Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 155

BỘ TÀI CHÍNH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING

VIỆN NGHIÊN CỨU KINH TẾ ỨNG DỤNG


BỘ MÔN KỸ NĂNG MỀM

KỸ NĂNG KHÁM PHÁ BẢN THÂN


VÀ LẬP KẾ HOẠCH NGHỀ NGHIỆP
(Bậc đại học chương trình Chất lượng cao)

Chủ biên: ThS. Lê Nữ Diễm Hương


Thành viên biên soạn:

ThS. Trần Hữu Trần Huy


ThS. Lê Thị Thúy Hà
ThS. Nguyễn Võ Huệ Anh
ThS. Trần Thị Thảo
ThS. Nguyễn Kim Vui
ThS. Nguyễn Thị Trường Hân
ThS. Lại Thế Luyện

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2021


MỤC LỤC
Lời nói đầu ................................................................................................................. 1
Chương 1: Tổng quan về Kỹ năng khám phá bản thân và lập kế hoạch nghề
nghiệp 3
1.1 Khái niệm ............................................................................................................. 3
1.1.1 Khám phá bản thân là gì? ................................................................................ 3
1.1.2 Lập kế hoạch nghề nghiệp là gì? ..................................................................... 4
1.2 Tầm quan trọng của việc thấu hiểu bản thân và lập kế hoạch nghề nghiệp ......... 10
1.3 Một số quan điểm khoa học về khám phá bản thân ............................................. 10
1.4 Tìm hiểu những yếu tố thúc đẩy con người hành động trong cuộc sống ............. 19
Chương 2: Kỹ năng khám phá bản thân ............................................................... 22
2.1 Ta là ai trong cuộc đời này? ................................................................................ 22
2.2.1 Khí chất ............................................................................................................ 22
2.1.2 Nhân cách ......................................................................................................... 36
2.1.3 Mô hình hành vi A – B – C .............................................................................. 37
2.1.4 Trắc nghiệm nhân cách .................................................................................... 38
2.2 Năng lực cá nhân và cơ sở hình thành Năng lực ................................................ 40
2.2.1 Năng lực là gì? ................................................................................................. 40
2.2.2 Các cách hiểu về Năng lực ............................................................................... 40
2.2.3 Vai trò của Năng lực cá nhân trong cuộc sống và nghề nghiệp ....................... 49
2.2.4 Con đường hình thành Năng lực cá nhân ......................................................... 54
2.3 Thái độ là tất cả - Mô hình ASK ......................................................................... 57
2.3.1 Mô hình ASK ................................................................................................... 57
2.3.2 Thái độ tích cực thay đổi cuộc đời ................................................................... 59
2.3.3 Thúc đẩy bản thân bằng cách tìm nguồn cảm hứng trong cuộc sống .............. 64
2.4 Trắc nghiệm MBTI ............................................................................................. 69
Chương 3: Kỹ năng Lập kế hoạch nghề nghiệp ................................................... 74
3.1 Tầm nhìn, Sứ mệnh và Giá trị cốt lõi của mỗi cá nhân ....................................... 74
3.1.1 Tầm nhìn .......................................................................................................... 74
3.1.2 Sứ mệnh ........................................................................................................... 76
3.1.3 Giá trị cốt lõi .................................................................................................... 79
3.2 Phân tích SWOT bản thân ................................................................................... 82
3.2.1 Nhận thức điểm mạnh của bản thân ................................................................ 82
3.2.2 Nhận thức điểm yếu của bản thân ................................................................... 84
3.2.3 Nhận thức cơ hội của bản thân ........................................................................ 85
3.2.4 Nhận thức những nguy cơ đối với bản thân .................................................... 86
3.3 Chiến lược lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với SWOT ....................................... 88
3.3.1 Tìm hiểu về nghề và các lựa chọn nghề nghiệp .............................................. 88
3.3.2 Xác lập Mục tiêu và Hoạch định con đường đến Mục tiêu ............................. 93
3.3.3 Lập kế hoạch nghề nghiệp ............................................................................... 97
3.3.4 Tiến trình quản trị bản thân để hướng đến Mục tiêu ....................................... 99
3.4 Quan điểm về hạnh phúc và thành công trong cuộc sống ................................... 104
3.4.1 Hạnh phúc là gì? .............................................................................................. 104
3.4.2 Thành công ...................................................................................................... 110
3.4.3 Cân bằng cuộc sống và giải tỏa áp lực ............................................................. 114
3.5 Bài tập và câu hỏi ............................................................................................ 118
Phụ lục 1: Trắc nghiệm MBTI ................................................................................... 120
Phụ lục 2: Quản trị Bản thân – Peter Drucker ........................................................... 131
Phụ lục 3: 9 yếu tố khiến một người sống không Hạnh phúc .................................... 153
Tài liệu tham khảo ..................................................................................................... 156
LỜI NÓI ĐẦU

Để thành công ở bậc Đại học và công việc sau này, bước đầu tiên cần xác định chắc chắn
cho bản thân đó chính là Hoạch định bản thân và lập kế hoạch nghề nghiệp. Nếu công
việc này làm tốt sinh viên có thể xác định được mục tiêu học tập của mình, cụ thể họ sẽ
chọn được mảng chuyên môn hẹp để bản thân đeo đuổi, chọn nghề nào sẽ làm cũng như
xác định được phạm vi môi trường phù hợp. Việc làm này nếu chuẩn xác, chúng kéo theo
một loạt các yếu tố thành công tiếp theo rất sát sườn công việc cho sinh viên như: lựa
chọn được bằng cấp bỗ trợ, chứng chỉ và kiến thức liên nghành cần tích lũy cho bản thân
xuyên suốt quá trình học tập từ đó ở thời điểm ra trường dường như tích lũy những khía
mà xã hội yêu cầu cho một nghề hoặc mảng nghề cụ thể nào đó. Việc này đóng vai trò
quan trọng để việc học trở nên là chủ đích. Điều này chắc chắn phải đi từ hoạt động nhận
thức, đến hoạt động tư duy, lập kế hoạch và thực thi trong hoạt động học tập của sinh
viên. Việc hệ thống nhận thức và hướng dẫn phương pháp để khám phá bản thân trong
nghề và hoạch định kế hoạch phát triển bản thân tốt có thể bắt đầu từ con đường ngắn
nhất, ít rủi ro nhất đó làm trải nghiệm phương pháp thông qua môn học này.

Nhóm tác giả mong muốn, với kiến thức, phương pháp và các hoạt động trải nghiệm của
môn học. Sinh viên có thể khám phá được bản thân trong nghề, lựa chọn được mảng hẹp
chuyên môn đeo đuổi, lựa chọn được nghề và mảng nghề phù hợp bản thân. Xác định,
hoạch định và thực thi thành công việc tích lũy kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng thông
qua bằng cấp, bằng cấp bỗ trợ, chứng chỉ và những hoạt động nâng cao kiến thức liên
nghành cho nghề nghiệp của sinh viên.

Nhóm tác giả kỳ vọng người học sẽ cảm thấy thú vị vì hiểu mình hơn, thấy an tâm vì
nhìn được đường đi trong nghề nghiệp, thấy mạnh mẽ vì có từng bước đi vững chắc và
thành công, thấy niềm tin vì lập ra một kế hoạch và đã đo lường được qua thực nghiệm.

Chúng tôi mến chúc các Bạn có một trải nghiệm thú vị và mạnh mẽ trong suốt quá trình
học tập môn học và biến các phương pháp thành hành trang cho mình trong hoạch định
nghề nghiệp thành công.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 07 năm 2021


Nhóm biên soạn tài liệu
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ KỸ NĂNG KHÁM PHÁ BẢN THÂN VÀ
LẬP KẾ HOẠCH NGHỀ NGHIỆP

A. MỤC TIÊU
Sau khi học xong phần này, sinh viên có thể:
- Hiểu được khái niệm và tầm quan trọng của việc khám phá bản thân.
- Nhận thức được vai trò của việc khám phá bản thân để ứng dụng trong học tập,
trong công việc cũng như trong cuộc sống.
- Nắm được một số quan điểm khoa học về khám phá bản thân.
- Hiểu được những yếu tố thúc đẩy con người hành động trong cuộc sống để từ
đó vận dụng tốt những khả năng của bản thân.

B. NỘI DUNG
1.1. Khái niệm

1.1.1. Khám phá bản thân:

Tổng thống Pháp Charles De Gaulle đã nói: “Sẽ chẳng có điều gì vĩ đại được thực
hiện nếu không có những con người vĩ đại, và con người chỉ vĩ đại khi họ quyết tâm trở
nên vĩ đại”.

Những điều chúng ta có thể làm hay không thể làm, những điều khả thi hay không
khả thi hiếm khi xuất phát từ khả năng thực sự của chúng ta. Nó liên quan nhiều đến
niềm tin “Tôi là ai” hơn. Khi gặp một vấn đề mà bản thân “cảm thấy” rằng không thể làm
được là chúng ta xây dựng “rào chắn” – nhân dạng hay hình ảnh hạn chế, yếu kém của
bản thân.

Nhân dạng bản thân thực sự là gì? Đó đơn giản là niềm tin mà chúng ta xác định
rằng chúng ta có những cái khác biệt so với người khác. Khả năng thì không đổi nhưng

1
việc chúng ta sử dụng bao nhiêu năng lực của mình có hoàn toàn phụ thuộc vào cách bạn
định dạng bản thân. Vậy “Tôi là ai?”.

Có nhiều cách để mô tả bản thân - thông qua trạng thái cảm xúc, nghề nghiệp, địa
vị, thu thập, vai trò, hành vi, những vật sở hữu, tín ngưỡng, vẻ bề ngoài, quá khứ, thậm
chí qua những gì mà chúng ta không phải thế.

Nhận dạng của bạn bè cũng có xu hướng ảnh hưởng đến chúng ta. Thường thì khi
bạn tin họ là người như thế nào, đó cũng là sự phản ánh niềm tin của bạn về chính mình.

Khám phá ra bản thân là phải nhận dạng bản thân mình, xác định được “Tôi là ai”.
Ngoài ra việc khám phá ra bản thân còn phải quản lý được bản thân mình. Việc quản lý
bản thân phải theo sự tiến triển của nhận dạng bản thân và phải luôn luôn xác định lại bản
thân trong một thế giới năng động và cởi mở ngày nay.

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta luôn luôn phải trả lời nhiều câu hỏi trong
tương lai như:

(1) Hy vọng và ước mơ của bạn là gì?


(2) Bạn sẽ ở đâu trong 10 hay 15 năm tới?
(3) Bạn sẽ sống 10 năm tiếp theo như thế nào?
(4) Hiện tại bạn sống như thế nào để có thể tạo dựng nên tương lai như mong
muốn?
(5) Trong hiện tại và về lâu dài, điều gì là quan trọng nhất đối với bạn?
(6) Bạn có thể làm gì để định hình nên vận mệnh cuộc đời mình?

Muốn trả lời những câu hỏi trên đòi hỏi chúng ta phải hiểu được bản thân mình và
quản lý được bản thân mình. Boris Pasternak từng nói: “Chúng ta sinh ra để sống chứ
không phải đề chuẩn bị sống”. Do vậy, chúng ta cần phải biết mình là ai trong cuộc đời
này. Đó chính là khám phá ra bản thân mình.

1.1.2. Lập kế hoạch nghề nghiệp

Thế nào là “một công việc tốt?” Đã từng có thời, việc đầu quân cho một công ty lớn
hay trở thành công chức, viên chức nhà nước, hàng ngày mặc áo sơ mi trắng đến công sở
2
làm những “công việc bàn giấy” được coi là công việc tốt. Ngay cả những kỹ sư, tốt
nghiệp các ngành kỹ thuật cũng chỉ muốn “làm việc văn phòng”.

Làm thế nào để tìm ra hướng đi riêng cho mình trong dòng chảy biến động mạnh
mẽ của xu hướng việc làm toàn cầu? Nói cách cụ thể hơn là phải chuẩn bị những gì và
làm thế nào để thay đổi định kiến xã hội? Trong thời điểm hiện nay chúng ta cần phải có
phương thức tư duy chiến lược để định hướng công việc, sự nghiệp tương lai bản thân.
Lập kế hoạch nghề nghiệp trong tương lai là phải tìm kiếm công việc phù hợp với bản
thân. Tìm kiếm công việc phù hợp với bản thân có thể tóm tắt qua 5 chiến lược sau:

1.1.2.1. Chiến lược tạo sự phù hợp giữa người tìm việc và việc tìm người:

Hàng năm cứ đến mùa hè hầu hết các trường đại học đều tổ chức ngày hội việc làm.
Có rất nhiều nhà tuyển dụng muốn tìm được nhân tài và vô số sinh viên vừa tốt nghiệp
đều khao khát lấp đầy vị trí đó. Tuy nhiên, rất khó để tìm thấy sự kết hợp hoàn hảo giữa
nhà tuyển dụng và người lao động. Xét về khía cạnh này thì hoạt động việc tìm người và
người tìm việc giống như một cuộc hôn phối. Dù có rất nhiều nam thanh, nữ tú trên đời
nhưng mỗi người vẫn không dễ tìm được bạn đời phù hợp cho mình. Điều này cũng xảy
ra đối với doanh nghiệp khi họ luôn bất mãn vì tìm gặp khó khăn trong tìm kiếm nhân tài.
Trong khi đó thì người tìm việc than thở rằng không có doanh nghiệp nào cần tới họ. Cả
người tìm việc và doanh nghiệp cứ loay hoay tìm kiếm đối tượng, đó chính là “lệch pha”
của thị trường việc làm. “Lệch pha” là một trong số những từ khóa trọng tâm của vấn nạn
việc làm ngày nay. Điều này đặt ra cho xã hội một nhiệm vụ cấp thiết, đó là phải nhanh
chóng tìm ra giải pháp mới – chìa khóa giải quyết vấn đề “lệch pha” trong thị trường lao
động.

Ngày 26/5/2016, tại Hội thảo “Đổi mới công tác đào tạo nhân lực cho các khu công
nghiệp và khu chế xuất ở Việt Nam” do Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Chương trình đổi mới đào tạo
nghề tại Việt Nam (GIZ) tổ chức, đã thống kê Quý 1/2016 cả nước có 225.000 người có
trình độ cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp. Đây là con số báo động mạnh mà nhiều chuyên gia
đã phản ánh. Tuy nhiên, tình trạng này có nhiều nguyên nhân, dưới góc độ chuyên gia

3
giáo dục trong và ngoài nước đều cho rằng “50% sinh viên học đối phó và lười học”. Về
thực trạng của sinh viên hiện nay kỹ năng mềm còn hạn chế, kiến thức cơ bản chưa vững.
Do vậy chất lượng của sinh viên có thể chia thành 3 nhóm: Nhóm thứ nhất khoảng 20%
là các sinh viên tích cực, chăm chỉ trong học tập và có thái độ nghiêm túc; Nhóm thứ 2
khoảng 30% là các sinh viên học bình thường; Nhóm thứ 3 khoảng 50% là sinh viên học
đối phó và lười học. Chính điều này đã dẫn đến sự “lệch pha” giữa nhà tuyển dụng và
người tìm việc.

