07 L09 BTL

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 33

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.

HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
KHOA HỌC ỨNG DỤNG
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


BÀI TẬP LỚN


MÔN HỌC LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

ĐỀ TÀI
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP CỦA
ĐẢNG VÀ GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH MẠNG
VIỆT NAM

LỚP L09 --- NHÓM 07 --- HK222


NGÀY NỘP: 20/3/2023

Giảng viên hướng dẫn: TS. Đào Thị Bích Hồng

Thành phố Hồ Chí Minh --- 2023


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 7

STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ Kết quả Chữ ký


Tổng hợp nội dung,
1. Lê Đào Quang Huy 2011259 viết phần mở đầu và 100%
kết thúc
Nguyễn Hoàng Viết phần 1.1 và tiểu
2. 2011274 100%
Ngọc Huy kết chương 1
Viết phần 1.2 và tiểu
3. Phạm Mai Huyên 2013342 100%
kết chương 1
Viết phần 2.1 và tiểu
4. Trần Thanh Huy 2011295 100%
kết chương 2
Viết phần 2.2 và tiểu
5. Trương Hữu Huy 2010297 100%
kết chương 2
NHÓM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
PHẦN NỘI DUNG ..............................................................................................3
Chương 1 ..............................................................................................................3
QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT VỚI
PHÁP TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH PHÁT ĐỘNG KHÁNG CHIẾN
TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (19/12/1946) .....3
1.1 Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và những
hành động hiếu chiến của thực dân Pháp ..................................................3
1.1.1 Bối cảnh thế giới ............................................................................ 3
Nhận xét chung: ................................................................................8
1.2 Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp ................. 8
Nhận xét chung: ....................................................................................13
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ............................................................................ 15
Chương 2 ............................................................................................................16
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ............ 16
GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM 16
2.1 Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp ................................... 16
2.1.1 Nội dung ....................................................................................... 16
2.1.1 Đánh giá chung ............................................................................20
2.2 Giá trị đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam .................... 21
2.2.1 Khái quát một số kết quả của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp ....................................................................................................... 21
2.2.2 Giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của
Đảng đối với công cuộc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay ........................................................................................ 23
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ............................................................................ 26
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................... 27
DANH MỤC TÀI LIỆU ...................................................................................28
PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài
Thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân
dân ta đã buộc Pháp phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của cả ba nước Đông Dương, lật đổ âm mưu kéo dài và mở rộng chiến
tranh Đông Dương của Pháp – Mĩ, và chấm dứt ách thống trị của thực dân
Pháp trong gần một thế kỷ trên đất nước ta. Đồng thời, Miền Bắc được giải
phóng hoàn toàn, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo điều
kiện hoàn thành triệt để cách mạng ruộng đất, xóa bỏ vĩnh viễn chế độ bóc lột
của giai cấp địa chủ, phong kiến. Từ đó tạo nên một cơ sở vững chắc để nhân
dân ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Trước khi đưa ra quyết định phát động kháng chiến chống thực dân Pháp,
Đảng đã chủ trương “dàn hòa với Pháp” nhân nhượng lợi ích kinh tế, nhưng
đòi Pháp phải thừa nhận quyền tự quyết dân tộc của Việt Nam. Sau đó, chúng
ta đã chấp nhận ký kết hiệp định sơ bộ nhằm duy trì mối quan hệ hòa hoãn với
Pháp nhưng Pháp đã bội ước buộc Đảng phải đưa ra quyết định phát động cuộc
chiến tranh để bảo vệ nên độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.
Để có thể giành được thắng lợi trong cuộc chiến không cân sức với thực
dân Pháp thì không thể không kể đến những quyết định cũng như đường lối
kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đảng ta không ngừng tìm hiểu và đánh giá một cách đầy đủ về thực dân Pháp
qua đó nhanh chóng đưa ra các chính sách nhằm đối phó với những âm mưu,
thủ đoạn của kẻ thù; đánh giá đúng điểm mạnh và điểm yếu của Việt Nam -
thực hiện phương châm thêm bạn, bớt thù, ta đã dùng mọi biện pháp để tập hợp
lực lượng, củng cố mối quan hệ với bạn đồng minh, tranh thủ lực lượng trung
gian. Ngoài ra, Đảng cũng không ngừng cập nhật nắm bắt sự chuyển biến của
tình hình thế giới cũng như nắm bắt nội dung và xu thế phát triển của thời đại,
bên cạnh đó là một đường lối chính trị rõ ràng - gắn mục tiêu giải phóng dân
tộc với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết
hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Trong quá trình hiện đại hoá, công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế, bên
cạnh chúng ta luôn có những người bạn thân thiết sẵn sàng hỗ trợ lẫn nhau
trong các lĩnh vực quan trọng, tuy nhiên vẫn tồn tại những vấn đề có thể ảnh
hưởng không nhỏ đến tình hình xã hội ở Việt Nam. Cục diện Biển Đông bước
sang giai đoạn mới kèm theo là các hành động xâm phạm chủ quyền biển đảo
của một số nước trong khu vực châu Á nói chung và Đông Nam á nói riêng.

1
Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển
Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột.
Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế mang lại cho
Việt Nam những lợi ích to lớn nhưng cũng tạo ra những cơ hội cho kẻ thù thực
hiện những âm mưu nhằm chống phá Đảng như chiến lược “diễn biến hòa
bình”, các thông tin xuyên tạc cương lĩnh, đường lối của Đảng lan tràn trên các
trang mạng xã hội, âm mưu kích động các khu vực người dân tộc thiểu số
chống phá cách mạng,… Tăng trưởng kinh tế nước ta vẫn dựa nhiều vào đầu tư
vốn và tăng trưởng tín dụng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu - dựa
trên khoa học công nghệ và tri thức. Do đó, nền kinh tế nước ta phát triển thiếu
bền vững, chất lượng tăng trưởng không cao. Năng suất lao động của Việt Nam
nói chung, và ngành công nghiệp nói riêng vẫn đang ở mức độ thấp, khi so với
các nước phát triển. Quá trình đô thị hóa diễn ra với tốc độ khá nhanh, nhưng
thiếu sự đồng bộ giữa hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội; trình độ, năng lực
quản lý và phát triển đô thị còn thấp so với yêu cầu.
Do vậy, để có thể đưa ra những đường lối và chính sách phù hợp trong việc
xây dựng bảo vệ đất nước, bảo vệ nền hoà bình và ổn định của Việt Nam,
chúng ta cần phải không ngừng học tập và phát triển thông qua những kinh
nghiệm xương máu được đúc kết qua xuyên suốt các cuộc chiến dựng nước và
giữ nước trong quá khứ. Vì vậy, việc nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng là vô cùng cần
thiết, từ đó làm rõ những giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân
Pháp đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Với những lý do trên, nhóm chọn đề tài: “Đường lối kháng chiến chống
thực dân Pháp của Đảng và giá trị đối với sự phát triển của cách mạng Việt
Nam” làm bài tập lớn kết thúc môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ bối cảnh lịch sử thế giới và Việt Nam sau Cách mạng tháng
Tám và những hành động hiếu chiến của thực dân Pháp và quá trình Đảng từng
bước giải quyết xung đột với Pháp trước khi quyết định phát động kháng chiến
toàn quốc chống thực dân Pháp (19/12/1946);
Hai là, làm rõ nội dung của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
của Đảng và có những đánh giá chung về nội dung của đường lối kháng chiến
đối với cách mạng Việt Nam;
Ba là, khái quát một số kết quả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
dưới sự lãnh đạo của Đảng và làm rõ giá trị của đường lối kháng chiến chống
thực dân Pháp đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.

2
PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
QUÁ TRÌNH ĐẢNG TỪNG BƯỚC GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT
VỚI PHÁP TRƯỚC KHI QUYẾT ĐỊNH PHÁT ĐỘNG KHÁNG
CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
(19/12/1946)

1.1 Bối cảnh lịch sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám và những hành
động hiếu chiến của thực dân Pháp
1.1.1 Bối cảnh thế giới
Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, phe Phát xít thua trận và mất hết
thuộc địa. Về phía phe Đồng minh, các nước giành chiến thắng tổ chức nhiều
hội nghị nhằm mục đích thiết lập một nền hòa bình hậu chiến tranh với cả trật
tự an ninh tập thể, đồng thời hình thành một trật tự thế giới mới sau chiến tranh.
Một biến chuyển lớn sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đó là sự ra đời của hệ
thống xã hội chủ nghĩa. Một loạt các nước Đông Âu, Châu Á và khu vực Mỹ
Latinh sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đã tuyên bố đi
lên chủ nghĩa xã hội cùng với Liên Xô hợp thành một hệ thống xã hội chủ
nghĩa hùng mạnh. Sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa xã hội đã thu hút sự
chú ý của thế giới và tác động tới chiều hướng phát triển của nhiều quốc gia
trên thế giới. Ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội ngày càng lớn, chủ nghĩa xã hội
là chỗ dựa tin cậy của phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa tư bản không còn là một hệ thống duy nhất chi
phối nền chính trị thế giới. Tình hình trên đã dẫn tới một vấn đề: mâu thuẫn
giữa Liên Xô và các nước đế quốc hay giữa vô sản và tư bản ngày càng căng
thẳng và gay gắt.
Thế giới hình thành hai hệ thống chính trị - xã hội mâu thuẫn, đối lập nhau,
đó là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và hệ thống các nước tư bản, đế quốc
chủ nghĩa. Liên Xô và Mỹ trở thành hai cường quốc có vai trò ảnh hưởng, chi
phối thế giới.
Mỹ giàu lên nhanh chóng nhờ đứng ngoài cuộc chiến và tranh thủ bán vũ
khí cho các nước tham chiến, trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới và nắm trong
tay một lợi thế đủ khiến các nước khác phải dè chừng – độc quyền bom nguyên
tử. Cán cân thế giới bị lệch hẳn về một phía khiến cho mọi người lo sợ về tham
vọng của Mỹ sẽ thâu tóm cả thế giới.
Các nước Đức, Italia, Nhật, Pháp, Anh… bị chiến tranh tàn phá nặng nề,
kinh tế kiệt quệ, tiềm lực kinh tế quốc phòng bị suy giảm, chính trị - xã hội

