Professional Documents
Culture Documents
Tailieuchung Platon Nguyen Ngoc Dang Khoa 2965
Tailieuchung Platon Nguyen Ngoc Dang Khoa 2965
Lời mở
đầu------------------------------------------------------------------------------------
Chương III: Ảnh hưởng của tư tưởng Platon đối với đời sống văn hóa
Một trong những triết gia vĩ đại nhất thời cổ đại là Platon. Tư tưởng của ông đã ảnh
hưởng rất nhiều tới các triết gia không chỉ của thời đại lúc bấy giờ mà cả các giai đoạn
lịch sử về sau nữa. Hệ thống triết học của Platon đã đề cập đến nhiều vấn đề, trong đó
nổi bật là học thuyết ý niệm và linh hồn, học thuyết “nhà nước lý tưởng” và đạo đức
học... Tất cả các học thuyết nói trên đều xuất phát từ lập trường duy tâm khách quan,
đại biểu cho tầng lớp chủ nô quý tộc, đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động.
Platon phản đối chế độ dân chủ và luận chứng cho sự bất bình đẳng trong xã hội.
Với nhiều giác độ để nghiên cứu về tư tưởng của Platon, tôi chọn đề tài Tư tưởng triết
học của Platon và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của thời đại để
làm rõ và phân tích. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đề tài không tránh những
thiếu sót vì vậy kính mong thầy góp ý và đánh giá để đề tài được hoàn thiện hơn. Trân
trọng
Platon
2
Chương I: Giới thiệu chung về Platon
Trong triết học Hy Lạp trước Socrate thế giới quan duy vật nói chung chiếm ưu thế
(trường phái Milet, Héraclite, Anaxagore, Empédocle…). Nhưng bắt đầu từ Socrate
trở đi, cùng với những biến đổi đầy bi kịch của xã hội, chủ nghĩa duy tâm mở rộng
dần ảnh hưởng của mình, và phát triển thành hệ thống ở Platon. Triết học Platon thể
hiện giai đoạn phát triển cực thịnh của triết học Hy Lạp, khai phá nhiều lĩnh lực
nghiên cứu mới, những lĩnh vực mà trước đây, trong thời kỳ “triết học tự nhiên” còn
thống trị, chưa được phân tích sâu sắc. Platon, Aristote được nhân loại biết đến không
chỉ như những triết gia, mà còn là những nhà văn hoá lớn của thế giới cổ đại. Nhưng
cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa duy vật (“đường lối Démocrite”) và chủ nghĩa duy tâm
(“đường lối Platon”) về bản chất và ý nghĩa của tồn tại cũng trở nên quyết liệt, chi
phối con đường vận động của triết học phương Tây suốt bao nhiêu thế kỷ qua.
Platon là một nhà triết học cổ đại Hy Lạp được xem là thiên tài trên nhiều lĩnh vực, có
nhiều người coi ông là triết gia vĩ đại nhất mọi thời đại cùng với Socrates (Σωκράτης)
là thầy ông.
Platon tên thật là Aristocles (427 – 347 TCN), sinh tại một hòn đảo không xa Athènes,
đảo Egine, trong gia đình thuộc dòng dõi quý tộc. Thời trai trẻ Platon là con người
vừa thông minh, vừa khoẻ mạnh, từng hai lần đoạt danh hiệu vô địch điền kinh của thị
quốc, được người đời đặt cho cái tên Platon, tức “vạm vỡ”, “vai rộng”.
3
Platon xuất thân trong một gia đình chủ nô quý tộc ở A-ten. Tên thật của ông là
Aristôclơ. Sinh ra ở Athena, ông được hấp thụ một nền giáo dục tuyệt vời từ gia đình,
ông tỏ ra nổi bật trên mọi lĩnh vực nghệ thuật và đặc biệt là triết học. Platon sinh ra và
lớn lên thời đại khủng hoảng sâu sắc của nền dân chủ chủ nô. Chiến tranh, nghèo đói,
sự thay đổi đường lối cay trị tác động không ít đến sáng tác của ông.
