
chi phí cho xã hội.
Từ khóa: đánh giá lão khoa toàn diện, hội chứng dễ bị tổn thương, Bệnh viện E
52
Đặt vấn đề: Tăng huyết áp là một bệnh mạn tính phổ biến ở Việt Nam. Kiến thức của người bệnh
tăng huyết áp về bệnh là yếu tố quan trọng trong mô hình chăm sóc sức khỏe mạn tính. Cần có một
thang điểm tin cậy và thống nhất để đánh giá kiến thức và kỹ năng tự quản lý của người bệnh. Mục
tiêu: đánh giá độ tin cậy của bộ câu hỏi HELM Knowledge Scales phiên bản tiếng Việt đồng thời
mô tả một số đặc điểm kiến thức về tăng huyết áp của người trưởng thành đến khám tại Bệnh viện
Đại học Y Hà Nội. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang với 184 đối
tượng tham gia nghiên cứu tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Độ tin cậy của thang điểm được đánh
giá thông qua hệ số Cronbach’s Alpha. Đặc điểm kiến thức về tăng huyết áp được thể hiện bằng
số điểm trung bình, sự khác biệt khi so sánh giữa các nhóm được tính bằng test Khi bình phương,
Fisher’s test và T-test. Kết quả: Nghiên cứu cho thấy bộ câu hỏi có độ tin cậy phù hợp với hệ số
Cronbach’s Alpha là 0,728. Điểm kiến thức trung bình trên thang điểm 14 là 5,8 ± 2,016. Kết quả
điểm kiến thứ cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa điểm trung bình giữa các nhóm
tuổi (p = 0,000 < 0,05).Kết luận: Thang điểm HELM Knowledge Scales phiên bản tiếng Việt là một
công cụ đáng tin cậy và hoàn toàn có thể được áp dụng rộng rãi hơn trong cả nghiên cứu và quản
lý bệnh tăng huyết áp của cộng đồng.
Từ khóa: tăng huyết áp, kiến thức, đánh giá độ tin cậy.
53
Tỷ lệ thừa cân và béo phì trên toàn cầu đang gia tăng với tốc độ đáng báo động, với các dự báo ước
tính số lượng người bị ảnh hưởng sẽ đạt lần lượt 1.35 tỷ và 573 triệu người vào năm 20301. Vào năm
2021, khoảng 3.7 triệu người Việt Nam trưởng thành được báo cáo là thừa cân có bệnh mắc kèm
hoặc béo phì2.
Một số hiệp hội nổi bật, công nhận béo phì là một bệnh nguyên phát tái phát mãn tính đặc trưng
bởi sự tích tụ quá mức và lưu trữ chất béo trong cơ thể4, 5, 6, 7. Béo phì có liên quan đến nhiều bệnh
đi kèm nghiêm trọng, bao gồm tăng huyết áp, tiểu đường loại 2 (T2D), bệnh tim mạch, viêm xương
khớp và một số loại ung thư8, 9, 10. Sự gia tăng liên tục của tỷ lệ béo phì khiến cho việc phòng ngừa
và điều trị sức khỏe cộng đồng trở nên ưu tiên bởi vì nó đã được chứng minh rằng sự gia tăng BMI
có tương quan với việc giảm tuổi thọ và các bệnh kèm theo11, 12, 13.
Mặc dù nó đã được chứng minh rằng giảm cân từ 5% đến 10% có thể cung cấp những cải thiện có
liên quan đến lâm sàng trong các bệnh đi kèm béo phì và chất lượng cuộc sống14, 15, 16, 17, 18, 19, giảm
cân trung bình đạt được từ can thiệp lối sống là 3%, điều này không dẫn đến cải thiện đáng kể các
chỉ số lâm sàng20. Đối với một số cá nhân, liệu pháp dược lý và phẫu thuật giảm béo được khuyến
nghị để quản lý cân nặng dài hạn7, 21, 22, 23 và có thể đóng vai trò bổ sung hiệu quả cho các phương
pháp tiếp cận truyền thống. Trên thực tế, can thiệp dược lý, như một biện pháp bổ trợ cho can
thiệp lối sống, được khuyến nghị để hỗ trợ giảm các triệu chứng liên quan đến béo phì cho người
lớn thích hợp bị thừa cân hoặc béo phì không đạt được hoặc không thể duy trì giảm cân quan trọng
về mặt lâm sàng với liệu pháp ăn kiêng và tập thể dục21.
Liraglutide, một chất chủ vận thụ thể glucagon acylated‐like peptide 1 (GLP‐1) với 97% tương đồng
với GLP‐1 của con người, được sử dụng để kiểm soát đường huyết trong T2D nhưng cũng là một
chất có tác dụng điều chỉnh sinh lý sự thèm ăn24, 25, 26. Vào năm 2020, Liraglutide đã được chấp
thuận sử dụng ở Việt Nam với liều hàng ngày là 3,0 mg để quản lý cân nặng, như một chất hỗ trợ
cho chế độ ăn giảm calo và tăng hoạt động thể chất27. Hiệu quả lâm sàng của liraglutide 3.0 mg đã
được chứng minh trong các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng. Mặc dù các thử nghiệm
lâm sàng này cung cấp nhiều thông tin có giá trị về an toàn và hiệu quả, nhưng dữ liệu thu được từ
dân số cụ thể và được kiểm soát cao trong các thử nghiệm có thể không ứng dụng trong thế giới
thực28. Bệnh nhân trong thế giới thực phải chịu một môi trường không được kiểm soát và thường
trải qua một loạt các bệnh đi kèm và tuân thủ điều trị khác nhau. Mặc dù có một số nghiên cứu mở
rộng, hiệu quả lâm sàng thực tế của liraglutide 3.0 mg vẫn chưa được điều tra. Bài trình bày của
chúng tôi sử dụng dữ liệu về hiệu quả lâm sàng của điều trị liraglutide 3.0 mg, kết hợp với chế độ
ăn uống và tập thể dục, trong số một mẫu bệnh nhân thế giới thực.
Global rates of overweight and obesity are increasing at an alarming rate, with projections estimating
the number of afflicted individuals to reach 1.35 billion and 573 million, respectively, by 20301. In 2021,
roughly 3.7 million adult Vietnamese were reported as having overweight (with comorbidities) or
obesity2.
Several prominent associations, recognize obesity as a chronic relapsing primary disease characterized
by excessive accumulation and storage of fat in the body4, 5, 6, 7. Obesity is associated with many serious
comorbidities, including hypertension, type 2 diabetes (T2D), cardiovascular disease, osteoarthritis,
and certain types of cancer8, 9, 10. The continued rise in the prevalence of obesity makes prevention and
54
Nguồn/References:
1.Kelly T, Yang W, Chen CS, Reynolds K, He J. Global burden of obesity in 2005 and projections to
2030. Int J Obes (Lond) 2008;32:1431‐1437.
2.DeltaMV 2021, Building the obesity market in Vietnam
3.Canadian Medical Association (CMA) . Obesity as a chronic medical disease. Policy resolution.
https://policybase.cma.ca/en. Published October 3, 2015. [Google Scholar]
4.Mechanick JI, Garber AJ, Handelsman Y, Garvey WT. American Association of Clinical Endocri-
nologists’ position statement on obesity and obesity medicine. Endocr Pract 2012;18:642‐648.