3
khủng hoảng, đời sống nhân dân khó khăn. Các nước này phải dựa vào Mỹ để
khôi phục, phát triển đất nước nên lệ thuộc Mỹ, cấu kết với Mỹ chống phá Liên
Xô và phong trào cách mạng thế giới.
Liên Xô sau chiến tranh thế giới trở thành trụ cột của các cuộc đấu tranh vì
hòa bình, độc lập, dân chủ trên thế giới. Đồng thời Liên Xô tranh thủ khôi phục
lại nền kinh tế, khắc phục hậu quả của chiến tranh, phát triển đất nước về mọi
mặt để nhanh chóng kìm hãm Mỹ, duy trì tình trạng hòa bình trên thế giới.
Đặc biệt, nước Pháp bước ra khỏi chiến tranh với những khó khăn, tổn thất
nặng nề trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự và đời sống xã hội,
khoảng 630.000 người chết1. Thực lực kinh tế, quân sự, vị thế chính trị quốc tế
suy giảm nghiêm trọng. Cùng với đó là sự bất ổn về tình hình chính trị và
không có một chủ trương, chính sách thống nhất về vấn đề Việt Nam, Đông
Dương. Một số chính khách ở Pari trước đó đã từng tham gia chống phát xít
Đức, hiểu cái giá phải trả của chiến tranh là rất nặng nề và cũng phần nào hiểu
được cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân các nước thuộc địa…
Tác động từ các quyết định của hội nghị Yalta và hội nghị Potsdam gây khó
khăn cho cách mạng Việt Nam. Đất nước ta vừa dốc hết sức cho cuộc Cách
mạng tháng 8, dân chúng đều mệt mỏi và cần được nghỉ ngơi. Việc Liên Xô
không thể giúp đỡ các nước ở khu vực Đông Nam Á kể từ hội nghị Yalta, đồng
thời Mỹ và phương Tây được phép mở rộng ảnh hưởng ở Nhật Bản, Nam Triều
Tiên, Đông Nam Á, Nam Á, Tây Á đã tạo một bước đà để cho phương Tây
được hợp pháp hóa tiến vào Việt Nam, phần nào khiến cho đất nước ta phải
một mình chống chọi với các nước tư bản chủ nghĩa, đe dọa trực tiếp đến cách
mạng nước ta: đó là làm thế nào để giữ vững nền độc lập, thành quả mới giành
được sau cách mạng tháng Tám 1945.
1.1.2 Bối cảnh trong nước và những hành động hiếu chiến của Pháp
Bối cảnh Việt Nam sau cách mạng tháng Tám
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã giành chiến thắng cuộc Tổng
khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, đất nước được độc lập, thống nhất. Nhân dân
Việt Nam từ thân phận nô lệ bây giờ đã chính thức đứng lên làm chủ vận mệnh
của mình, làm chủ vận mệnh đất nước. Điều này khiến nhân dân càng thêm
phấn khởi, tin tưởng và ủng hộ vào chế độ mới. Như vậy, có thể thấy, chính
quyền mới rất được sự tin tưởng của nhân dân. Mặt trận Việt Minh phát triển
rất nhanh chóng. Các Hội Cứu quốc trong công nhân, nông dân, thanh niên,
phụ nữ được tổ chức thống nhất trong cả nước. Đảng Cộng sản trở thành Đảng
cầm quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước. Đồng thời, Đảng kịp thời mở

1
Nguyễn Anh Thái, Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009

4
rộng đội ngũ, đào tạo cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo trên mọi mặt hoạt động,
chuẩn bị tổ chức cho toàn dân bước vào cuộc đấu tranh mới.
Tuy nhiên, sau chiến tranh thế giới thứ hai, dù chủ nghĩa phát xít đã bị tiêu
diệt, lực lượng đế quốc đã suy yếu hơn trước, song với bản chất phản động, bọn
đế quốc ra sức đàn áp phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào
giải phóng dân tộc, giành giật lại những thuộc địa đã mất. Việt Nam trở thành
đối tượng đàn áp và giành giật của các thế lực đế quốc và tay sai. Theo quy
định của hội nghị Yalta và Potsdam, vấn đề giải giáp quân đội Nhật ở Đông
Dương, mà cụ thể là ở Việt Nam được quy định như sau: phía Bắc vĩ tuyến 16
giao cho 20 vạn quân Tưởng, còn Nam vĩ tuyến 16 được giao cho quân Anh.
Có thể thấy chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc, Việt Nam lại cùng lúc phải
đối phó với nhiều kẻ thù đến như vậy. Đó là chưa kể đến lúc này ở Việt Nam
còn có 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Lúc này, Đảng ta nhận định: Việt
Nam nằm trong vòng vây trùng trùng điệp điệp của chủ nghĩa Đế quốc.
Trong tất cả các kẻ thù lúc bấy giờ, Pháp chính là kẻ thù nguy hiểm nhất đối
với nền độc lập của Việt Nam. Bởi vì hệ thống chính quyền cách mạng mới
được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt, nền độc lập,
tự do của nước ta bị đe dọa nghiêm trọng, hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức
nặng nề, sự tàn phá của nạn lũ lụt, hậu quả của nạn đói do Nhật – Pháp gây ra
cuối năm 1944 – đầu năm 1945 vẫn chưa được khắc phục. Về chính trị, hệ
thống chính quyền còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm lãnh đạo. Khối đại
đoàn kết toàn dân cần có thời gian củng cố. Chính phủ Hồ Chí Minh vừa mới
thành lập, chưa được một nước nào trên thế giới công nhận nên gặp nhiều khó
khăn trong đối ngoại. Bọn phản động ngóc đầu dậy ráo riết hoạt động. Về kinh
tế – tài chính, lâm vào tình trạng kiệt quệ. Kinh tế Việt Nam tiêu điều, xơ xác,
nạn đói tràn lan, mùa màng thất bát. Nhà máy nằm trong tay tự bản pháp, hàng
hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt. Tài chính khánh kiệt, ngân quỹ trống rỗng, kho
bạc Nhà nước chỉ còn 1,2 triệu, chính quyền cách mạng chưa quản lý được
Ngân hàng Đông Dương. Về văn hóa – xã hội, hậu quả chính sách văn hóa ngu
dân để lại là 95% dân số mù chữ, các tệ nạn xã hội tràn lan.
Ở phía Bắc vĩ tuyến 16, hơn 20 vạn quân Tưởng đã ồ ạt kéo vào nước ta.
Núp dưới danh nghĩa đại diện lực lượng Đồng minh vào làm nhiệm vụ giải
giáp quân đội Nhật, quân Tưởng nuôi dã tâm: tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông
Dương, phá tan Việt Minh, lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh và dựng lên một
chính quyền tay sai. Dựa vào quân Tưởng, các tổ chức Việt Quốc, Việt Cách ra
sức chống phá chính quyền cách mạng. Chúng tiến hành nhiều hoạt động vu
cáo, nói xấu Việt Minh, ngang nhiên đòi gạt các bộ trưởng là đảng viên cộng
sản ra khỏi Chính phủ. Chúng còn gây ra các vụ giết người, cướp của, bắt cóc

5
cán bộ, cướp chính quyền ở một số địa phương (Yên Bái, Vĩnh Yên, Móng
Cái...).
Ở phía Nam vĩ tuyến 16, tình hình còn nghiêm trọng hơn khi thực dân Pháp
ngày càng lộ rõ ý đồ trở lại xâm chiếm Việt Nam. Tháng 9/1945, theo thỏa
thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội Anh - Ấn đổ bộ vào Sài Gòn để làm
nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thua trận ở phía Nam Việt Nam.
Tình hình đó đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt
Nam phải đứng trước tình thế “như ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc mà đối
phó với nạn đói, nạn dốt và bọn thù trong, giặc ngoài. Thách thức lớn nhất,
nghiêm trọng nhất lúc này là âm mưu, hành động quay trở lại thống trị Việt
Nam một lần nữa của thực dân Pháp. Việt Nam cần phải giải quyết nhiều vấn
đề cùng lúc: xây dựng lại hệ thống chính quyền vững mạnh, giải quyết các vấn
đề về chính trị, kinh tế - tài chính, phải vực dậy tinh thần của toàn dân đoàn kết
chống giặc, củng cố lực lượng chuẩn bị cho cuộc chiến cả ở miền Nam và miền
Bắc.
Những hành động hiếu chiến của Pháp
Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương, Pháp yếu thế hơn nên
đã rút lui. Mọi việc ở Đông Dương đều do Nhật kiểm soát. Như vậy có thể coi
mọi ký kết giữa Triều đình phong kiến Việt Nam và Pháp đã hết hiệu lực.
Vào tháng 7/1945, hội nghị Potsdam được tổ chức với sự có mặt của 3
thành viên Mỹ, Anh và Liên Xô. Hội nghị đã tiến hành phân chia lại bản đồ
chính trị thế giới: phía Bắc vĩ tuyến 16 giao cho 20 vạn quân Tưởng, còn Nam
vĩ tuyến 16 được giao cho quân Anh. Như vậy Pháp cũng không có quyền lợi
gì ở Việt Nam.
Như đã phân tích bối cảnh lịch sử thế giới lúc bấy giờ từ sau Chiến tranh
thế giới thứ hai, lo ngại với thắng lợi của cách mạng Việt Nam sẽ ảnh hưởng
tới phong trào giải phóng thuộc địa của thực dân Anh ở Châu Á nên thực dân
Anh đã nhân nhượng với Pháp về vấn đề Đông Dương, tạo điều kiện cho Pháp
tái xâm lược nước ta. Pháp đã có những hành động vô cùng khiêu khích đối với
nước ta: Ngày 5/9/1945, được bảo trợ của Anh, quân Pháp giành chiếm trụ sở
Ủy ban nhân dân Nam bộ (tức dinh Thống đốc Nam kỳ cũ), đòi ta giao cho
chúng quản lý toàn bộ các bến cảng thương mại và quân sự, xưởng sửa chữa
tàu biển Ba Son…
Đêm 22 rạng sáng 23/9/1945, quân Pháp và quân Anh chiếm Sở Bưu điện
và Sở Cảnh sát của ta. Chúng tiếp tục chiếm trụ sở Ủy ban nhân dân Nam bộ và
trụ sở Quốc gia Tự vệ Cuộc, gây nhiều cuộc đổ máu trên các đường phố Sài
Gòn, che chở cho lực lượng Pháp biểu tình khiêu khích. Chúng thả và trang bị
vũ khí cho 1.500 lính Pháp bị Nhật giam giữ trước đây và trắng trợn đòi lực