Một thực trạng cũng đáng quan tâm mà các chuyên gia cũng có nhiều ý kiến bàn
thảo là số sinh viên, học viên chỉ quan tâm đến có bằng đại học, bằng thạc sỹ hơn là học
thực chất. Hầu hết các trường đều xây dựng chuẩn đầu ra ngoại ngữ, tin học và kỹ năng
mềm nhưng có bao nhiêu sinh viên, học viên có chứng chỉ mà có thể vận dụng vào trong
thực tiễn. Đây là đều đáng lo. Ngoài ra một đều đáng lo nữa là đội ngũ giảng viên các
trường đại học. Hiện nay cả nước có 412 trường đại học, cao đẳng tính bình quân mỗi
tỉnh, thành phố có khoảng 6,6 trường đại học, cao đẳng; cả nước có khoảng 2,2 triệu sinh
viên nhưng số giảng viên giảng dạy bậc đại học có trình độ tiến sỹ chỉ xoay quanh con số
9.000. Số còn lại là thạc sỹ và thậm chí chủ yếu là cử nhân. Ngay cả những giảng viên
học hành không nghiêm túc thì đừng nói chi là sinh viên. Rất nhiều giảng viên lo “chạy
bằng”, “chạy chứng chỉ” là chủ yếu. Đi học cũng thiếu nghiêm túc thì sao đào tạo ra thế
hệ sinh viên nghiêm túc được. Chính điều này đã dẫn đến “lệch pha” giữa nhà tuyển dụng
và người tìm việc.

Như vậy, nếu bản thân sinh viên không có chiến lược làm cho bản thân mình phù
hợp với yêu cầu nhà tuyển dụng thì chắc chắn còn thất nghiệp lâu dài.

1.1.2.2. Tạo nên thương hiệu cá nhân

Các bạn hãy cho biết ở Việt Nam hiện nay có bao nhiêu nghề nghiệp và các trường
từ sơ cấp nghề đến đại học đào tạo ra bao nhiêu nghề? 100-200 hay hơn. Thực sự trong
xã hội có rất nhiều nghề có thể lên đến vài chục ngàn nhưng do định kiến xã hội mà
chúng ta chỉ nhận thức được 1% nghề nghiệp có trong xã hội còn 99% nghề nghiệp khác
bị bỏ quên. Ví dụ “bán vé số” có phải là một nghề không?

4
Khi nói đến thương hiệu tức nói đến “sự khác biệt”, tại sao chúng ta cứ chen chân
vào 1% nghề mà xã hội đều biết và ưa chuộng. Điều này cũng giống như chúng ta không
muốn tách ra khỏi xã hội và cùng với mọi người mặc chung 01 chiếc áo với cùng thương
hiệu giống y hệt nhau.

Thương hiệu cá nhân không chỉ đơn thuần là gây dựng một hình ảnh ra thế giới bên
ngoài mà nó còn là sự tự nhận thức về các điểm mạnh, điểm yếu, kỹ năng, xúc cảm,…
cũng như cách sử dụng các yếu tố đó để tạo nên sự khác biệt cho bản thân và định hướng
cho các quyết định của cá nhân đó. Ngày nay, thương hiệu cá nhân đã và đang trở thành
một yếu tố thiết yếu để đạt tới một sự thành công.

Xây dựng thương hiệu cá nhân là cách làm cho người khác chú ý đến chúng ta
nhiều hơn. Với chúng ta, một thương hiệu cá nhân là sự phản ánh tích cách và năng lực.
Việc xây dựng thương hiệu cá nhân có thể thay đổi bản thân chúng ta, nhưng điều đó
không có nghĩa đánh mất mình, biến mình thành người khác mà chỉ đơn giản là định hình
với nhóm công chúng đang hướng tới.

Một cách tổng quát có thể hiểu: “Thương hiệu cá nhân là giá trị của một cá nhân
nhờ các nguồn lực sẵn có: giá trị bản thân, năng lực, các thành tích về kinh tế, xã hội…
xây dựng lên. Những giá trị này giúp cộng đồng phân biệt được cá nhân này với những cá
nhân khác trong xã hội”.

Như vậy, điều quan trọng là mỗi cá nhân cần hiểu rõ bản thân mình hơn, hiểu rõ
điểm mạnh, điểm yếu, rèn luyện phương pháp làm cho người khác (nhóm công chúng
mục tiêu của mình) tiếp nhận các điểm mạnh, giá trị cá nhân của bạn. Điều đó sẽ làm cho
hình ảnh của chúng ta trong tâm trí người khác có giá trị hơn.

1.1.2.3. Không ngừng học tập, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm làm việc

“Nghề nghiệp là tài sản lớn nhất của con người. Thay vì mua nhà, hãy đầu tư cho
đào tạo nghề nghiệp”. Gần đây tạp chí Time đã thực hiện cuộc điều tra thú vị về đào tạo
nghề nghiệp và thấy rằng đào tạo nghề nghiệp là lĩnh vực đầu tư hiệu quả nhất hơn cả bất
động sản hay chứng khoán. Trong bảng thông điệp Liên bang đầu năm nhiệm kỳ thứ hai,

5
Tổng thống Obama đã nhấn mạnh đến vấn đề đào tạo nghề nghiệp. Các trường đại học là
cái nôi của những ý tưởng độc đáo, sáng tạo. Trên thực tế, Facebook đã ra đời từ ký túc
xá của Đại học Harvard và ký túc xá của Stanford là nơi sản sinh ra ý tưởng Google. Tuy
nhiên đào tạo nghề nghiệp ở bậc đại học cho “sinh viên biết rằng cuộc sống có rất nhiều
nghề nghiệp tốt”, thay vì “đưa sinh viên đến những nơi làm việc tốt”. Điều đó đồng nghĩa
với việc sinh viên biết rằng họ có thể thay đổi công việc nhiều lần trong suốt cuộc đời của
mình và giải thoát họ ra khỏi suy nghĩ ám ảnh rằng chỉ một công việc phù hợp ngay sau
khi tốt nghiệp mới có thể đảm bảo cho họ một tương lai ổn định. Trường đại học không
chỉ là nơi mang đến cho sinh viên tấm bằng tốt nghiệp. Trường học phải là môi trường
mang lại cho sinh viên cơ hội để khám phá và tìm ra đam mê của bản thân. Đào tạo nên
những con người có cách nhìn nhận đa chiều về nghề nghiệp, đó mới là nhiệm vụ của các
trường đại học. Chính vì lý do đó mà sinh viên phải luôn duy trì và không ngừng nghỉ
hành trình khám phá nghề nghiệp bản thân. Nhận thức chính xác bản thân, “biết địch, biết
ta trăm trận trăm thắng” và “có công mài sắt có ngày nên kim”. Phải luôn học hỏi để hoàn
thiện bản thân và xem việc học tập là niềm vui bất cứ học cái gì cũng có giá trị của nó
ngoài bằng cấp ra. Điều này đòi hỏi mỗi chúng ta phải học hỏi không ngừng nghỉ. Người
Việt Nam nói chung và sinh viên Việt Nam sau khi tốt nghiệp đại học nói riêng còn một
hạn chế rất lớn mà Viện Xã hội học Hoa Kỳ đã từng đánh giá: “Người Việt Nam, nhỏ học
vì cha mẹ, lớn lên vì công ăn việc làm, ít có ai học vì chí khí đam mê”. Do vậy, người
Việt Nam thường tham gia các lớp học không cần kiến thức, không có học hỏi gì, chủ
yếu có một bằng cấp hay chứng chỉ nào đó. TS. Mark A. Ashwill - nguyên giám đốc
Viện Giáo dục quốc tế Hoa Kỳ đã từng phát biểu chính vì chạy theo bằng cấp mà 21
Trường Đại học ở Mỹ, không có trụ sở, không đăng ký, không được kiểm định sang Việt
Nam vẫn bán bằng được mà trong số đó rất nhiều giảng viên đại học, họ mua tới cả bằng
Tiến sĩ để giảng dạy.

Nghề nghiệp bản thân không thể hiện qua bằng cấp mà người đó đạt được mà quan
trọng hơn đó là quá trình không ngừng học tập, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm làm
việc.

6
1.1.2.4. Hướng đến thị trường lao động toàn cầu

Việt Nam đã tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương – TPP và trong đó
có quy định về mở cửa thị trường lao động việc làm. Do vậy, sinh viên Việt Nam ngày
nay phải chuẩn bị tâm thế để tham gia cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Chuyến di cư
vượt qua mọi ranh giới của những con người tài năng đã bắt đầu. Ngày nay, cùng với
việc ngưỡng cửa của thị trường việc làm nước ngoài đang dần được hạ xuống, thì ngày
càng nhiều bạn trẻ có ý định tìm kiếm việc làm ở các thị trường nước ngoài. Việc tìm
nguồn cung ứng nhân lực trên toàn thế giới vốn chỉ được giới hạn ở vài nước phát triển
nay đang mở rộng sang các nước đang phát triển.

1.1.2.5. Luôn hướng tới mục tiêu cuối cùng là niềm vui lao động mỗi ngày

“Đừng làm việc vì tiền, hãy làm việc vì hạnh phúc của chính mình”. Người tạo nên
huyền thoại Apple – Steven Jobs từng nói: “Nếu như trở thành người giàu nhất thế giới
rồi cuối cùng kết thúc bằng việc được chôn trong nghĩa địa thì chẳng có ý nghĩa gì với
tôi. Điều quan trọng là mỗi đêm trước khi đi ngủ, bạn có thể nói mình đã làm được một
việc gì đó tuyệt vời. Đừng làm việc vì tiền bạc. Hãy làm một việc gì đó mà bạn có thể tự
hào rằng ngay hôm qua mình đã làm được những điều tuyệt vời có thể thay đổi thế giới”.

“Đừng làm việc vì tiền” một câu nói nghe có vẻ “sáo rỗng” và không phù hợp với
thực tế. Tuy nhiên, chúng ta phải thấy rằng thế hệ trẻ ngày nay không chỉ quan tâm đến
nhu cầu vật chất mà còn nhu cầu tinh thần. Khi công việc không thể hòa hợp với cuộc
sống, khi nó luôn khiến bạn cảm thấy mệt mỏi và mâu thuẫn với chính mình thì có lẽ đó
không phải là công việc thực sự dành cho bạn. Một công việc như vậy sẽ chỉ luôn biến
bản thân nó và hạnh phúc cá nhân của bạn thành sự căng thẳng, mệt mỏi. Xã hội hiện đại
ngày nay là một xã hội đa nguyên hóa. Cho dù ở bất cứ lĩnh vực nào, chỉ cần bước lên
đỉnh cao thì sự đền đáp về mặt vật chất chắc chắn sẽ tự động tăng lên cấp số nhân. Từ đó,
ta có thể thấy tiền tài và hạnh phúc không phải là hai lựa chọn mà chúng ta phải chọn lấy
một. Giờ đây, điều chúng ta cần phải thấy là không phải chia “phú quý hay bần hàn”
trong nghề nghiệp, mà cần phải cảm nhận được “cảm thấy thích và không thích” trong
nghề nghiệp. Cần chắc chắn rằng đó là sự lựa chọn xuất phát từ chính sở thích cá nhân

7
thay vì hành động theo sự lựa chọn của người khác. Hãy nhớ rằng, nghề nghiệp mơ ước
không phải là một món quà gói ghém cẩn thận, đẹp đẽ và gửi tới bạn. Nghề nghiệp mơ
ước là thành quả thu được từ nỗ lực của bản thân.

Hỡi các em sinh viên, hãy làm công việc có thể mang lại hạnh phúc cho chính
mình!

1.2. Tầm quan trọng của việc thấu hiểu bản thân và lập kế hoạch nghề nghiệp đúng
đắn

Hiểu rõ bản thân không những giúp chúng ta kiểm soát những cảm xúc tiêu cực mà
còn giúp chúng ta nhận ra điểm mạnh, điểm yếu của bản thân. Khi hiểu rõ bản thân thì
chúng ta mới có kế hoạch nghề nghiệp đúng đắn.

Để được thành công, hạnh phúc trong cuộc đời thì việc đầu tiên và vô cùng quan
trọng đó là phải thấu hiểu bản thân. Thấu hiểu chính bản thân mình là cả một quá trình nổ
lực liên tục chứ không hề đơn giản. Khả năng nhận thức và khả năng lắng nghe hỗ trợ rất
nhiều trong việc thấu hiểu bản thân.

Hàng năm có hàng ngàn tân sinh viên nhập học ngành học mình không mong muốn,
hoặc không biết sau này mình sẽ ra làm nghề gì. Cũng số lượng đó, 70% tân cử nhân ra
trường làm trái ngành nghề hoặc thất nghiệp một thời gian dài vì không tìm được công
việc phù hợp cho mình. Một trong những nguyên nhân của thực trạng này là các bạn sinh
viên thường không hiểu bản thân mình có gì và mình muốn gì ở cuộc đời này. Khi được
hỏi, rất nhiều người không xác định được dự định của bản thân trong vòng 2-5 năm tới,
và hoặc có ước mơ chung chung như “muốn có việc làm lương cao, ổn định, gia đình
hạnh phúc”. Nhưng làm thế nào để đạt được ước mơ đó, rất ít người trả lời được.

Như vậy, thấu hiểu bản thân và lập kế hoạch nghề nghiệp đúng đắn rất quan trọng.

1.3. Một số quan điểm khoa học về khám phá bản thân

Muốn quản lý người khác, trước hết chúng ta phải có khả năng quản lý chính mình.
Theo Peter Drucker, khám phá bản thân hay quản lý bản thân có nghĩa là học cách phát
triển chính bản thân chúng ta. Chúng ta phải định vị bản thân tại nơi mà chúng ta có thể
8
đóng góp nhiều nhất cho tổ chức và cộng đồng. Lịch sử thuộc về những người thành công
- một Napoleon, một De Vinci, một Mozart - họ luôn biết cách quản lý bản thân. Nói
chung, chính điều đó đã khiến họ trở thành những người thành công vĩ đại.