[PubMed] [Google Scholar]
5.US Department of Health and Human Services; Food and Drug Administration; Center for Drug
Evaluation and Research . Guidance for Industry Developing Products for Weight Management.
Rockville, MD: Food and Drug Administration; 2007. [Google Scholar]
6.Jastreboff AM, Kotz CM, Kahan S, Kelly AS, Heymsfield SB. Obesity as a disease: The Obesity
Society 2018 position statement. Obesity (Silver Spring) 2019;27:7‐9. [PubMed] [Google Scholar]
7.Public Health Agency of Canada; Canadian Institute for Health Information . Obesity in Canada:
A Joint Report From the Public Health Agency of Canada and the Canadian Institute for Health
Information. Ottawa, Canada: Public Health Agency of Canada, The Canadian Institute for Health
Information; 2011. [Google Scholar]
8.Tjepkema M. Adult obesity. Health Rep 2006;17:9‐25. [PubMed] [Google Scholar]
9.Fujioka K, Sparre T, Sun LY, Krogsgaard S, Kushner RF. Usability of the novel liraglutide 3.0 mg
pen injector among overweight or obese adult patients with or without prior injection experience.
J Diabetes Sci Technol 2015;10:164‐174. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]
10.Malnick SD, Knobler H. The medical complications of obesity. QJM 2006;99:565‐579. [PubMed]
[Google Scholar]
11.Nagai M, Kuriyama S, Kakizaki M, et al. Impact of obesity, overweight and underweight on life ex-
pectancy and lifetime medical expenditures: the Ohsaki Cohort Study. BMJ Open 2012;2:e000940.
55
56
Khi dùng đơn trị, fibrate là thuốc có thể làm giảm triglyceride nhiều nhất, sau đó là niacin,
axit béo omega-3, statin và ezetimibe. Mặc dù statin đã cho thấy lợi ích trong các phân nhóm có
hoặc không có mức triglyceride cao, fibrates thường được chứng minh là mang lại lợi ích lớn hơn
trong các phân nhóm có mức triglyceride tăng cao và HDL-C thấp. Trong nhóm fibrate, fenofibrate
được chứng minh làm giảm nguy cơ bệnh mạch máu nhỏ, giảm tiến triển của bệnh võng mạc đái
tháo đường và tỷ lệ đoạn chi. Hướng dẫn điều trị trên bệnh nhân đái tháo đường typ 2 khuyến cáo
xem xét phối hợp fenofibrate khi TG >200mg/dl và HDL-C thấp, đặc biệt khi có bệnh lý võng mạc.
Nghiên cứu ACCORD cũng chứng minh fenofibrate an toàn, dễ sử dụng và có thể phối hợp cùng với
statin. Khuyến cáo từ ADA 2014 phối hợp statin với fibrate hoặc statin với niacin có thể hiệu quả
trong việc điều trị cả 3 loại thông số lipid máu. Nếu HDL-C < 40 mg/dl và LDL-C 100-129 mg/dl có
thể dùng fibrate hoặc niacin, đặc biệt với những bệnh nhân không dung nạp statin.
Tóm lại, Non-HDL-c là một mục tiêu điều trị toàn diện để đánh giá nguy cơ tim mạch cho bệnh
nhân, đặc biệt trên đối tượng đái tháo đường, béo phì và TG tăng. Kiểm soát chỉ số Non-HDL-c
chính là đồng thời kiểm soát cả LDL-c và TG bằng liệu pháp phối hợp statin và fibrate. Trong đó
fenofibrate được khuyến cáo nên phối hợp với statin để phòng ngừa thêm nguy cơ tim mạch tồn
dư với tính an toàn được chứng minh qua nhiều dữ liệu lâm sàng
57
Kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 cao tuổi đòi hỏi sự đánh giá toàn diện về
các lĩnh vực lão khoa, bao gồm chức năng các hệ cơ quan, tâm lý, nhận thức và xã hội. Việc điều trị
tích cực nhằm phòng ngừa các biến chứng cấp tính và mạn tính, là một nhiệm vụ ưu tiên nhưng có
nhiều thách thức trong việc lựa chọn mục tiêu và phương pháp điều trị trên bệnh nhân cao tuổi.
Một trong các trở ngại chính là nguy cơ hạ đường huyết, dễ xảy ra hơn và hậu quả nặng nề hơn.
Hạ đường huyết có liên quan đến nguy cơ tim mạch, chấn thương, nhập viện và tỉ lệ tử vong tăng.
Do đó, điều quan trọng là phải cá nhân hóa các mục tiêu đường huyết, giáo dục bệnh nhân về hạ
đường huyết và lựa chọn cách điều trị phù hợp với ít nguy cơ gây hạ đường huyết.
Hiện nay có nhiều loại thuốc chống tăng đường huyết có thể lựa chọn và phối hợp điều trị. Met-
formin vẫn là thuốc được ưu tiên lựa chọn đầu tay. Những nhóm thuốc mới như ức chế SGLT2 hay
đồng vận thụ thể GLP1 chứng tỏ có lợi ích trên những nhóm bệnh nhân chuyên biệt như có bệnh
tim mạch, suy tim hay có bệnh thận mạn nhưng bằng chứng thử nghiệm trên bệnh nhân cao tuổi
còn hạn chế. Insulin vẫn là một thuốc quan trọng để kiểm soát đường huyết nhưng cần lựa chọn
loại insulin ít gây hạ đường huyết và phác đồ tiêm đơn giản cho bệnh nhân cao tuổi.
Nhóm ức chế men DPP4, có đặc tính hiệu quả và an toàn cao với nguy cơ gây hạ đường huyết thấp
do cơ chế tăng tiết insulin phụ thuộc glucose. Thuốc có nhiều chứng cứ an toàn qua các thử ng-
hiệm lâm sàng trên quần thể bệnh nhân cao tuổi và là một lựa chọn tốt phù hợp cho bệnh nhân
đái tháo đường típ 2 cao tuổi.
Glycemic control in elderly type 2 diabetic patients requires a comprehensive assessment, including
functional, psychological, cognitive, and social geriatric domains. Intensive treatment aimed at
preventing acute and chronic complications, is a priority task but there are many challenges in selecting
targets and treatments in elderly patients. One of the main challenges is the risk of hypoglycemia, which is
more frequent and more severe consequences in the elderly. Hypoglycemia is associated with increased
cardiovascular risk, injury, hospitalization, and mortality. Therefore, it is important to individualize
glycemic targets, educate patients about hypoglycemia, and choose the suitable treatment with less
risk of hypoglycemia.
There are now many antihyperglycemic drugs that can be selected and combined for treatment.
Metformin remains the preferred drug of the first choice. New classes of drugs such as SGLT2 inhibitors
or GLP1 receptor agonists have shown benefit in specific patient groups such as with cardiovascular
disease, heart failure or chronic kidney disease, but the experimental evidence from clinical trials in
elderly patients is scattered. Insulin is still an important drug for glycemic control, but only insulin types
with low risk of hypoglycemia and a simple injection regimen should be used for elderly patients.
DPP4 inhibitors are highly effective and safety with a low risk of hypoglycemia due to its glucose-
dependent insulin secretion mechanism. There is ample evidence of safety in clinical trials in older
population, and a good choice for elderly patients with type 2 diabetes.