6
lượng vũ trang cách mạng giao nộp vũ khí. Ngày 30/9/1945 hai bên tạm ngừng
bắn, nhưng thực dân Pháp cực kỳ ngoan cố và hiếu chiến, chúng lợi dụng hòa
hoãn để chờ viện binh.
Ngày 6/10 và 12/10 năm 1945, 1000 quân Pháp từ chiến hạm Risơliơ đổ bộ
lên bãi biển Nha Trang. Cùng lúc quân Pháp trong thị xã bung ra chiếm một vài
nơi. Một loạt vị trí ven biển từ Cầu Đá tới Lầu Ông Tư (nay là nhà nghỉ Bộ Nội
vụ), nhà ga, nhà đèn, máy nước đều do quân Pháp đóng giữ. Ngoài khơi, chiến
hạm Risơliơ kiểm soát toàn bộ mặt biển từ cảng Cam Ranh ra tới Vũng Rô, sẵn
sàng dùng pháo lớn chi viện cho bộ binh ở đất liền.
Vào cuối tháng 1/1946, Bộ chỉ huy quân sự Pháp ở Đông Dương huy động
15.000 quân gồm lực lượng của binh đoàn thiết giáp Mát-xuy (Massu), trung
đoàn bộ binh thuộc địa Ma-rốc (M.L.C.M), 2 tiểu đoàn của trung đoàn bộ binh
thuộc địa số 21 và 23, 1 tiểu đoàn thuộc lữ đoàn viễn chinh phương đông
(B.M.E.O) phối hợp với lực lượng hải quân, không quân mở cuộc hành quân
quy mô có tên là “Bò tót” (Gaur) tấn công các tỉnh Đông Nam bộ, Nam Trung
bộ. Ngày 27/1/1946, Pháp đứa cánh quân thứ nhất theo đường 20 tiến vào thị
xã Đà Lạt và sau đó theo đường 11 đánh chiếm thị xã Phan Rang và bán đảo
Cam Ranh. Cánh thứ hai với lực lượng lớn có xe thiết giáp mở đường từ thị xã
Buôn Mê Thuột theo đường 21 (nay là đường 26) tiến xuống Ninh Hòa. Đến 4
giờ chiều ngày 29/1 địch chiếm được thị trấn Ninh Hòa, hình thành gọng kìm
uy hiếp thị xã Nha Trang từ hai phía: Từ Cam Ranh ra, từ Ninh Hòa vào.
Ở phía Nam, ngày 29/1/1946, đại bộ phận quân Pháp có xe bọc thép mở
đường từ Ba Ngòi tiến ra Hòa Tân tới Đồng Cam (Cửu Lợi) sục sạo và bắn phá
làng xóm. Ở phía Bắc, cũng chiều ngày 29/1, quân Pháp sau khi để lại một lực
lượng ở thị trấn Ninh Hòa, còn tập trung phần lớn lực lượng gồm 20 xe cơ giới
có 3 xe bọc thép tiến vào Nha Trang. Cũng ngay trong tối 29/1, quân Pháp từ
Ninh Hòa tiến ra phía bắc chiếm thị trấn Giã, từ đây chúng hành quân ra Tu
Bông.
Không còn đơn thuần là những hành động khiêu khích, Pháp đã nổ súng
xâm lược Việt Nam. Mục đích trước mắt của Pháp là chiếm Sài Gòn rồi chiếm
rộng ra toàn Nam bộ và tiến tới tái chiếm toàn bộ Việt Nam. Nhưng tại chiến
trường miền Nam, thực dân Pháp vướng phải nhiều khó khăn nên không đủ khả
năng đánh chiếm ngay miền Bắc, buộc phải đàm phán với Tưởng Giới Thạch
hòng tìm bước đi thích hợp.
Cuối tháng 2/1946, Hiệp ước Hoa – Pháp được ký kết tại Trùng Khánh.
Theo đó, thực dân Pháp nhượng bộ cho Tưởng Giới Thạch một số quyền lợi
kinh tế, chính trị, văn hóa... Ngược lại, quân Pháp sẽ ra miền Bắc thay thế quân

7
Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng thực chất là chờ viện binh
phát động chiến tranh kiểm soát lại Việt Nam.
Nhận xét chung:
Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong trào giải
phóng dân tộc dâng cao ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc. Sự phát triển của
các nước xã hội chủ nghĩa phần nào gia tăng căng thẳng giữa 2 phe tư bản chủ
nghĩa - xã hội chủ nghĩa. Việt Nam sau khi thắng lợi ở cuộc Cách mạng tháng 8,
nhân dân ta đã giành quyền làm chủ, giành được độc lập cho dân tộc, song lại
phải đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” khi Mỹ và các nước phương
Tây tiến vào nước ta tái thiết lập thuộc địa. Về phía Pháp, sau khi lên kế hoạch
cấu kết với các nước phương Tây cùng với hàng loạt những hành động gây
chiến, ban đầu là chiếm đóng các khu vực miền Nam, sau đó đem quân ra miền
Bắc đã thể hiện rõ dã tâm muốn đòi lại thuộc địa đã mất từ tay Nhật.
1.2 Quá trình Đảng từng bước giải quyết xung đột với Pháp
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng gặp rất
nhiều khó khăn, bất lợi, thử thách hết sức to lớn và nghiêm trọng. Ở trong nước,
hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn rất non trẻ, thiếu thốn,
yếu kém về nhiều mặt. Sự thành công của Cách mạng Tháng Tám làm thay đổi
căn bản cục diện của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, chính quyền cách mạng
và chế độ mới đứng trước nhiều thuận lợi rất căn bản, đồng thời cũng phải đối
mặt với những khó khăn thách thức mới rất to lớn và phức tạp. Chính quyền
non trẻ và nhân dân Việt Nam lúc này phải đối phó với nhiều loại kẻ thù cả
trong lẫn ngoài, nền độc lập, tự do của Tổ quốc bị đe dọa nghiêm trọng, vận
mệnh chính quyền cách mạng như “ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng Cộng sản cầm
quyền, Chính phủ Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức hết sức to
lớn, nghiêm trọng và những biến động phức tạp khôn lường.
Từ tháng 9/1945, theo thỏa thuận của phe Đồng minh, 2 vạn quân đội Anh -
Ấn đổ bộ vào Sài Gòn để làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật thua trận ở
phía nam Việt Nam. Đội quân thực dân Pháp theo chân quân đội Anh quay trở
lại xâm lược Nam Bộ. Với sự thỏa thuận lợi ích của phe đế quốc, quân đội Anh
đã trực tiếp bảo trợ và sử dụng đội quân Nhật nhằm giúp đội quân xâm lược
của thực dân Pháp ngang nhiên nổ súng gây hấn đánh chiếm Sài Gòn vào rạng
sáng ngày 23/9/2945, mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ 2 của thực
dân Pháp ở Việt Nam.
Ngày 10 và 11/9/1945, Hội nghị cán bộ Bắc kỳ của Đảng đã ra nghị quyết
nêu rõ: huy động các hạng nhân tài và chính trị ra giúp việc, cấp tốc tổ chức
các ủy ban nhân dân các làng, các phố, thi hành thống nhất các chương trình
của Việt Minh và do Chính phủ quyết định. Từ ngày 17 đến 24/9/1945, Chính

8
phủ tổ chức “tuần lễ vàng” để có nguồn tài chính phục vụ việc xây dựng đất
nước và chuẩn bị chiến tranh chống xâm lược. Trong một tuần, nhân dân quyên
góp tổng cộng 60 triệu đồng Đông Dương và 370 ký vàng.1
Ngày 25/11/2945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị kháng chiến
kiến quốc, nhằm định hướng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam sau
khi giành được chính quyền. Chỉ thị kháng chiến, kiến quốc là văn kiện quan
trọng của Đảng ở giai đoạn này, đặt dấu ấn đầu tiên về tư duy chính trị của
Đảng cầm quyền. Chỉ thị phân tích sâu sắc sự biến đổi của tình hình thế giới và
tình hình trong nước, nhất là tình hình ở Nam Bộ và cần xác định rõ: “kẻ thù
chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu
tranh vào chúng”. Nêu rõ mục tiêu của cuộc cách mạng Đông Dương lúc này
vẫn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cuộc cách mạng vẫn đang tiếp diễn
vì nó chưa hoàn thành, vì nước ta chưa được hoàn toàn độc lập và đề ra khẩu
hiệu “dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết”. Mọi hành động phải tập trung vào
nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm
lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân và kiên quyết giành độc
lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Chỉ thị đề ra nhiều biện pháp cụ thể phục vụ
nhiệm vụ chính trị trước mắt và giải quyết những khó khăn, phức tạp hiện thời
của cách mạng Việt Nam, trong đó có việc xúc tiến bầu cử Quốc hội để đi đến
thành lập Chính phủ chính thức, lập ra Hiến pháp, động viên lực lượng toàn
dân, kiên trì kháng chiến và chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Kiên định nguyên tắc
độc lập về chính trị, thực hiện chế độ dân chủ cộng hòa. Về ngoại giao phải đặc
biệt chú ý làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết, thực
hiện chủ trương “Hoa – Việt thân thiện” với quân Tưởng Giới Thạch và chủ
trương “độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế” đối với Pháp. Về tuyên
truyền, kêu gọi đoàn kết, chống chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược.
Những quan điểm chỉ đạo và chủ trương, biện pháp đúng đắn sáng tạo được
Đảng nêu ra trong bản Chỉ thị kháng chiến kiến quốc đã đáp ứng kịp thời yêu
cầu cấp bách của cuộc cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ, có tác dụng định
hướng tư tưởng, trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở
Nam Bộ, đấu tranh xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, vừa kháng
chiến vừa kiến quốc của nhân dân trong giai đoạn đầy khó khăn, phức tạp này.
Đầu năm 1946, một ván cờ Việt – Hoa – Pháp diễn biến nhanh chóng. Ngày
28/2/2946, dưới sự dàn xếp thỏa thuận của phe đế quốc, chính phủ Pháp và
chính phủ Tưởng Giới Thạch đã thỏa hiệp với nhau bằng việc ký kết một Hiệp

1
Trang tin điện tử Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, Việc xây dựng và củng cố chính quyền sau Cách
mạng tháng Tám dưới sự lãnh đạo của Đảng, https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/viec-xay-dung-va-cung-co-
chinh-quyen-sau-cach-mang-thang-tam-duoi-su-lanh-dao-cua-dang-1491884415, truy cập ngày
15/03/2023.