Thành công trong nền kinh tế tri thức chỉ đến với những người biết rõ bản thân họ -
những mặt mạnh, những giá trị của họ và cách tốt nhất mà họ có thể làm việc. Chúng ta
đang sống trong một kỷ nguyên của những cơ hội chưa từng có trong lịch sử. Nhưng cơ
hội đi kèm với trách nhiệm. Các công ty trong thời đại ngày nay không quản lý công việc
của nhân viên. Những công nhân trí thức phải biết cách trở thành nhà quản lý của chính
mình một cách hiệu quả.

Hầu hết chúng ta, kể cả những người có khả năng khiêm tốn nhất, đều phải học cách
quản lý bản thân. Để quản lý bản thân trước hết phải xác định những điểm mạnh của
mình.

1.3.1. Xác định đúng những điểm mạnh của bản thân

Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng họ biết mình có khả năng làm tốt cái gì. Họ
thường xuyên sai lầm. Thường thì mọi người biết họ giỏi ở cái gì và thậm chí sau đó
nhiều người sai hơn là đúng. Một người chỉ có thể thực hiện từ điểm mạnh của mình. Họ
không thể xây dựng cách thực hiện từ những điểm yếu. Trong lịch sử, con người có ít nhu
cầu biết về điểm mạnh của họ. Một người khi sinh ra đã được sắp sẵn một vị trí và vị trí
đó trong chuỗi dây chuyền lao động: con của một người nông dân thì sẽ là một nông dân;
con gái của một thợ thủ công sẽ là vợ của một thợ thủ công và cứ thế tiếp diễn. Nhưng
thời đại ngày nay con người có nhiều sự lựa chọn. Chúng ta biết những mặt mạnh của
mình để có thể nhận thức được chúng ta thuộc về nơi nào.

Thứ nhất, cách để khám phá sức mạnh của mình là qua phân tích những thông tin
phản hồi. Bất cứ khi nào chúng ta phải ra một quyết định hay một hành động quan trọng,
hãy viết ra những gì mình mong muốn sẽ xảy ra. Chín hay mười hai tháng sau, so sánh
kết quả thực sự so với mong muốn trong quá khứ.

9
Hãy thực hành bền bỉ, phương pháp đơn giản này sẽ chỉ cho chúng ta thấy đâu là
những điểm mạnh của mình chỉ trong khoảng thời gian 2 hoặc 3 năm. Đây chính là điều
quan trọng nhất mà chúng ta nên biết. Phương pháp này sẽ chỉ cho chúng ta rằng họ đang
làm cái gì vả thất bại khi làm, cái gì đã ngăn cản họ có được những ích lợi cao nhất trong
khả năng. Biện pháp này cũng chỉ ra cho thấy chúng ta đặc biệt không có khả năng ở lĩnh
vực nào, lĩnh vực nào họ chẳng có khả năng và do đó không thể tiếp tục với lĩnh vực đó.
Một vài gợi ý hành động sau khi quá trình phân tích thông tin phản hồi. Đầu tiên và quan
trọng nhất là hãy tập trung vào những mặt mạnh của mình. Hãy đặt bản thân vào những
nơi có thể phát huy tối đa kết quả.

Thứ hai, hãy làm việc để cải thiện những điểm mạnh của mình hơn nữa. Những
phân tích sẽ nhanh chóng cho biết chỗ nào chúng ta cần cải thiện các kỹ năng hoặc đòi
hỏi thêm các kỹ năng mới. Biện pháp này còn chỉ ra những thiếu sót trong kiến thức của
chúng ta và những kiến thức đó thường có thể tiếp tục được bổ sung thêm.

Thứ ba, hãy tìm ra nơi nào mà sự tự mãn về tri thức đang khiến bạn không thể nhận
ra sự ngu dốt của mình và hãy vượt qua sự tự mãn đó. Có quá nhiều người - đặc biệt là
những chuyên gia trong lĩnh vực của mình - coi thường những tri thức thuộc ngành khác
hoặc họ tin rằng kiến thức uyên thâm trong một lĩnh vực có thể thay thế cho tri thức ở các
lĩnh vực khác. Ví dụ như những kỹ sư hàng đầu có xu hướng tự hào khi mình chẳng biết
một chút nào về kế toán. Nhưng tự hào về sự ngu dốt của mình là tự lừa phỉnh mình mà
thôi. Hãy tích luỹ những kỹ năng và kiến thức chúng ta cần đề nhận thức một cách đầy đủ
nhất những điểm mạnh của mình.

Thứ tư, phát hiện những thói quen xấu. Việc sửa chữa những thói quen xấu của
mình - những việc làm hoặc làm nhưng thất bại dần ngăn cản sự hiệu quả và thành công
của chúng ta - cũng quan trọng không kém. Những thói quen xấu này sẽ nhanh chóng bị
phát hiện trong thông tin phản hồi. Đồng thời, phân thích thông tin phản hồi cũng cho
thấy khi nào vấn đề này thiếu một cách thức ứng xử thích hợp để xử lý. Cách thức ứng xử
là dầu bôi trơn cho cả một tổ chức. Cách ứng xử - đơn giản như nói “làm ơn” và “cảm
ơn” và việc nhớ tên một người hay hỏi thăm gia đình người đó – làm cho hai người có thể

10
làm việc chung với nhau và liệu rằng họ có ưa người kia hay không. Những cá nhân xuất
sắc, đặc biệt là những cá nhân trẻ xuất sắc, thường không hiểu điều này. Nếu như các
phân tích chỉ ra rằng khi công việc đòi hỏi sự hợp tác với người khác, ai đó xuất sắc
nhưng thất bại: hết lần này đến lần khác, thì rất có thể đâu đó thiếu đi sự nhã nhặn, thiếu
đi một cách ứng xử đúng mực.

Việc so sánh mục tiêu hy vọng với kết quả thực tế cũng chỉ ra cái gì không nên làm.
Chúng ta đều có vô số những lĩnh vực mà chúng ta không có khả năng hay kỹ năng hoặc
thậm chí chẳng có cơ hội trở thành một nữa: trung bình trong lĩnh vực đó. Trong những
lĩnh vực này, một cá nhân – đặc biệt trong trường hợp một công nhân tri thức - không nên
nhận làm. Một người nên nỗ lực càng ít càng tốt khi cố cải thiện những lĩnh vực mà mình
chẳng có khả năng. Việc cải thiện từ yếu kém lên hạng trung bình làm tiêu tốn nhiều
năng lượng và khối lượng công việc lớn hơn nhiều việc cải thiện khả năng làm việc tốt
nhất của mình lên hạng xuất sắc. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người - đặc biệt là hầu hết các
giáo viên và hầu hết các tổ chức - tập trung vào biến những người hạng yếu kém trong
một lĩnh vực nào đó lên hạng trung bình. Thay vào đó năng lượng, các nguồn lực và thời
gian nên được đầu tư biến một người có khả năng bản thân thành một ngôi sao chói sáng
trong lĩnh vực của họ.

1.3.2. Nhận diện cách thức làm việc của bản thân

Điều ngạc nhiên là hầu như không ai biết cách thức họ làm việc. Thực tế, hầu hết
chúng ta thậm chí còn không biết rằng những người khác nhau thì cách họ thực thi công
việc cũng khác nhau. Quá nhiều người làm việc theo cách không phải của họ và điều đó
hầu như chắc chắn không mang lại kết quả cao. “Tôi thực hiện bằng cách nào?" có lẽ còn
quan trọng hơn cả câu hỏi “điểm mạnh của tôi là gì?”

Thứ nhất, tôi thực hiện bằng cách nào? Cũng giống như những điểm mạnh cùa một
cá nhân, cách thức mà một cá nhân thực hiện cũng là độc nhất vô nhị. Đó là vấn đề cá
tính. Liệu rằng cá tính có được do tự nhiên hay do nuôi dạy, thì ta đều có thể chắc chắn
rằng cá tính cũng đã được hình thành rất lâu trước khi chúng ta bắt đầu làm việc. Và cách
thức cá nhân hành động cũng giống như việc cá nhân có khả năng hay không có khả năng

11
làm gì đã được xác định từ trước. Cách thức một người hành động có thể thay đổi đôi
chút nhưng cách thức đó không có khả năng thay đổi hoàn toàn một cách dễ dàng. Giống
như việc con người đạt được thành công khi họ làm cái mà họ có thể làm tốt, họ cũng sẽ
thành công khi làm việc theo cách mà họ có thể hành động tốt nhất. Một vài đặc điểm
tính cách thông thường sẽ quyết định cách thức một người hành động.

Thứ hai, để biết cách một người hành động là tìm hiểu cách họ học tập. Rất nhiều
học giả hàng đầu - Winston Churchill là một ví dụ điển hình về việc học hành kém cỏi ở
trường. Những người như vậy thường có ký ức trường học là nơi tra tấn. Tuy nhiên, rất ít
người đồng trang lứa với họ suy nghĩ như vậy. Họ có thể không thích trường học lắm.
Nhưng điều tồi tệ nhất mà họ phải chịu đựng là sự buồn chán. Điều này được giải thích
theo một quy luật những học giả này không học bằng cách lắng nghe và đọc. Họ học
bằng cách viết. Bởi vì trường học không cho phép họ học theo cách này nên họ bị điểm
kém.

Người ta tổ chức trường học khắp mọi nơi trên một giả thiết là chỉ có một cách duy
nhất để học và đó là cách chung cho tất cả mọi nguời. Việc bị bắt học theo cách mà
trường học dạy là địa ngục cho những sinh viên học theo cách khác cách mà họ được dạy.
Trên thực tế, có rất nhiều cách học khác nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh. Có
những người giống như Churchill học bằng cách viết ra. Một số người học bằng những
ký tự phong phú. Một vài người học bằng cách hành động, một số khác lại học bằng cách
tự lắng nghe bản thân mình nói.

Trong tất cả các mảng của vấn đề tự học, việc hiểu cách thức học tập của bản thân
là việc dễ tìm ra nhất. Khi hỏi mọi người "Anh, chị học như thế nào?" hầu hết họ đều trả
lời được. Nhưng khi hỏi "Anh, chị có thực hành dựa trên cách học của mình không?" thì
rất hiếm người trả lời có. Mặc dù việc thực hành dựa trên cách học là yếu tố quan trọng
để đạt thành công, hay ngược lại, đi trái lại với cách học của mình, mọi người sẽ thường
thất bại.

Thứ ba, tôi là người học theo phương pháp đọc hay nghe? Và tôi học theo phương
pháp nào? Đó là những câu hỏi đầu tiên được đặt ra cho bản thân. Nhưng các câu hỏi này

12
không phải là những câu hỏi duy nhất. Để quản lý bản thân một cách hiệu quả, bản thân
cũng phải tự hỏi, tôi làm việc tốt với những người thế nào, hay tôi thích làm việc đơn
độc? Và nếu tự nhận thấy mình làm việc tốt với người khác, câu hỏi tiếp theo cần đặt ra
là, mình làm tốt điều đó trong những mối quan hệ như thế nào?

Một vài người làm tốt nhất khi họ làm trợ lý cho người khác. Tướng George Patton,
anh hùng quân đội của nước Mỹ những năm chiến tranh thế giới thứ II, là một ví dụ điển
hình. Patton là chỉ huy quân đội cao nhất của Mỹ. Tuy nhiên, khi ông được giao nhiệm vụ
là một chỉ huy độc lập, Tướng George Marshall, đại tư lệnh - và có lẽ là người có tài nhìn
người nhất trong lịch sử nước My - đã nhận định "Patton là trợ lý tốt nhất mà lực lượng
quân đội Mỹ từng đào tạo, nhưng ông ta sẽ là vị chỉ huy kém cỏi nhất".

Một vài người làm việc hiệu quả nhất khi hoạt động theo nhóm. Một số khác lại làm
tốt nhất khi làm việc một mình. Một số người ngoại lệ lại có tài chỉ huy hay dẫn dụ người
khác, số khác thì không phù hợp với việc chỉ huy.

Một câu hỏi quan trọng khác là tôi sẽ hành động tốt nhất trong tư cách là người ra
quyết định hay một nhà tư vấn? Một số cá nhân xuất sắc có thể làm tốt vai trò của một
"quân sư" nhưng không thể chịu được áp lực và gánh nặng trong vai trò của một người ra
quyết định. Ngược lại, đa số người khác lại cần một nhà tư vấn để hối thúc họ phải suy
nghĩ, sau đó họ có thể đưa ra quyết định và hành động nhanh chóng một cách tự tin và
dũng cảm.

Đó cũng là một lý do tại sao những người đứng vị trí thứ hai trong một tổ chức
thường thất bại khi được đề bạt lên vị trí đứng đầu. Vị trí đứng đầu cần một người biết ra
quyết định. Những người có thể ra quyết định mạnh mẽ thường cần một người họ tin cậy
đứng vào vị trí thứ hai để tư vấn cho họ - và ở vị trí này, người thứ hai toả sáng. Nhưng
trong vị trí của người đứng đầu, họ lại thất bại. Anh ta biết lựa chọn nào thì đúng nhưng
lại không thể chịu được những trách nhiệm khi phải thực hiện lựa chọn đó. Một số câu
hỏi quan trọng khác gồm, tôi có hành động tốt khi phải chịu nhiều áp lực hay tôi có cần
một môi trường hoạt động đã được thiết kế sẵn và có khả năng dự đoán được? Tôi thực
thi nhiệm vụ tốt nhất trong một tổ chức quy mô lớn hay nhỏ? Số người làm việc tốt trong

13
tất cả các loại môi trường rất hiếm hoi. Nhiều người đã từng thành công lẫy lừng trong
các tổ chức lớn nhưng lại thất bại thảm hại khi họ chuyển sang những tổ chức nhỏ hơn.
Điều ngược lại cũng đúng.

Đừng cố gắng thay đổi bản thân mình - vì thường không thành công. Nhưng hãy
chú tâm vào cải thiện cách mà mình có thể hành động. Đừng cố nhận những công việc
mà chúng ta không thể thực hiện hoặc sẽ làm rất dở trong những lĩnh vực đó.

1.3.3. Định vị bản thân

Quản lý bản thân có nghĩa là học cách phát triển chính bản thân chúng ta, trong đó
việc xác định được "tôi là ai" vô cùng quan trọng.

Những giá trị của tôi là gì?