58
I.Đặt vấn đề
Đái tháo đường làm gia tăng thêm tử vong và bệnh tim mạch, ĐTĐ liên quan đến tăng nguy cơ
bệnh mạch vành, đột quỵ, bệnh động mạch ngoại biên, suy tim và bệnh thận mạn1. Tử suất tăng
gấp đôi ở người ĐTĐ22. Tác động của ĐTĐ2 trên tử vong do mọi nguyên nhân tương đương với
nguy cơ ở người đã có tiền sử bệnh tim mạch3
Các thuốc hạ đường huyết chính ảnh hưởng lên cân nặng và lợi ích tim mạch: metformin, SU, ức
chế DPP-4, ức chế SGLT-2, insulin4
Theo ADA 2022: GLP-1 Ras (liraglutide, semaglutide (SQ), dulaglutide) có lợi ích trên tim mạch xơ
vữa
II.Bệnh án & xử trí
•Bệnh Nhân N: N.K.H 69 tuổi
-Cân nặng: 57 kg
-Chiều cao: 155 cm
-BMI: 23.73
-Triệu chứng: Tức ngực, khó thở.
-Chẩn đoán lâm sàng: Bệnh lý tăng huyết áp- Đái tháo đường type II nhiều năm– Rối loạn chuyển
hóa lipid máu. Bệnh trào ngược dạ dày - thực quản-Rối loạn chức năng tiền đình.Cơn đau thắt
ngực. MSCT: Hẹp MV LADII 70-80%
-> Bệnh nhân xin từ từ chụp và can thiệp mạch vành do kinh tế.
III.Kết luận:
1-Đái tháo đường làm tăng tốc vòng xoắn bệnh lý: Béo phì-Tăng huyết áp-Đái tháo đường-Hẹp
mạch vành. Các biện pháp: nong stent-Mổ bắc cầu đều nhanh bị tái hẹp và tắc lại hoàn toàn. Cuối
cùng dẫn đến suy tim-Tử vong.
2-Đái tháo đường: ngoài theo dõi đường huyết-HbA1C nên Siêu âm mạch cảnh-Mạch ngoại biên
định kỳ-CT mạch vành khi có chỉ định.
3-Khi có hẹp mạch vành, mạch cảnh, mạch ngoại biên ≥50% hoặc đã có nhồi máu cơ tim, nhũn
não, stent mạch vành nên ưu tiên dùng GLP_1 trước khi dùng Insulin.
Nguồn:
1. Zareini B, et al. Circ Cardiovasc Qual Outcomes. 2020;13(7):e006260.
2. Lin X, et al. Sci Rep. 2020;10:14790.
3. Doshi SM and Friedman AN. Clin J Am Soc Nephrol. 2017;12(8):1366–1373.
4. American Diabetes Association. Diabetes Care. 2021;44:S111-24.
59
Đái tháo đường týp 2 (đái tháo đường típ 2) là một bệnh rối loạn chuyển hóa đặc trưng bởi nồng độ
đường huyết tăng cao mãn tính do đề kháng insulin. Đây là một mối quan tâm nghiêm trọng về sức
khỏe cộng đồng toàn cầu, gây nên gánh nặng đáng kể đối với sức khỏe của bệnh nhân và gia tăng
chi phí cho ngành y tế cũng như toàn xã hội. Tại Việt Nam - một quốc gia có thu nhập trung bình
thấp, có hơn 4 triệu Người lớn mắc bệnh đái tháo đường theo số liệu từ IDF 2021. Trong số đó, chỉ
có 1/3 được chẩn đoán, trong số được chẩn đoán chỉ có 1/3 được điều trị và đặc biệt, trong số bệnh
nhân được điều trị, chỉ có 1/3 đạt đường huyết mục tiêu HBA1C dưới 7%.
Đạt được và duy trì kiểm soát chặt chẽ đường huyết là nền tảng quan trọng của quản lý bệnh đái
tháo đường típ 2 và được cho là cơ bản trong việc phòng tránh và trì hoãn các biến chứng mạch
máu nhỏ và mạch máu lớn. Do đó, điều cấp thiết là các thuốc hạ đường huyết, đặc biệt các thuốc
dạng uống phải có hiệu quả trong việc kiểm soát đường huyết và chứng minh tính an toàn dài hạn.
Bài trình bày sẽ chia sẻ các hướng dẫn mới nhất trong điều trị đái tháo đường như WHO/ IDF/ ADA/
Bộ y tế, phân tích ưu – nhược điểm và khả năng áp dụng của các hướng dẫn này đối với bệnh nhân
Việt Nam. Một số lưu ý quan trọng bao gồm:
- Mục tiêu điều trị cho đa số bệnh nhân là HbA1c <7%
- Tiếp cận điều trị cần tổng hòa các yếu tố liên quan đặc điểm bệnh nhân ( hiệu quả - an toàn – khả
năng tiếp cận) và đặc biệt là các bệnh lý đi kèm như bệnh tim mạch do xơ vữa hoặc bệnh thận mạn;
hạn chế nguy cơ hạ đường huyết; cần ưu tiên giảm cân; chi phí và khả năng tiếp cận
- Tối ưu các thuốc thiết yếu (metformin và SU thế hệ mới - gliclazide), sẵn có với chi phí hợp lý, kết
hợp thay đổi lối sống, cải thiện tuân thủ vẫn là một chiến lược phù hợp với các quốc gia có thu
nhập thấp – trung bình như Việt Nam
ADA 2022 khuyến cáo điều trị cho bệnh nhân đái tháo đường cần cá thể hóa, yếu tố an toàn – tỷ lệ
hạ đường huyết thấp cần được cân nhắc cho tất cả bệnh nhân đặc biệt là người lớn tuổi.
ADA 2022 khuyến cáo lựa chọn các thuốc không có/ ít nguy cơ hạ đường huyết. Với nhóm SU – cần
ưu tiên lựa chọn SU thế hệ mới với các bằng chứng về độ an toàn.
Gliclazide MR là một SU có bằng chứng về hiệu quả tốt nhưng tỷ lệ hạ đường huyết thấp, kể cả trên
những đối tượng nhạy cảm với hạ đường huyết
60
Theo ước tính của liên đoàn Đái tháo đường (ĐTĐ) thế giới, năm 2017, Việt Nam có xấp xỉ 3,53 triệu
người mắc bệnh ĐTĐ, con số này tương đương với 6% dân số trưởng thành. Nếu không được chữa
trị và theo dõi hợp lý, bệnh ĐTĐ có thể dẫn đến những biến chứng đe dọa đến tính mạng như mù
lòa, tổn thương thần kinh nặng (dẫn đến nhiễm trùng và phải cắt cụt chi) và bệnh lý tim mạch (đột
quỵ, nhồi máu cơ tim). Thuốc dùng để chữa bệnh nhưng chỉ có nhân viên y tế mới có thể cứu được
người bệnh, với thông điệp đó thì không thể không kể đến người đồng hành với các bác sỹ là các
điều dưỡng viên. Khi số người mắc bệnh tiểu đường tiếp tục tăng trên toàn thế giới, vai trò của
điều dưỡng và các nhân viên hỗ trợ trong lĩnh vực y tế ngày càng trở nên quan trọng đặc biệt trong
việc quản lý nhằm giảm thiếu các tác động của tình trạng bệnh lý và biến chứng ĐTĐ đến người
bệnh. Vai trò của người điều dưỡng: có thể đào tạo, tư vấn và chăm sóc cho người bệnh ĐTĐ. Ngoài
ra, theo thống kê chúng ta sẽ cần tới 6 triệu điều dưỡng trên toàn cầu để chăm sóc sức khỏe cộng
đồng. Do vậy, điều dưỡng cũng là một nhân tố đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quản lý bệnh
Đái tháo đường.
