Professional Documents
Culture Documents
The Developpment of Guided Bone Regennerration Over The Past 30 Years
The Developpment of Guided Bone Regennerration Over The Past 30 Years
The Developpment of Guided Bone Regennerration Over The Past 30 Years
Sự phát triển của kỹ thuật tái tạo xương có hướng dẫn trong 30 năm qua
Daniel Buser
Dịch: Ty Nguyen
Ngành Implant Nha khoa hiện đại dựa trên khái niệm tích hợp xương vừa tổ chức sinh nhật lần
thứ 50. Những tiến bộ to lớn đã đạt được trong việc phục hồi chức năng cho những bệnh nhân bị
mất răng hoàn toàn và bán phần dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm cơ bản do hai nhóm
nghiên cứu thực hiện. Một nhóm được đặt tại Thụy Điển do Giáo sư P-I Brånemark từ Đại học
Gothenburg đứng đầu; nhóm còn lại được đặt tại Thụy Sĩ và do Giáo sư André Schroeder từ Đại
học Bern đứng đầu. Vào cuối những năm 1960 và 1970, hai nhóm nghiên cứu đã độc lập công bố
các bài báo mang tính bước ngoặt mô tả hiện tượng tích hợp xương trên implant titanium. Một
implant tích hợp xương được đặc trưng bởi sự bồi đắp trực tiếp của xương sống lên bề mặt
implant.
Trong giai đoạn đầu của sự phát triển này, một số điều kiện tiên quyết đã được xác định để đạt
được sự tích hợp xương. Một số trong những điều kiện ban đầu này đã được sửa đổi trong 50
năm qua; nhưng một số khác vẫn còn được coi là quan trọng. Để đạt được sự tích hợp xương,
implant phải được đặt bằng kỹ thuật phẫu thuật ít sang chấn để tránh làm xương quá nóng trong
quá trình khoan xương một cách chính xác và implant phải có được một độ ổn định sơ khởi đầy
đủ. Khi các hướng dẫn lâm sàng này được tuân thủ, sự tích hợp xương thành công có thể dự đoán
được đối với implant titanium không vùi (quy trình một thì) cũng như đối với implant titanium
vùi (quy trình hai thì), như đã được chứng minh trong các nghiên cứu thực nghiệm so sánh.
Khi lần đầu tiên bắt đầu thử nghiệm lâm sàng các implant tích hợp xương, phần lớn bệnh nhân
được điều trị đã hoàn toàn thành công. Kết quả đầy hứa hẹn đã được báo cáo trong các nghiên
cứu hồi cứu. Được khuyến khích, các bác sĩ lâm sàng ngày càng bắt đầu sử dụng implant tích
hợp xương ở những bệnh nhân bị mất răng bán phần, và các báo cáo đầu tiên về việc sử dụng
này đã được công bố vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 với kết quả đầy hứa hẹn
trong ngắn hạn của các nhóm nghiên cứu khác nhau. Do đó, mất một răng và các tình huống mất
răng ở phía sau ngày càng trở thành những chỉ định phổ biến cho liệu pháp implant trong thực tế
hàng ngày. Ngày nay, những thực hành này chiếm đa số ở nhiều trung tâm lâm sàng.
Một trong những điều kiện tiên quyết quan trọng nhất để đạt được và duy trì quá trình tích hợp
xương thành công là có đủ lượng xương khỏe mạnh tại nơi được đặt implant. Điều này không chỉ
bao gồm chiều cao xương phải đủ để cho phép đặt implant có chiều dài thích hợp, mà còn bao
gồm việc sống hàm phải có đủ chiều rộng ở đỉnh. Các nghiên cứu lâm sàng trong những năm
1980 và 1990 cho thấy rằng khi bị thiếu thành xương mặt ngoài ở thời điểm đặt implant có tỷ lệ
biến chứng mô mềm tăng lên và / hoặc tiên lượng lâu dài bị tổn hại. Để tránh gia tăng tỷ lệ biến
chứng và thất bại của implant, các nghiên cứu này đề xuất rằng các vị trí dự định đặt implant
nếu không có đủ thể tích xương nên được coi là chống chỉ định tại chỗ cho việc đặt implant hoặc
nên được ghép xương bằng một thủ thuật phẫu thuật thích hợp để tái tạo lại sự thiếu hụt xương
cục bộ.