Để quản lý bản thân, cuối cùng chúng ta sẽ phải thắc mắc, những giá trị của tôi là
gì? Đây hoàn toàn không phải là một câu hỏi về đạo đức. Xét trên khía cạnh đạo đức, quy
tắc là chung cho tất cả mọi người và câu hỏi được trả lời một cách dễ dàng. Đạo đức đòi
hỏi chúng ta hãy tự hỏi bản thân mình, muốn mình như thế nào? Cái gì là chuẩn mực đạo
đức trong một tổ chức này thì cũng đúng cho các tổ chức khác. Nhưng đạo đức chỉ là một
phần của hệ thống giá trị.

Một người có thể gặp bế tắc hoặc không thể hành động khi làm việc trong một tổ
chức có hệ giá trị không thể chấp nhận hoặc không tương thích với hệ giá trị của riêng
anh ta.

Những giá trị của cá nhân phải phù hợp với giá trị của tổ chức để cá nhân đó có thể
làm việc hữu ích trong tổ chức. Những hệ giá trị đó không cần phải trùng khít lên nhau,
nhưng nên đủ tương đồng để cùng tồn tại nếu không cá nhân sẽ lâm vào bế tắc và cũng
chẳng làm được thành tựu gì.

Những điểm mạnh của một cá nhân và cách thức cá nhân đó hành động hiếm khi
xung đột với nhau; chúng bổ sung cho nhau. Nhưng đôi khi có sự xung đột giữa hệ giá trị
của cá nhân và những điểm mạnh của anh ta. Những việc mà một người làm tốt, thậm chí
làm xuất sắc và rất thành công có thể lại không tương thích với hệ giá trị của anh ta.
14
Trong trường hợp đó, công việc đó có vẻ như chẳng đáng để anh ta cống hiến cả đời (hay
ít nhất là phần lớn cuộc đời).

Tôi thuộc về nơi nào?

Rất ít người biết ngay từ đầu nơi mà họ thuộc về. Những nhà toán học, nhạc sĩ, đầu
bếp thường xuyên là nhà toán học, nhạc sĩ hay đầu bếp từ khi họ bốn hay năm tuổi.
Những nhà vật lý thường quyết định nghề nghiệp tương lai khi họ là thiếu niên, thậm chí
còn sớm hơn. Nhưng hầu hết mọi người, đặc biệt là những người có khả năng thiên phú,
không thực sự biết họ thuộc về nơi nào cho đến khi họ đã đi qua cái tuổi 25. Tuy nhiên, ở
cái tuổi đó, họ nên biết câu trả lời của mình cho ba câu hỏi: Những mặt mạnh của tôi là
gì? Tôi hành động theo cách thức nào? Và hệ giá trị của tôi là gì? Và sau đó họ có thể
quyết định và nên quyết định vị trí của họ.

Cũng tương tự như vậy, con người nên biết cách tự quyết định họ không thuộc về
nơi nào. Khi một cá nhân nhận ra anh ta không thể hoàn thành tốt trong một tổ chức lớn
thì anh ta cũng nên học cách từ chối vị trí đó. Một người hiểu rằng anh ta không phải là
người có thể chịu trách nhiệm với các quyết định thì anh ta cũng nên học cách từ chối
được bổ nhiệm vào vị trí của người đưa ra các quyết định.

Việc biết câu trả lời cho những câu hỏi trên giúp một cá nhân có thể đồng ý với một
cơ hội, một lời đề nghị hoặc một bổ nhiệm, là việc quan trọng không kém, vâng, tôi sẽ
làm việc đó. Nhưng tôi sẽ làm việc đó theo cách của mình. Đó là cách mà công việc sẽ
được thiết kế. Đó là cách các mối quan hệ được thiết lập. Đó là những kết quả mà ông
nên kỳ vọng ở tôi trong giai đoạn này, bởi vì đó là con người tôi. Một sự nghiệp thành
công không được lên kế hoạch trước. Mà sự nghiệp đó thành công khi con người ta biết
chuẩn bị cho những cơ hội bởi vì họ biết sức mạnh, phương pháp làm việc và hệ giá trị
của mình. Việc nhận thức ra nơi anh, chị thuộc về có thể sẽ biến một con người bình
thường - chăm chỉ làm việc và có năng lực trung bình – trở thành một người thành công
xuất sắc.

15
Tôi nên đóng góp cái gì?

Xuyên suốt lịch sử, phần lớn con người chẳng bao giờ hỏi “Tôi nên đóng góp cái
gì?”. Người khác bảo họ nên đóng góp cái gì và nhiệm vụ của họ là cống hiến cho công
việc hoặc chứng minh kỹ năng hoàn hảo của mình - đối với các nghệ nhân - làm việc
giống như những người phụ thuộc. Cho đến tận ngày nay, hầu hết mọi người đều cho
rằng việc mình là trợ lý và làm những gì mình được phân công là điều hiển nhiên. Thậm
chí đến những năm 1950 và 1960, những công nhân trí thức mới vẫn phụ thuộc vào bộ
phận nhân sự lên kế hoạch cho công việc của họ. Cuối những năm 60, không ai muốn bị
sai bảo phải làm gì nữa. Những con người mới bắt đầu đặt ra câu hỏi, tôi muốn làm gì?
Và câu trả lời họ tìm thấy cho phương thức để cống hiến là “làm việc của chính mình”.
Nhưng giải pháp này cũng sai lầm như chính những chúng ta đã từng sai lầm. Rất ít
người tin rằng làm việc của chính mình sẽ đóng góp cho doanh nghiệp đạt được thành
công.

Nhưng chúng ta vẫn chưa có kết quả cho cách trả lời cũ là chấp nhận làm những gì
được phân công. Chúng ta phải học cách hỏi những câu hỏi chưa ai hỏi trước đó: “Tôi
nên cống hiến cái gì?”. Để trả lời câu hỏi này, họ nên chú tâm vào ba yếu tố cơ bản:
“Tình huống này yêu cầu những gì?”, “Với những sở trường, cách thức làm việc và
những giá trị của tôi, tôi có thể đóng góp cho cái gì nhiều nhất và tôi cần làm gì?”. Cuối
cùng, “Tôi cần đạt những kết quả thế nào để có sự khác biệt?”.

Vì thế, câu hỏi trong tất cả các trường hợp nên là, nơi nào và làm như thế nào để tôi
có thể đạt kết quả, làm nên sự khác biệt trong vòng một năm rưỡi? Câu trả lời nên cân
bằng một vài yếu tố. Đầu tiên, mục tiêu đạt được nên khó khăn để thực hiện - theo cách
nói thời thượng bây giờ, các mục tiêu này cần được đặt ra ở mức cao hơn một chút.
Nhưng chúng cũng cần có tính khả thi. Hướng vào những mục tiêu mà không thể hoàn
thành - hoặc trong những trường hợp hầu như không tưởng - thì không phải là hoài bão
mà chỉ là một sự ngu ngốc. Thứ hai, các mục tiêu cần đạt tới nên có ý nghĩa nào đó. Các
mục tiêu này làm nên sự khác biệt. Cuối cùng, kết quả nên nhìn thấy được và nếu có thể
thì nên đo lường được. Từ những mong muốn trên, ta có một chuỗi các hành động: “Tôi

16
phải làm gì, tôi nên bắt đầu từ đâu và bắt đầu như thế nào và những mục tiêu và hạn chót
để hoàn thành mục tiêu là khi nào?”.

1.4. Tìm hiểu những yếu tố thúc đẩy con người hành động trong cuộc sống

1.4.1. Nhu cầu

Nhu cầu là trạng thái thiếu hụt mà chưa được thỏa mãn. Ví dụ, cơ thể thiếu nước,
chúng ta có cảm giác khát nên có nhu cầu uống nước.

Thuyết nhu cầu của A. Maslow là thuyết đạt tới đỉnh cao trong việc nhận dạng các
nhu cầu tự nhiên của con người nói chung. Cho đến nay, chưa có thuyết nào thay thế tốt
hơn thuyết này mặc dù cũng có khá nhiều “ứng cử viên" có ý định thay thế.

Theo thuyết A. Maslow, nhu cầu tự nhiên của con người được chia thành các thang
bậc khác nhau từ "đáy” lên tới “đỉnh”, phản ánh mức độ “cơ bản” của nó đối với sự tồn
tại và phát triển của con người vừa là một sinh vật tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội.

Việc sắp xếp nhu cầu theo thang bậc từ thấp đến cao cho thấy độ “dã man" của con
người giảm dần và độ “văn minh” của con người tăng dần.

Theo Maslow, con người làm việc để thỏa mãn những nhu cầu của chính họ. Nhu
cầu tự nhiên của con người được chia thành 5 thang bậc khác nhau từ “đáy” lên tới
“đỉnh”.

Nguyên tắc hoạt động của kim tự tháp này là: cho đến khi nào nhu cầu ở phía dưới
còn chưa được thỏa mãn thì thật khó mà tiếp tục lên các nhu cầu ở cấp cao hơn.

17
Các nhu cầu đó là:

- Nhu cầu sinh học: những nhu cầu cơ bản và thiết yếu để tồn tại gồm những nhu
cầu như ăn, uống, ngủ… Nếu những nhu cầu này không được đáp ứng thì cơ thể con
người không thể hoạt động hay hoạt động một cách chậm chạp, trì trệ. Một khi nhu cầu
này chưa được thỏa mãn tới mức độ cần thiết để có thể duy trì cuộc sống thì các nhu cầu
khác sẽ không thúc đẩy được con người.

- Nhu cầu an toàn: Khi cá nhân nghĩa đến việc bảo đảm cho tương lai thì có nghĩa là
họ đang có những nhu cầu về an toàn trong công ăn việc làm, trong tiết kiệm, trong việc
đóng bảo hiểm…

- Nhu cầu xã hội: Nhu cầu giao tiếp với người khác và gặt hái những lợi ích từ các
mối quan hệ với bên ngoài xã hội, muốn có cảm giác được là thành viên của một tập thể,
một hội đoàn, một nhóm bạn bè.

- Nhu cầu được tôn trọng: Mọi người đều có lòng tự trọng và nhu cầu được tôn
trọng. Lòng tự trọng của con người là những mong muốn được chấp nhận và đánh giá cao
từ người khác. Họ muốn cung cấp cho người khác cảm giác họ đóng góp để được chấp
nhận giá trị bản thân. Nhu cầu được tôn trọng bao gồm: lòng tự trọng, thành tựu, sự chú

18
ý, sự công nhận, sự nổi tiếng,... Sự mất cân bằng ở bậc nhu cầu này có thể dẫn tới sự
thiếu tự trọng hoặc mặc cảm tự ti.

- Nhu cầu tự thể hiện: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách phân cấp của
nhu cầu. Nhu cầu này thúc đẩy con người phải thực hiện được điều gì họ mong ước, đạt
được những mục tiêu mà họ đã đề ra, phát triển tiềm năng cá nhân trong lĩnh vực mà họ
đã chọn. Con người tự nhận thấy bản thân cần thực hiện một công việc nào đó theo sở
thích và chỉ khi những công việc đó được thực hiện thì họ mới thấy hài lòng.

1.4.2. Động cơ

Động cơ chỉ sức mạnh tác động tới động lực làm việc của con người hoặc sức mạnh
ngay trong lòng con người, thúc đẩy người đó hành động hướng đến mục tiêu nhất định.
Một người có động cơ làm việc cao là một người năng động, chịu đầu tư sức lực và tinh
thần để hoàn thành việc của mình và đạt được chỉ tiêu đề ra.

Một nguyên tắc cơ bản trong quản trị là:

Hiệu quả làm việc = f (năng lực * động cơ)

Quá trình cơ bản làm nảy sinh động cơ:

- Nhu cầu (chưa thỏa mãn)

- Tìm cách thức để thỏa mãn nhu cầu

- Hành động nhắm tới một mục đích nào đó

- Kết quả thể hiện của hành động

- Được khen thưởng/ bị phạt

- Đánh giá lại mức độ thỏa mãn của bản thân.

19
CHƯƠNG 2:
KỸ NĂNG KHÁM PHÁ BẢN THÂN

A. MỤC TIÊU
Sau khi học xong chương này, sinh viên có thể:
- Hiểu được và phân biệt được những đặc điểm tâm lý của cá nhân như tính khí, tính
cách, hành vi để từ đó có thể trả lời được câu hỏi “Tôi là ai?”.
- Hiểu được Năng lực cá nhân là gì và những yếu tố nào tạo ra Năng lực cá nhân, từ
đó người học có thể tự tạo động lực cho bản thân trong quá trình phát triển Năng
lực cá nhân.
- Hiểu và thay đổi nhận thức đối với Thái độ của mỗi cá nhân trong học tập và công
việc.
- Tập làm thử trắc nghiệm MBTI để khám phá bản thân.

B. NỘI DUNG
2.1. Ta là ai trong cuộc đời này?

2.1.1. Khí chất

Khí chất là một thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân mang tính ổn định và độc
đáo. Nó quy định sắc thái diễn biến tâm lý trong hoạt động tâm lý của con người.

Trong các đặc điểm tâm lí để phân biệt người này với người khác thì khí chất có
tầm quan trọng nhất. Từ xưa người ta đã nhận thấy có những khác biệt cá nhân rõ rệt
trong những đặc điểm bên ngoài của hành vi. Ví dụ như có người thì nhanh nhẹn, hoạt
bát, cởi mở, dễ thích nghi có người thì lại chậm chạp, khép kín khó thích nghi; có người
thì bình thản, ung dung; có người thì lại luôn tất bật, vội vàng.

Những đặc điểm của khí chất chỉ thuần túy là các biểu hiện bên ngoài của hành vi
và ta không thể đánh giá về mặt đạo đức của con người thông qua các đặc điểm này

20
được. Khí chất chỉ phản ánh sắc thái hoạt động tâm lí của con người về mặt cường độ, tốc
độ, nhịp độ của những động tác, cử chỉ... mà thôi.

Khí chất không định trước giá trị đạo đức và giá trị xã hội của cá nhân. Người có
khí chất khác nhau có thể có chung một giá trị đạo đức. Hoặc những người có khí chất
như nhau thì lại có những giá trị đạo đức và xã hội rất giống nhau.

Khí chất không định trước những nét tính cách mà chỉ có quan hệ chặc chẽ với tính
cách.

Khí chất không định trước trình độ của năng lực

Như vậy không một thuộc tính nào của nhân cách lại do khí chất tiền định. Nhưng
sự thể hiện của tất các thuộc tính của nhân cách điều bị phụ thuộc vào khí chất trong
những mức độ nhất định.