According to the International Diabetes Federation, in 2017, Vietnam had approximately 3.53 million
people with diabetes, this number is equivalent to 6% of the adult population. Without appropriate
treatment and monitoring, diabetes can lead to life-threatening complications such as blindness, severe
nerve damage (leading to infection and amputation), and cardiovascular diseases (stroke, myocardial
infarction, etc). Medicines are used to treat diseases, but only physicans can save patients, with that
message, it is impossible not to mention the companions of doctors who are nurses. As the number of
people with diabetes continues to increase worldwide, the role of nurses and support staff in the health
sector is becoming increasingly, particularly in managing diabetes to minimize the complications. The
role of the nurse should be training, advising and caring for people with diabetes. In addition, accord-
ing to statistics, we will need up to 6 million nurses globally to take care of the public health. Therefore,
nursing is also an important staff in diabetes management.
VAI TRÒ BÙ TRỪ TIỀN ĐÌNH TRONG KIỂM SOÁT CHÓNG MẶT
ROLE OF VESTIBULAR COMPENSATION IN MANAGEMENT OF VERTIGO
PGS.TS.BS. Nguyễn Thanh Bình
Bộ môn Thần kinh – Trường Đại học Y Hà Nội
Khoa Thần kinh và Bệnh Alzheimer- BV Lão khoa Trung ương
Chóng mặt là triệu chứng thường gặp trên lâm sàng. Chóng mặt do nguyên nhân tiền đình ngoại
biên là chính. Bù trừ tiền đình là cơ chế tự nhiên giúp cơ thể tự hồi phục, do đó các thuốc ức chế
tiền đình chỉ nên sử dụng thời gian ngắn. Betahistine không ức chế cơ chế bù trừ tiền đình mà
ngược lại, giúp kích thích tiền đình, hết triệu chứng chóng mặt và phục hồi thăng bằng. Betahistine
liều 48 mg/ngày có hiệu quả trong điều trị chóng mặt đã được chứng minh qua các nghiên cứu.
61
Mục tiêu: nghiên cứu hiệu quả và tính an toàn của Cerebrolysin trong điều trị thường quy cho bệnh
nhân nhồi máu não cấp
Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu đa trung tâm, tiến cứu, có đối chứng, không can thiệp
thu nhận 398 bệnh nhân nhồi máu não cấp (234 nam), điều trị Cerebrolysin (190, liều 10ml/ngày
truyền tĩnh mạch, trong 20 ngày), so sánh với các thuốc dinh dưỡng thần kinh khác (86 bệnh nhân)
và nhóm phối hợp (122 bệnh nhân). Biến nghiên cứu chính là điểm Rankin cải biến ngày 90. Biến
nghiên cứu phụ: sự thay đổi của điểm NIHSS trong thời gian nghiên cứu, Tỷ lệ hồi phục tốt (mRS=
0-2), tỷ lệ đáp ứng tốt theo điểm NIHSS (≥6 điểm), điểm MoCA ngày 90, và các chỉ dấu của độ an
toàn
Kết quả : so với các thuốc dinh dưỡng thần kinh khác, cả liệu pháp dùng Cerebrolysin đơn trị và
phối hợp đều tạo ra sự cải thiện đáng kể (p<0,001) về sự hồi phục chức năng (điểm mRS), tỷ lệ
bệnh nhân hồi phục tốt (Cerebrolysin đơn trị: 81,6%; phối hợp: 93,4% và các thuốc dinh dưỡng
thần kinh khác: 43,0%); hồi phục thần kinh (thay đổi điểm NIHSS trong thời gian nghiên cứu); tỷ lệ
bệnh nhân đáp ứng tốt dựa trên điểm NIHSS (Cerebrolysin: 77,5%; phối hợp: 92,5%; nhóm chứng:
47,6%); và điểm MoCA (Cerebrolysin: 23.3±4.8; nhóm phối hợp: 23.7±4.1; nhóm chứng: 15.9±7.7).
So với Cerebrolysin đơn trị, liệu pháp phối hợp có cải thiện điểm mRS và điểm NIHSS nhiều hơn
(p<0.01), nhưng không cải thiển điểm MoCA nhiều hơn, ở các trường hợp đột quỵ trung bình-nặng
(NIHSS>11). Không có tác dụng gây hại nào liên quan đến thuốc được báo cáo.
Kết luận: Cerebrolysin đơn trị hoặc phối hợp với các thuốc dinh dưỡng thần kinh khác hiệu quả và
an toàn trong điều trị nhồi máu não cấp, cả trong giai đoạn cấp và giai đoạn hồi phục. Điều này ủng
hộ cho việc sử dụng thuốc hàng ngày trong thực hành lâm sàng. Mặt khác, theo kết quả của nghiên
cứu đa trung tâm này, cần nhấn mạnh hơn nữa tầm quan trọng của việc giảm thiểu sự khác biệt
trong các phác đồ điều trị nhồi máu não cấp ở Việt Nam
Aims: To investigate the efficacy and safety of Cerebrolysin and Cerebrolysin plus nootropics in the
routine treatment of patients with acute ischemic stroke (AIS).
Methods: This non-interventional, controlled, open-label, prospective and multicenter study included
398 AIS patients (234 males) treated with Cerebrolysin (n=190; 20 i.v. infusions of 10 ml), other nootropics
(comparator group; n=86), or a combination of both (n=122). The study primary endpoint was a modified
Ranking Scale (mRS) score on day 90. Secondary endpoints included study-period change in NIHSS
score; percentage of well-recovered (mRS 0-2) patients, the proportion of good NIHSS response (≥6
points) cases, and MoCA scores at day 90; and safety indicators.
62
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG SA SÚT TRÍ TUỆ TRÊN NGƯỜI CAO TUỔI
ASSESSMENT OF DEMENTIA CHARACTERISTICS AMONG OLDER ADULTS
Ths.BS. Nguyễn Xuân Thanh
Phó khoa Điều Trị Giảm Nhẹ, Bệnh viện Lão Khoa TW
Email: xuanthanh1901vlk@gmail.com
Điện thoại: 0983277646
Mục tiêu nghiên cứu nhằm đánh giá thực trạng sa sút trí tuệ trên bệnh nhân ngoại trú cao tuổi mắc
sa sút trí tuệ tại bệnh viện Lão khoa Trung ương. Sa sút trí tuệ được chẩn đoán theo tiêu chuẩn
DSM V bởi các chuyên gia thần kinh. Tổng số có 87 đối tượng tham gia nghiên cứu, tuổi trung bình
là là 76,8 ± 1,2 và 65,5% là nữ. Điểm MMSE của tất cả những người tham gia nghiên cứu dao động
từ 01 đến 26 điểm, điểm trung bình là 16,6 ± 4,9. Hơn một nửa số người tham gia bị sa sút trí tuệ thể
Alzheimer (54%, n = 47). Tỷ lệ bệnh nhân sa sút trí tuệ mạch máu và hỗn hợp lần lượt là 13,8% và
20,7%. Tỷ lệ sa sút trí tuệ nhẹ, trung bình và nặng lần lượt là 34,5%, 43,7% và 20,7%. Tỷ lệ các triệu
chứng trầm cảm, nguy cơ suy dinh dưỡng và suy dinh dưỡng; sử dụng nhiều thuốc và chất lượng
giấc ngủ kém khá phổ biến ở bệnh nhân cao tuổi ngoại trú mắc sa sút trí tuệ (tỷ lệ lần lượt là 83,9%
và 78,2%; 75,9%; 78,2%). Tỷ lệ đa bệnh lý trung bình trong nghiên cứu là 3,5 ± 2,1 bệnh. Có 34,5% (n
= 30) người tham gia có chất lượng cuộc sống trung bình hoặc thấp. Kết luận: Sự hiện diện và đồng
mắc của các hội chứng lão khoa khá thường gặp ở bệnh nhân sa sút trí tuệ.
