Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 15

Câu 1:

Sử liệu bằng chữ viết (bia ký, sách vở…): chỉ bao gồm phần lịch sử từ 5-6 nghìn năm trở
lại đây, đó là khi con người bước vào thời kỳ “lịch sử thành văn”. Loại tài liệu này có
nhiều ưu điểm: trực tiếp nói lên tiếng nói của quá khứ, rất phong phú và dễ hiểu. Tuy
nhiên, loại tài liệu này bị hạn chế bởi lập trường, quan điểm của người viết; nội dung
thường thiên về đời sống vua chúa và chiến tranh; còn đời sống nhân dân, tình hình văn
hoá và kinh tế thì rất ít được đề cập.

Sử liệu bằng vật thật (dụng cụ, di tích…): phải do những nhà chuyên môn nghiên cứu: đó
là những nhà Khảo cổ học.

Khảo cổ học có những ưu điểm sau:

Một là, khảo cổ học có khả năng nghiên cứu thời kỳ lịch sử dài dặc của loài người từ khi
con người xuất hiện đến khi con người bước vào thời kỳ “lịch sử thành văn”.

Hai là, tài liệu khảo cổ học mang tính khách quan và toàn diện. Tài liệu bằng chữ viết đã
không nhiều, mà trải qua quá trình lịch sử thì còn lại tới ngày nay càng ít hơn.

Ba là, tồn tại vô tận trong lòng đất. Nhiều hiện tượng lịch sử không để lại một dấu vết gì
trong các cuốn sử cũ nhưng luôn hiện hữu trong lòng đất.

Bên cạnh rất nhiều ưu điểm, khảo cổ học vẫn còn một số hạn chế:
Tài liệu khảo cổ học là những tài liệu câm, khó hiểu và có nhiều hiện vật còn nhiều điều bí
ẩn, chưa lý giải được (VD: chữ hình nòng nọc…)
Các tư liệu khảo cổ học (di tích, di chỉ, các hiện vật…) phân bố rải rác và khó xác định
(do ảnh hưởng của quá trình vận động của trái đất, khí hậu, xã hội…)
Câu 2:

Câu 2: Tầng văn hóa


Khái niệm

Tầng văn hoá được tạo thành bởi hoạt động của con người, là tấm gương nhiều mặt phản
ánh trung thực trạng thái văn hoá của cư dân thời cổ. Tính đa dạng của đời sống cư dân
được thể hiện rõ qua những thành tố của tầng văn hoá.
Đặc điểm

Màu sắc của tầng văn hoá là điều đầu tiên. Thông thường, tầng văn hoá có màu thẫm hơn
các tầng đất khác. Bởi vì tầng văn hoá chứa đựng những sản phẩm hoạt động của con
người như than gio, xương cốt động vật và các chất hữu cơ. Tuy nhiên, không phải bao
giờ tầng văn hoá cũng có màu thẫm, nó tuỳ thuộc vào thời gian và điều kiện địa lý cụ thể.

Độ dày của tầng văn hoá có vị trí quan trọng trong nghiên cứu khảo cổ. Nhìn chung, độ
dày của tầng văn hoá phụ thuộc vào thời gian sinh sống và hình thức kiếm sống của cư
dân, tầng văn hoá càng dày thì thời gian sinh tồn của cư dân ở đó càng lâu. Độ dày của
tầng văn hoá thường tỉ lệ thuận với thời gian sinh tồn của cư dân tạo ra tầng văn hoá.
Song, nhiều khi trong một tầng văn hoá, cùng một thời đại mà có những chỗ dày mỏng
khác nhau.

Trong nghiên cứu khảo cổ, cần thiết phải phân biệt di tích di chỉ cư trú có một tầng văn
hoá với di tích di chỉ cư trú nhiều tầng văn hoá.

Di tích di chỉ cư trú một tầng văn hoá là nơi chỉ được con người cư trú một lần trong một
thời gian dài. Sau đó, nơi đây không bao giờ có người ở nữa.