Hippocrates, người đi theo thuyết thể dịch (humour theory)-một học thuyết về cấu
tạo và hoạt động của cơ thể con người được phát triển bởi các thầy thuốc cũng như các
triết gia Hy Lạp và La Mã cổ đại, một bác sĩ người Hy Lạp (460 – 370 TCN) là người
đầu tiên phát hiện ra các loại khí chất của con người. Theo ông thì trong cơ thể người có
bốn chất lỏng: máu, chất nhờn, mật vàng, mật đen. Và tùy thuộc vào tỉ lệ và mối quan hệ
của các chất dịch này mà con người có những hành vi khác nhau.

Sau đó, Galen (129 – 200) bác sĩ người La Mã đã hoàn thiện học thuyết của
Hippocrates qua việc phân chia khí chất thành bốn kiểu cơ bản dựa vào các chất dịch
chiếm ưu thế

a. Kiểu Sanguine (kiểu linh hoạt)

b. Kiểu Phlegmatic (kiểu trầm)

c. Kiểu Choleric (kiểu nóng)

d. Kiểu Melancholic (kiểu ưu tư)

21
Khoa học ngày nay đã gạt bỏ ý kiến cho rằng khí chất phụ thuộc vào quan hệ và tỉ
lệ của các chất dịch trong cơ thể. Tuy nhiên cách chia bốn kiểu khí chất trên là khá chính
xác về mặt tâm lý. Nên cách chia này vẫn còn giữ được giá trị cho đến ngày nay.

Và cho đến hiện nay thì thuyết thần kinh học của Ivan Petrovich Pavlov đã cho ta
một cái nhìn khoa học về khí chất. Theo ông thì cơ sở sinh lý của khí chất là kiểu hoạt
động thần kinh cấp cao hay là kiểu hệ thần kinh. Và căn cứ vào ba thuộc tính cơ bản:
cường độ, tính linh hoạt, tính câng bằng của hai quá trình thần kinh cơ bản là hưng phấn
và ức chế mà Ivan Petrovich Pavlov xếp thành bốn kiểu thần kinh cơ bản tương ứng với
bốn kiểu khí chất.

Đặc điểm của 4 loại khí chất:

Sanguine (Xăng-ganh)

Nói một cách ngắn gọn: Người Sanguine là những người náo nhiệt, sôi nổi, tình
cảm cởi mở và hướng ngoại.

Về mặt xã hội

Người Sanguines tìm kiếm ở các tương tác xã hội với cả những quan hệ thân thuộc
và không thân thuộc. Đó là cách họ nạp lại năng lượng và thời gian ở một mình, đôi khi
là đáng ao ước lại có thể làm họ nhanh chóng buồn chán.

Càng có nhiều người xung quanh, họ càng thấy vui và họ không kén chọn về người
mà họ phải biết. Họ thích thú khi có nhiều nhiều bạn bè.

Trong lúc những người sanguines thích thú khi được ở bên mọi người, phần lớn là
bởi vì họ thích thú sự chú ý của người khác và cảm thấy an lòng vì không không bị cô
đơn.

Họ là những người nói nhiều hơn lắng nghe.

Họ có thể rời xa những người bạn mà họ cho rằng họ nhàm chán hoặc buồn tẻ.

Họ sôi nổi, vui vẻ, là người hướng ngoại, mặt mày luôn tươi tỉnh. Họ yêu những
đêm hoang dã ở ngoài.

22
Họ kết bạn nhanh chóng và họ sẽ nói chuyện vui vẻ với những người lạ. Người có
khí chất melancholic có thể ở trong phòng có 20 người lạ mặt với cảm giác sợ hãi và
không thoải mái thì người sanguine có thể thấy đó là cơ hội để họ gặp gỡ được những
người bạn mới.

Họ thích những tình huống xã hội, và tin rằng tất cả mọi người khác cũng vậy. Họ
đang có khả năng thuyết phục mọi người đến cùng với những câu như "đi đi, bạn sẽ thích
nó! " hoặc “bạn không biết những gì bạn đang thiếu”!

Làm bạn với một Sanguine thường là đơn giản như biết mặt và biết tên của nhau.

Họ không phải là những người đặc biệt đáng tin cậy ... vì có lúc họ sẽ quá háo hức
để lộ ra bí mật với người khác, và sự bay bổng của họ làm cho họ dễ dàng bị phân tâm
bởi những thứ khác.

Biểu cảm

Họ nói nhiều, và nói chuyện một cách thân thiện, năng động, vui tươi; họ thường có
sức lôi cuốn, và khi tương tác với họ, bạn có thể cảm thấy như bạn đã biết tất cả cuộc
sống của bạn.

Họ rất tình cảm và cảm xúc của họ có thể là cực đoan nhưng chỉ thoáng qua. Họ là
loại người sẽ hét "TÔI GHÉT ANH, TÔI GHÉT ANH!!" một ngày, sau đó chỉ giờ sau
đó, họ sẽ được đầm đìa xin lỗi về điều đó, và hi vọng mọi thứ đã qua sẽ trôi đi như nước
chảy qua cầu.

Họ nhanh chóng "tha thứ và quên đi" - và mong muốn người khác cũng làm như
vậy - bởi vì họ sống trong thời điểm này chứ không phải là ở trong quá khứ.

Họ có thể trêu chọc người khác một cách "tinh nghịch", mong người khác đừng
'xem việc đó quá nghiêm trọng'.

Sanguines có thể được động lực rất lớn, vì họ sẽ nhiệt tình khuyến khích những
người khác vào hành động, và họ nhìn thấy những điều tích cực, lạc quan, và sẽ thuyết
phục người khác cũng nhìn thấy những điều theo cách đó.

23
Họ không phải là người là gọn gàng và ngăn nắp. Một số thời điểm nào đó của cuộc
sống, ta có thể quan sát thấy họ lập kế hoạch kém hoặc vô tổ chức, hỗn độn.

Tìm kiếm sự chú ý

Họ yêu thích sự chú ý. Họ mong muốn được sự chú ý, và để mọi người khen và
khen ngợi. Mọi người đều thích khen, nhưng sanguines sẽ làm theo cách của họ để có
được những lời khen.

Họ yêu cầu vui chơi giải trí liên tục, và sẽ phàn nàn về việc bị chán nếu không được
giải trí đầy đủ.

Họ sẽ thể hiện khả năng của mình cho những người khác để có được lời khen ngợi.

Họ kịch tính, và sẽ phóng đại để làm cho mọi việc có vẻ cực đoan hơn thực tế họ
đang có.

Nếu không có ai chú ý đến họ, họ sẽ xông vào một cuộc trò chuyện hoặc nói điều gì
đó để thu hút chú ý. Họ rất khó chịu bị bỏ rơi.

Vai trò

Trong một số quan sát, các thành viên sanguine đóng vai trò hỗ trợ, khuyến khích
và vai trò xã hội. Họ sẽ là chất keo để kết dính nhóm lại với nhau.

Phlegmatic (Phơ-lếc)

Nói một cách ngắn gọn: Phlegmatic là hiền lành, hướng nội phục tùng người sống
để làm hài lòng người khác.

Dễ phục tùng

Phlegmatics không hành động nếu họ tốt hơn những người khác. Họ đang háo hức
để làm hài lòng, và nhanh chóng nhượng bộ người khác chứ không tự tin khẳng định
mong muốn của mình như thể họ là người quan trọng nhất.

Họ chọn con đường càng ít kháng cự càng tốt. Họ rất rất muốn cho hòa bình, để tất
cả mọi người để thể được ở cùng nhau, và tránh xung đột ở trên mọi phương diện.

24
Xung đột làm họ khiếp sợ. Họ không bắt đầu xung đột (có lẽ ngoại trừ trong hoàn
cảnh cực), hoặc bị khiêu khích, và cố gắng xoa dịu xung đột khi nó dâng trào. Khi ép
buộc phải tranh cãi, họ sẽ rất buồn và đau khổ, tìm kiếm lối thoát chứ không phải tìm
kiếm chiến thắng.

Nếu phải đương đầu, họ sẽ thừa nhận họ sai để tránh sự thù địch.

Họ không tin vào cái gì mà họ biết rõ.

Họ không mong muốn là “người chiến thắng”. Họ chỉ mong ước sự hòa bình.

Họ cư xử lý tốt; sự nổi loạn chống lại quy tắc đã được thiết lập làm họ cảm thấy
không một chút thoải mái. Họ là loại người sẽ nói một câu đầy lo lắng "Chúng ta có thực
sự làm được điều này không?" hay "Có thể chúng ta sẽ gặp rắc rối đấy!".

Họ thực sự, thực sự không muốn là một bận tâm của người khác, và luôn đặt người
khác lên trước. Điều này là do một cảm giác bất an sâu xa về việc tự khẳng định bản thân
chứ không phải là sự thiếu tự tin, hay một ham muốn tỉnh táo để trở thành một 'người tốt'.

Họ nhanh chóng xin lỗi cho bất kỳ sai lầm mà họ đã gây ra, và sẽ hy sinh hạnh phúc
của riêng mình để đảm bảo rằng những người khác đang hạnh phúc.

Họ thấu cảm và nhận thức đúng về cảm giác của những người mà họ đang tương
tác, vì họ không muốn làm tổn thương cảm xúc của người khác.

Họ gặp khó khăn rất lớn khi nói KHÔNG, và sẽ đi cùng với những thứ mà họ không
thích làm cho người khác hạnh phúc.

Họ là những người cực kỳ đáng tin cậy; nếu họ đã hứa họ dứt khoát sẽ thực hiện.

Họ sợ làm những việc sai trái.

Họ sẽ đổ lỗi cho bản thân nếu có sai lầm xảy ra, ngay cả khi đó là lỗi của người
khác, chỉ để làm cho người khác cảm thấy tốt hơn và thoải mái hơn.

Tính do dự, chần chừ

25
Họ sẽ trì hoãn việc cho những người khác thực hiện sự lựa chọn, và sẽ cảm thấy khó
chịu và bị áp lực nếu họ phải tự mình đưa ra quyết định; điều này xuất phát từ sự bất lực
của họ trong một vai trò 'lãnh đạo'.

Họ là những người thuận theo tự nhiên, và làm việc tốt nhất khi được người khác
bảo phải làm gì.

Ngôn ngữ của họ nói chung toàn là những cụm từ không chắc chắn như "Tôi nghĩ
rằng,"có thể","có lẽ", hoặc "một cái gì đó”. Hãy so sánh "có thể bạn có thể làm được điều
X, hoặc một cái gì đó?" với "hãy làm điều X" hoặc "bạn nên làm điều X".

Thay vì nói hoặc làm những điều sai trái, họ sẽ không nói hay làm gì cả.

Những trở ngại gặp phải trên con đường ổn định của họ sẽ khiến họ tạm dừng lại và
bối rối và không chắc chắn cần phải làm gì nữa. Nhiều khả năng họ sẽ đi vòng vòng hơn
là đi xuyên qua nó, con đường của họ có thể dễ dàng thay đổi bởi những người khác.

Bình tĩnh

Người Phlegmatics hướng nội, và thích ở một mình. Tuy nhiên, họ 'tử tế', thân thiện
hơn, và hướng đến cộng đồng hơn so với người melancholic, khi không không chịu gánh
nặng của "chủ nghĩa cầu toàn" và sự phán xét của người khác.

Họ thích dành thời gian với bạn bè, và rất trung thành với những người bạn, gắn bó
với họ qua sự lạm dụng ít nhiều và thậm chí thông qua lạm dụng. Điều này là bởi vì họ
đặt người khác lên trước, và họ sẽ không từ bỏ ngay cả khi HỌ muốn vì người khác có
thể không muốn họ từ bỏ.

Họ thích cuộc sống yên tĩnh và ổn định, không có sự bất ngờ. Họ có thể tương đối
tự tin trong những tình huống quen thuộc - nếu không nhất thiết phải quyết đoán - nhưng
sẽ hoảng loạn khi được đặt trong những tình huống mới. Họ không tìm kiếm cảm giác
mạnh, và tận hưởng lối sống có thể dự đoán được, yên tĩnh, mang tính nghi thức.

Họ rất yên tĩnh, và không dễ dàng chia sẻ những suy nghĩ nội tâm của mình, vì họ
sợ sự phán xét và không muốn làm phiền người khác bằng cách bộc lộ bản thân.

26
Tuy nhiên họ là những người lắng nghe tuyệt vời và chu đáo. Họ sẽ lặng lẽ và lịch
sự sẽ chỉ nhận và hấp thụ các cuộc hội thoại của bạn bè. Họ sẽ luôn luôn chú ý, và sẽ
cung cấp thông tin phản hồi hỗ trợ chứ không phải là chỉ trích hoặc đưa ra lời khuyên. Họ
sẽ làm như thể việc giúp người khác vui là bổn phận của họ.

Bởi vì họ ghét xúc phạm hay làm tổn thương người khác, nên họ thường không bao
giờ dùng đến những lời lăng mạ hung dữ hay tấn công. Coi thường hoặc làm tổn thương
khác khiến họ cảm thấy xấu, chứ không phải “sức mạnh và trong tầm kiểm soát” hoặc
thích thú, vì vậy họ sẽ lo lắng về việc vô tình làm tổn thương người khác.

Họ hầu như không thể hiện cảm xúc. Trong khi người sanguine kêu lớn, cổ vũ và
nhảy lên vì niềm vui khi có chút phấn khích thì người phlegmatics không có khả năng thể
hiện nhiều hơn một nụ cười hoặc cau mày. Cảm xúc của họ xảy ra chủ yếu ở bên trong.

Họ thiếu "niềm đam mê", vì cảm xúc của họ chủ yếu là bên trong. Họ thường dựa
vào người khác ra lệnh cho họ làm những việc để có được động lực.

Vai trò

Trong một số quan sát, các thành viên phlegmatic luôn vâng lời cấp trên, họ sẽ làm
nhiều việc hơn so với những yêu cầu của cấp trên. Họ có thể không nổi bật, nhưng nếu
không có họ, công việc sẽ không thể tiến triển.

Choleric (Cô-le)

Nói một cách ngắn gọn: Choleric là những người tự hào và hướng ngoại.

Sự chi phối (dominant)

Người cholerics là các nhà lãnh đạo và giám đốc. Họ tìm cách kiểm soát được tình
huống, tìm cách vượt lên trên, tìm cách để là tốt nhất.

Điều này không nhất thiết có nghĩa là tất cả họ đều hướng để đạt đến đỉnh của các
bậc thang của công ty hoặc bất cứ điều gì, hoặc tất cả bọn họ đều muốn có vai trò lãnh
đạo, nhưng trong ngày này qua ngày khác, trong tương tác với những người khác, họ có
xu hướng tiến tới một người nổi trội.