Thời thanh niên (409 – 400 TCN) ông chịu ảnh hưởng trực tiếp của Socrate, cả về tư
Thời viễn du (400 – 389 TCN) gắn với quá trình quan sát, thu thập, học hỏi những tri
thức khoa học từ nhiều nơi, nhằm định hình một thế giới riêng. Khi Socrates chết vào
năm 399 TCN thì Platon mới khoảng 31 tuổi. Trong suốt phiên tòa xử thầy mình, ông
ngồi dự ở phòng xử án. Toàn bộ chuỗi biến cố đó dường như đã ăn sâu vào tâm hồn
ông thành một kinh nghiệm chấn động, vì ông đánh giá Socrates là người giỏi nhất,
minh triết nhất và chính trực nhất trong tất cả mọi người. Từ đó Platon bắt đầu cho
phổ biến một loạt các đối thoại triết học trong đó nhân vật chính luôn luôn là Socrates,
căn vặn những kẻ đối thoại của ông về những khái niệm căn bản về đạo đức và chính
trị, làm cho họ mắc mâu thuẫn trước những câu hỏi của ông. Có lẽ Platon có hai động
cơ chính để làm việc này. Một là để thách thức và tái khẳng định những lời giáo huấn
của Socrates bất chấp chúng đã bị kết án một cách công khai; hai là để phục hồi danh
dự người thầy yêu quí của mình, cho mọi người thấy ông không phải là một kẻ hủy
hoại giới trẻ mà là một bậc thầy danh giá nhất của họ. Sau đó, Platon rời Athènes.
4
Trước tiên ông ở Mégare, làm bạn với Euclide, người sáng lập ra trường phái Mégare,
chủ trương dung hoà Socrate với trường phái Elée. Sau đó, ông sang Cryène, tiếp xúc
với Aristippe và các nhà toán học thuộc phái Pythagore. Ông sang cả Ai Cập,
Phénicie, Ba Tư, Babylone. Năm 389 TCN, Platon tham gia cố vấn chính trị cho bạo
chúa Denys, vua xứ Syracuse, nhưng sau một thời gian bị chính Denys bán làm nô lệ
do mâu thuẫn cá nhân. Annikéris, môn đệ của Aristippe, chuộc ông, rồi giải phóng.
Thời chín muồi về tư tưởng, hay thời viện hàn lâm, được đánh dấu bằng việc thành lập
trường phái triết học riêng tại bắc Athènes, ông sáng lập ra Viện hàn lâm - (tên lấy
theo khu vườn nơi ông ở- trong khu vườn mang tên Akadèmos, là tên một nhân vật
thần thoại). Đây có thể được coi là trường đại học đầu tiên trong lịch sử nhân loại, nơi
dành cho nghiên cứu, giảng dạy khoa học và triết học. Môn sinh ở đây được trang bị
những kiến thức cao nhất, tương đương bậc đại học và sau đại học, gồm toán học,
chính trị, triết học. Suốt quãng đời còn lại Platon chỉ chú tâm vào việc truyền bá tri
thức khoa học, song có lúc bị cầm tù và suýt mất mạng dưới tay bạo chúa Denys con.
Các sáng tác của Platon phần lớn đều có hình thức đối thoại. Với một số lượng sáng
tác đồ sộ gồm khoảng 35 - 36 tập đối thoại (tuy nhiên chỉ có khoảng 25 đối thoại được
khẳng định là chân thực của Platon) và một số thư, các công trình này đã đưa tên tuổi
của 10 Platon lên hàng những người nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử nhân loại, nhất là
trong lịch sử tư tưởng phương Tây. Về trình tự thời gian, các tập đối thoại của Platon
thường được chia ra thành ba thời kỳ: đầu, giữa và cuối. Những tập đối thoại thời kỳ
đầu trình bày ý định của Platon muốn truyền đạt tư tưởng triết học và phong cách biện
chứng của Socrates. Các tập đối thoại thời kỳ giữa và cuối phản ánh sự phát triển tư
tưởng triết học của chính Platon. Theo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều có
nhận định chung là các sáng tác cách đây hai ngàn bốn trăm năm của Platon đã có ảnh
hưởng lớn lao trong lịch sử tư tưởng phương Tây từ thời cổ đại cho đến hiện đại.