Loại di tích di chỉ cư trú nhiều tầng văn hoá gồm có hai loại khác nhau: loại di chỉ có lớp
vô sinh và loại di chỉ không có lớp vô sinh ngăn cách. Loại di chỉ có hai hay nhiều tầng
văn
hoá có lớp vô sinh ngăn cách được tạo bởi hai hay nhiều giai đoạn cư trú không liên tục
của người xưa. Quá trình hình thành: thoạt đầu, con người đến ở một thời gian, tạo ra tầng
văn hoá đầu tiên. Sau đó, họ phải bỏ đến ở một nơi khác; nơi đây bị bỏ hoang và mưa gió
đem đất cát vùi lấp lên tầng văn hoá. Nhưng về sau, con người đến cư trú và lại tạo ra một
tầng văn hoá mới, nằm trên lớp đất vô sinh. Kết quả là tại đây đã hình thành một di chỉ
khảo cổ có hai tầng văn hoá được phân biệt với nhau bởi một lớp vô sinh. Nếu quá trình
này cứ lặp đi lặp lại nhiều lần thì chúng ta sẽ có một di chỉ có nhiều tầng văn hoá được
ngăn cách nhau bởi nhiều lớp vô sinh khác nhau.

Những di chỉ nhiều tầng văn hoá nối tiếp nhau, không có lớp vô sinh ngăn cách được tạo
bởi sự có mặt của nhiều thế hệ người ở một chỗ trong suốt thời gian dài hàng trăm, thậm
chí hàng ngàn năm. Mặc dù không có lớp vô sinh ngăn cách nhưng nhà khảo cổ vẫn có thể
phân định được các tầng văn hoá nhờ dựa vào sự khác biệt về màu sắc, thành phần và
cách cấu tạo khác nhau của các tầng văn hoá. Ở những di chỉ nhiều tầng văn hoá mà
không có lớp vô sinh ngăn cách thì thường có một lớp văn hoá mang đặc trưng trung gian
của tầng văn hoá nằm trên và nằm dưới nó.

Khi nghiên cứu, nhà khảo cổ cũng phải hết sức chú trọng đến sự xáo trộn tầng văn hoá.
Nguyên nhân làm cho tầng văn hoá bị xáo trộn rất khác nhau. Nhà khảo cổ phải nghiên
cứu trắc diện và bình diện của di tích một cách hết sức cẩn thận trong thám sát và khai
quật di tích.

Muốn nghiên cứu tốt tầng văn hoá, nhà khảo cổ phải nắm vững phương pháp khai quật, có
hiểu biết sâu rộng và kinh nghiệm nghiên cứu điền dã phong phú.

Câu 3: Phân loại các di tích di chỉ khảo cổ

Di tích di chỉ cư trú

Khảo cổ học thường phân chia các loại di tích di chỉ cư trú thành: Di chỉ cư trú hang động;
Di chỉ cư trú ngoài trời (di chỉ); Di chỉ đống rác bếp (kjökkenmödding); Di chỉ phù sa; Di
chỉ cư trú có phòng ngự.
Di chỉ cư trú hang động

Hang động thường có ở các vùng núi đá vôi. Phần lớn hang động đã được con người, nhất
là người thời đại đồ đá cũ sử dụng làm nơi ăn chốn ở.

Tầng văn hoá trong các hang động có khi bị thạch nhũ phủ kín, phải phá bỏ lớp thạch nhũ
này mới có thể khai quật được. Khai quật loại di tích này thường khó khăn hơn các di tích
di chỉ cư trú ngoài trời.
Di chỉ cư trú tồn tại trong tất cả các thời đại khảo cổ khác nhau. Những di chỉ được con
người cư trú lâu dài thường có tầng văn hoá dày. Tại đây, nhà khảo cổ có thể thấy vết tích
nhà cửa hoặc dấu vết các công trình kiến trúc khác.
Di chỉ đống rác bếp

Di chỉ đống rác bếp là một loại di chỉ đặc biệt. Sự hình thành của loại di tích này gắn liền
với việc thu lượm các loài nhuyễn thể làm thức ăn của người xưa: sau khi ăn đã đổ vỏ ra
ngay nơi ở thành những gò lớn nên chỉ trong một thời gian ngắn có thể tạo ra tầng văn hoá
dày. Những di chỉ của văn hoá Quỳnh Văn thuộc loại di chỉ đống rác bếp ở Việt Nam.
Di chỉ phòng ngự
Di chỉ phòng ngự là loại cư trú có thành cao và hào sâu bảo vệ. Nhìn chung, trong thời đại
đồ đá, chưa có mặt loại di tích này. Nó chỉ xuất hiện từ khi chế độ công xã nguyên thuỷ
tan rã và phát triển trong xã hội có giai cấp. Cho đến nay, các nhà khảo cổ chỉ tìm thấy
những nơi cư trú có phòng ngự thuộc thời đại kim khí. Nơi cư trú có phòng ngự có nhiều
loại với nhiều quy mô và cấu trúc khác nhau. Thành Cổ Loa, Luy Lâu ở Việt Nam là
thuộc loại di tích này.