This study was aimed to assess the characteristics of the dementia among older outpatients with
dementia at National Geriatric Hospital. Dementia was diagnosed by neuropsychiatrists following
DSM-5. Of the 87 patients, the mean age was 76.8±1.2, and 65.5% was female. The MMSE score of all
participants ranged from 01 to 26 scores, the mean of score was 16.6±4.9. More than half of the participants
had Alzheimer’s (54%, n=47). The proportion of patients with vascular and mixed dementia were 13.8%
and 20.7% respectively. The prevalence of mild, moderate, and severe dementia were 34.5%, 43.7%
and 20.7%, respectively. The presence of symptom of depression, risk of malnutrition and malnutrition;
polypharmacy and poor quality sleep were common in older outpatients with dementia (83.9% and
78.2%; 75.9%; 78.2 %, respectively). The average of comorbidities among dementia participants in this
study was 3.5±2.1. There was 34.5% (n=30) patients were identified in moderate or low quality of life.
Conclusion: The presence and co-incidence of geriatric syndromes is common in patients with dementia.
63
Cognitive impairment (CI) is a major challenge for healthcare systems and associated with
an increased risk of adverse outcomes in older people. This study aimed to identify the prevalence of
components of comprehensive geriatric assessment (CGA) among older patients with CI. A cross-sectional
study was implemented among 112 older CI patients at the National Geriatric Hospital. Components
of CGA were assessed: nutritional status, polypharmacy, comorbidities, visual acuity, hearing, urinary
incontinence, constipation, cognition, depression, sleep disturbance, activity daily living (ADL),
instrumental activity daily living (IADL), fall risk, mobility, physical activity level and frailty syndrome.
Among 112 older CI patients: 74.1% female, mean age 77.5±8.1 (years). Prevalence of impairment in
components of the CGA was high. The majority of participants showed high rates of frailty (94.6%), sleep
disturbance (88.4%), low level of physical activity (84.8%), impairment of IADL và ADL (81.3% and 70.5%).
There are differences between some components of CGA in the male/female groups; age group <70 and
≥70; group of MCI and moderate-severe CI. This study highlights that geriatric syndromes are common
in older sarcopenic patients. It suggests CGA may be important in the diagnosis and treatment process
for this group of subjects.
Keywords: Comprehensive geriatric assessment; cognitive impairment; older person
_______________________
1. Department of Geriatrics, Hanoi Medical University
2. National Geriatric Hospital
64
Loãng xương hiện được công nhận là một vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng ở nam giới cao
tuổi. Gãy xương do loãng xương làm tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở người già cùng với sự gia tăng
đáng kể chi phí y tế công cộng.
Sinh lý bệnh của loãng xương nguyên phát ở nam giới bao gồm những thay đổi về nội tiết tố và sự
lão hóa của tế bào. Hơn 65% trường hợp gãy xương ở nam giới là do loãng xương thứ phát.
Vitamin D đóng một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh chuyển hóa canxi và sự thiếu hụt của
nó dẫn đến quá trình khử khoáng của xương và tăng nguy cơ gãy xương.
Cũng như ở phụ nữ, chẩn đoán loãng xương ở nam giới dựa trên việc đo mật độ chất khoáng của
xương (BMD- bone mineral density)
Mục tiêu điều trị loãng xương ở nam giới là giảm nguy cơ gãy xương. Các phương pháp điều trị
mới đang được phát triển: sử dụng các kháng thể chống sclerostin, odanacatib (một chất ức chế
cathepsin-K), và abaloparatide (chất tương tự peptide liên quan đến PTH) đang ở giai đoạn thử
nghiệm lâm sàng nâng cao, trong khi những kháng thể khác như chất đối kháng dickkopf-1 và chất
vôi hóa ở giai đoạn phát triển sớm hơn lâm sàng và tiền lâm sàng.
Từ khóa: loãng xương ở nam giới, người cao tuổi, thay đổi nội tiết tố, lão hóa tế bào
Osteoporosis is now recognized as an important public health problem in elderly men. Osteoporotic
fractures increase morbidity and mortality of old men together with a considerable increase in public
health costs.
The pathophysiology of primary male osteoporosis comprises hormonal changes and cellular ageing.
More than 65% of fractures in men are due to secondary osteoporosis
It is well known that vitamin D plays an important role in regulating calcium metabolism and that its
deficiency leads to bone demineralization and increased fracture risk.
As well as in women, diagnosis of osteoporosis in men is based on the measurement of bone mineral
density (BMD)
The goal for treatment of male osteoporosis is to reduce the fracture risk. New treatments are under
development; in particular, anti-sclerostin antibodies, odanacatib (a cathepsin-K inhibitor), and
abaloparatide (PTH-related peptide analog) are in advanced stages of clinical evaluation, whereas
others as dickkopf-1 antagonists and calcilytics are in earlier clinical and preclinical phases of
development.
Key words: male osteoporosis, elderly, hormonal changes, cellular ageing
65
Loãng xương là bệnh mạn lý tính thường gặp của hệ thống xương mà nhiều bệnh nhân sẽ phải chịu
đựng trong vài thập kỷ, trong thời gian đó họ có thể sẽ bị nhiều lần gãy xương. Thật không may,
bệnh loãng xương thường không được phát hiện hoặc không được điều trị cho đến khi xảy ra tình
trạng gãy xương do loãng xương. Hơn nữa, trong trường hợp không có phương pháp tiếp cận có hệ
thống để dự phòng gãy xương thứ phát, phần lớn bệnh nhân không được điều trị nhằm giảm nguy
cơ gãy xương trong tương lai. Điều trị loãng xương theo mục tiêu nhằm cải thiện mật độ xương, hạn
chế tốc độ mất xương, gãy xương mới do loãng xương và nâng cao chất lượng cuộc sống và tuổi thọ
cho người bệnh. Lựa chọn thuốc chống loãng xương tuỳ thuộc các đối tượng khác nhau. Khi đã xác
định được người bệnh có loãng xương hoặc loãng xương có nguy cơ gãy xương cao, vị trí nào loãng
xương nhiều thì chúng ta sẽ lựa chọn thuốc chống loãng xương cho phù hợp. Các bằng chứng cho
thấy rằng quản lý chăm sóc loãng xương đa chuyên khoa có liên quan đến việc bắt đầu điều trị sớm
hơn và tỷ lệ gãy xương tái phát và tỷ lệ tử vong thấp hơn đáng kể.