Không phải ngẫu nhiên mà ở thế kỷ XX, nhà triết học người Anh Alfred North
5
Whitehead (1861 - 1947) đã từng tỏ lòng tôn kính bằng cách mô tả lịch sử của Triết
học chỉ là “một loạt những chú thích về Platon ” [10, tr. 142 - 143].
Platon không những nâng tư tưởng duy tâm lên thành hệ thống, mà còn khẳng định
tính tất yếu của sự đối đầu duy vật – duy tâm trong triết học. Trong Sophistes có đoạn:
“Một số đưa mọi thứ từ trên trời và từ lĩnh vực của cái cô hình xuống mặt đất…, dứt
khoát rằng chỉ những gì tiếp cận được, sờ được thì mới tồn tại, và xem vật thể và tồn
tại chỉ là một”, một số khác chủ trương “tồn tại đích thực là những idea (ý niệm) phi
vật thể và phi cảm tính nào đó” (A. N. Tranysev: Bài giảng về Triết học cổ đại,
Moskva, 1980, tr. 247). Chủ nghĩa duy tâm, theo Platon, là một triết học “uyển
chuyển”, vì nó thống nhất với thần minh luận, còn chủ nghĩa duy vật là một triết học
thô thiển, xa lạ, không tin vào sự linh thiêng của đời sống con người, mà nếu tin thì
cũng loại trừ vai trò của thần linh trong công việc của trần gian, mà nếu cực chẳng đã
thừa nhận vai trò của thần linh, thì cũng từ chối mọi hành vi sùng bái.
Điểm nổi bật trong hệ thống triết học duy tâm của Platon là học thuyết về ý niệm.
Trong học thuyết này ông đưa ra hai quan niệm về thế giới các sự vật cảm biết và thế
giới các ý niệm. Pla-tôn chịu ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng duy lý trong triết học
Hy Lạp cổ đại (lý luận về cái duy nhất của trường phái Êlê, lý luận về con số của
trường phái Pitago, lý luận về cái phổ biến của Xôcrát). Vì vậy ông xem nhẹ vai trò
của nhận thức cảm tính, tuyệt đối hoá vai trò của nhận thức lý tính, của ý niệm (khái
niệm). Từ đó ông chia thế giới thành hai loại: thế giới của những ý niệm (khái niệm)
6
và thế giới của những sự vật cảm tính.Trong đó thế giới các sự vật cảm biết là không
chân thực, không đúng đắn vì các sự vật không ngừng sinh ra và mất đi, thay đổi và
vận động, không ổn định, bền vững, hoàn thiện; còn thế giới ý niệm là thế giới phi
cảm tính phi vật thể, là thế giới đúng đắn, chân thực, các sự vật cảm biết chỉ là cái
bóng của ý niệm. Theo ông, thế giới của những ý niệm là tồn tại chân thực, vĩnh viễn,
tuyệt đối, bất biến, nó là cơ sở tồn tại của thế giới các sự vật cảm tính. Còn thế giới
các sự vật cảm tính là tồn tại không chân thực, phụ thuộc vào thế giới của các ý niệm,
Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn tại" và "không tồn tại". Vấn đề tồn
tại (bản thể) chiếm vị trí đặc biệt trong triết học Platon. Tồn tại đích thực phải là tồn
tại như thế nào? Đâu là tồn tại khác, hay “cái bóng của tồn tại”? Cái gì là cơ sở, nền
tảng của mọi tồn tại? “ Theo tôi , - Platon viết , - trước tiên cần phải phân biệt cái gì
luôn luôn tồn tại và không giờ sinh thành và cái gì luôn luôn sinh thành nhưng không
bao giờ tồn tại”."Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được bằng trí tuệ
siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Còn "không tồn tại" là vật chất, cái có tính thứ hai
Khác với trường phái Elée, trong quan niệm về tồn tại Platon thừa nhận tính thống
nhất nhưng không phản bác tính đa dạng, muôn vẻ của thế giới các ý niệm. Ông cũng
chỉ ra mối quan hệ giữa ý niệm và sự vật, từ đó đi đến quá trình tiên đoán về vũ trụ
nói chung. Theo Platon, có bao nhiêu ý niệm thì có bấy nhiêu phức hợp các sự vật,
các hiện tượng, các quá trình, các quan hệ đồng nhất căn bản. Trong tác phẩm
mẫu, còn các sự vật là khả giác là các mô phỏng của chúng, chẳng hạn ý niệm “cái
đẹp” như khuôn mẫu để xác định những sự vật cho là “đẹp”.