Di chỉ phù sa

Di chỉ phù sa là một loại di chỉ đặc biệt và khác hẳn với các loại di chỉ vừa nêu trên. Nó
thường có mặt vào thời đại đồ đá cũ, nhất là sơ kỳ thời đại đồ đá cũ. Loại di chỉ phù sa
được tạo thành do nước cuốn công cụ của người xưa đi khỏi nơi hình thành đầu tiên của di
tích và vùi công cụ vào bãi cát hay lớp cuội ở thềm sông… Vì thế mà ở các di chỉ phù sa,
nhà khảo cổ không phát hiện được tầng văn hoá, không thấy vết tích nhà cửa và dấu vết
bếp lửa. Mặc dù vậy, di chỉ phù sa vẫn có vị trí quan trọng cho việc nghiên cứu quá khứ
lịch sử.

Di tích mộ táng

Có nhiều loại mộ táng khác nhau nên việc phân loại di tích mộ táng là không dễ dàng.

- Dựa vào hình dáng bên trên của mộ: mộ có nấm mộ (gò mộ) và mộ không có
nấm mộ. Mộ có nấm mộ được xây đắp to, cao thành gò mộ. Phát hiện loại mộ này khá dễ
dàng. Trái lại, những mộ không có nấm mộ rất khó phát hiện. Loại mộ này phổ biến trong
nhiều thời đại, nhất là ở thời tiền sơ sử. Lần đầu tiên ở Việt Nam, loại mộ này phát hiện
được ở một di chỉ thuộc văn hoá Phùng Nguyên là di chỉ Lũng Hoà (Vĩnh Phúc).

- Dựa vào loại "quan tài": mộ thuyền thân cây khoét rỗng (Việt Khê), mộ mành tre
(Hưng Yên), vò gốm úp miệng vào nhau, chôn ngay xuống đất, được đặt trong những
chum gốm lớn (trong văn hoá Sa Huỳnh), trong thạp đồng (trong văn hoá Đông Sơn)…

- Cách đặt tử thi trong các mộ cũng rất khác nhau: chôn ngồi (Quỳnh Văn, Đa
Bút), chôn nằm ngửa, nằm nghiêng, nằm co (Thiệu Dương, Thanh Hoá). Có loại mộ chôn
một người (đơn táng) và có loại mộ chôn hai người (song táng)…

- Bên cạnh hình thức mai táng có tử thi, người xưa còn có hình thức hỏa táng, tức
người chết được hoả thiêu lấy gio rồi đem chôn. Ngoài ra còn có loại "mộ giả" hay "mộ kỷ
niệm", mộ tượng trưng của những người vì lý do nào đó mà chết ở xa hoặc chết không
còn xác. Mộ xác ướp và kiến trúc đặc biệt của nó. Các kim tự tháp Ai Cập là loại mộ xác
ướp tiêu biểu nhất và xuất hiện vào loại sớm nhất hiện biết cho đến nay.
Cũng như di chỉ cư trú, di tích mộ táng là một nguồn sử liệu quan trọng để tìm hiểu các xã
hội đã qua. Qua nghiên cứu mộ táng, chúng ta có thể rút ra nhiều kết luận quan trọng.

Trong khi nghiên cứu mộ táng, nhà khảo cổ cần xem xét kỹ thuật xây đắp mộ cũng như
quy mô kích thước của mộ táng. Bởi vì, chúng sẽ cho ta biết về thân phận cũng như mối
quan hệ của người chết, đặc biệt, để nghiên cứu các xã hội đã tiêu vong. Mặt khác, qua
nghiên cứu xương cốt người trong mộ, chúng ta sẽ biết được giới tính, tuổi tác, bệnh tật và
chủng tộc của người chết. Đây là tài liệu quan trọng nhất để xác định thành phần nhân
chủng cũng như nguồn gốc dân tộc trong quá khứ.