Thoái hóa khớp (THK) là bệnh khớp phổ biến nhất, ảnh hưởng đến 1 trong 3 người trên 65 tuổi.
và số người mắc bệnh được dự đoán sẽ tăng đáng kể trong những thập kỷ tới. Hầu hết những
người thoái hoá khớp tuổi già có ít nhất một tình trạng bệnh mãn tính khác (tim mạch, thần kinh,
chuyển hoá….). Thoái hóa khớp làm giảm khả năng tập luyện và giảm cân của những người có
bệnh lý kèm theo như bệnh tim mạch dẫn đến tăng nguy cơ tiến triển nặng của bệnh.
Các liệu pháp điều trị hiện nay chia làm hai nhóm: liệu pháp dùng thuốc và không dùng thuốc (vật
lý trị liệu, nội soi khớp, thay khớp). Sử dụng thuốc được chỉ đinh đầu tiên là nhóm thuốc chống
thoái hóa khớp tác dụng chậm SYSADOA (Symptomatic slow-acting drugs for osteoarthritis) đã
được chứng minh hiệu quả giảm đau, phục hồi chức năng vận động tuy nhiên hiệu quả có thể xuất
hiện muộn (trung bình 1-2 tháng sau khi sử dụng) và được duy trì cả sau khi ngừng điều trị (sau
vài tuần đến 2-3 tháng) bao gồm glucosamin, chất không xà phòng hóa từ quả bơ và đậu nành
(avocado/soybean unsaponifiables ASU), chondroitin sulphat, diacerein và acid hyaluronic. Hiệp
hội châu Âu nghiên cứu về nhóm bệnh loãng suing và Thoái hoá khớp (ESCEO - The European
Society for Clinical and Economic Aspects of Osteoporosis, Osteoarthritis and Musculoskeletal
Diseases) khuyến cáo sử dụng SYSADOAs như một liệu pháp điều trị khởi đầu, thậm chí ESCEO
còn khuyến cáo sử dụng glucosamin và chondroitin do hiệu quả của hai thuốc này đã được công
nhận. Tuy nhiên, một số hướng dẫn của các quốc gia khác đưa ra khuyến cáo với mức độ thấp
hơn, có thể do có quá nhiều sản phẩm chứa các thành phần trên và bằng chứng tác dụng chưa rõ
ràng. Glucosamin là chất nền chính trong sinh tổng hợp proteoglycan, một hợp chất cần thiết để
duy trì tính toàn vẹn của sụn, glucosamin được chứng minh ức chế IL-1 là yếu tố gây viêm và hủy
sụn, ức chế các enzym phá huỷ sụn khớp như collagenase và phospholipase A2, ức chế sinh ra các
66
Osteoarthritis (THK) is the most common joint disease, affecting 1 in 3 people over the age of 65,
and the number of people infected is predicted to increase significantly in the coming decades.
Most people with age-related osteoarthritis have an comorbidities such as cardiovascular disease,
neurological, metabolic, etc. Osteoarthritis reduces the ability to exercise and lose weight of people
with other comorbidities such as cardiovascular disease, leading to an increased risk of severe disease
progression. Current therapies are divided into two methode: pharmacological and non-drug therapies
(rehabilitation therapy, arthroscopy, joint replacement). The first drug indicated is the SYSADOA
(Symptomatic slow-acting drugs for osteoarthritis) that have been shown to be effective in pain relief
and movement, but the effect may appear late onset (average 1-2 months after use) and sustained even
after discontinuation of therapy (weeks to 2-3 months) including glucosamine, an avocado and soybean
unsaponifiable substance (avocado/soybean unsaponifiables ASU), chondroitin sulphate, diacerein
and hyaluronic acid. European Society for Clinical and Economic Aspects of Osteoporosis, Osteoarthritis
(ESCEO) recommends the use of SYSADOAs as initial therapy. Initially, ESCEO even recommended the
use of glucosamine and chondroitin because the effectiveness of these two drugs has been recognized.
However, some guidelines from other countries give lower levels of recommendations, possibly because
there are too many products containing these ingredients and the evidence of effects is not clear.
Glucosamine is a major substrate in the biosynthesis of proteoglycan, a compound essential for the
maintenance of cartilage integrity. Glucosamine has been shown to inhibit IL-1, a factor that causes
inflammation and cartilage destruction, and inhibits enzymes that destroy cartilage joints such as
collagenase and phospholipase A2, inhibit the generation of superoxide radicals that destroy cells; In
addition, glucosamine sulfate also stimulates the anabolic process of cartilage. Glucosamine is usually
in two forms, glucosamine sulphate (Viartril S) and glucosamine hydrochloride, of which the sulphate
67
68
Bệnh lý tĩnh mạch mạn tính là một vấn đề thường gặp ở người cao tuổi, bao gồm các bất thường
tĩnh mạch làm tuần hoàn chi dưới bị ứ trệ. Cơ chế chính của bệnh tĩnh mạch là do các tổn thương
van tĩnh mạch, các biến đổi của thành mạch và cơ chế viêm. Biểu hiện lâm sàng của bệnh tĩnh
mạch rất đa dạng, từ những biểu hiện nhẹ như dãn mao mạch, dãn tĩnh mạch nông đến các biểu
hiện nặng như loét tĩnh mạch. Đây là một trong những nguyên nhân thường gặp tại bối cảnh ngoại
trú.
Bệnh lý tĩnh mạch được ghi nhận thường gặp ở những bệnh nhân cơ xương khớp, đặc biệt là thoái
hóa khớp gối. Cả hai bệnh lý này đều có chung một số yếu tố nguy cơ như tuổi, giới nữ, béo phì và
yếu tố gen. Các nghiên cứu ghi nhận bệnh lý tĩnh mạch làm ảnh hưởng đến tuần hoàn của vùng
xương dưới sụn, làm tăng nguy cơ thoái hóa khớp. Trên lâm sàng, mối liên quan giữa bệnh tĩnh
mạch và thoái hóa khớp gối đã được ghi nhận và sự đồng mắc hai bệnh lý này làm tăng mức độ
đau, hạn chế hoạt động chức năng và làm giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh. Điều trị cần
giảm triệu chứng của cả bệnh tĩnh mạch và thoái hóa khớp. Do đó, việc thăm khám lâm sàng đòi
hỏi phải đánh giá toàn diện để ghi nhận sự đồng mắc hai bệnh lý và điều trị toàn diện cho người
bệnh.
Chronic venous disease, a common problem in the elderly, entails a broad spectrum of venous
abnormalities in which blood return is seriously compromised. The main mechanisms of this disease
are venous valve lesions, vessel wall changes, and inflammatory mechanisms. The CVD manifestations
range from mild clinical signs, such as telangiectasias or varicose veins, to severe manifestations, such
as venous ulcerations. This is one of the most common causes in the outpatient setting.
Venous disease is commonly reported in musculoskeletal disorders, especially knee osteoarthritis.
Both conditions share some risk factors such as age, female sex, obesity, and genetic factors. Studies
have shown that venous disease affects the circulation of the subchondral bone, increasing the risk
of osteoarthritis. Clinically, the association between venous disease and knee osteoarthritis has been
noted, and the comorbidity of these two diseases increases pain severity, limits functional activity and
reduces the patient’s quality of life. Treatment requires symptomatic relief of both venous disease and
osteoarthritis. Therefore, the clinical examination requires a comprehensive assessment to elicit the
comorbidity of the two diseases and comprehensive treatment of the patient.