Thông dự: sự vật nói chung phải thông dự vào một chủng loại ý niệm nhất định để
được mang một tên gọi, chẳng hạn nếu thông dự vào ý niệm “đẹp” thì vật ấy là vật
Hiện diện: các sự vật khả giác trở nên tương đồng với các ý niệm khi các ý niệm đi
Tóm lại, theo Platon, ý niệm đóng vai trò vừa là khuôn mẫu của các sự vật, vừa là
đích mà các thực thể của thế giới khả giác hướng đến, lại vừa là khái niệm về cơ sở
Nhưng đến đây một vấn đề khác được đặt ra: đâu là nguyên nhân của tình trạng khả
biến, nhất thời, phân tán, cố hữu nơi sự vật khả giác. Nguyên nhân ấy được Platon gán
cho vật chất (chora) – bản nguyên thứ hai của vũ trụ.
Chủ nghĩa duy tâm Platon, thể hiện trong bản thể luận về ý niệm, về thế giới khả giác
và về vật chất, đã tạo được dáng vẻ bề thế của chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết
học. Nó vừa là chủ nghĩa duy tâm chiến đấu, vừa là chủ nghĩa duy tâm thông minh.
Từ thế giới quan trên đây, Platon đã quan niệm một cách duy tâm, thần bí về linh hồn.
Theo ông, thể xác của con người được cấu tạo từ đất, nước, lửa và không khí, nó chỉ là
nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn. Linh hồn của con người là sản phẩm của linh hồn
vũ trụ được Thượng đế tạo ra từ lâu. Sau khi được tạo ra, mỗi linh hồn trú ngụ ở một
8
vì sao trên trời, sau đó dùng cánh bay xuống trần gian và nhập vào thể xác con người.
Khi nhập vào thể xác con người thì nó quên hết mọi quá khứ, do đó nhận thức của con
người chỉ là sự hồi tưởng lại những gì mà linh hồn đã có nhưng bị lãng quên.
Nhận thức thông thường cho chúng ta hình ảnh về thế giới hiện tượng, nó không mang
tính chân thực, chỉ là cái bóng mờ của bản chất sự vật. Hiện thực đích thực không
phải là cái mà nó hiện ra, mà là cái làm cho sự vật là cái nó có, được tinh thần nắm bắt
và thể hiện ra trong ngôn ngữ. Thế giới bản chất thuần tuý – đó là thế giới ý niệm, nó
nằm ngoài không gian, thời gian và không thay đổi. Thế giới ý niệm có trước thế giới
cảm biết, sinh ra thế giới cảm biết. Theo ông, đối tượng của nhận thức không phải là
các sự vật cảm tính khách quan bên ngoài, mà là thế giới ý niệm. Nhận thức cảm tính
không phải là nguồn gốc của tri thức; tri thức chân thực chỉ có thể đạt được bằng nhận
thức lý tính, được thể hiện ở các khái niệm. Bởi vì, mỗi sự vật đều có một ý niệm về
nó; sự vật có thể mất đi, nhưng ý niệm về sự vật không bao giờ mất. Ví dụ cái nhà có
thể sụp đổ, hư nát, không còn là cái nhà, nhưng ý niệm về cái nhà (khái niệm nhà) thì
không mất.