Tài liệu mộ táng và nơi cư trú cần được so sánh đối chiếu để bổ sung lẫn cho nhau. Ngay
trong một giai đoạn lịch sử cũng cần phải nghiên cứu và so sánh tài liệu của nhiều mộ
táng với nhiều nơi cư trú một cách tỉ mỉ, tránh được những kết luận vội vàng, phiến diện
hay sai lạc.

Trong thực tế nghiên cứu, nhà khảo cổ còn gặp một loại di tích khác vừa mang tính chất
nơi cư trú vừa mang tính chất di tích mộ táng, giúp chúng ta hiểu về quan niệm của người
xưa về mối quan hệ ràng buộc giữa người sống và người chết đã từng tồn tại lâu dài trong
quá khứ.

- Di tích các công xưởng cổ cũng là một loại di tích khảo cổ quan trọng trong việc
tìm hiểu quá trình xuất hiện và phát triển của các nghề thủ công truyền thống.

- Di chỉ xưởng,

- Các di tích cảng thị cổ

- Các di tích cự thạch (tiếng Anh là megalithic: mega là lớn, còn lithic là đá) là di
tích kiến trúc bằng đá lớn của người xưa.

- Tượng đá và các hình vẽ trên vách đá

- Di tích hầm mỏ cổ. Đây là một loại di tích khảo cổ quan trọng…

Muốn khôi phục lại được quá khứ loài người (ở một vùng, một nước hay toàn thế giới),
nhà khảo cổ nhất thiết phải nghiên cứu kỹ tất cả các loại di tích khảo cổ. Trong nghiên
cứu, chúng ta không chỉ chú ý đến nội dung của di tích mà còn phải biết rõ quy luật phân
bố địa lý của di tích. Bởi vì căn cứ vào vị trí cũng như địa thế của di tích, chúng ta có thể
nhận ra quy luật sinh sống của con người qua từng giai đoạn lịch sử.
Câu 4: Một số nguyên tắc cơ bản khi khai quật một di tích khảo cổ

1. Khai quật khảo cổ không được làm qua loa, đại khái, cho dù đó là một cuộc khai quật
chữa cháy, khi hiện trường đã bị đào xới nham nhở. Tránh tình trạng coi thường việc
nghiên cứu những hiện vật đã quá quen thuộc - loại hiện vật "đã biết từ lâu rồi".

Khai quật khảo cổ là một công việc tinh tế, đối xử với các hiện vật khảo cổ cần hết sức
nhẹ nhàng, do vậy ngay cả trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển thì những công cụ
khai quật của các nhà khảo cổ cũng vẫn chỉ là những cái xẻng, cái cuốc nhỏ, cái bay, con
dao, chổi lông… Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật phần lớn là ở công đoạn
nghiên cứu trong phòng.

2. Khi khai quật khảo cổ, ta phải luôn hướng tới một mục đích: cố gắng nghiên
cứu toàn diện quá trình lịch sử. Phương pháp tốt nhất để giải quyết vấn đề này là đào toàn
bộ nơi cư trú (toàn bộ một làng cổ), khu mộ táng…, thu thập những tư liệu liên quan đến
mọi mặt như môi trường sinh thái, địa lý, địa chất… nhưng đó là một công việc lâu dài và
kết thúc việc khai quật thuộc về tương lai.

17
Khai quật toàn bộ một di tích có thể kéo dài hết một đến vài thế hệ các nhà khảo cổ. Chính
vì vậy, với từng di tích cụ thể phải có được một kế hoạch cho từng giai đoạn, từng mùa
khai quật.

Trước khi khai quật, dựa vào việc điều tra khảo cổ và đào thám sát, chúng ta phải biết
được qui hoạch nơi cư trú, khu mộ táng, những giới hạn niên đại của di tích.

3. Trước khi khai quật một di tích nhất thiết phải nắm được địa tầng của di tích để
biết được trình tự và niên đại các lớp đất nhằm tránh việc khai quật tùy tiện.

Trắc diện các lớp đất là "giấy thông hành "của nhà khảo cổ, là "hộ chiếu" của di tích đó.
Đối với việc khai quật mộ cổ, trước hết phải đào và nghiên cứu trắc diện gò mộ (nếu có),
chất đất, kỹ thuật và vật liệu đắp gò mộ…

4. Sau khi đã biết được địa tầng của di tích hay trắc diện của gò mộ, các nhà khảo
cổ tiến hành khai quật theo phương gần thẳng đứng (từ trên xuống) theo từng tầng đất để
làm lộ ra những nền nhà cũ, những di tích, di vật. Các lớp đất lắng đọng khác nhau được
lần lượt bóc bỏ đi và nhất thiết phải nghiên cứu tất cả các tầng của di tích đó.