69
Sacropenia (Mất cơ) liên quan đến giảm khối lượng cơ theo tuổi và gia tăng ở bệnh nhân đái tháo
đường. Mục đích: Xác định tỷ lệ mất cơ, tiền mất cơ ở bệnh nhân đái tháo đường typ 2 bằng phương
pháp DEXA hấp thu tia X năng lượng kép. Đối tượng và phương pháp: Đối tượng nghiên cứu gồm
404 người trên 60 tuổi, trong đó 200 bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) typ 2 và 203 người không
mắc ĐTĐ có cùng tuổi, giới, BMI được đo DEXA. Chẩn đoán mất cơ được xác định theo hiệp hội mất
cơ châu Á, cutoff (khối lượng cơ tứ chi/ (chiều cao)² < 7,0 (kg/m2 ) với nam và nữ < 5,4 (kg/m2) sử
dụng phương pháp đo DEXA ( hấp thụ tia X năng lượng kép) và cơ lực tay < 26 kg với nam và < 18
kg với nữ hoặc tốc độ đi bộ < 1,0 m/s. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ mất cơ ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ là
24,9% cao hơn nhóm chứng là 8,9% ( p < 0,01). Ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ, tỷ lệ mất cơ ở nam 25,0%,
ở nữ là 24,8% cao hơn nhóm chứng với tỷ lệ tương ứng ở nam là 9,1%, ở nữ là 8,8%, (p<0,01). Tỷ lệ
nghi ngờ mất cơ ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ là 23,9% cao hơn nhóm chứng là 6,9% (p<0,01). Ở nhóm
bệnh nhân ĐTĐ, nghi ngờ mất cơ ở nam 32,8%, ở nữ là 19,7% cao hơn nhóm chứng: ở nam là 9,1%,
ở nữ là 5,8%, (p<0,01).
Kết luận: Tỷ lệ mất cơ, nghi ngờ mất cơ ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ lần lượt là 24,9% và 23,9% cao hơn
nhóm chứng là 8,9% và 6,9% với (p < 0,01). ĐTĐ thúc đẩy quá trình mất cơ nhanh và nhiều hơn ở
người cao tuổi. Mặc dù có chỉ số khối cơ thể giống nhau nhưng ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2 khối cơ đã
giảm hơn so với người không ĐTĐ.
Từ khóa: Đái tháo đường typ 2, mất cơ, DEXA.
Purpose: To determine the rate of sarcopenia, presarcopenia in patients with type 2 diabetes by DEXA
method of dual- energy X-ray absorption.
Subjects and methods: The study subjects consisted of 404 people over 60 ages, of which 201 patients
with diabetes type 2 and 203 people without diabetes of the same age, gender, and BMI were measured
DEXA. Diagnosis of muscle loss was determined by the Sarcopenia Asian Association, cutoff (quadriceps
mass / (Height)2<7.0 (kg / m2) for men and women <5.4 (kg / m2) using the DEXA (dual energy X-ray
absorption) method and handgrip <26 kg for men and <18 kg for women or walking speed 1< m / s.
Result: The rate of sarcopenia in diabetic group was 24.9%, higher than the control group was 8.9%( p
<0.01). In the diabetes group, the rate of muscle loss in men was 25.0%, in women it was 24.8% higher
than in the control group with the corresponding rate in men was 9.1%, in women it was 8.8%, with p
<0.01. The rate of presarcopenia in diabetes patients was 23.9%, higher than the control group was
6.9%, with p <0.01. In the diabetes group, the rate of presarcopenia in men was 32.8%, in women it was
19.7% higher than in the control group with the corresponding rate in men was 9.1%, in women it was
5.8%, with p <0.01.
Conclusion: The rates of sarcopenia and presarcopenia in the diabetic group were 24.9% and 23.9%,
respectively, higher than the control group of 8.9% and 6.9% with p < 0,01. Diabetes promotes faster and
more rapid sarcopenia process in the elderly. Despite the same body mass index, muscle mass of type 2
diabetic patients 2 has decreased more than non-diabetic patients.
Keywords: Diabetes mellitus, sarcopenia, DEXA.
70
Đái tháo đường đã và đang trở thành một trong những vấn đề ngày càng được quan tâm về sức
khỏe ở người cao tuổi. Tỷ lệ đái tháo đường ở người trên 65 tuổi toàn thế giới là 123 triệu vào năm
2017, dự kiến sẽ tăng gấp đôi vào năm 2045. Người bệnh cao tuổi mắc đái tháo đường có nguy
cơ cao mắc các hội chứng lão khoa: hội chứng dễ bị tổn thương, suy giảm nhận thức, sa sút trí
tuệ, tiểu không tự chủ, ngã do chấn thương/gãy xương, tàn tật,… Trong thực hành lâm sàng, mục
tiêu đường huyết tối ưu cần đạt được đối với người bệnh đái tháo đường cao tuổi vẫn còn là vấn
đề tranh luận. Mục tiêu đường huyết cần đạt được và thuốc điều trị hạ đường huyết phải được cá
nhân hóa phù hợp với bệnh sử và các bệnh đi kèm, và các yếu tố từ người bệnh như: suy giảm nhận
thức, các chức năng cơ thể, khả năng tự chăm sóc, chức năng gan thận, ưu tiên các thuốc nguy cơ
hạ đường huyết thấp. Lựa chọn thuốc hạ đường huyết nên quan tâm đến tiêu chí: an toàn và hiệu
quả. Tác dụng phụ của các thuốc sử dụng có thể ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng cuộc sống
và khó đạt mục tiêu kiểm soát đường huyết. Do đó, đánh giá các hội chứng lão khoa cung cấp một
khuôn khổ để xác định mục tiêu và các phương pháp điều trị để quản lý bệnh đái tháo đường.
Từ khóa: đánh giá lão khoa; đái tháo đường; người cao tuổi
Diabetes has become one of the increasingly concerned health problems in the elderly. The
worldwide prevalence of diabetes in people over 65 years old was 123 million in 2017, and is expected
to double by 2045. Older people with diabetes have an increased risk of geriatric syndromes: frailty
syndrome, cognitive impairment, dementia, urinary incontinence, traumatic/fractured falls, disability,...
In clinical practice, optimal glycemic targets should be achieved for older diabetic patients is still a matter
of debate. The glycemic target to be achieved and the antidiabetic medication should be individualized
in accordance with the medical history and comorbidities, and patient-specific factors such as cognitive
impairment, physical function, self-care ability, liver and kidney function, prioritizing drugs with low risk
of hypoglycemia. Selection of hypoglycemic drugs should pay attention to the following criteria: safety
and effectiveness. Side effects from medications can have an important impact on quality of life and
make it difficult to achieve glycemic control goals. Therefore, assessment of geriatric syndromes provides
a framework to determine targets and therapeutic approaches for diabetes management.