Trong những thập kỷ đầu này, một số nỗ lực đã được thực hiện để phát triển các kỹ thuật phẫu
thuật mới nhằm tăng cường sự thiếu hụt xương cục bộ ở sống hàm nhằm khắc phục những chống
chỉ định tại chỗ đối với liệu pháp implant. Các kỹ thuật được đề xuất bao gồm ghép xương theo
chiều dọc bằng cách sử dụng ghép xương khối tự thân lấy từ mào chậu, thủ thuật nâng cao sàn
xoang ở hàm trên, ứng dụng ghép xương onlay tự thân để ghép xương theo chiều ngang, hoặc kỹ
thuật chẻ xương-split-crest techniques, phẫu thuật tạo hình kéo dài xương ổ.
Trong cùng thời gian này, ngoài các kỹ thuật phẫu thuật mới này, khái niệm tái tạo xương có
hướng dẫn - guided bone regeneration (GBR) với màng chắn đã được đưa ra. Dựa trên các báo
cáo trường hợp và các nghiên cứu lâm sàng ngắn hạn, các tác giả khác nhau đã báo cáo kết quả
đầu tiên với kỹ thuật dùng màng ngăn này để tái tạo các khiếm khuyết xương cục bộ ở bệnh nhân
implant.
Cuốn sách này sẽ cung cấp thông tin cập nhật về cơ sở sinh học của kỹ thuật GBR và các ứng
dụng lâm sàng khác nhau của nó cho bệnh nhân implant . Kinh nghiệm lâm sàng với GBR trong
thực hành hàng ngày hiện đã kéo dài 30 năm. Trong 30 năm này có thể được chia thành một giai
đoạn phát triển và một giai đoạn áp dụng thường quy với những nỗ lực sâu rộng để điều chỉnh
quy trình phẫu thuật (Hình 1-1). Trọng tâm là cải tiến kỹ thuật phẫu thuật, mở rộng phạm vi ứng
dụng, cải thiện khả năng dự đoán kết quả thành công và giảm tỷ lệ mắc bệnh và đau đớn cho
bệnh nhân.
Hình 1-1: Sự phát triển của GBR trong hơn 30 năm kể từ cuối những năm 1980. ePTFE,
expanded polytetrafluoroethylene; DBBM, deproteinized bovine bone mineral; Ti-Zr, titanium-
zirconium.
(m) Vào năm 2010 (19 năm sau cuộc phẫu thuật đầu tiên), một implant bổ sung đã được đặt vào
vị trí răng nanh theo cách không lật vạt. Ảnh lâm sàng trong quá trình phẫu thuật cho thấy mô
mềm quanh implant ổn định ở cả hai implant ở các vị trí răng hàm.
(n) Trong quá trình kiểm tra vị trí implant răng nanh, một chụp cắt lớp CBCT đã được thực
hiện. Các lát cắt trên xương hàm cho thấy thành xương mặt dày đối với cả hai trường hợp
implant răng tiền hàm, đã hoạt động được 19 năm vào thời điểm đó.
(o) Tình trạng lâm sàng sau khi hoàn thành gắn mão mới tại vị trí răng nanh. Kết quả điều trị
rất khả quan khi quy trình GBR được thực hiện (1991). (p) Chụp X quang quanh mặt sau khi
điều trị xong. Hai implant răng hàm đã tồn tại trong 19 năm và cả hai đều cho thấy mức độ
đỉnh xương quanh implant ổn định. Đây là lần kiểm tra theo dõi cuối cùng, vì bệnh nhân bị phát
triển chứng mất trí nhớ và qua đời vài năm sau đó.
Hình 1-3: Trường hợp 2. (a) Hình ảnh trước phẫu thuật (1994). Hình ảnh hai bên của hàm trên
bên trái của người phụ nữ này cho thấy hai răng tiền hàm bị thiếu. Xương ổ phía má bị lõm. (b)
Hình ảnh từ mặt nhai trong quá trình phẫu thuật cho thấy sự lõm đáng kể và khuyết xương trong
vùng răng 25. (c) Trước khi ghép, toàn bộ bề mặt xương ổ đã được đục lỗ để mở xoang tủy.. (d)
Ghép xương khối tự sinh lấy từ cằm và cố định bằng vít cố định. Các xương vụn được sử dụng để
đắp kín toàn bộ khu vực xung quanh.
(e) Chế độ xem từ mặt nhai cho thấy thể tích của sống hàm được nâng lên. (f) Chế độ xem từ
mặt má của màng ePTFE được áp dụng để bao phủ toàn bộ xương ghép như một màng chắn
sinh học. (g) Việc đóng kín vết thương thì đầu đã đạt được với một vài mũi đệm và các mũi khâu
đơn gián đoạn bằng cách sử dụng chỉ khâu ePTFE 4-0 và 5-0. (h) Sáu tháng sau khi ghép
xương, tình trạng lâm sàng cho thấy các mô mềm khỏe mạnh sau thời gian lành thương không có
biến chứng.