9
định tại Trùng Khánh, Trung Quốc. Theo như Hiệp ước thì Pháp nhường cho
Tưởng một số quyền lợi về kinh tế, chính trị, như hủy bỏ cai trị của Pháp trên
đất Trung Quốc, nhượng cho Tưởng một khu đặc biệt để tự do buôn bán và có
quyền kiểm soát thuế quan ở cảng Hải Phòng, bán cho tưởng một đoạn đường
sắt từ Hồ Kiều đến Côn Minh và những kiều dân Trung Quốc ở Đông Dương
được hưởng nhiều quyền lợi đặc biệt. Về phía Tưởng, Tưởng cho quân đội
Pháp thay thế quân đội Tưởng chiếm đóng ở phía Bắc vĩ tuyến 16, làm nhiệm
vụ giải giáp quân Nhật.1 Đây thực chất là một bản hiệp ước bán rẻ và chà đạp
lên nền độc lập của Việt Nam, hợp pháp hóa hành động xâm lược của thực dân
Pháp. Bản Hiệp ước này cũng gây ra những mâu thuẫn, xung đột kịch liệt về
quyền lợi giữa lợi ích của quân đội Tưởng ở Việt Nam và quân đội Pháp. Điều
này đặt cách mạng Việt Nam, Chính phủ và nhân dân Việt Nam đứng trước
tình thế vô cùng nguy hiểm, phải cùng lúc đối mặt trực tiếp với hai kẻ thù xâm
lược to lớn là Pháp và Tưởng trong khi thực lực cách mạng vẫn còn rất non
kém.2
Trước khi rút lui, Tàu hết sức xúc tiến việc cải tổ Chính phủ Việt Nam để
cho phái địa chủ và tư sản phản động, cài tay sai của chúng vào Chính phủ định
cùng bọn tay sai này bắt nhân dân Việt Nam nhắm mắt nuốt chửng Hiệp ước
Hoa – Pháp, yêu sách Pháp thêm ít quyền lợi nữa và ngăn ngừa cuộc đàm phán
riêng giữa Việt Minh và Pháp. Về phía Pháp, ra sức tiến công vào dịp Tết và
mở cuộc đàm phán bàn về vấn đề quân Pháp kéo ra Bắc Việt Nam với mục
đích mau chóng giải quyết vấn đề Đông Dương để bảo toàn uy tín và thực lực
và cũng muốn kéo ta để cân sức với Tàu. Về phần ta, bọn phản động Quốc dân
Đảng Việt Nam hô hào không điều đình với ai hết, chỉ có thắng hoặc là chết,
chúng sợ ta cùng với các lực lượng tả phái Pháp mà chống lại chúng. Dã tâm cố
ý phá cuộc đàm phán giữa Đảng ta và Pháp, đẩy ta chống lại Hiệp ước Hoa –
Pháp, để cho cả ba lực lượng là Tàu, Pháp và phản động quay lại tiêu diệt ta.3
Đứng trước tình thế này, Đảng nhìn nhận một cách khách quan những điều
kiện lời lỗ thiệt hơn trong nước và ngoài nước. Bên trong, dù đã lợi dụng mâu
thuẫn giữa Tàu và Pháp nhưng giờ mâu thuẫn ấy đã tạm hòa hoãn, khi Nhật
đầu hàng thì Pháp chưa chiếm đóng các căn cứ quân sự cần thiết nhưng giờ thì
Pháp đã chiếm lại được nhiều địa điểm quan trọng và tập trung được thêm lực

1
Tỉnh ủy Lạng Sơn, trường chính trị Hoàng Văn Thụ, Hiệp định sơ bộ ngày 06/03/29146, Bài học về
nghệ thuật lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, http://truongchinhtrils.vn/node/1333, truy cập
ngày 15/03/2023.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh
viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.75.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.42.

10
lượng. Bên ngoài, tuy phong trào giành độc lập ở thuộc địa có tiến bộ nhưng
vẫn chưa thể trực tiếp giúp ta. Liên Xô cũng chưa thể dùng Liên hiệp quốc can
thiệp giúp ta được vì thành phần tổ chức của Liên hiệp quốc chưa cho phép
Liên Xô làm như ý muốn.1 Trước tình hình như thế, Đảng ta buộc phải nhân
nhượng, Chính phủ ta ký với đại biểu Pháp ở Hà Nội bản Hiệp định sơ bộ gồm
có các khoản đại khái như:
Một là, nước Pháp công nhận nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam là một
nước tự do có ba kỳ, đứng trong khối liên hiệp Pháp.
Hai là, nước Việt Nam thuận để quân đội Pháp vào Bắc Việt Nam, thay
quân đội Tàu và hạn quân Pháp ở Đông Dương không quá 5 năm.
Ba là, hai bên đình chiến để mở cuộc đàm phán chính thức và trong khi
đàm phán, quân hai bên đóng đâu vẫn cứ đóng đấy.
Sau bản Hiệp định sơ bộ, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến
hành một cuộc đấu tranh ngoại giao kiên trì, kiên quyết, đầy khó khăn, phức
tạp trong suốt năm 1946 ở cả mặt trận trong nước và ngoài nước. Từ ngày 19/4
đến ngày 10/5/1946, đại diện Việt Nam và Pháp gặp nhau tại hội nghị trù bị ở
Đà Lạt nhưng không đạt được bước tiến nào vì vấp phải lập trường thực dân
của phía Pháp. Từ ngày 31/5/1946, theo lời mời của Quốc hội và Chính phủ
Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn của chính phủ Việt nam thăm
chính thức nước Cộng hòa Pháp và trong chuyến thăm này đã thu được nhiều
thành công về mặt đối ngoại, làm cho dư luận Pháp, nhân dân Pháp và giới
chính trị Pháp tiến bộ hiểu thêm về cuộc đấu tranh chính nghĩa, vì nền độc lập
thực sự của Việt Nam, Cũng trong thời gian này, phái đoàn Quốc hội Việt Nam
do Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi thăm thân thiện và tham dự đàm phán chính
thức giữa hai bên Việt - Pháp tại Hội nghị Fontainebleau từ ngày 6/7 đến ngày
10/9/1946 nhưng do vấp phải lập trường hiếu chiến và dã tâm xâm lược của
thực dân Pháp nên Hội nghị lâm vào bế tắc và không đạt được kết quả tích cực
nào. Ngày 15/9/1946, đoàn lên đường về nước, để đảm bảo an toàn cho phái
đoàn đại biểu Việt Nam rời Pháp và cứu vẫn tình thế bế tắc. Ngày 14/9, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký với ông Marius Moute, đại diện của Chính phủ Pháp
một bản Tạm ước 14/9, nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi về kinh
tế, văn hóa ở Việt Nam, đồng thời hai bên cam kết đình chỉ chiến sự ở Nam Bộ
và tiếp tục đàm phán.2

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.44.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh
viên đại học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.76.

11
Sau bản tạm ước 14/9/1946, thái độ hiếu chiến và dã tâm xâm lược của thực
dân Pháp ngày càng lộ rõ. Tình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng căng
thẳng. Đảng, Chính phủ, quân đội và nhân dân Việt Nam tiếp tục kìm chế, kiên
trì thực hiện chủ trương hòa hoãn và bày tỏ thiện chí hòa bình, thái độ nhân
nhượng nhằm tìm kiếm con đường bảo vệ, giữ gìn toàn vẹn nền độc lập tự do
của Việt Nam, đồng thời tìm mọi cách thức cố gắng cứu vãn mối quan hệ Việt
– Pháp đang ngày càng xấu đi và ngăn chặn một cuộc chiến tranh nổ ra quá
sớm và không cân sức. Đi ngược lại với những thiện chí của Đảng ta thì Chính
phủ Pháp và Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Việt Nam đã bộc lộ rõ thái độ bội ước.
Quân đội Pháp ở Việt Nam được bổ sung quân số, tăng cường bình định ở các
tỉnh Nam Bộ, mở rộng phạm vi chiếm đóng, gây hấn, khiêu khích, gây xung
đột quân sự, lấn chiếm nhiều vị trí ở nơi đóng quân thuộc các tỉnh Bắc Bộ Việt
Nam, đồng thời dùng nhiều thủ đoạn xảo quyệt đặt lại nền thống trị ở
Campuchia và Lào.
Cuối tháng 11/1946, thực dân Pháp mở cuộc tấn công vũ trang đánh chiếm
Hải Phòng, Lạng Sơn, tiếp đó chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải Dương, tấn
công vào các vùng tự do của ta ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ, hậu thuẫn cho lực
lượng phản động xúc tiến thành lập cái gọi là “Chính phủ Cộng hòa Nam Kỳ”
và triệu tập Hội nghị Liên bang Đông Dương. Ngày 16 và 17/12/1946 quân đội
Pháp ở Hà Nội chủ động tổ chức gây hấn với ta ở nhiều nơi, tấn công đánh
chiếm trụ sở Bộ Tài Chính, Bộ Giao thông công chính. Ngày 17/12 chúng bắn
đại bác gây ra vụ thảm sát đồng bào Hà Nội ở phố Yên Ninh và Hàng Bún.
Ngày 18/12 đại diện Pháp ở Hà Nội đơn phương tuyên bố cắt đứt mọi liên hệ
với chính phủ Việt Nam, đưa liên tiếp ba tối hậu thư đòi phía Việt Nam phải
giải giáp, phải phá bỏ công sự, chướng ngại vật trên đường phố Hà Nội, giải
tán lực lượng tự vệ chiến đấu, đòi độc quyền thực thi nhiệm vụ kiểm soát, gìn
giữ an ninh, trật tự của thành phố.1
Mọi cố gắng của Chính phủ Việt Nam và Hồ Chí Minh để cứu vãn tình thế
chiến tranh quân sự đã không ngăn được thái độ hiếu chiến của đội quân xâm
lược Pháp. Đến ngày 19/12/1946, những hoạt động ngoại giao, thiện chí hòa
bình, hòa hoãn của Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã bị thực dân Pháp thẳng
thừng chối bỏ và cự tuyệt, phía Pháp đã công nhiên thể hiện rõ lập trường xâm
lược bằng vũ lực quân sự. Âm mưu đánh chiếm nước ta một lần nữa của thực
dân Pháp đã bộc lộ hoàn toàn. Vì vậy, Đảng và nhân dân Việt Nam chỉ còn một
sự lựa chọn duy nhất là phải cầm súng đứng lên chống lại thực dân Pháp xâm

1
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại
học khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.79.