5. Để có một ý niệm đầy đủ về toàn bộ nơi cư trú cần phải khai quật trên diện lớn.
Thông thường, mỗi hố đào rộng khoảng 100m2 đến 400m2 tuỳ những trường hợp cụ thể.
Với diện tích đó, nó có thể bao gồm được những vết tích kiến trúc nhà ở, nơi sinh hoạt,
sản xuất.

Tuy nhiên, nếu chúng ta đào hố quá lớn thì mất khả năng theo dõi liên tục các tầng đất
trên trắc diện vì các vách hố quá xa nhau; do vậy các hố lớn vừa phải được đào sát nhau
và cách nhau bởi một vách ngăn. Về nguyên tắc hố đào cần theo những hình có góc vuông
(hình vuông, hình chữ nhật).

6. Trong quá trình khai quật, các vết tích kiến trúc, các hiện vật, phát hiện được
phải để nguyên ở vị trí ban đầu của chúng, không được di chuyển ra chỗ khác hoặc lấy ra
khỏi lớp đất văn hoá.

Các hiện vật nằm lộ ra trên vách hố khai quật cũng phải để nguyên ở vị trí, chỉ lấy chúng
ra khi đã hoàn tất việc khai quật.

7. Việc khai quật khảo cổ đòi hỏi phải đào hết tầng văn hoá. Khi đã đào hết tầng văn hoá
thì phải nạo sạch đáy hố để thấy rõ bộ mặt lớp đất hạ tầng - lớp đất cái (hay còn gọi là sinh
thổ) tức lớp đất trên đó người thời cổ bắt đầu cư trú, sinh sống. Không được đào sâu quá
lớp đất cái, phải quan sát xem trên mặt lớp đất cái có vết các hố đào xuống không… Cũng
có trường hợp do có nhiều sự việc khác phát sinh trong lúc khai quật, người ta đành phải
tạm dừng việc khai quật mà chưa đào hết tầng văn hoá…

8. Mọi hiện vật phát hiện được trong quá trình khai quật cần thu lượm tất cả, cho
dù đó là những "vật tầm thường" nằm trong tầng văn hóa hay trong mộ cổ. Kết quả thu
lượm phục vụ cho việc lập bảng thống kê hiện vật, qua đó chúng ta có một ý niệm toàn
diện về trình độ kỹ thuật, đời sống của chủ nhân di tích khảo cổ.

9. Khi tiến hành khai quật khảo cổ, chúng ta đồng thời cũng tiến hành ghi nhật kí
khai quật. Việc ghi nhật kí khai quật do người phụ trách hố khai quật đảm nhận, được thực
hiện hàng ngày.

Ghi nhật kí phải đặc biệt mô tả tỉ mỉ những cái gì không thể hiện được trên bản đồ, trên sơ
đồ mặt cắt và mặt bằng…

18
10. Các di tích khảo cổ và việc khai quật di tích khảo cổ luôn được quần chúng nhân dân
quan tâm. Phần lớn trong các cuộc khai quật khảo cổ các nhà khảo cổ học luôn phải sử
dụng nhân công địa phương để đào, chuyển đất, rửa gốm.

Xử lý mộ táng, nạo vét các hố đất đen, nạo sạch mặt bằng… là những việc đòi hỏi kiến
thức chuyên môn và thực tế, các nhà khảo cổ phải trực tiếp thực hiện…

Trên đây chỉ là những nguyên tắc chung nhất, những phương hướng căn bản của việc khai
quật khảo cổ. Để cuộc khai quật khảo cổ có kết quả tốt, vấn đề chủ yếu vẫn là trình độ
chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn, trách nhiệm và ý thức tự học hỏi của các nhà khảo cổ
qua các cuộc điều tra và khai quật trước đó dưới sự hướng dẫn của các nhà khảo cổ có
kinh nghiệm, với trình độ chuyên môn, kĩ năng cao.