Bằng cách nào để có được nhận thức chân thực, đạt được chân lý? Bằng cách hồi
tưởng lại những gì linh hồn đã trải qua, nhưng khi nhập vào thể xác con người nó đã
bị lãng quên. Tóm lại, Platon đã quy toàn bộ quá trình nhận thức thành quá trình hồi
Theo Platon tri thức đuợc phân làm hai loại: Tri thức hoàn toàn đúng đắn và tri thức
mờ nhạt. Loại thứ nhất là tri thức ý niệm có đựơc nhờ hồi tưởng. Loại thứ hai là tri
thức nhận được nhờ vào nhận thức cảm tính, lẫn lộn đúng sai không có chân lí.
9
II.3. Học thuyết về chính trị - xã hội
Trong tác phẩm Nước cộng hoà (Chính thể cộng hoà), Pla-tôn chia linh hồn làm ba bộ
phận: lý tính hay trí tuệ, xúc cảm và cảm tính. Tương ứng với ba bộ phận ấy là ba
hạng trong xã hội. Hạng thứ nhất, là các nhà triết học, nhà thông thái. Hạng này lý
tính giữa vai trò chủ đạo, thích hợp với việc lãnh đạo nhà nước. Hạng thứ hai, là
những người lính, võ sĩ mà linh hồn của họ tràn đầy xúc cảm gan dạ, biết phục tùng lý
trí và nghĩa vụ, thích hợp với việc bảo vệ an ninh của nhà nước cộng hoà. Hạng thứ
ba, là đại chúng, gồm những người nông dân, thợ thủ công và thương nhân. Hạng này
linh hồn của họ không đi xa hơn những khát vọng cảm tính thích nghi với lao động
chân tay, làm ra của cải vật chất phục vụ cuộc sống của nước cộng hoà. Vì vậy, công
Để duy trì trật tự xã hội, Platon cho rằng sự tồn tại của nhà nước là cần thiết, nhưng
ba hình thức nhà nước hiện nay đều xấu. Một là nhà nước của bọn vua chúa xây dựng
trên khát vọng làm giầu, ham danh vọng, đưa đến chiến tranh. Hai là, nhà nước quân
phiệt của một số ít người giầu có, áp bức số đông, đưa đến tội ác. Ba là, nhà nước dân
chủ đem lại quyền lực cho số đông; đó là một nhà nước tồi tệ.
Platon đưa ra quan niệm về nhà nước lí tưởng trong đó sự tồn tại và phát triển của nhà
nước lí tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các
ngành nghề và giải quyết các mâu thuẫn xã hội. Platon nêu lên mô hình nhà nước cộng
hoà. Trong nhà nước ấy, quan hệ bất bình đẳng giữa các hạng người phải được duy trì,
bởi vì nó hợp với tự nhiên, hợp với sự phân công trong xã hội. Sự tồn tại của nhà nước
lý tưởng phải dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất và sự phân công hài hoà giữa
các nghề trong xã hội. Để khắc phục sự phân chia giàu nghèo, cần xoá bỏ gia đình và
tư hữu. Trẻ con sinh ra được đưa vào các cơ quan giáo dục riêng, lựa chọn những đứa
10
trẻ khỏe mạnh, nuôi dưỡng chúng để trở thành vệ binh. Các nhà thông thái, triết học sẽ
Quan niệm về một nhà nước lý tưởng trên đây của Platon chứa đựng nhiều mâu thuẫn.