12
lược để bảo vệ nền độc lập non trẻ và chính quyền cách mạng, bảo vệ những
thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám.
Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến, khẳng định quyết tâm sắt đá của nhân dân ta quyết kháng chiến đến cùng
để bảo vệ nền độc lập tự do. Thực hiện chủ trương của Đảng và mệnh lệnh của
Chính phủ, tối ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân ta
đồng loạt nổ ra ở các đô thị từ vĩ tuyến 16 trở ra. Quán triệt đường lối, chủ
trương của Đảng và lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy đảng quân và dân các tỉnh, thành phố
phía Bắc đã đồng loạt nổ súng tấn công mạnh mẽ, quyết liệt vào những nơi
đóng quân của thực dân Pháp.
Nhận xét chung:
(1) Về phía thực dân Pháp
Sau cuộc xâm lược lần thứ nhất, Pháp âm mưu quay lại nước ta, cùng với
sự trợ giúp của Anh, Mỹ. Ban đầu là chiếm đóng miền Nam, sau này dã tâm
được bộc lộ hơn, ký hết Hiệp ước với Tưởng và đem quân ra miền Bắc. Dù
được Đảng ta nhân nhượng nhưng chưa dừng lại ở đó, Pháp khai chiến, giết hại
đồng bào ta, coi thường tính mạng nhân dân ta, bội ước, phủ nhận mọi nỗ lực
thỏa hiệp trong hòa bình của ta.
(2) Về phía Việt Nam
Đảng ta đã nhân nhượng Chính phủ Pháp nhiều lần, trên nhiều mặt. Thậm
chí ta còn quyết định ký Hiệp định sơ bộ, là bản điều ước quốc tế song phương
đầu tiên mà Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký kết với nước ngoài. Điều
đó cho thấy sự nhượng bộ vô cùng của Đảng ta để giữ gìn thành công sau Cách
mạng Tháng Tám, gìn giữ, trân trọng hòa bình, bảo đảm một xã hội yên bình
cho dân tộc ta.
(3) Nhận định về quyết định phát động cuộc chiến tranh của Đảng
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện một số chính sách hòa hoãn,
nhân nhượng với kẻ thù là xuất phát từ đường lối ngoại giao hòa bình, đồng
thời cũng xuất phát từ hoàn cảnh thực tế lúc đó, hoàn cảnh cách mạng “ngàn
cân treo sợi tóc”, hòa thì còn và đánh thì rất có thể mất tất cả. Chính vì những
biện pháp hòa hoãn, nhân nhượng với kẻ thù được thực hiện mà chúng ta đã
giữ được chính quyền, thế và lực của cách mạng phát triển, tạo tiền đề cơ sở để
giành thắng lợi trong các thời kỳ cách mạng sau này. Tuy nhiên, khi sự nhân
nhượng không còn giúp quốc gia ta, nhân dân ta sống hòa bình an ổn được nữa
thì cần thiết phát động cuộc chiến tranh. Đây không phải là cuộc chiến tranh
bồng bột mà là cuộc chiến tranh cấp thiết, dựa trên tình hình đất nước lúc bấy

13
giờ, Đảng ta cũng đã có các đường lối chủ trương đúng đắn, tập hợp lực lượng
nòng cốt, lực lượng toàn dân để chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp.

14
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc cũng là lúc các nước lớn,
phe đế quốc chủ nghĩa bộc lộ rõ những âm mưu mới, bắt tay, dàn xếp với nhau,
một mặt tìm cách liên kết phục hồi chủ nghĩa thực dân, duy trì ảnh hưởng và sự
thống trị của mình đối với các nước thuộc địa, phụ thuộc, mặc khác ra sức tấn
công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, Việt Nam đã gặp không ít những khó khăn trong
công cuộc đối nội và đối ngoại. Đặc biệt là khi chủ nghĩa Đế Quốc tăng cường
đàn áp các phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở khắp nơi trên thế giới.
Tại Việt Nam, thực dân Pháp liên tục có những hành động hiếu chiến dưới sự
giúp sức của quân Đồng Minh đã tiến hành nhiều cuộc tấn công vào các cơ sở
của Việt Nam gây khiêu khích. Nhà nước Việt Nam một mặt phải đối phó với
quân đội Tưởng Giới Thạch thì vừa phải hòa hoãn với Pháp nhằm tránh phải
vào thế “một cổ hai tròng”. Tuy nhiên thực dân Pháp vẫn ngang nhiên nổ súng
phá vỡ hiệp ước đã ký kết trước đó.
Trước những âm mưu hành động như vậy, Việt Nam buộc phải phát động
cuộc chiến tranh. Khi phát động một cuộc chiến như vậy là một quyết định
đúng đắn và hợp lí bởi vì kẻ thù đã buộc chúng ta cầm súng và chúng ta không
còn con đường nào khác là buộc phải cầm súng để bảo vệ lập, tự do cho đất
nước, nếu không chúng ta mất nước.
Sau khi đã chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến, ngày 18 và 19/12/1946
Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị tại Vạn Phúc (Hà Đông),
quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946,
quân dân Thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu kháng chiến toàn quốc. Ngay đêm
19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra
lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

15
Chương 2
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ
GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT
NAM

2.1 Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp


2.1.1 Nội dung
Thực tiễn cho thấy trước khi bước vào cuộc chiến lực lượng của ta và Pháp
đã có sự chênh lệch là rất lớn. Pháp với nền kinh tế và nền công nghiệp tiên
tiến phát triển bậc nhất với quân đội chính quy hiện đại, đông đảo được trang bị
vũ khí tân tiến với số lượng khổng lồ, tính đến 19/12/1946 sau nhiều lần tăng
viện, quân số của quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương lên đến 90.000 tên,
gồm 36 tiểu đoàn bộ binh; 4 tiểu đoàn pháo binh; 3 trung đoàn thiết giáp và cơ
giới, hơn 100 máy bay và nhiều tàu chiến1, bên cạnh còn có sự giúp sức của các
cường quốc Anh, Mỹ. Nước ta với nền kinh tế nông nhiệp lạc hậu, bị kiệt huệ
sau nhiều năm chiến tranh, quân đội còn non trẻ được trang bị vũ khí rất ít và
thô sơ, hơn thế còn đang bị cô lập, hầu như không nhận được sự giúp đỡ của
các nước bên ngoài. Có thế nói thành công của cuộc kháng chiến chống Pháp là
trang sử vẻ vang của đất nước, là kết quả của sự đoàn kết, kiên cường và bất
khuất của cả dân tộc ta. Tuy nhiên không thể không kể đến yếu tố quan trọng
nhất đó chính là đường lối cách mạnh đúng đắn của Đảng. Với đường lối chính
trị, phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng ta đã phát động cuộc chiến tranh
nhân dân, tạo nên một thế trận cả nước đánh giặc, phát huy được tối đa sức
mạnh dân tộc, tranh thủ tối đa sức mạnh của thời đại làm nên thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Dựa trên thực tiễn đối phó với những âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp
đường lối kháng chiến của Đảng ta đã được hình thành. Ngày 25/11/1946,
trong chỉ thị Kháng chiến và kiến quốc Đảng đã nêu rõ: “Kẻ thù chính của ta
lúc này là thực dân Pháp xâm lược phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào
chúng”2. Tại Hội nghị quân sự lần thứ I (19/10/1946) do Tổng bí thư Trường
Chinh chủ trì đã nhận định: “nhất định không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh
mình và mình nhất định phải đánh Pháp”3. Bên cạnh đó, chủ tịch Hồ Chí Mình

1
TS.Nguyễn Minh Đức – Nguyễn Thế Vỵ, Nghệ thuật tổ chức, sử dụng lực lượng quân sự trong những
ngày đầu kháng chiến toàn quốc, http://tapchiqptd.vn/vi/an-pham-tap-chi-in/nghe-thuat-to-chuc-su-
dung-luc-luong-quan-su-trong-nhung-ngay-dau-khang-chien-toan-quoc/2949.html, truy cập ngày
15/3/2023.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.
26.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.
133.

16
đã nêu lên những công việc mang tính toàn cục, chiến lược trong chỉ thị Công
việc khẩn cấp bây giờ.
Trên những cơ sở trên, Đảng ta đã đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể
cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân bước vào cuộc chiến mới. Từ đó, đường
lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được bổ sung, phát triển và hoàn chỉnh
trong những năm 1945 đến 1947 qua ba văn bản: chỉ thị Toàn quốc kháng
chiến (12/12/1946) của Ban thường vụ Trung ương Đảng, Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến (20/12/1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Kháng chiến
nhất định thắng lợi (1947) của đồng chí Trường Chinh.
Nội dung cơ bản của đường lối là: dựa trên sức mạnh toàn dân tộc thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự
giúp đỡ của quốc tế.
Về mục đích kháng chiến, “Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược;
giành thống nhất và độc lập”1, đây được xem làm mục tiêu thiết yếu trong thời
gian này vì thực dân Pháp trở lại nước ta xâm lược và “chúng quyết tâm cướp
nước ta một lần nữa”2. Chúng ta muốn tự do, độc lập, muốn thống nhất chúng
ta bắt buộc phải đánh Pháp và bắt buộc phải giành thắng lợi trong cuộc chiến
này.
Về tính chất kháng chiến, cuộc chiến này mang tính dân tộc giải phóng,
Đảng đã phát động với mục đích giải phóng dân tộc tránh khỏi ách đô hộ từ
thực dân Pháp, là một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Đồng thời cuộc chiến còn
thể hiện tính dân chủ mới, chiến tranh để giành quyền tự do, độc lập, dân chủ
và hòa bình, loại bỏ chế độ thực dân đang tồn tại.
Về chính sách kháng chiến, chúng ta phải “liên hiệp với dân tộc Pháp
chống phản động thực dân Pháp”, cuộc chiến mà thực dân Pháp gây ra tại
Đông Dương là một cuộc chiến phi nghĩa, không được một bộ phận nhân dân
yêu chuộng hòa bình tại chính quốc ủng hộ. Vì vậy khi liên kết với bộ phận
nhân dân này ta có thể tạo ra một mặt trận tại chính nước Pháp, làm kẻ địch suy
yếu vì mất đi sự ủng hộ của nhân dân. Bên cạnh đó chúng ta phải “đoàn kết với
Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình”, Miên và Lào là các
quốc gia hiện tại có cùng chung kẻ thủ với chúng ta đó là thực dân Pháp. Khi
liên kết với hai quốc gia này sức mạnh và phạm vi hoạt động của ta sẽ được gia
tăng và mở rộng. Còn tranh thủ sự ủng hộ của các dân tộc yêu chuộng tự do,
hòa bình có thể đem lại cho chúng ta sự ủng hộ trên trường quốc tế.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.
150.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.
160