Câu 5:

Những quan điểm khác nhau về nguồn gốc loài người

Nguồn gốc loài người là một vấn đề cũ, nhưng lúc nào cũng mới. Nhiều vấn đề cũ tưởng
chừng như đã được giải quyết nhưng lại bị những phát hiện mới lật ngược trở lại., tuỳ
thuộc vào trình độ văn hoá và tri thức của từng cộng đồng người, của từng dân tộc và của
từng thời đại.
Từ xa xưa, có thể là từ thời nguyên thuỷ, đã có những huyền thoại khác nhau giải thích về
nguồn gốc loài người. Có học giả cổ Hy Lạp tin rằng con người sinh ra từ loài cá. Theo
sách Trang Tử của Trung Quốc "Loài sâu rễ tre sinh ra loài báo, báo sinh ra ngựa, ngựa
sinh ra người". Người cổ Trung Quốc tin rằng Bà Nữ Oa dùng bùn vàng nặn ra người và
thổi vào đó sự sống. Theo người cổ Ai Cập, thần Hanuma đã dùng đất sét tạo ra người trên
bàn xoay đồ gốm.

Cũng theo huyền thoại thì người Việt là "Con Rồng Cháu Tiên". Kinh Thánh của đạo
Thiên chúa giáo trình bày cụ thể về nguồn gốc con người và các loài vật, theo đó, Đức
Chúa Trời đã dùng đất sét nặn thành người đàn ông và lấy xương sườn người đàn ông nặn
thành người đàn bà…

Các huyền thoại, tôn giáo về nguồn gốc con người có rất nhiều và lại giống nhau ở chỗ
quy công sáng tạo ra con người cho các đấng thần linh. Các học giả duy tâm phản động đã
và đang nêu ra rất nhiều học thuyết phản khoa học về nguồn gốc con người.

Các nhà duy vật tiến bộ từ lâu đã tiến hành một cuộc đấu tranh không khoan nhượng
chống lại các thế giới quan tôn giáo duy tâm phản động về nguồn gốc con người. Kết quả
chứng tỏ sự ra đời của con người là kết quả của cả một quá trình tiến hoá liên tục, lâu dài
và rất phức tạp của thế giới sinh vật.

Năm 1758, trong tác phẩm Hệ thống tự nhiên (Systema Natura), K. Linnaeus đã xếp người
vào bộ Linh trưởng (primates) chung với khỉ vượn, vượn cáo… Chính K. Linnaeus đã đặt
tên Homo cho giống người. Tuy chưa thoát khỏi quan niệm bất biến về giống loài, nhưng
K. Linnaeus thực sự là người đầu tiên tiến hành phân loại và xếp con người vào bảng phân
loại sinh giới.

Năm 1809, nhà bác học J.B. Lamark (người Pháp) đã công bố cuốn Triết học động vật
trong đó vạch rõ các động vật cao đẳng phát sinh từ các động vật hạ đẳng và loài người có
nguồn gốc từ loài vượn người.

Nhà sinh vật học vĩ đại người Anh Charles Darwin (1809-1882) là người thực sự tạo ra
bước ngoặt vĩ đại trong tư duy nghiên cứu về nguồn gốc loài người. Các vấn đề tiến hoá
và nguồn gốc loài người được C. Darwin trình bày trong tác phẩm Nguồn gốc loài người
và sự chọn giống xuất bản năm 1871. Dựa C. Darwin đã chứng minh rằng loài người đã
phát sinh từ giống vượn người hoá thạch đã bị tiêu diệt. Những luận điểm về loài người
của C. Darwin gắn liền với học thuyết của ông về nguồn gốc các loài sinh vật được nêu ra
trong công trình Nguồn gốc các loài xuất bản năm 1859. Những luận điểm này xuất phát
từ những quy luật phát triển của thế giới sinh vật mà ông đã khám phá ra.
Những điểm giống và khác nhau giữa người và động vật

Người và các động vật khác có rất nhiều điểm giống nhau về sinh lý và giải phẫu. Người
có nhiều điểm giống động vật có vú hơn cả. Động vật có vú đều đẻ con, cho con bú, bắp
thịt, thần kinh, mạch máu, nội tạng và bộ xương đều gần giống người.

Ngược lại, một số cơ quan tiêu giảm ở người lại là dấu vết của động vật, như ruột thừa,
đốt xương cụt, lớp lông mỏng trên thân, trên mặt ở một số người. Đây được coi là sự lại
giống.

Đặc biệt, khoa phôi thai học đã cung cấp những bằng chứng về lịch sử tiến hoá của con
người. Trong quá trình phát triển, bào thai người đã lập lại các giai đoạn phát triển của
động vật.