Hình 1-3 Trường hợp 2. (tt) (i) Sau khi lật vạt và loại bỏ màng, hình ảnh mặt nhai cho thấy thể
tích đỉnh xương tốt và thành xương dày sau khi khoan lỗ cho hai implant . (j) Chế độ xem mặt
má xác nhận việc ghép xương thành công. Phần ghép xương khối vẫn có thể được nhận ra và nó
được bao phủ ở một số khu vực có xương mới hình thành. (k) Tình trạng lâm sàng sau 3 tháng
lành thương không nhiễm trùng cho cả hai implant. Niêm mạc quanh implant khỏe mạnh và có
một dải niêm mạc sừng hóa đẹp mắt
. (l) Tình trạng lâm sàng khi khám 10 năm (2005) cho thấy hai răng trên implant được nẹp với
nhau. Niêm mạc quanh implant ổn định không có dấu hiệu của bệnh lý quanh implant.
(m) X quang quanh chóp tại cuộc kiểm tra 10 năm xác nhận mức mào xương ổn định xung quanh
hai implant . (n) Cuộc kiểm tra theo dõi 25 năm (2019) cho thấy tình trạng lâm sàng với niêm
mạc quanh implant khá khỏe mạnh, mặc dù việc kiểm soát mảng bám không còn hoàn hảo ở
bệnh nhân lớn tuổi này (86 tuổi). (o) X quang quanh chóp xác nhận mức mào xương ổn định ở
cả hai mô implant . (p) Chụp CBCT cho thấy thành xương dày, nguyên vẹn hoàn toàn để implant
ở các vị trí răng 24 (trái) và răng 25 (phải).
Hình 1-4: Trường hợp 3. (a) Hình ảnh trước phẫu thuật (1993). Chế độ xem mặt nhai cho thấy
tình trạng mất răng ở phía sau của phần hàm III. Sống hàm đã lành thương của người phụ nữ
này đã bị teo đi với một sự lõm nghiêm trọng ở mặt má. (b) Hình ảnh trong phẫu thuật cho thấy
chiều rộng đỉnh sống hàm dưới 3 mm. (c) Tình trạng sau khi ghép tăng chiều ngang với hai
mảnh ghép xương khối được lấy ở vùng răng khôn hàm dưới trong cùng một vạt. (d) Các khối
xương ghép được bao phủ bởi một màng ePTFE. Màng được ổn định bằng nhiều vít. (e) Phẫu
thuật được hoàn thành với việc đóng vết thương không căng bằng các mũi đệm và mũi đơn để
đạt được sự lành thương ban đầu. (f) Tình trạng lâm sàng sau 6 tháng lành thương không có
biến chứng. (g) Sau khi lật vạt và loại bỏ màng, một kết quả tăng chiều rộng tuyệt vời có thể nhìn
thấy ở các khu vực của răng 34, 35 và răng 37, cho phép đặt implant . (h) Sau khi phục hình
thành công, phim X quang quanh chóp tại cuộc kiểm tra 1 năm (1994) cho thấy mức độ xương
đỉnh ổn định ở cả ba implant .
Hình 1-4: Trường hợp 3. (tt) (i) Tình trạng lâm sàng khi khám sau 15 năm. Niêm mạc quanh
implant ổn định nhưng có một số dấu hiệu của viêm niêm mạc. (j) X quang xác nhận mức mào
xương ổn định ở cả ba implant. (k) Ảnh lâm sàng tại cuộc kiểm tra theo dõi 25 năm (2019). Bệnh
nhân hiện đã 85 tuổi, và việc kiểm soát mảng bám không còn tối ưu. Niêm mạc xung quanh
tissue-level implants ở vùng cổ cho thấy các mô quanh mô implant rất ổn định. (l) X quang
quanh mặt xác nhận mức độ mào xương ổn định ở cả ba mô implant sau 25 năm thực hiện chức
năng. (m) Chụp CBCT được thực hiện để kiểm tra thể tích xương quanh implant. Các lát cắt trên
xương hàm cho thấy các thành xương ổ răng còn nguyên vẹn hoàn toàn tại hai mô implant ở vị
trí răng 34 và răng 36, nơi mà việc ghép xương khối với GBR đã được thực hiện vào năm 1993.
Năm 1994, một cuộc họp chuyên gia đã diễn ra tại Hoa Kỳ để thảo luận về tiềm năng và những
hạn chế của kỹ thuật GBR được sử dụng trong thực hành hàng ngày sau 5 năm kinh nghiệm lâm
sàng (Hình 1-5).