17
Về chương trình và nhiệm vụ, thực hiện đoàn kết toàn dân tộc, huy động
cả về nhân lực, vật lực và tài lực, kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ,
giành quyền độc lập, bảo toàn lãnh thổ thống nhất Bắc Trung Nam, bên cạnh
đó củng cố nhà nước, chính quyền, chế độ cộng hòa dân chủ, tăng gia sản xuất
thực hiện kinh tế tự cung tự cấp. Có thể thấy Đảng đã đặt ra hai nhiệm vụ chiến
lược và song song, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu trang giải
phòng miền Nam thống nhất tổ quốc, hay còn được gọi là vừa kiến quốc vừa
kháng chiến.
Về phương châm kháng chiến, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện,
lâu dài và dựa vào sức mình là chính. Cụ thể:
Thứ nhất, kháng chiến toàn dân là huy động lực lượng cả về sức, tài, lực
của dân trên toàn đất nước, động viên tất cả các tầng lớp nhân dân, không phân
biệt dân tộc, tôn giáo, độ tuổi tham gia vào kháng chiến. Xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc, sư đồng thuận, nhất trí trong cả nước, đánh địch ở mọi lúc
mọi nơi “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi
đường phố là một mặt trận”. Thực tiễn cho thấy rằng lưc lượng của ta và địch
chênh lệch rất nhiều cả về quân số lẫn trang bị, nếu không huy động toàn dân
thì việc giành thắng lợi trong cuộc chiến là điều bất khả thi, mặt khác nhân dân
chúng ta vừa mới giành được độc lập, vừa xây dựng được chính quyền sau bao
năm bị đô hộ, áp bức, bốc lột nên tinh thần đoàn kết quyết tâm giữ nước, giữ
vững nền độc lập là rất cao. Vì vậy Đảng đã không phát động cuộc chiến tranh
thông thường mà phát động cuộc chiến tranh nhân dân, không chỉ dựa vào lực
lượng quân đội mà còn dựa vào lực lượng của toàn dân với lực lượng vũ trang
ba thứ quân làm nồng cốt: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, và dân quân du
kích. Bên cạnh đó yêu cầu phải có lực lượng toàn dân tham gia chúng ta mới
thực hiện được kháng chiến toàn diện và tự lực cánh sinh.
Thứ hai, kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, trên mọi
mặt trận từ quân sự, chính trị đến cả kinh tế, tư tưởng, văn hóa, ngoại giao
trong đó lấy đấu tranh vũ trang (mặt trận quân sự) đóng vai trò mũi nhọn mang
tính quyết định. Thực dân Pháp khi xâm lược nước ta đã dùng rất nhiều âm
mưu thủ đoạn, tấn công ta trên mọi mặt. Chúng vừa tấn công về quân sự, đồng
thời gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo, dựng nên chính quyền tay
sai, các đảng phái chính trị phản động. Chúng còn tàn phá nền kinh tế vốn đã
lạc hậu, kiệt quệ của chúng ta, chúng tuyên truyền văn hóa thực dân, ra sức
xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước, làm lòng dân dao động. Chúng
còn làm ta suy yếu bằng cách cô lập ngoại giao của ta với quốc tế. Vì vậy muốn
thắng Pháp chúng ta phải làm chúng thất bại trên mọi mặt, do đó tiến hành
chiến tranh toàn diện là điều tất yếu và cần thiết. Để thực hiện được điều đó

18
yêu cầu ta phải xây dựng, củng cố tổ chức Đảng vững mạnh, tuyên truyền sâu
rộng trong quần chúng nhân dân về chủ trương, đường lối kháng chiến của
Đảng, xây dựng và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, tăng cường Mặt
trận dân tộc thống nhất; phát triển các đoàn thể quần chúng, đoàn kết với Miên,
Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình xóa bỏ bộ máy chính quyền
địch, xóa bỏ các tổ chức phản động, chống lại chính sách chia rẽ dân tộc, tôn
giáo…
Mặt trận quân sự, đây là mặt trận có vai trò vô cùng quan trọng, chiến tranh
càng phát triển thì vai trò của lực lượng quân sự càng được nâng cao, thực hiện
nhiệm vụ tiêu diệt và làm thất bại các chiến lực quân sự của địch. Đảng đã thực
hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân lớn mạnh, tiêu
diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đại, kết hợp chiến tranh du kích với chiến
tranh chính quy, đánh Pháp trên mặt trận chính diện và sau lưng, đánh tập trung
và phân tán, kết hợp đánh tiêu diệt và tiêu hao, là “triệt để dùng du kích, vận
động chiến; Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài; vừa đánh vừa võ trang
thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”1
Mặt trận chính trị, Phát huy chỗ mạnh cơ bản của Việt Nam đồng thời
khoét sâu chỗ yếu cơ bản của Pháp. Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường
xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào
và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.
Mặt trận kinh tế, nhằm làm thất bại âm mưu vơ vét sức người, sức của phục
vụ chiến tranh của thực dân Pháp, Đảng đã đưa ra chủ trương xây dựng nền
kinh tế kháng chiến tự cung, tự cấp, đảm bảo đời sống của bộ đội và nhân dân,
đảm bảo sản xuất vũ khí cho lực lượng vũ trang đánh giặc, đồng thời phá hoại
hậu phương chiến tranh của Pháp.
Mặt trận văn hóa, duy trì phong trào bình dân học vụ, dạy và học của các
trường phổ thông các cấp, xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng nền
văn hóa dân chủ phản ánh cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, động
viên, cổ vũ tinh thần kháng chiến của bộ đội theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa
học hóa và đại chúng hóa.
Mặt trận ngoại giao, gồm hai mặt. Một là ra sức tuyên tuyền quốc tế, tranh
thủ mọi sử ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế cả về vật chất và tinh thần đối với cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Hai là tiến hành đấu tranh ngoại giao năm
tố cáo cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, tuyên truyền cuộc chiến
tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.
150

19
Thực hiện tốt những chủ trương trên, nhân dân ta mới có đủ lực lượng vững
mạnh về mọi mặt để chống lại Pháp, làm suy yếu lực lượng của Pháp, có đủ
sức mạnh để đánh bại quân xâm lược Pháp.
Thứ ba, kháng chiến lâu dài là một quá trình vừa tiêu hao lực lượng địch
vừa tranh thủ xây dựng, phát triển lực lượng ta. Hậu phương của ta tại chỗ còn
của Pháp ở xa, ta phải chủ động kháng chiến trường kỳ để tận dụng thời gian
xây dựng một hậu phương vững chắc đồng thời làm suy yếu tiềm lực của Pháp.
Bên cạnh đó, tiến hành kháng chiến lâu dài để chống lại chiến lược “đánh
nhanh thắng nhanh” của Pháp, buộc pháp phải đánh theo cách của ta, từ từ làm
tiêu hao lực lượng của Pháp đồng thời phát triển toàn diện lực lượng của ta để
chống lại Pháp.
Thứ tư, kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng
chiến lược của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, sức
mạnh vật chất, tinh thần vốn có của nhân dân làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn lực
chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân. Lấy độc lập tự chủ về đường lối là yếu
tố quan trọng hàng đầu. Đồng thời phát huy quan điểm tự giải phóng mình,
tránhh tư tưởng bị động, chờ vào sự giúp đỡ của bên ngoài, vì lúc này chúng ta
đang bị cô lập, các nước chưa đặt quan hệ ngoại giao nên chưa có sự viện trợ
nào từ quốc tế. Vì thế chúng ta phải phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, tự dựa
vào sức mình nhưng cũng không coi nhẹ sự giúp đỡ từ bên ngoài vì vậy cần
tích cực vận động quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế về cả vật chất lẫn
tinh thần.
2.1.1 Đánh giá chung
Tương quan lực lượng giữa quân đội nhân dân ta và thực dân Pháp đã gây
rất nhiều khó khăn cho ta. Ta tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh trong điều
kiện của một đất nước nhỏ, dân số ít, kinh tế nông nghiệp lạc hậu cùng với tổ
chức quân đội vẫn còn “thơ ấu”, được trang bị với số vũ khí ít ỏi và thô sơ.
Ngược lại, kẻ thù của Việt Nam ta không những có số dân và số quân đông mà
còn có tiềm lực kinh tế và quân sự lớn, quân đội được trang bị vũ khí và
phương tiện kỹ thuật nhiều và hiện đại hơn quân đội ta gấp nhiều lần.
Trên cơ sở xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện tình hình quốc tế, trong
nước, địch, ta. Đường lối kháng chiến được hình thành, bổ sung và hoàn chỉnh
đã huy động được sức mạnh toàn dân tộc, đấu tranh trên toàn diện các mặt trận,
kéo Pháp vào một cuộc chiến trường kỳ giúp ta vừa đánh Pháp, vừa xây dựng
bồi dưỡng lực lượng, làm cho ta càng đánh càng mạnh. Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh xác định lực lượng kháng chiến là toàn dân, trong đó lực lượng vũ
trang nhân dân ba thứ quân, gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân
quân du kích làm nòng cốt. Để phát huy tối đa sức mạnh của toàn dân tộc,

20
Đảng tổ chức, động viên mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp, tôn
giáo, đảng phái; đồng thời, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Qua đó, ta nhận thấy được rằng, chủ trương của Đảng trong đường lối
kháng chiến là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được những kinh nghiệm đúc
kết của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, vừa phù hợp với tình hình thực tế của đất nước ta lúc bấy giờ.
2.2 Giá trị đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam
2.2.1 Khái quát một số kết quả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
Thắng lợi trên mặt trận quân sự
Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập và trở thành đội
ngũ lãnh đạo của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Ngày 22/12/1944, Bác Hồ đã ra lệnh thành lập quân đội nhân dân Việt Nam,
đánh dấu sự khởi đầu cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Ngày 7/5/1944, chiến thắng tại chiến dịch Điện Biên phủ đã kết thúc 9 năm
chống thực dân Pháp, đẩy lùi sự chiếm đóng của chúng trên lãng thổ Việt Nam.
Ngày 21/7/1954, Hiệp định Geneva được kí kết đã chấm dứt chiến tranh
giữa Việt Nam và Pháp. Đánh dấu một bước tiến lớn trên con đường giành độc
lập của Việt Nam.
Ngày 2/9/1945, Bác Hồ đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và ngày 30/4/1975, quân đội Việt Nam đã giành
chiến thắng, thống nhất đất nước Việt Nam toàn vẹn lãnh thổ và kết thúc cuộc
kháng chiến.
Thắng lợi trên mặt trận chính trị, củng cố và phát triển hậu phương
kháng chiến:
Trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã tuyên truyền và tổ chức kinh tế chiến đấu, đẩy mạnh sản xuất, tăng
cường nguồn lực cho cuộc chiến. Điều này giúp quân đội Việt Nam vượt qua
nhiều khó khăn về tài chính và vật chất. Cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp đã đưa tất cả các tầng lớp và tôn giáo của dân tộc Việt Nam đoàn kết lại
với nhau để đánh bại thực dân. Điều này tạo ra sức mạnh vô hình trong cuộc
đấu tranh chống lại kẻ thù. Thành công của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp đã góp phần tạo ra một sự thay đổi to lớn trong chế độ chính trị và kinh tế
của Việt Nam. Sau khi giành độc lập, Việt Nam đã hình thành một chế độ xã
hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế và xây dựng đất nước. Không những thế, cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp đã nhận được sự ủng hộ từ cộng đồng quốc
tế. Nhiều nước trên thế giới đã đứng về phía Việt Nam trong cuộc đấu tranh
chống lại thực dân Pháp, góp phần giúp đẩy mạnh cuộc chiến. Cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp là một trang sử vang dội trong lịch sử dân tộc Việt