Một mặt, ông muốn xoá bỏ tư hữu, mặt khác, ông lại chủ trương duy trì sự bất bình
đẳng giữa các hạng người. Một mặt, ông đề cao hình thức cộng hoà, mặt khác ông lại
ra sức bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô quý tộc, chống lại nhà nước dân chủ Aten.
Nhà nước mà ông coi là lý tưởng, thực chất chỉ là sự biện hộ cho giai cấp chủ nô quý
tộc. Đúng như nhận xét của Mác, nó chỉ là lý tưởng hoá chế độ đẳng cấp của Aicập
Nổi tiếng nhất trong số những người môn đệ của ông là Aristoteles. Ngoài ra, sau này
có Plotinus (Πλωτίνος), một triết học gia người Ai Cập (với cái tên La Mã) có thể
được coi là một triết gia Hy Lạp vĩ đại cuối cùng cũng là một người chịu ảnh hưởng
của Platon. Tư tưởng của ông phát triển khuynh hướng thần bí của Platon và sau đó
Dưới góc nhìn triết học duy tâm, nhà triết học Platon cũng đã đề cao linh hồn, ông
cho rằng tri thức đích thực không thể nhận biết được nếu không dùng tư duy con
người (linh hồn nhận thức tri thức). Ông coi thường những giác quan của con người
(được tạo ra từ thể xác). Đối với ông tri thức đích thực sẽ không nhận thức được bằng
11
Chương III: Ảnh hưởng của tư tưởng Platon đối với đời
sống văn hóa tinh thần của thời đại
Tư tưởng của Platon còn là nền tảng chi phối sâu xa trên tinh thần của thế giới tây
Sau khi Platon qua đời, người cháu của ông tên là Speusippus trở thành Viện Trưởng
của trường Academos. Trường Đại Học này tiếp tục hoạt động cho tới năm 529 sau
Tây Lịch, khi Hoàng Đế Byzantine là Justinian I ra lệnh đóng cửa vì cho rằng trường
phổ biến các lời giảng dạy tà giáo (pagan teachings). Tuy nhiên ảnh hưởng của Platon
đã được lan truyền khắp nơi. Nền triết học của Platon đã thể hiện qua tác phẩm của
Philo Judaeus, nhà triết học Do Thái, cư ngụ tại thành Alexandria vào thế kỷ thứ 1 sau
Tây Lịch. Vào thế kỷ thứ 3, nhà triết học Plotinus đã khai triển nền triết học
PlatonMới (NeoPlatonism) tại thành phố Rome. Các nhà thần học Clement of
Alexandria, Origen, Boethius và Thánh Augustine là những người chịu ảnh hưởng của
nền triết học Platonic đồng thời các ý tưởng của Platon đã đóng vai trò chính yếu
trong việc phát triển nền thần học Thiên Chúa giáo (Christian theology) cũng như các
Tại nước Anh, học thuyết của Platon đã sống lại vào thế kỷ 17 do Ralph Cudworth và
các người cộng tác, những học giả này được gọi là The Cambridge Platonists (nhóm
theo Platon thuộc trường Đại Học Cambridge). Họ cố công dùng các lời giảng dạy của
Platon và cách diễn đạt của nhóm NeoPlatonist để làm hòa hợp lý trí (reason) với tôn
giáo. Qua thế kỷ 20, các nhà tư tưởng như Alfred North Whitehead cũng nghiên cứu
12
Các tác phẩm đối thoại của Platon đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau và
được phổ biến bằng nhiều ấn bản. Một trong các bản dịch được nhiều học giả biết tới
nhất là của ông Benjamin Jowett (1), thuộc trường Đại Học Oxford, nước Anh.
Bên cạnh đó, tư tưởng triết học của ông còn ảnh hưởng sâu rộng đối trong các tư
tưởng của các nhà triết học về sau cũng như thể hiện trong đời sống thông qua các
quan niệm.