Trong Bộ Linh trưởng, các giống vượn người có nhiều điểm giống người hơn cả. Hiện biết
còn 4 giống vượn người, như hắc tinh tinh (chimpanzee), khỉ đột (gorilla), vượn tay dài
(gibbon) và đười ươi (orang-outang).

Vượn người không có đuôi, mặt và ngón thường không có lông, hướng lông, hình dạng
mũi, vành tai và vị trí của mắt, vân tay, số lượng răng (32 răng), cấu tạo răng và các mấu
mặt răng giống người.

Vượn người thường sinh một con, rất ít khi sinh đôi. Thời gian có thai từ 7 đến 9 tháng.
Thai vượn người và thai người trong giai đoạn đầu rất giống nhau, chỉ tới tháng thứ 2 mới
có sự khác biệt rõ rệt. Vượn người mới đẻ giống người hơn vượn lớn.

Trí lực của vượn người khá phát triển. Vượn người có nhiều cách thể hiện tình cảm, biết
cười, biết khóc. Vượn người có 4 nhóm máu cơ bản như người. Có thể lấy máu người tiêm
cho vượn người mà vượn người không chết.

Vượn người có thể lây nhiều bệnh của người như thương hàn, sốt rét và giang mai.

Chứng trạng các bệnh đó ở vượn người cũng gần giống như người.

Những điểm giống nhau giữa vượn người hiện đại và người vừa nêu trên không có nghĩa
là người có nguồn gốc từ vượn người hiện nay mà chỉ chứng tỏ người và vượn người là
những anh em họ hàng có chung tổ tiên. Các giống vượn người hiện đại đã đi chệch quỹ
đạo hình thành loài người và không bao giờ có khả năng thành người được nữa.
Loài người không phải phát sinh từ các giống vượn người hiện đại. Mà, theo nhiều kết quả
nghiên cứu có được cho đến nay, thì loài người đã phát sinh từ một giống vượn người hoá
thạch đã bị tiêu diệt. Do đó, nghiên cứu các linh trưởng hoá thạch, chúng ta có thể phác lại
quá trình phát sinh và phát triển của loài người.

Nguyên nhân và động lực của quá trình chuyển biến từ vượn thành người

Khi nghiên cứu vấn đề nguồn gốc loài người, chúng ta không thể không chú ý đến động
lực thúc đẩy quá trình hình thành con người.

C. Darwin đã có công lao lớn trong việc vạch ra được vị trí của con người trong giới sinh
vật và mối liên hệ thân thuộc giữa con người và động vật cao đẳng. Ông đã chỉ ra rằng
người và vượn người hiện đại là con cháu của một giống vượn người hoá thạch. Luận
điểm của C. Darwin về nguồn gốc loài người gắn liền với phát hiện của ông về quy luật
chọn lọc tự nhiên trong giới sinh vật.

Do chọn lọc tự nhiên mà giống vượn người hoá thạch, tổ tiên của loài người đã xuất hiện.
Học thuyết của C. Darwin có một ý nghĩa to lớn nhưng C. Darwin vẫn không giải quyết
được triệt để vấn đề vì sao loài người đã tự tách ra khỏi giới động vật và vì sao con người
tối cổ đã biến chuyển thành con người hiện đại. C. Darwin đã dùng quan điểm thuần tuý
sinh học để giải quyết các vấn đề đó. Ông đã coi loài người cũng giống như các giống loài
sinh vật khác, phát triển tuân theo quy luật sinh vật mà không thấy được sự khác biệt về
chất giữa người và động vật.
Chỉ có Ph. Ăngghen vĩ đại mới giải quyết được một cách chính xác vấn đề nguồn gốc và
sự phát triển của loài người. Trong tác phẩm nổi tiếng Tác dụng của lao động trong sự
chuyển biến từ vượn thành người viết năm 1876, Ph. Ăngghen đã nêu ra một cách duy vật
và biện chứng nguyên nhân làm cho loài vượn biến thành người và động lực thúc đẩy quá
trình đó.