21
Nam, góp phần làm tăng lòng tự hào của người Việt về dân tộc và đất nước. Nó
cũng đã truyền lại thông điệp về tinh thần đấu tranh cho tự do, độc lập và chủ
nghĩa xã hội đến các thế hệ sau này.
Thắng lợi về ngoại giao:
Với sự lãng đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với
đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo.
Toàn dân có sự đoàn kết, một lòng anh dũng đấu tranh trường kì, cần cù
lao động sản xuất.
Có chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, mặt trận dân tộc thống
nhất được củng cố và mở rộng, lực lượng vũ trang dung cảm, hậu phương rộng
lớn, vững mạnh.
Được sự đồng tình, ủng hộ của Trung Quốc, Liên Xô, nhân dân 3 nước
Đông Dương và các nước dân chủ nhân dân trên thế giới.
Kinh nghiệm đúc rút từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng:
Thắng lợi của cuộc kháng chiến ghi nhận sự phát triển và thành công trong
lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh giải phong dân tộc của Đảng Lao động Việt Nam
và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
Một là, đề ra đường lối đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn lịch sử
của cuộc kháng chiến ngay từ những ngày đầu. Đường lối cơ bản là “kháng
chiến và kiến quốc”; kháng chiến toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh là chính.
Tinh thần, khí phách đó đã khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc và mọi nguồn lực sáng tạo của các tầng lớp nhân dân tập trung vào
nhiệm vụ chống thù trong, giặc ngoài, thực hiện mục tiêu độc lập, dân chủ, tiến
bộ trong suốt thời kì kháng chiến.
Hai là, kết hợp chặt chẽ và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm
vụ cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, chống đế quốc và chống phong kiến.
Kháng chiến toàn diện trên các mặt trận, các lĩnh vực trên cả kinh tế, văn hóa,
xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, đồng thời ưu tiên đẩy mạnh hoạt động quân
sự, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi quyết định. Kết hợp nhuần nhuyễn các
hình thức đấu tranh xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm chỗ dựa, nền
tảng để củng cố, phát triển cơ sở hạ tầng chính trị - xã hội vững chắc, phát huy
hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo và tổ chức cuộc kháng chiến của Đảng.
Ba là, ngày càng hoàn thiện phương thức lãnh đạ, tổ chứ điều hành cuộc
kháng chiến phù hợp với đặc thù của từng giai đoạn. Phát triển các loại hình
chiến tranh đúng đắn, sáng tạo phù hợp với đặc điểm của cuộc kháng chiến và
so sánh lực lượng giữa ta và địch, đó là loại hình chiến tranh nhân dân, toàn
dân, toàn diện. kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích ở cả mặt
trận chính diện và vùng sau lưng địch, vùng tạm bị chiếm. Phát huy sở trường

22
của bộ đội ta và cách đánh địch sáng tạo, linh hoạt kết hợp với chỉ đạo chiến
thuật tác chiến linh hoạt cơ động, từng bước tiến lên giành thắng lợi.
Bốn là, xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân: bộ đội chủ
lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích một cách thích hợp, đáp ứng kịp thời
yêu cầu của nhiệm vụ chính trị - quân sự của cuộc kháng chiến. Xây dựng mô
hình tổ chức bộ máy lực lượng vũ trang, nhất là Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân một cách đúng đắn. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trước hết
và quan trọng nhất là về tư tưởng – chính trị, trở thành công cụ chuyên chính,
sắc bén, tin cậy, làm mũi nhọn,nòng cốt cho kháng chiến, làm chỗ dựa cho toàn
dân đánh giặc.
Năm là, coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao vai trò
lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với cuộc kháng chiến trên tất cả mọi lĩnh vực,
mặt trận. Xây dựng, bồi đắp hình ảnh, uy tín của Đảng và Chính phủ phải bằng
hành động thực tế, bằng sự nêu gương và vai trò tiên phong của các tổ chức
Đảng và đội ngũ cán bộ, Đảng viên trong quá tình tổ cức cuộc kháng chiến ở
căn cứ địa – hậu phương vùng bị địch tạm chiếm. Hết sức chú trọng công tác
tuyên truyền, giáo dục, động viên cao nhất, nhiều nhất mọi nguồn lực vật chất
trong nhân dân, phát huy cao độ tinh thần của nhân dân đối với thắng lợi cuối
cùng của cuộc kháng chiến.
2.2.2 Giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng
đối với công cuộc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện
nay
Vận dụng bài học về phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong xây dựng nền
Quốc phòng toàn dân hiện nay, chúng ta cần tập trung xây dựng và phát huy
mọi tiềm lực của đất nước; đó là các tiềm lực: chính trị – tinh thần, quân sự,
kinh tế, văn hóa, khoa học – công nghệ (KH-CN),... Để xây dựng tiềm lực
chính trị – tinh thần, trước hết cần tập trung xây dựng hệ thống chính trị các
cấp trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực, bản lĩnh, trí tuệ để triển khai thực hiện
đúng đắn, sáng tạo mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước. Trong đó, vấn đề then chốt là nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị các cấp; đẩy mạnh cải cách hành
chính, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) và thực hiện
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong công
tác giáo dục quốc phòng – an ninh (QP-AN), cần tập trung quán triệt, tuyên
truyền quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước;
đồng thời, nâng cao nhận thức cho nhân dân về âm mưu, thủ đoạn trong chiến
lược "Diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Thông qua đó, bồi đắp tinh
thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân

23
đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, xây dựng “thế trận lòng dân” vững
chắc, tạo sự đồng thuận của toàn dân đối với sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Hiện nay, công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội của chúng ta đã tạo ra
những tiền đề mới về cơ sở vật chất của nền Quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên,
chúng ta phải biết tận dụng và phát huy một cách hiệu quả nhất, biến tiềm lực
thành thực lực quốc phòng, quân sự khi cần thiết. Đó vừa là đòi hỏi khách quan
của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, vừa là sự kế thừa những bài
học kinh nghiệm sâu sắc trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Trong
kháng chiến chống thực dân Pháp, mặc dù còn “trăm bề” khó khăn, phải tập
trung sức người, sức của cho kháng chiến, nhưng Đảng ta vẫn đề ra nhiều chính
sách đẩy mạnh sản xuất, “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, chăm lo cải thiện
đời sống nhân dân. Bài học đó cho thấy, để xây dựng và phát huy tiềm lực kinh
tế trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, trước hết, từng địa phương phải tập trung
phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân; đồng thời, thực hiện tốt yêu cầu
kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng – an ninh;
thực hiện mỗi bước phát triển kinh tế là một bước tăng cường tiềm lực quốc
phòng – an ninh. Sự kết hợp đó phải được thực hiện ngay trong quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, việc phân bố dân cư và xây dựng kết cấu hạ
tầng trên các địa bàn, nhất là ở các địa bàn chiến lược trọng điểm về quốc
phòng – an ninh. Thực tiễn cho thấy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa với sự phát triển của nhiều thành phần kinh tế đang đặt ra những vấn
đề mới, nhất là trong huy động nhân lực và vật lực. Vì vậy, chúng ta cần coi
trọng việc tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các chế tài quy phạm pháp luật, các
chính sách, phương thức, các biện pháp phù hợp để quản lý, huy động các
nguồn lực này cho công tác quốc phòng, quân sự khi cần thiết.
Cùng với đó, cần coi trọng xây dựng tiềm lực văn hoá, khoa học – công
nghệ,… Trong đó, tập trung xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc. Cần coi trọng giáo dục các thế hệ con người Việt
Nam biết trân trọng các giá trị văn hoá truyền thống, giàu tính nhân văn “lấy
đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”...; đồng thời, nâng cao
chất lượng giáo dục – đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, phục
vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, cần tập trung xây
dựng tiềm lực khoa học công nghệ theo hướng tự chủ, hiện đại, đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội; đồng thời, đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật
– công nghệ quân sự theo hướng phục vụ kịp thời và có hiệu quả những yêu
cầu về bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang. Đặc biệt là,

24
phải đẩy mạnh phát triển nền công nghiệp quốc phòng, để có thể sản xuất, chế
tạo nhiều loại vũ khí, trang bị hiện đại, trực tiếp góp phần xây dựng Quân đội:
chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu tác chiến đánh bại kẻ thù có vũ
khí công nghệ cao.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là quan điểm cơ bản của Đảng ta về sức
mạnh bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới. Quan điểm đó hình thành trên cơ sở
bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong lịch sử dựng
nước, giữ nước của nhân dân ta, mà nổi bật là đường lối: “Toàn dân kháng
chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến, dựa vào sức mình là
chính" trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày nay, chúng ta
có thuận lợi cơ bản là hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện. Đó là cơ
sở pháp lý để xây dựng kế hoạch, các biện pháp phối hợp, huy động các tiềm
lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc.