Keywords: Geriatric assessment; diabetes; older person
____________
1.Department of Geriatrics, Hanoi Medical University
2.National Geriatric Hospital
71
Kiểm soát tốt đường huyết là điều kiện tiên quyết để dự phòng các biến chứng do đái tháo đường,
và khi cần dùng thuốc tiêm thì GLP-1 RA được ADA khuyến cáo đầu tiên. Nhưng theo thời gian thì
hầu hết các bệnh nhân đái tháo đường sẽ cần đến insulin. Điều trị insulin, đặc biệt khi dùng liều
cao, có hiệu quả giảm đường huyết tốt, nhưng bị một số tác dụng phụ như dao động đường huyết,
hạ đường huyết và tăng cân. Với những bệnh nhân đái tháo đường typ 2 là người cao tuổi thì hạ
đường huyết và tăng cân sẽ là nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ bị các biến chứng tim mạch, thần
kinh và tử vong. Việc phối hợp thuốc theo tỷ lệ cố định giữa 1 loại insulin nền Analog (Glargin) với 1
loại GLP-1 RA (Lixisenatide) có tác dụng hiệp đồng và bổ trợ lẫn nhau giúp kiểm soát tốt cả đường
huyết lúc đói và sau ăn, hạn chế tăng cân và nhất là giảm nguy cơ hạ đường huyết. Các nghiên cứu
LixiLan-O, LixiLan-L, LixiLan-G, Solimix và GetGoal DUO-1... đã chứng minh thuốc tiêm iGlarLixi có
hiệu quả tốt, sớm đạt mục tiêu HbA1C và dung nạp tốt trên nhiều nhóm bệnh nhân đái tháo đường
typ 2 thất bại với thuốc uống hoặc với insulin nền hoặc với thuốc GLP-1 RA, trong đó có cả nhóm
bệnh nhân > 65 tuổi. Vì vậy trong thực hành lâm sàng, khởi trị thuốc tiêm iGlarLixi có thể là một lựa
chọn cho những bệnh nhân đái tháo đường typ 2 đã dùng 1-3 loại thuốc uống mà chưa kiểm soát
được đường huyết hoặc đã kiểm soát được đường huyết đói nhưng đường huyết sau ăn còn cao.
72
Dao động đường huyết đề cập đến sự biến thiên đường huyết trong ngày và giữa các ngày có thể
dẫn đến các biến cố cấp tính (hạ đường huyết) hoặc tăng đường huyết sau ăn, có liên quan đến
biến chứng vi mạch và mạch máu lớn và giảm chất lượng cuộc sống1-3. Dao động đường huyết độc
lập với kiểm soát đường huyết, hai bệnh nhân với cùng mức HbA1c nhưng có sự biến thiên đường
máu khác nhau và đây là dấu hiệu báo hiệu nguy cơ hạ đường huyết4. Từ kết quả phân tích tổng
hợp từ nghiên cứu DEVOTE đã chứng minh rằng dao động đường huyết càng cao làm tăng nguy cơ
hạ đường huyết, MACE và tử vong do mọi nguyên nhân5. Vì vậy, giảm dao động đường huyết có thể
thể làm giảm nguy cơ hạ đường huyết, do đó cải thiện kiểm soát đường huyết và giảm thiểu biến
chứng đái tháo đường .
Sự ra đời của insulin nền thế hệ mới (Ideg và Iglar U300) đã khắc phục được các nhược điểm của
insulin nền thế hệ trước: Nồng độ thuốc ổn định suốt 24 giờ, dao động đường huyết thấp và giảm
nguy cơ hạ đường huyết so với insulin nền thế hệ cũ (NPH, IGlar U100). Đặc biệt insulin Degludec
với thời gian tác dụng kéo dài đến 42 giờ, giúp giảm 37% dao động đường huyết trong ngày và đặc
biệt dao động đường huyết ngày qua ngày thấp hơn 4 lần so với Glagine U3007-9. Từ kết quả của
nghiên cứu SWITCH PRO cho thấy sự cải thiện của insulin Degludec so với insulin Glargine U100 về
tăng thời gian đường huyết trong khoảng mục tiêu (TIR) có ý nghĩa thống kê, giảm hạ đường huyết
về đêm có ý nghĩa và có nhiều bệnh nhân đạt sự khác biệt > 5% TIR hơn10.
Như vậy, insulin nền thế hệ mới đặc biệt insulin Degludec là insulin có thời gian tác dụng kéo dài
đến 42 giờ, giúp giảm dao động đường huyết và cải thiện TIR tốt hơn so với các insulin nền thế hệ
cũ.
Glucose variability refer to intra-day and inter-day variations in glucose that can lead to acute
events (hypoglycemia) or postprandial hyperglycemia, associated with microvascular and vascular
complications and reduced quality of life1-3. Glucose variability are independent of glycemic control,
two patients with the same HbA1c level but with different glycemic variability and this is a marker for
risk of hypoglycemia4. The results of pre-specified pooled analyses of the DEVOTE trial demonstrate that
higher glycemic variability increases the risk of hypoglycemia, MACE, and all-cause mortality5. Therefore,
reducing glucose variability may reduce the risk of hypoglycemia, thereby improving glycemic control
and minimizing diabetes complications.
The introduction of the new generation basal insulin (Ideg and Iglar U300) has overcome the
disadvantages of the previous generation basal insulin: Stable drug concentration throughout 24 hours,
low glucose variability and reduced risk of hypoglycemia compared to older generation basal insulin
(NPH, IGlar U100). In particular, insulin Degludec with a duration of action lasting up to 42 hours, it
reduces Glucose variability by 37% during the day and especially day-to-day glucose variability were 4
times lower than Glagine U3007-9. From the results of the SWITCH PRO study showed an improvement
of insulin Degludec compared with insulin Glargine U100 in terms of a statistically significant increase
in time to target range (TIR), a significant reduction in nocturnal hypoglycemia, and more patients
achieved a clinically significant difference ≥5% in TIR10.
73
Đái tháo đường (ĐTĐ) hiện nay là đại dịch toàn cầu với số lượng bệnh nhân gia tăng ngày càng
nhanh. Các chi phí điều trị bệnh cũng gia tăng với tốc độ không ngừng nhất là khi glucose máu kém
kiểm soát kèm theo các biến chứng và tuổi thọ gia tăng. Với hầu hết các bệnh nhân ĐTĐ typ 2 cao
tuổi, việc điều trị bằng insulin là không thể tránh khỏi nhằm ngăn ngừa các biến chứng. Trong các
trường hợp này, insulin nền là lựa chọn ưu tiên trong khởi trị. Hiện nay, rất nhiều các nghiên cứu
đã cho thấy việc sử dụng bút tiêm insulin nền thế hệ mới là Glargine U300 mang lại nhiều ưu điểm
hơn so với các insulin nền thế hệ trước, giúp kiểm soát tốt HbA1c, làm giảm bớt nguy cơ hạ glucose
máu cho người bệnh. Do đó, việc sử dụng bút tiêm Glargine U300 vừa đảm bảo tính hiệu quả, củng
cố tính an toàn, góp phần làm giảm tổng chi phí điều trị bao gồm chi trả cho nhập viện cấp cứu và
các cơn hạ glucose máu trên các đối tượng người già. Tóm lại, việc sử dụng bút tiêm Glargine U300
là giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả cũng như giảm bớt gánh nặng chi phí cho các bệnh nhân
ĐTĐ typ 2 cao tuổi.
Từ khóa: đái tháo đường, insulin, chi phí
Diabetes is a global epidemic with a huge number of patients all over the world. The economic burden
of this disease has been increasing sharply especially in elderly patients with poor glycemic control
and multiple complications. In most of these cases, insulin therapy is required to ensure good glycemic
control. In those patients, basal insulin will be chosen as initiating injectable therapy. Nowadays, many
studies did show that the use of second generation of basal insulin pen (such as Glargine U300) will
associate with more benefits than the first generation of basal insulin such as better glycemic control
and reduce hypoglycemic risk. Therefore, the use of Glargine U300 pen help to ensure the efficacy and
safety, contribute to reduce the total cost including cost for hospitalization or hypoglycemic management
74
75
85