Ph. Ăngghen vạch rõ chỗ khác nhau căn bản giữa người và động vật là lao động. "Lao
động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ sinh hoạt loài người, và như thế đến một
mức mà, trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra chính bản
thân con người.... Có đặc điểm gì phân biệt đàn vượn và xã hội loài người? Đó là lao
động" …

Ph. Ăngghen đã miêu tả sự biến hoá từ giống vượn người kỷ địa chất thứ ba thành người
do tác dụng của lao động và trong quá trình lao động tập thể. Do chuyển xuống mặt đất,
giống vượn người tổ tiên của loài người dần dần đi thẳng người được. Hai bàn tay được tự
do, phải đảm nhận thêm nhiều hoạt động khác. Và dần dần, tổ tiên con người đã dùng đôi
tay của mình chế tạo ra công cụ. Bước biến chuyển của đôi tay tổ tiên chúng ta từ chỗ
không biết chế tạo công cụ đến chỗ biết chế tạo công cụ là một quá trình rất lâu dài và
chậm chạp. Ph. Ăngghen viết: "Chưa hề có một bàn tay vượn nào có thể chế tạo ra được
một cái dao bằng đá thô sơ nhất"…

Do bàn tay người phát triển, toàn bộ cơ thể của tổ tiên chúng ta cũng đã thay đổi theo do
tác dụng của quy luật phát triển tương quan. Với sự phát triển của bàn tay và với quá trình
lao động, tầm mắt con người được mở rộng. Trong các đối tượng tự nhiên, con người phát
hiện ra những đặc tính mới mà trước kia chưa biết. Mặt khác, lao động đã tạo ra khả năng
cho các thành viên xã hội liên kết chặt chẽ với nhau hơn, tương trợ và hợp tác thường
xuyên hơn. Mỗi cá nhân càng ngày càng có ý thức rõ rệt về lợi ích của sự hợp tác đó. Con
người đi đến chỗ phải nói với nhau một cái gì đấy và nhu cầu đó đưa đến chỗ xuất hiện
ngôn ngữ "…. Ngôn ngữ

bắt nguồn từ trong lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách giải thích duy nhất
đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ".

Lao động và ngôn ngữ đã kích thích sự phát triển của bộ óc. Các giác quan cũng song
song phát triển theo và đến lượt, bộ óc và giác quan lại tác động trở lại lao động và ngôn
ngữ, thúc đẩy lao động và ngôn ngữ tiếp tục phát triển.

Ph. Ăngghen đã viết tác phẩm Tác dụng của lao động trong sự chuyển biến từ vượn thành
người vào lúc chưa phát hiện được những hoá thạch trung gian giữa vượn và người. Thế
mà, cho đến nay những phát hiện mới của khoa học càng ngày càng chứng minh cho tính
chất đúng đắn của các luận điểm mà Ph. Ăngghen đã nêu ra.

Các nhà cổ nhân loại học hiện nay đã phát hiện được tính chất phát triển không đều giữa
các bộ phận của cơ thể người vượn đứng thẳng. Thường là xương chân, xương tay nhiều
tính chất gần người hơn so với xương sọ. Điều đó xác nhận luận điểm của Ph. Ăngghen về
sự phát triển của chân và của tay do đi thẳng và lao động có trước sự phát triển của óc.
Khi nghiên cứu bộ óc và xương hàm dưới của vượn và người cổ, nhiều học giả hiện nay
đã vạch ra được bước phát triển của ngôn ngữ dưới tác dụng của lao động.

Không có ngôn ngữ, tư duy trừu tượng không xuất hiện và phát triển được. Tư duy trừu
tượng cũng như ngôn ngữ là thuộc tính của con người, ngăn cách con người và động vật.
Các nhà khảo cổ học hiện nay cũng đã tìm được các chứng cứ chắc chắn để chứng minh
hoạt động

săn bắt đã xuất hiện ngay trong giai đoạn sớm của nhân loại. Và như vậy, rõ ràng đã xác
minh quan điểm của Ph. Ăngghen về vai trò của thức ăn bằng thịt trong quá trình chuyển
biến từ vượn sang người.

Tính đúng đắn của luận điểm về vai trò của lao động trong quá trình biến chuyển từ vượn
thành người biểu hiện sự vận dụng thành công học thuyết duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử. Nếu C. Darwin đã giải phóng loài người khỏi bàn tay Thượng đế, đặt vào giới
động vật, thì chính Ph. Ăngghen đã tách loài người ra khỏi giới động vật, khiến cho con
người thấy rõ bản chất của mình là lao động, là người cải tạo và chinh phục tự nhiên.

You might also like