27
Họ sử dụng ngôn ngữ mệnh lệnh, chỉ huy, từ ngữ thứ như đơn đặt hàng chứ không
phải là yêu cầu. Hãy so sánh "cho tôi xin ly nước" với "Tôi có thể uống nước được chứ?".

Họ sử dụng từ với sự tự tin và chắc chắn. Hãy so sánh "X là theo cách này" với "có
thể X là theo cách này hoặc một cách nào đó khác chăng?"

Họ chắc chắn và mạnh mẽ trong cách tiếp cận vấn đề. Họ tin vào "tình yêu khó
khăn", và cố gắng để "giúp" người khác bằng cách thử thách họ để chứng tỏ bản thân,
như chính bản thân họ.

Nếu ai đó cố gắng “giúp đỡ” họ vì cảm thấy họ đáng thương. Họ sẽ nói “không, tôi
không đáng thương, tôi sẽ chỉ cho bạn thấy điều đó”, hoặc cũng có thể giận người khác vì
thấy họ đáng thương.

Nếu gặp sự chống đối, họ phản ứng một cách đối đầu để tự bảo vệ mình. Họ không
ngừng cố gắng để "chiếm ưu thế" trong mọi tình huống, trong tiềm thức, hoặc bằng cách
la lớn hơn và tốt hơn so với những người xung quanh, hoặc hạn chế hơn và do đó tốt nổi
trội hơn những đang mất dần sự bình tĩnh.

Họ sẽ “thách thức” người khác một cách hung hãn để người khác phải tôn trọng
mình. Họ tin rằng điều quan trọng là phải "chứng minh bản thân".

Khác với người melancholic, họ có khuynh hướng hay cãi lý. Họ bị điều khiển bởi
mong muốn chứng minh bản thân hơn là để đạt đến cái gì đó như chân lý hay sự thỏa
hiệp. Họ có thể nói dối để duy trì sự chi phối. Cuộc tranh luận với họ thường là một cuộc
chiến của cái tôi hơn là một cuộc tìm kiếm chân lý.

Họ nói những câu đại loại như "nếu ai đó cố gắng để gây rối với tôi, tôi sẽ làm cho
họ ước muốn rằng giá mà họ đã không bắt đầu làm điều này với tôi ".

Họ yêu thích sự cạnh tranh….nhưng lại ghét bị thua.

Họ đổ lỗi cho người khác vì những lỗi lầm của họ, thường là vì không để bị mất
mặt.

28
Họ cảm thấy rằng họ có thể xác định và hiểu và tư vấn cho những người khác,
nhưng cười với ý nghĩ rằng những người khác có thể làm tương tự như họ. Điều này là do
họ xác định vị trí của họ cao hơn của người khác.

Hướng ngoại

Người cholerics hướng ngoại trong ý nghĩa rằng họ sẽ can thiệp vào những vấn đề
của người khác và nói về “tâm trí người khác” nếu họ thấy cần hơn là quan tâm về những
công chuyện của bản thân.

Họ thường đáp ứng tốt với hoàn cảnh mới, và thường tìm kiếm cảm giác mạnh.

Họ tìm cách chứng tỏ bản thân ra bên ngoài, để bộc lộ rằng họ là tuyệt vời và tốt
nhất và những điều tương tự như thế. Họ nhất thiết phải chứng minh rằng mình rất mạnh
mẽ.

Họ nói về tâm trí họ nhưng thường lại không quan tâm đến lời nói của mình.

Niềm tự hào của họ và việc hướng đến sự chi phối, cũng như biểu hiện mở của họ
về cảm xúc, một cách tự nhiên sẽ dẫn đến gây hấn ngay khi bị thách thức. Họ sẽ nói lên
tiếng nói của họ và tức giận để bộc lộ rằng họ là lớn nhất và mạnh nhất, và để khẳng định
sự ưu việt.

Họ khoe khoang và tự hào để bộc lộ họ tuyệt vời như thế nào, trong câu nói kiểu
như “Tôi là tốt hơn người khác”.

Họ thực dụng, làm những gì cần phải được thực hiện một cách thẳng thắn hơn là lo
lắng về các kịch bản tưởng tượng.

Tự hào

Họ thường tin rằng họ đúng, và rất bướng bỉnh khi thừa nhận sai sót của họ, TRỪ
KHI việc thừa nhận những sai sót sẽ làm cho họ được người ta đánh giá họ tốt hơn so với
những người khác ( "Tôi đủ mạnh để thừa nhận tôi là sai, không giống như bạn").

Họ đòi hỏi sự tôn trọng từ những người khác, và sẽ giữ mối hận thù chống lại những
người mà họ cho là đối thủ.

29
Điều quan trọng đối với họ là họ rất mạnh, can đảm và không sợ bất cứ điều gì. Nếu
họ sợ, họ sẽ từ chối nó (một lần nữa, trừ khi thừa nhận điều đó sẽ khiến họ trông mạnh
mẽ).

Họ thường - nhưng không nhất thiết phải - có lòng tự trọng cao.

Họ có trong nhiều cách trái ngược với người phlegmatic trong kiểm soát và, quyết
đoán, và nhìn thấy xung đột, thách thức và cạnh tranh như một hình thức mong muốn của
sự tương tác.

Họ có điểm tương đồng với người melancholic trong đó cả hai đều bướng bỉnh và
ngoan cố, nhưng người choleric mạnh mẽ hơn và 'khó khăn' so với người melancholic
trong sự không chắc chắn và nhạy cảm.

Người cholerics phấn đấu cho độc lập, vì phải phụ thuộc là dựa vào người khác,
không được ở vị trí cao. Sự phụ thuộc là sự yếu đuối.

Vai trò

Trong tổ tiên xa xôi của chúng ta, các thành viên choleric là các nhà lãnh đạo. Họ sẽ
chỉ huy cấp dưới, và khẳng định sự thống trị của họ sử dụng vũ lực. Nếu thử thách, họ sẽ
phản ứng bằng cách giận dữ, lớn hơn, để đe dọa và để chứng minh rằng HỌ là mạnh
nhất, phù hợp nhất để dẫn dắt.

Trong xã hội hiện nay, họ thường có xu hướng về vai trò lãnh đạo, chẳng hạn như
các nhà quản lý, các chính trị gia, thuyền trưởng, lãnh đạo đội bóng, và như vậy, mặc dù
không nhất thiết lúc nào cũng như vậy. Trong tưởng tượng, họ có thể là những chiến binh
tự hào, các vị vua đáng kính.

Melancholic (Mê-lăng-cô-li)

Nói một cách ngắn gọn: Melancholic là người rất nhạy cảm về mặt cảm xúc, theo
chủ nghĩa hoàn hảo hướng nội.

Chủ nghĩa hoàn hảo

30
Các đặc tính xác định thái độ của người melancholic theo chủ nghĩa hoàn hảo. Họ là
những người lý tưởng, họ mong muốn cho những thứ theo một cách nào đó, và khi nó
không theo cách đó thì họ đau khổ.

Họ giữ bản thân và những người khác theo tiêu chuẩn cao đến mức phi thực tế, và
đau khổ khi các tiêu chuẩn này không được đáp ứng.

Điều này dẫn họ đến sự tự ti - bởi vì họ không đáp ứng các tiêu chuẩn riêng của họ -
và sự chỉ trích của người khác - bởi vì những người khác này không đáp ứng được các
tiêu chuẩn của họ.

Thái độ thường khắc khổ của họ đến từ cuộc đấu tranh nội tâm của họ giữa một thế
giới không hoàn hảo và một mong muốn cho sự hoàn hảo.

Họ tò mò và đặt câu hỏi cụ thể để đi đến một sự hiểu biết rõ ràng hơn.

Điều này dẫn họ đến họ trở thành những người lo lắng quá thái.

Họ rất cứng đầu, bởi vì họ cố hết sức để bám vào quan điểm và tiêu chuẩn của sự
hoàn hảo, và không dễ dàng chuyển ra khỏi con đường này. Họ không đi theo dòng chảy.
Họ phấn đấu cho sự hoàn hảo.

Họ suy nghĩ và kế hoạch trước khi hành động; và sẽ hoảng sợ nếu họ không thể lập
kế hoạch trước.

Họ hay tranh luận, bởi vì họ không thể chỉ đơn giản mặc kệ mọi việc nếu mọi việc
có vẻ sai. Họ lập luận bằng lý lẽ, bằng chứng, logic, và giải thích, phân tích hoặc biện hộ.
Họ chỉ tranh luận để thiết lập phải trái, chứ không phải là để khẳng định sự chi phối.

Họ đáp ứng kém với lời khen ngợi, thường "phản bác" những lời khen bằng cách
nói rằng rốt cục họ không phải là tuyệt vời như vậy.

Hướng nội

Người melancholic là người có tính cách hướng nội nhất.

Họ có thể thích dành thời gian với những người khác, nhưng điều này tiêu tốn năng
lượng của họ, và họ cần thời gian một mình để nạp lại năng lượng.
31
Phần lớn hướng nội của họ xuất phát từ tính cầu toàn. Họ là cầu kỳ về các loại
người mà họ liên giao; những người đáp ứng được các tiêu chuẩn của họ và chia sẻ quan
điểm của họ. Những người mà sẽ không làm cho họ khó chịu; họ không muốn “ai cũng
nói chuyện cùng".

Một khi họ có một người nào đó để nói chuyện trong một môi trường yên tĩnh và
thoải mái, họ có thể nói chuyện rất nhiều và sẽ thích thú chia sẻ những suy nghĩ và ý
tưởng.

Họ rất thận trọng với việc kết bạn. Không giống như người sanguines, họ cần một
thời gian rất dài để họ xem ai đó như một 'người bạn', nhưng một khi họ đã đạt đến thời
điểm này, họ sẽ có khả năng gắn bó với người đó một cách trung thành.

Họ thích có một vài người bạn thân và rất nhiều người quen.

Họ có thể bị coi là ích kỷ, bởi vì họ thích ở một mình với những suy nghĩ của họ, có
những thứ của riêng mình, chứ không phải chia sẻ thời gian hay của cải xã hội với những
người khác.

Họ thường rất thích chiếm hữu về những thứ mà họ sở hữu và không muốn cho
người khác mượn hoặc sử dụng chúng, vì họ đối xử tốt với những thứ của riêng mình,
quan tâm đến tất cả mọi thứ sâu sắc, và sẽ lo lắng rằng những người khác sẽ không chăm
sóc những thứ đó tốt như họ.

Họ có thể được mô tả như là "dữ dội", chứ không phải là "dễ dãi".

Nhạy cảm

Người melancholics rất tình cảm. Họ xúc động trước cái đẹp, và sự khốn cùng. Họ
rất dễ bị tổn thương, vì khuynh hướng cầu toàn của họ.

Thường thì tâm trạng của họ cũng giống như tác phẩm điêu khắc kính tinh tế; được
xây dựng lên từ từ, cố gắng và cẩn thận, nhưng dễ dàng bị phá vỡ, và khó có thể sửa chữa
một khi đã tan vỡ.

32
Họ phản ứng với những điều mà họ không thích bằng sự đau khổ và nước mắt hơn
là giận dữ.

Họ có thể trở nên rất "buồn", và họ có thể khó tương tác với là vì họ rất dễ bị tổn
thương.

Họ không hung dữ, và muốn chạy trốn khỏi những điều làm cho họ căng thẳng.

Vai trò

Trong tổ tiên xa xôi của chúng ta, các thành viên melancholic là các nhà phân tích,
những người thu lượm thông tin. Họ do thám các mối nguy hiểm tiềm tàng, hoặc cho
thức ăn, và báo cáo lại cho các chủ nhân. Những phát hiện của họ, càng chính xác càng
tốt; điều này dẫn đến một xu hướng cầu toàn, các nhà phân tích càng hoàn hảo càng sống
sót tốt hơn so với những người lầm lỗi cẩu thả.

Trong xã hội chúng ta, họ thường có vai trò phân tích như các nhà khoa học, các
nhà phân tích, người làm chương trình, nhà logic học và v.v.

Bài tập 1: Xem 4 loạt hình dưới đây và xác định kiểu khí chất của mỗi trường hợp

Hình 1

33
Hình 2

Hình 3

Hình 4

Bài tập 2. Em hãy xác định em mình thuộc loại khí chất nào? Lý giải vì sao em
thuộc loại khí chất vừa nêu?

2.1.2. Nhân cách

“Personality” được một số tài liệu dịch là “tính cách”. Nhưng “tính cách”
(characteristics) có nội hàm hẹp hơn “nhân cách” với ý nghĩa là một nhân cách thì có
nhiều nét tính cách trong đó. Và để thống nhất với các quan điểm tâm lý học hiện tại
trong nước, chúng tôi sẽ sử dụng thuật ngữ này với nghĩa là “nhân cách”

Thuật ngữ "đặc điểm nhân cách" (personality trait) đề cập đến những đặc điểm cá
nhân được bộc lộ trong một mô hình cụ thể của hành vi trong một loạt các tình huống.

Đo lường

34
Nhân cách được xác định thông qua hàng loạt các trắc nghiệm như the (Minnesota
Multiphasic Personality Inventory (MMPI-2), trắc nghiệm vết mực của Rorschach, trắc
nghiệm nhân cách của Eysenck (Eysenck's Personality Questionnaire (EPQ-R)

Ảnh hưởng của môi trường

Người ta đã được chứng minh rằng các đặc điểm nhân cách dễ bị ảnh hưởng bởi
môi trường hơn so với các nhà nghiên cứu ban đầu tin tưởng. Sự khác biệt nhân cách
cũng dự đoán biến cố của những trải nghiệm sống.