25
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Sự chênh lệch lực lượng giữa ta và Pháp trên mọi mặt từ kinh tế, quân sự và
ngoại giao đã gây cho chúng ta rất nhiều khó khăn, thách thức khi quyết định
thực hiện kháng chiến. Hiểu rõ được điều đó Đảng đã sáng suốt xem xét, đánh
giá tình hình thực tiễn trong và ngoài nước để đưa ra một đường lối kháng
chiến vô cùng hiệu quả khi kêu gọi được tinh thần đồng lòng đánh giặc của cả
dân tộc, sử dụng hết sức người sức của để thực hiện kháng chiến trên khắp các
mặt trận trong một cuộc chiến mang tính chất lâu dài. Cụ thể nội dung đường
lối là thực hiện kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện, kháng chiến
trường kỳ và kháng chiến tự dựa vào sức mình.
Nhờ vào đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng chúng ta đã giành được
những thắng lợi vô cùng quan trọng trên các mặt trận, đặc biệt chiến dịch Điện
Biên Phủ kết thúc với thắng lợi vẻ vang, lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu
đã giúp ta kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ và giành ưu thế trên bàn đàm
phán tại Hội nghị Genèvơ, mở ra một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập tự do
và đi lên Chủ nghĩa xã hội
Những đường lối của Đảng không chỉ giúp kháng chiến thành công thắng
lợi mà giá trị của nó còn được áp dụng đến tận ngày nay. Những tư tưởng,
phương pháp lãnh đạo, bài học về sức mạnh đoàn kết khi huy động lực lượng
toàn dân, tinh thần tự lực tự cường, chính sách ngoại giao mềm dẻo phù hợp
với thực tiễn vẫn được vận dụng vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước,
bảo vệ lãnh thổ trước những hiểm họa xung đột, những khó khăn của thiên tai
dịch bệnh. Những giá trị này là những yếu tố vô cùng quan trọng trong sự
nghiệp đi lên chủ nghĩa xã hội, bảo đảm nền hòa bình, độc lập, tự do, ổn định
hội nhập với quốc tế, giúp Việt Nam ngày càng phát triển và nâng cao vị thế
trên trường quốc tế.

26
PHẦN KẾT LUẬN

Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc cũng là lúc các nước đế quốc
thực hiện những âm mưu, thủ đoạn nhằm phục hồi chủ nghĩa thực dân và duy
trì sự thống trị của mình đối với các nước thuộc địa, mặc khác ra sức đàn áp
phong trào cách mạng thế giới, trong đó có cách mạng Việt Nam. Sau Cách
mạng Tháng Tám, Việt Nam đã gặp không ít những khó khăn trong công cuộc
đối nội và đối ngoại. Tại Việt Nam, thực dân Pháp với sự giúp đỡ của quân
Đồng Minh đã có những hành động hiếu chiến đối với Việt Nam. Nhà nước
Việt Nam một mặt phải đối phó với quân đội Tưởng Giới Thạch thì vừa phải
hòa hoãn với Pháp nhằm tránh phải vào thế “một cổ hai tròng”. Tuy nhiên thực
dân Pháp vẫn ngang nhiên nổ súng phá vỡ hiệp ước đã ký kết trước đó. Trước
những hành động đe dọa đến nền độc lập tự do của dân tộc, Đảng đã quyết định
phát động cuộc chiến tranh kháng chiến chống thực dân Pháp.
Sau khi đã chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến, ngày 18 và 19/12/1946
Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp hội nghị tại Vạn Phúc (Hà Đông),
quyết định phát động toàn quốc kháng chiến. Khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946,
quân dân Thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu kháng chiến toàn quốc. Ngay đêm
19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra
lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Sự chênh lệch lực lượng giữa ta và Pháp trên mọi mặt từ kinh tế, quân sự và
ngoại giao đã gây ra rất nhiều khó khăn, thách thức cho nước ta khi quyết định
kháng chiến. Hiểu rõ được điều đó Đảng đã sáng suốt xem xét, đánh giá tình
hình thực tiễn trong và ngoài nước để đưa ra một đường lối kháng chiến vô
cùng hiệu quả là thực hiện kháng chiến toàn dân, kháng chiến toàn diện, kháng
chiến trường kỳ và kháng chiến tự dựa vào sức mình.
Nhờ vào đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng chúng ta đã giành được
những thắng lợi vô cùng quan trọng trên các mặt trận, đặc biệt là chiến dịch
Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu đã giúp ta kết thúc 9 năm
kháng chiến trường kỳ và giành ưu thế trên bàn đàm phán tại Hội nghị Genèvơ,
mở ra một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập tự do và đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Những đường lối của Đảng không chỉ giúp kháng chiến thành công mà giá
trị của nó còn được áp dụng đến tận ngày nay. Những tư tưởng, phương pháp
lãnh đạo, bài học về sức mạnh đoàn kết khi huy động lực lượng toàn dân, tinh
thần tự lực tự cường, và chính sách ngoại giao mềm dẻo phù hợp với thực tiễn
vẫn được vận dụng vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ lãnh
thổ trước những hiểm họa xung đột, và ngày càng nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế.

27
DANH MỤC TÀI LIỆU

A. CCBook, Phân tích tính hình Việt Nam sau khi cách mạng tháng tám
thành công, https://ccbook.vn/blogs/news/phan-tich-tinh-hinh-viet-nam-
sau-khi-cach-mang-thang-tam-thanh-cong/, ngày truy cập 04/03/2023
B. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
C. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Lịch sử 12, Nxb. Giáo dục Việt Nam
D. Nguyễn Anh Thái (2015), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb. Giáo dục Việt
Nam
E. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng
sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học khối không chuyên ngành Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
F. Lê Trúc Vinh, Âm mưu của thực dân Pháp tái chiếm Nam bộ và nhân
dân Nam bộ đứng lên kháng chiến bảo vệ độc lập chủ quyền Tổ quốc,
https://soctrang.dcs.vn/Default.aspx?sname=tinhuy&sid=4&pageid=469&c
atid=54308&id=289949&catname=Tu-tuong&title=Am-muu-cua-thuc-
dan-Phap-tai-chiem-Nam-bo-va-nhan-dan-Nam-bo-dung-len-khang-chien-
bao-ve-doc-lap-chu-quyen-To-quoc, truy cập ngày 04/03/2023
G. Tạp chí Cộng sản (2011), Chiến tranh Pháp - Việt bùng nổ vì đâu?,
https://tapchicongsan.org.vn/nghien-cu/-/2018/14324/chien-tranh-phap---
viet-bung-no-vi-dau%3F.aspx, truy cập ngày 05/03/2023
H. Trương Nguyên Tuệ, Những ngày đầu Nam Bộ kháng chiến,
https://www.thanhuytphcm.vn/tin-tap-chi/so-tay-xay-dung-dang-9-
2015/nhung-ngay-dau-nam-bo-khang-chien-1443582937, truy cập ngày
04/03/2023
I. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
J. Hoàng Thị Phương Thảo, Hòa ước Hoa - Pháp tháng 02 năm 1946 và sự
điều chình sách lược ngoại giao của Đảng Cộng sản Việt Nam,
http://truongchinhtritinhphutho.gov.vn/khoa-xay-dung-dang/hoa-uoc-hoa-
phap-thang-02-nam-1946-va-su-dieu-chinh-sach-luoc-ngoai-giao-cua-
dang-cong-san-viet-nam.html, truy cập ngày 04/03/2023.
K. Đỗ Hoàng Linh, Từ Đà Lạt đến Fontainebleau, https://cand.com.vn/Tu-
lieu-antg/Tu-Da-Lat-den-Fontainebleau-i402744/, truy cập ngày
04/03/2023.
L. Tạp chí Xây dựng Đảng, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” – tiếng
gọi non sông!,

28
http://www.xaydungdang.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=3185
&print=true, truy cập ngày 04/03/2023.
M. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
N. http://tapchiqptd.vn/vi/nghien-cuu-tim-hieu/nhung-sang-tao-ve-duong-
loi-cua-dang-ta-trong-thoi-ky-khang-chien-chong-thuc-dan-phap-
19451954/6934.html
O. Nguyễn Văn Toàn, Tính đúng đắn của đường lối kháng chiến toàn dân,
trường kỳ của Đảng ta truy cập từ: https://www.bienphong.com.vn/tinh-
dung-dan-cua-duong-loi-khang-chien-toan-dan-truong-ky-cua-dang-ta-
post446408.html
P. PGS.TS Vũ Quang Hiển, Môn Sử: Việt Nam từ năm 1945 đến năm
1954 truy cập từ: https://tuyensinh.ussh.edu.vn/Mon-Su-Viet-Nam-tu-nam-
1945-den-nam-1954.html
Q. Bao điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Công tác tư tưởng trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954): https://dangcongsan.vn/huong-toi-
ky-niem-90-nam-ngay-truyen-thong-nganh-tuyen-giao/thong-tin-tu-
lieu/cong-tac-tu-tuong-trong-thoi-ky-khang-chien-chong-phap-1945-1954-
550737.html
R. Võ Thị Cẩm Tú, Những bài học lớn của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
quá trình lãnh đạo cách mạng truy cập từ:
https://truongchinhtri.haugiang.gov.vn/chi-tiet/-/tin-tuc/NHUNG-BAI-
HOC-LON-CUA-ANG-CONG-SAN-VIET-NAM-TRONG-QUA-TRINH-
LANH-AO-CACH-MANG68589
S. Nguyễn Mạnh Dũng, Vận dụng bài học phát huy sức mạnh toàn dân tộc
trong kháng chiến chống thực dân Pháp vào xây dựng nền quốc phòng toàn
dân truy cập từ: http://tapchiqptd.vn/vi/nhung-ngay-ky-niem-lon/van-dung-
bai-hoc-phat-huy-suc-manh-toan-dan-toc-trong-khang-chien-chong-thuc-
dan-phap-vao-/905.html
T. C.Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb. Giáo dục Việt Nam (Hà Nội – 2021)
U. Tỉnh ủy Khánh Hòa (2018), Chương VI - Cuộc kháng chiến bắt đầu
(23/10/1945 - 12/1946), https://tinhuykhanhhoa.vn/tin-chi-tiet/id/164/cuoc-
khang-chien-bat-dau-23-10-1945-den-12-1946, Truy cập ngày 10/03/2023
V. Thái Minh Quân (2020), Những sự kiện trong lịch sử thế giới có tác
động đến Việt Nam (1945 - 2000),
https://diendan.hocmai.vn/threads/nhung-su-kien-trong-lich-su-the-gioi-co-
tac-dong-den-viet-nam-1945-2000.791775/, Truy cập ngày 11/03/2023\

29
W. Nguyễn Hồng Bảo Thi (2015), Hội nghị Yalta (Yalta Conference),
https://nghiencuuquocte.org/2015/09/05/hoi-nghi-yalta/, Truy cập ngày
11/03/2023
X. Trang tin điện tử Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, Việc xây dựng và
củng cố chính quyền sau Cách mạng tháng Tám dưới sự lãnh đạo của Đảng,
https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/viec-xay-dung-va-cung-co-chinh-quyen-sau-
cach-mang-thang-tam-duoi-su-lanh-dao-cua-dang-1491884415, truy cập
ngày 15/03/2023.
Y. 2.Tỉnh ủy Lạng Sơn, trường chính trị Hoàng Văn Thụ, Hiệp định sơ bộ
ngày 06/03/29146, Bài học về nghệ thuật lợi dụng mâu thuẫn trong hàng
ngũ kẻ thù, http://truongchinhtrils.vn/node/1333, truy cập ngày 15/03/2023.

30

You might also like