Hình 1-5: Hình ảnh cuộc họp chuyên gia năm 1994 tại Arizona với (từ trái qua) Danny Buser,
Bill Becker, Sascha Jovanovic và Massimo Simion.
Cuộc họp này cho thấy rõ ràng rằng cần có những cải tiến thêm để cho phép sử dụng kỹ thuật
GBR rộng rãi hơn ở bệnh nhân implant . Các chuyên gia đồng ý rằng kỹ thuật GBR - dựa trên
việc sử dụng màng ePTFE kết hợp với ghép xương hoặc chất thay thế xương - có những điểm
yếu và thiếu sót sau:
• Tỷ lệ bị lộ màng đáng kể do sự hở mô mềm, thường dẫn đến nhiễm trùng cục bộ bên dưới
màng và sau đó dẫn đến kết quả tái tạo của quy trình GBR bị tổn hại.
• Khó xử lý màng trong quá trình phẫu thuật do đặc tính kỵ nước, cần phải ổn định màng bằng
vít vặn hoặc đinh ghim.
• Cần tiến hành thủ thuật phẫu thuật thứ hai để loại bỏ màng sinh học không tự tiêu, do đó làm
tăng tỷ lệ thương tật và thời gian điều trị tổng thể cho bệnh nhân.
Trong cuộc họp này, các mục tiêu đã được xác định để cải thiện khả năng dự đoán và tính hấp
dẫn của các thủ thuật GBR cho cả bệnh nhân implant và các bác sĩ lâm sàng (Hộp 1-1).
Hộp 1-1 Mục tiêu cải tiến kỹ thuật GBR vào giữa những năm 1990
• Cải thiện khả năng dự đoán về các kết quả thành công sau GBR
• Giảm tỷ lệ biến chứng do lộ màng và nhiễm trùng màng
• Làm cho kỹ thuật GBR thân thiện hơn với BS, với việc sử dụng màng dễ dàng hơn trong quá
trình phẫu thuật
• Làm cho GBR thân thiện với bệnh nhân hơn bằng cách loại bỏ quy trình phẫu thuật thứ hai
để loại bỏ màng bất cứ khi nào có thể và bằng cách giảm thời gian lành thương càng nhiều
càng tốt
Những người tham gia cuộc họp chuyên gia này đã nói rõ rằng những mục tiêu này chỉ có thể đạt
được khi sử dụng màng sinh học tự tiêu. Xu hướng này một lần nữa được khởi xướng trong lĩnh
vực GTR, với sự ra đời của màng sinh học tự tiêu đầu tiên vào đầu những năm 1990. Sau đó,
nhiều nghiên cứu trên động vật đã được thực hiện để kiểm tra các màng sinh học có thể tự tiêu
khác nhau cho các quy trình GBR. Nhìn chung, hai nhóm màng sinh học tự tiêu khác nhau đã
được đánh giá:
• Màng polymer làm bằng polylactic hoặc polyglycolic acid
• Màng collagen được sản xuất từ nhiều nguồn động vật khác nhau
Song song với các nghiên cứu tiền lâm sàng này, các bác sĩ lâm sàng bắt đầu sử dụng màng sinh
học tự tiêu ở bệnh nhân. Các báo cáo lâm sàng được công bố đầu tiên chủ yếu được thử nghiệm
màng collagen và ngày nay, màng collagen được sử dụng thường xuyên trong thực hành hàng
ngày cho các quy trình GBR.
Ngoài việc lựa chọn màng chắn thích hợp, việc lựa chọn chất độn xương thích hợp cho các thủ
thuật GBR cũng quan trọng đối với kết quả tái tạo của các thủ thuật GBR. Vào đầu những năm
1990, xương hạt tự thân chủ yếu được sử dụng theo quan điểm cơ học. Vai trò của các hạt chất
độn này là nâng đỡ màng để tránh màng bị xẹp trong quá trình lành thương. Vào giữa những
năm 1990, một nghiên cứu tiền lâm sàng đầu tiên trên minipigs của Buser và cộng sự đã giúp
chúng tôi hiểu rằng chất độn xương có các đặc điểm sinh học khác nhau về tiềm năng tạo xương
và tốc độ thay thế chất độn trong quá trình tái tạo xương. Các vật liệu sinh học khác nhau được
sử dụng cho các quy trình GBR, chẳng hạn như xương ghép, chất thay thế xương và màng ngăn,
cũng được thảo luận trong chương 2.