2.1.3. Mô hình hành vi A – B – C

Hành vi có hai phạm trù: hành vi biểu hiện ra bên ngoài và hành vi diễn ra bên
trong. Hành vi bộc lộ ra bên ngoài là những gì chúng ta làm người khác có thể quan sát
trực tiếp được (Ví dụ: ăn, chơi, nói, cười, viết,...). Hành vi diễn ra bên trong đầu là những
gì chúng ta làm mà người khác không thể quan sát trực tiếp được (Ví dụ: suy nghĩ tưởng
tượng, nghi nhớ, suy đoán, tình cảm...) nhưng có thể nhận biết thông qua suy luận.
Các nhà tâm lý học hành vi đã sử dụng mô hình ABC (viết tắt các từ Anticedents -
tác nhân kích thích; Behaviors - hành vi; Consequesces - Hậu quả, kết quả) để mô tả quá
trình liên tiếp, hiện thời của những tác nhân kích thích thúc đẩy hành vi xã hội và hiệu
quả sau khi hành vi được bộc lộ:

(A). Tác nhân kích thích ban đầu là những sự kiện xảy ra hoặc có mặt trước khi
hành vi (B) diễn ra, chúng tạo ra những điều kiện cần và đủ cho hành vi xảy ra.
(C). Hậu quả là những sự kiện xảy ra sau và như là kết quả của một việc thực hiện
hành vi. Hậu quả có thể xảy ra ngay hoặc một thời gian sau mới xảy ra và ảnh hưởng đến

35
khả năng xuất hiện lại của hành vi này trong tương lai. Mặc dù có rất nhiều sự kiện xảy ra
trước và theo sau mọi hành vi nhưng chỉ có một số rất ít có ảnh hưởng đáng kể trực tiếp
như là những nhân tố đang duy trì sự có mặt của hành vi. Hơn nữa tác nhân kích thích
khởi đầu và hậu quả duy trì sự có mặt của hành vi theo những cách khác nhau. Hậu quả
thực tế của một hành vi có thể ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai, liệu hành vi đó có xảy
ra nữa hay không? Hậu quả mong muốn cũng có thể là kích thích khởi động ảnh hưởng
đến việc liệu một người sẽ “cam kết” thực hiện hành vi vào lúc đó. Dự đoán về hậu quả
có thể có cũng là một nhân tố xác định liệu những điều kiện “cần và đủ” này có đúng cho
việc thực hiện hành vi hay không.
Mô hình này rất có ích trong trường hợp khám phá, điều chỉnh trạng thái tâm lý của
bản thân.
A B C

Tôi vừa bước ra ngoài Tôi nghĩ, người lái xe thật ngu Tôi có cảm giác tức
đường thì bị một chiếc xe ngốc khi không biết điều giận
mô tô tong vào người khiển xe mà vẫn ngồi lái xe

Tôi nghĩ, chắc anh ta vội vàng Tôi có cảm giác thông
việc gì đó nên không nhìn cảm với anh ta
thấy tôi và tông vào tôi

2.1.4. Trắc nghiệm nhân cách

Test hoặc testing nghĩa tiếng Anh có nghĩa là thử nghiệm, kiểm tra.

Về khía cạnh đánh giá, Test, testing còn được gọi là trắc nghiệm. Trắc nghiệm là từ
được sử dụng khá phổ biến trong đời sống, giáo dục, tâm lý và nhiều ngành khoa học
khác.

Bạn đã bao giờ thử làm một trắc nghiệm trên báo, trên sách mà thấy kết luận của
trắc nghiệm không đúng với mình chưa? Tại sao có sự việc đó?

36
Để một trắc nghiệm có thể đánh giá đúng được trạng thái thực sự của một người,
trắc nghiệm phải đảm bảo được ít nhất các tính chất sau:

- Độ tin cậy là mức độ chính xác của trắc nghiệm. Nó cho biết bài trắc nghiệm đo
cái cần đo ổn định đến mức nào. Hay nói cách khác kết quả đo có giống nhau giữa người
này và người khác không.

- Độ hiệu lực phản ánh:

+ Các câu hỏi của trắc nghiệm có dễ hiểu hay dễ bị hiểu sai thành ý khác không?

+ Nội dung của trắc nghiệm có phản ánh được các khái niệm công cụ của học
thuyết, lý thuyết mà trắc nghiệm lấy đó làm nền tảng không?

v.v

- Độ giá trị phản ánh trắc nghiệm có đo được đúng hiện tượng cần đo không. Ví dụ,
một bài trắc nghiệm về nhân cách nhưng nội dung các câu hỏi lại hỏi về cảm xúc thì bài
trắc nghiệm đó là không có giá trị.

Trắc nghiệm đánh giá nhân cách được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau.
Các trắc nghiệm nhân cách chuyên đánh giá về lĩnh vực nghề nghiệp có thể kể đến những
trắc nghiệm sau:

- Trắc nghiệm Catell 16PF

- Trắc nghiệm MMPI

- Trắc nghiệm MBTI

Ngày nay, một số công ty cho ứng cử viên của họ làm các trắc nghiệm nhân cách
trước lúc quyết định tuyển dụng. Tuy nhiên, một số khác nhận thấy hạn chế của phương
pháp này. Đó là sự phụ thuộc vào chuyên gia trong việc tiến hành cũng như diễn giải các
kết quả trắc nghiệm.

Một số trung tâm cũng quảng cáo để thực hiện các trắc nghiệm này. Tuy nhiên,
trước khi tiến hành các trắc nghiệm, các em nên tìm hiểu về các tính chất như độ hiệu

37
lực, độ tin cậy, độ giá trị của trắc nghiệm để tránh mất tiền, mất thời gian cho chính bản
thân.

2.2. Năng lực cá nhân và cơ sở hình thành Năng lực

2.2.1. Năng lực là gì?


Compentence trong tiếng Anh có nghĩa là năng lực
Thuật ngữ "năng lực" đầu tiên xuất hiện trong một bài báo của tác giả R.W. White
vào năm 1959 như là một khái niệm cho động cơ hiệu suất. Sau đó, vào năm 1970, Craig
C. Lundberg định nghĩa các khái niệm trong "Planning the Executive Development
Program". Thuật ngữ này có nghĩa là lực kéo vào năm 1973, khi tiến sĩ David
McClelland viết một bài báo chuyên đề mang tên "Testing for Competence Rather Than
for Intelligence". Thuật ngữ đã được phổ biến bởi một đồng nghiệp McBer & Company
(thuộc "Hay Group") đồng nghiệp Richard Boyatzis và nhiều người khác, chẳng hạn như
T.F. Gilbert (1978), người mà sử dụng khái niệm trong mối quan hệ để cải thiện hiệu
suất. Việc sử dụng khái niệm năng lực rất khác nhau như vậy đã dẫn đến sự hiểu lầm
đáng kể. Sự thực là năng lực đã xuất hiện ở các nước khác nhau và bối cảnh khoa học đa
dạng và với ý nghĩa khác nhau (Klarsfeld, 2000). Cụ thể như sau:
2.2.2. Các cách hiểu về năng lực

Năng lực của tổ chức (Organizational competencies): Sứ mệnh, tầm nhìn, giá trị
văn hóa cốt lõi và năng lực của tổ chức và một bộ công tác tổ chức được thực hiện đi kèm
(ví dụ định hướng khách hàng, chấp nhận rủi ro và cắt lỗ)

Năng lực cốt lõi (Core competencies): Khả năng và/hoặc kỹ thuật chuyên môn độc
đáo của một tổ chức, nghĩa là năng lực cốt lõi phân biệt tổ chức này với đối thủ cạnh
tranh của nó (ví dụ như các công nghệ, phương pháp, chiến lược hoặc quy trình của tổ
chức đó tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường). Một năng lực cốt lõi của tổ chức là sức
mạnh chiến lược của một tổ chức.

Năng lực kỹ thuật (Technical competencies): Tùy thuộc vào vị trí, cả khả năng
kỹ thuật và khả năng thực hiện cần được cân nhắc kỹ khi quyết định tuyển dụng ai đó.

38
Thường thì các tổ chức có khuynh hướng thuê hoặc quảng cáo tuyển dụng chỉ trên cơ sở
các kỹ năng kỹ thuật. Để loại trừ các năng lực khác, cần trải nghiệm những hoạt động có
liên quan.

Năng lực hành vi (Behavioral competencies): Năng lực làm việc cá nhân thì đặc
biệt hơn năng lực và khả năng của tổ chức. Như vậy, điều quan trọng là chúng được định
nghĩa trong một bối cảnh hành vi có thể đo lường được để xác nhận khả năng áp dụng và
mức độ chuyên môn (ví dụ phát triển tài năng)

Năng lực chức năng (Functional competencies): Năng lực chức năng là lực công
việc cụ thể hướng đến chứng minh hiệu suất công việc cao, kết quả chất lượng cho một vị
trí nghề nghiệp nhất định. Chúng thường là những kỹ thuật hoặc hoạt động trong tự nhiên
(ví dụ, "sao lưu cơ sở dữ liệu" là một năng lực chức năng).

Năng lực quản lý (Management competencies): Năng lực quản lý xác định các
thuộc tính và khả năng cụ thể để minh họa khả năng quản lý của một cá nhân. Không
giống như các đặc tính lãnh đạo, tính chất quản lý có thể được học và phát triển với sự
đào tạo và nguồn lực thích hợp. Năng lực trong thể loại này phải chứng minh hành vi cần
thiết để quản lý thực sự có hiệu quả.

Năng lực cũng là những gì mọi người cần để thành công trong công việc. Năng lực
nghề nghiệp là không giống như nhiệm vụ công việc. Năng lực bao gồm tất cả các kiến
thức liên quan, kỹ năng, khả năng, và các thuộc tính hình thành nên công việc của một
người. Bộ các phẩm chất có tính hoàn cảnh đặc thù này tương quan với hiệu suất công
việc cao và có thể được sử dụng như một tiêu chuẩn để đo lường hiệu suất công việc
cũng như để phát triển, tuyển dụng và thuê nhân viên.
Năng lực và các mô hình năng lực có thể được áp dụng cho tất cả các nhân viên
trong một tổ chức hoặc chúng có được vị trí cụ thể. Xác định năng lực của nhân viên có
thể đóng góp để cải thiện hiệu suất của tổ chức. Chúng có hiệu quả nhất nếu chúng đáp
ứng nhiều tiêu chuẩn quan trọng, bao gồm liên kết đến, và đòn bẩy trong hệ thống nguồn
nhân lực của một tổ chức.

39
Các năng lực cốt lõi phân biệt một hệ thống từ sự cạnh tranh của nó đến việc tạo ra
lợi ích cạnh tranh của một công ty trên thị trường. Một năng lực cốt lõi của tổ chức là sức
mạnh có tính chiến lược của nó.
Năng lực tạo cho các tổ chức một cách thức để định nghĩa về hành vi-cái mà mọi
người cần phải làm để tạo ra những kết quả mà tổ chức mong muốn, đi theo văn hóa của
nó. Bằng cách có được các năng lực được định nghĩa, nó cho phép nhân viên biết những
gì họ cần phải để có hiệu quả. Khi được định nghĩa đúng, các năng lực cho phép các tổ
chức đánh giá mức độ thể hiện và mức độ thiếu trong hành vi của nhân viên của họ.
Những năng năng lực nào mà nhân viên còn thiếu-cần phải học thêm.
Điều này sẽ cho phép các tổ chức để biết khả năng những nguồn lực họ có thể cần
để giúp các nhân viên phát triển và học hỏi những năng lực. Năng lực có thể phân biệt và
phân biệt tổ chức của bạn từ đối thủ cạnh tranh của bạn. Trong khi hai tổ chức có thể
giống nhau về kết quả tài chính, cách thức mà các kết quả đã đạt được cũng sẽ khác nhau
dựa trên các năng lực phù hợp với chiến lược cụ thể của họ và văn hóa tổ chức. Cuối
cùng, năng lực có thể cung cấp một mô hình cấu trúc có thể được sử dụng để tích hợp
phương thức quản lý của tổ chức. Năng lực mà sắp xếp việc tuyển dụng, quản lý hiệu
quả, đào tạo và phát triển và khen thưởng tập quán của họ để củng cố hành vi quan trọng
mà các giá trị tổ chức.
Trong phần này, chúng tôi chỉ trình bày những vấn đề liên quan đến năng lực cá
nhân.
Từ điển tiếng Việt giải thích, năng lực là khả năng làm việc tốt, nhờ có phẩm chất
đạo đức và trình độ chuyên môn.
Tuy nhiên, cần hiểu đầy đủ hơn về nội hàm khái niệm năng lực ở các khía cạnh như
sau:
ü Năng lực được xây dựng trên cơ sở tri thức, thiết lập qua giá trị, cấu trúc
như là các khả năng, hình thành qua trải nghiệm/củng cố qua kinh nghiệm, hiện thực hóa
qua ý chí (John Erpenbeck 1998).
ü Năng lực là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện
thành công nhiệm vụ trong một bối cảnh cụ thể” (OECD, 2002).

40
ü Năng lực là các khả năng và kỹ năng nhận thức vốn có ở cá nhân hay có thể
học được… để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Năng lực cũng hàm chứa
trong nó tính sẵn sàng hành động, động cơ, ý chí và trách nhiệm xã hội để có thể sử dụng
một cách thành công và có trách nhiệm các giải pháp… trong những tình huống thay đổi
(Weinert, 2001).
Dreyfus và Dreyfus đề xuất năm mức độ của năng lực gồm:
1. Học nghề: hành xử theo quy tắc, hạn chế nhiều mặt và không linh hoạt
2. Bắt đầu có kinh nghiệm: biết kết hợp các khía cạnh của tình hình
3. Người thực hành: biết hành động theo các mục tiêu và kế hoạch dài hạn
4. Người thực hành có kiến thức: Xem xét tình huống một cách tổng thể và hành
động từ niềm tin cá nhân
5. Chuyên gia: Có một sự hiểu biết trực quan về tình hình và phóng to trên các khía
cạnh trung tâm
Quá trình phát triển năng lực là một chuỗi làm và đối chiếu lại suốt đời. Khi năng
lực áp dụng vào công việc cũng như nghề nghiệp, thì sự phát triển năng lực suốt đời được
liên kết với sự phát triển cá nhân như là một khái niệm quản trị. Và nó đòi hỏi một môi
trường đặc biệt, nơi đó các quy định cần phải được giới thiệu cho người học nghề, nhưng
người ở một mức độ năng lực cao hơn sẽ phá vỡ một cách có hệ thống các quy tắc nếu
các tình huống đòi hỏi điều đó. Môi trường này được đồng nghĩa mô tả bằng thuật ngữ
như tổ chức học tập, sáng tạo tri thức, tự tổ chức và trao quyền.
Trong một tổ chức cụ thể hay cộng đồng nghề nghiệp, năng lực chuyên môn,
thường có giá trị. Chúng thường là những năng lực tương tự mà một người phải được
chứng minh trong một cuộc phỏng vấn việc làm. Đối với tất cả các tổ chức và cộng đồng
có một tập hợp các nhiệm vụ chính mà những người có năng lực phải đóng góp cho tất cả
các thời gian. Đối với một sinh viên đại học, ví dụ, các nhiệm vụ chính có thể là:
- Sự vận dụng học thuyết
- Sự vận dụng các phương pháp
- Sự vận dụng các thông tin vào công việc
Bốn mặt của năng lực là:

41
1. Mặt ý nghĩa của năng lực: Người được đánh giá nhất thiết phải xác định được các
mục đích của tổ chức hay cộng đồng và hành động hướng đến phù hợp với các giá trị của
tổ chức hoặc cộng đồng.