Thực ra, nhìn với quan niệm của người ngày nay, thì những tư tưởng của Platon và
Aristote về nghệ thuật, là những tư tưởng chống nghệ thuật, chứ không phải là những
tư tưởng tôn vinh nghệ thuật, nhưng ở thời của Platon, triết học có một uy quyền rất
lớn trong xã hội, và tiếng nói của các triết gia có thế lực như Platon, Aristote, là quyết
định, nhất là đây lại là những nhà giáo dục, có đầy đủ thẩm quyền và phương tiện để
truyền bá những điều mình phán quyết. Ở thời Platon, không có gì qua mặt được triết
học. Điều này, xét cho cùng, cũng chỉ là đúng thôi (nếu ta nhận thức được tầm quan
trọng của triết học trong đời sống và trong các lãnh vực văn hóa, nghệ thuật), nhưng
thái độ của Platon đã rất cực đoan: dựa vào định kiến cho rằng nghệ thuật, từ hội họa
đến thi ca, đều chỉ là sự bắt chước, hay sao chép thiên nhiên, và không có gì là thực
cả, cho nên cũng không có giá trị thực, ông đã có một thái độ khinh miệt đối với cả
nghệ thuật, lẫn thi ca. Điều kỳ lạ, là trong nhiều thế kỷ, phương Tây đã tôn vinh
những tư tưởng ấy, để rồi phải hứng chịu những hậu quả tiêu cực của chúng, mà mãi
13
Một tư tưởng khác của Platon cũng đã có ảnh hưởng trực tiếp đến quan niệm cổ điển
về đối tượng của nghệ thuật. Platon cho rằng: cái đẹp (khách thể) là nguồn gốc của sự
ham thích nó ở nơi con người (chủ thể). Chính cái đẹp của đối tượng , tức của khách
thể, đã cuốn hút người nhìn, và gây nên sự ham thích ở nơi người nhìn, tức nơi chủ
thể. Như vậy, có nghĩa là: cái đẹp của đối tượng là có thật, độc lập với ta, và ở ngoài
ta. Điều mà, 22 thế kỷ sau, Kant đã phủ định với tác phẩm Phê phán năng lực phán
đoán (1790). Đối với Kant, cái đẹp chỉ có giá trị chủ quan và không nằm trong đối
tượng.
Còn Aristote, thì mặc dầu không đồng ý với những ý kiến trên của Platon, nhưng vì
tôn trọng ông thầy của mình, và vì bản thân không phải là một nghệ sĩ, nên vẫn chủ
trương bắt chước thiên nhiên, coi đó là mẫu mực, là sự thật khách quan (Aristote,
Poétique), ví dụ như thân thể con người là gương mẫu của cái đẹp của tỷ lệ và của sự
hài hòa.
Những ý tưởng của Platon và Aristote về quan hệ giữa khách thể và chủ thể (một đằng
là cái đẹp, hay đối tượng vẽ, một đằng là người nghệ sĩ, hay người thưởng thức nghệ
thuật), cũng như về sự bắt chước, hay sao chép thiên nhiên, về đại thể, cũng đã được
nghệ thuật Kitô giáo lấy lại và tiếp tục phát triển trong suốt 20 thế kỷ, mặc dầu trên
một số điểm, nhất là trong lãnh vực siêu hình học, quan niệm của Kitô giáo có khác
Chỉ riêng về cái đẹp, quan niệm Kitô giáo cho rằng: mọi vật trên đời này đều đẹp, vì
do đức chúa Trời Ba Ngôi sáng tạo ra; chúng phản ánh cái đẹp toàn mỹ của Chúa.
(Con người được Chúa sáng tạo ra dựa theo hình ảnh của Chúa, nghĩa là mặc dầu
14
khác với Chúa, nhưng con người cũng có đủ những đức tính và khả năng để tham gia
vào công cuộc sáng tạo của Chúa, đặc biệt là sáng tạo ra cái đẹp). Như vậy có nghĩa
là, trong đạo Kitô, đức chúa Trời đã được "nhân hóa" và do đó cái đẹp được thể hiện
một cách cụ thể trên tất cả các nhân vật, từ đức chúa Giê-Su, đến đức Bà Maria, đến
Chư thánh, v.v. (Xem các nền hội họa thời Trung cổ, Tiền Phục Hưng và Phục Hưng).
Đây là một trong những lý do khiến cho ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ điển Hy Lạp đã
bị lu mờ trong suốt thời trung cổ ở Âu châu, để nhường chỗ cho nghệ thuật Kitô giáo
phát triển rực rỡ, gần như liên tục, trong suốt gần 20 thế kỷ với những kiệt tác thể hiện
Những năm đầu thế kỷ XX, hội họa hiện đại đã ra đời với một loạt ý tưởng và quan
niệm mới mẻ về mặt thẩm mỹ: màu sắc, nét vẽ (Van Gogh, Gauguin, Cézanne); cách
đưa đối tượng lên phía trước (Cézanne), cách tái tạo lại đối tượng trong một cấu trúc
(trường phái lập thể: Picasso, Braque...). Cách thể hiện nhịp điệu và sự chuyển động
tính chất triết học, hoàn toàn đi ngược lại với những quan niệm cổ điển, và đã có một
ảnh hưởng quyết định lên nghệ thuật, như: phủ nhận sự sao chép đối tượng (phong
cách biểu hiện, dã thú, lập thể), thậm chí phủ nhận tất cả những hình tượng gợi nhắc
Ở thời của Platon, triết học có một uy quyền rất lớn trong xã hội, và tiếng nói của các
triết gia có thế lực như Platon, Aristote, là quyết định, nhất là đây lại là những nhà
giáo dục, có đầy đủ thẩm quyền và phương tiện để truyền bá những điều mình phán
quyết. Ở thời Platon, không có gì qua mặt được triết học. Điều này, xét cho cùng,
15
cũng chỉ là đúng thôi (nếu ta nhận thức được tầm quan trọng của triết học trong đời
sống và trong các lãnh vực văn hóa, nghệ thuật), nhưng thái độ của Platon đã rất cực
đoan: dựa vào định kiến cho rằng nghệ thuật, từ hội họa đến thi ca, đều chỉ là sự bắt
chước, hay sao chép thiên nhiên, và không có gì là thực cả, cho nên cũng không có
giá trị thực, ông đã có một thái độ khinh miệt đối với cả nghệ thuật, lẫn thi ca. Điều kỳ
lạ, là trong nhiều thế kỷ, phương Tây đã tôn vinh những tư tưởng ấy, để rồi phải hứng
chịu những hậu quả tiêu cực của chúng, mà mãi sau này mới nhận ra được.
Một tư tưởng khác của Platon cũng đã có ảnh hưởng trực tiếp đến quan niệm cổ điển
về đối tượng của nghệ thuật. Platon cho rằng: cái đẹp (khách thể) là nguồn gốc của sự
ham thích nó ở nơi con người (chủ thể). Chính cái đẹp của đối tượng , tức của khách
thể, đã cuốn hút người nhìn, và gây nên sự ham thích ở nơi người nhìn, tức nơi chủ
thể. Như vậy, có nghĩa là: cái đẹp của đối tượng là có thật, độc lập với ta, và ở ngoài
ta. Điều mà, 22 thế kỷ sau, Kant đã phủ định với tác phẩm Phê phán năng lực phán
đoán (1790). Đối với Kant, cái đẹp chỉ có giá trị chủ quan và không nằm trong đối
tượng.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
N. Tranysev: Bài giảng về Triết học cổ đại, Moskva, 1980, trang 247.
http://vietsciences.org/biographie/artists/writers/plato.htm
http://history-world.org/plato.htm
Câu chuyện Triết học – Wiil Durand- Trí Hải và Bửu Đính dịch
http://vi.wikipedia.org/wiki/Platon
17