2. Mặt quan hệ của năng lực: Khả năng tạo ra và nuôi dưỡng các kết nối đến các
bên liên quan trong những nhiệm vụ chính nhất thiết phải được bộc lộ.

3. Mặt học tập của năng lực: Người được đánh giá nhất thiết phải biết tạo ra và tìm
kiếm những tình huống có thể thử nghiệm cho bộ các giải pháp mà làm cho nó trở nên
khả thi để hoàn thành nhiệm vụ chính và phản ánh bằng kinh nghiệm.

4. Mặt thay đổi của năng lực: Người được đánh giá nhất thiết phải biết hành động
theo những cách mới khi nó sẽ thúc đẩy các mục đích của tổ chức, cộng đồng theo hướng
tương đi vào cuộc sống.
b. Cấu trúc của năng lực
Tìm hiểu về năng lực của con người
Có 2 cách hiểu về năng lực phổ biến hiện nay là theo trường phái của Anh và
trường phái của Mỹ
-Năng lực theo trường phái của Anh. Năng lực giới hạn bởi 3 yếu tố: Kiến thức
(Knowledge), Kỹ năng (Skill) và Thái độ (Attitude). Đây còn gọi là mô hình ASK.
- Năng lực theo trường phái Mỹ. Năng lực là bất kỳ yếu tố tâm lý cá nhân có thể
giúp hoàn thành công việc nhanh chóng công việc hay hành động nào đó một cách hiệu
quả.
Năng lực con người giống như một tảng băng trôi, bao gồm 2 phần: phần nổi và
phần chìm.

42
Nguyên lý tảng băng trôi
+ Phần nổi chiếm 10%-20%. Đây là nền tảng giáo dục, đào tạo, kinh nghiệm, kỹ
năng, cảm xúc thật…Phần có thể nhìn thấy thông qua các hình thức đánh giá, phỏng vấn,
quan sát, theo dõi sổ sách.
+ Phần chiếm tới 80%-90% là phong cách tư duy (thinking style), đặc tính hành vi
(behavioral traits), sở thích nghề nghiệp (occupational interests), sự phù hợp với công
việc (job fit), …Đây chính là phần tiềm ẩn khi mới gia nhập công ty cần phát hiện, phát
huy và phát triển.
Ngoài ta, năng lực còn được định nghĩa khác theo các nhà tâm lý học: năng lực là
tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính tâm lý cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một
hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Các năng lực hình
thành trên cơ sở của cac tư chất tự nhiên đóng vai trò quan trọng, năng lực con người
không phải hoàn toàn tự nhiên có, phần lớn do công luyện tập là có.
Mô hình năng lực
Mô hình năng lực (Compentence Model) là mô tả tổ hợp các kiến thức, kỹ năng và
đặc điểm cá nhân (thái độ bản thân) cần để hoàn thành tốt một vai trò hoặc công việ. Mô
hình năng lực được sử dụng phổ biến hiện nay là mô hình ASK.
ASK là mô hình được sử dụng phổ biến trong quản trị nhân sự nhằm đào tạo và phát
triển năng lực cá nhân. Mô hình này đưa ra những tiêu chuẩn nghề nghiệp cho các chức
danh công việc trong tổ chức dựa trên ba nhóm tiêu chuẩn chính: Phẩm chất hay Thái độ
(Attitude), Kỹ năng (Skills) và Kiến thức (Knowledges).
Benjamin Bloom (1956) được coi là người đưa ra những phát triển bước đầu về
ASK, với ba nhóm năng lực chính, bao gồm:
- Phẩm chất/Thái độ (Attitude): thuộc về phạm vi cảm xúc, tình cảm (Affective)
- Kỹ năng (Skills): Kỹ năng thao tác (Manual or Physical)
- Kiến thức (Knowledge): thuộc về năng lực tư duy (Cognitive)
Trong đó, kiến thức được hiểu là năng lực về thu thập tin dữ liệu, năng lực hiểu các
vấn đề (comprehension), năng lực ứng dụng (application), năng lực phân tích (analysis),
năng lực tổng hợp (synthesis), năng lực đánh giá (evaluation). Đây là những năng lực cơ

43
bản mà một cá nhân cần hội tụ khi tiếp nhận một công việc. Công việc càng phức tạp thì
cấp độ yêu cầu cá năng lực càng cao.
Phẩm chất hay thái độthường bao gồm các nhân tố thuộc về thế giới quan tiếp nhận
và phản ứng lại với các thực tế, xác định giá trị, giá trị ưu tiên. Các phẩm chất và hành vi
thể hiện thái độ của các cá nhân với công việc, động cơ cũng như những tố chất cần có để
đảm nhận tốt công việc (Harow, 1972). Các phẩm chất cũng được xác định phù hợp với
vị trí công việc.
Về kỹ năng, chính là năng lực thực hiện các công việc, biến kiến thức thành hành
động. Thông thường các kỹ năng được chia thành các cấp độ chính như: bắt chước (quan
sát và hành vi khuôn mẫu), ứng dụng (thực hiện một số hành động bằng cách làm theo
hướng dẫn), vận dụng (chính xác hơn với mỗi hoàn ảnh), vận dụng sáng tạo (trở thành
phản xạ tự nhiên) (Dave, 1975)
Khung năng lực
Mọi công việc sẽ yêu cầu một tập hợp các năng lực: Kiến thức, kỹ năng và đặc điểm
cá nhân để hoàn thành tốt một vài trò/công việc và tập hợp này gọi là khung năng lực
Cấu trúc của khung năng lực
Để thiết lập nền tảng hiệu quả cho hoạt động quản lý nói chung và nâng cao năng
lực lãnh đạo quản lý nhân viên nói riêng, ở mỗi vị trí nhân sự trong tổ chức sẽ có một
khung năng lực cần thiết để hoàn thành tốt công việc được giao và cố gắng phát triển
thêm những năng lực còn thiếu để trở thành một nhà lãnh đạo.
- Năng lực theo vai trò (Role specific compentence) là các năng lực ứng dụng cho
các vị trí cụ thể trong tổ chức như năng lực lãnh đạo, năng lực tư duy chiến lược.
- Năng lực cốt lõi (Core compentece) gồm các năng lực cần thiết cho tất cả các vị trí
như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định…
- Năng lực chuyên môn (Technical compentece) là các kiến thức kỹ năng chuyên
môn gắn với lĩnh vực cụ thể có vai trò thiết yếu trong việc hoàn thành các nhiệm vụ
chuyên môn. Ví dụ: kỹ năng bán hàng, kỹ năng lập trình…
- Năng lực hành vi là các năng lực cụ thể của cá nhân được định nghĩa dưới dạng
hành vi nhằm đảm bảo khả năng ứng dụng và mức độ thuàn thục.

44
Việc chia làm 3 nhóm khung năng lực như vậy chỉ mang tính tương đối bởi vì nói
thường có sự chồng lấn lên nhau. Ví dụ Năng lực giao tiếp là năng lực cốt lõi cho mỗi
công việc nhưng nó lại là yếu tố cấu thành trong năng lực chuyên môn của nhân viên bán
hàng.
42 năng lực kiểu Harvard
Mục tiêu của bạn trong việc sử dụng hướng dẫn này không phải để chọn nhiều năng
lực nhất có thể mà lựa chọn những năng lực nào có thể giúp cho bạn áp dụng trong công
việc của mình.
Điều chính là phải tập trung từ 8-10 (không có con số kỳ diệu) năng lực quan trọng
nhất như một khung hay mô hình năng lực, sau đó thu hẹp xuống còn tư 3-5 năng lực sử
dụng trong quản lý và phát triển hiệu suất.
Khi đã lựa chọn được 3-5 năng lực, một thực hành tốt là chọn ra vài năng lực nào
đó là điểm mạnh quan trọng (dựa trên mực tiêu của bạn) để tiếp tục xây dựng. Ngoài ra,
có thể chọn thêm vài năng lực để phát triển. Sự cung cấp này giúp cho cự cân bằng giữa
tính chắc chắn và nhu cầu phát triển.
Phân loại 42 năng lực theo Đại học Harvard
1. Khả năng thích ứng (Adaptability)
2. Xếp đặt hiệu suất để thành công (Aligning Performance for Success)
3. Học ứng dụng (Applied Learning)
4. Xây dựng một đội/nhóm thành công (Building a Sucessful Team)
5. Xây dựng khách hàng trung thành (Building Customer Loyalty)
6. Xây dựng mối quan hệ đối tác (Building Partnership)
7. Xây dựng mối quan hệ tích cực làm việc-Làm việc nhóm/hợp tác
(Building Positive Working Relationships-Teamwork/Collaboration)
8. Tạo dựng lòng tin (Building Trust)
9. Huấn luyện (Coaching)
10. Giao tiếp (Communication)
11. Không ngừng học tập (Continuous Learning)

45
12. Góp phần vào sự thành công của đội/nhóm (Contributing to Team
Success)
13. Hướng đến khách hàng (Customer Focus)
14. Ra quyết định (Decision Making)
15. Ủy thác hay phân quyền (Delegation)
16. Phát triển người khác (Developing Others)
17. Nhiệt tình (Energy)
18. Tạo điều kiện thay đổi (Facilitating Change)
19. Theo dõi (Follow-up)
20. Thuyết trình chính thức (Formal Presentation)
21. Đạt được sự cam kết (Gaing Commitment)
22. Gây ảnh hưởng (Impact)
23. Theo dõi và giám sát thông tin (Information Mornitoring)
24. Sáng kiến (Initiating Action, Initiative)
25. Đổi mới (Innovation)
26. Lãnh đạo/Sống có tầm nhìn và có giá trị (Leading/Living The Vision
and Value)
27. Quản lý xung đột (Managing Conflict)
28. Tổ chức công việc và quản lý thời gian (Managing Work(Includes
Time Management)
29. Lãnh đạo cuộc họp (Meeting Leadership)
30. Tham dự hội nghị (Meeting Participation)
31. Đàm phán (Negotiation)
32. Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện (Planning and Organizing)
33. Định hướng chất lượng (Quality Orientation)
34. Chấp nhận rủi ro (Risk Taking)
35. Nhận thức về an toàn (Safety Awareness)
36. Khả năng/Sự thuyết phục bán hàng (Sales Ability/Persuasiveness)
37. Ra quyết định có chiến lược (Strategic Decision Making)

46
38. Khả năng chịu đựng stress (Stress Tolerance)
39. Kiến thức và kỹ năng kỹ thuật/chuyên môn (Technical/Professional
Knowledge and Skills)
40. Kiên định (Tenancity)
41. Khả năng đánh giá sự khác biệt (Valuing Diversity)
42. Chuẩn mực công việc (Work Standards)
Bài tập 3:
- Hãy đọc quy định chuẩn đầu ra của trường UFM về kiến thức, kỹ năng em phải
đạt được để có đủ điều kiện tốt nghiệp.
- Giả sử đó là khung năng lực nghề nghiệp tương lai của em. Căn cứ vào phân loại
42 năng lực của trường đại học Havard, hãy xác định xem em cần phải hướng
đến rèn luyện những năng lực nào để sau này em có thể phát triển nghề nghiệp
tương lai của mình một cách tốt nhất?
2.2.3. Vai trò của năng lực cá nhân trong cuộc sống, lựa chọn và định hướng nghề
nghiệp
Mỗi người có một năng lực thế mạnh riêng và mỗi năng lực thế mạnh đó lại có thể
phù hợp đề làm một nghề nhất định. Dưới đây liệt kê 8 năng lực tư duy và sự phù hợp
tương ứng của các ngành nghề với các năng lực đó

Logic Toán Học (Logical-mathematical)

Người thuộc về nhóm này ưa thích làm việc với các con số, đặt câu hỏi rồi giải đáp,
dễ nhận ra các kiểu mẫu xếp theo trình tự (patterns), ưa phân tích và phân loại sự vật, đặt
câu hỏi rồi giải đáp, có khả năng lý luận dài dòng và trong cách làm việc theo trừu tượng.
Các học sinh giỏi toán và lý luận này, về sau trở nên các nhà toán học, các nhà khoa
học... Vài nhân vật đại diện cho loại này là Albert Einstein, John Dewey, Suzanne
Langer. . .

47
Albert Einstein
Nghề nghiệp phù hợp: Kiểm kê, Toán học, Nhân viên mua hàng, Bảo hiểm, Nhà số
học, Nhà khoa học, Nhà thống kê học, Nhân viên bảo hiểm, Phân tích máy tính, Nhà kinh
tế, Kỹ sư, Nhân viên ghi chép, Nhà tự nhiên học….
Ngôn ngữ - khẩu ngữ (Verbal-linguistic):

Người thuộc về nhóm này giỏi về đọc, viết, kể chuyện, nhớ rõ ngày tháng, ưa thích
các môn khoa học xã hội, giải các bài ô chữ (puzzles), nhạy cảm với các ý nghĩa của các
từ ngữ, biết rõ chức năng khác nhau của ngôn ngữ. Người trẻ, có tố chất, để phát huy
năng lực này, này cần được luyện tập về nghe, nói, đọc chữ, thảo luận và viết ra các bài
văn. Điển hình loại này Abraham Lincoln, T.S. Eliot, Virginia Woolf, Maya Angelou. . .
Nghề nghiệp phù hợp : Nhân viện thư viện, Quản lí sổ sách, Nhân viên bảo tàng,
Biên tập, Phiên dịch, Nhà ngôn ngữ học, Tác giả, Nhân viên phát thanh, Nhà báo, Trợ lý
pháp luật, Luật sư, Thư kí, Nhân viên đánh máy, Giáo viên ngữ văn…

48
Trải nghiệm

Những người trẻ hiếu động, có năng khiếu với các môn thể chất, ưa thích các môn
thể thao và thích tự giải quyết các công việc. Người thuộc loại này sẽ có khả năng diễn tả
qua các động tác cơ thể, ưa nhẩy múa, đóng kịch, sử dụng các dụng cụ (using tools) và
trở thành các nhà thể thao, các vũ công (dancer) . Vài nhân vật thuộc lớp người này là
Charlie Chaplin, Martina Navratilova, Magic Johnson.
Nghề nghiệp phù hợp : Vật lí trị liệu, Diễn viên, Nhà tạo mốt, Nông dân, Thợ xây,
Thợ thủ công, Giáo viên thể dục, Công nhân, Vận động viên, Nhân viên kiểm âm, Thợ
kim hoàn…
Thiên nhiên (Naturalist):
Nhóm người này hiểu biết và yêu mến thiên nhiên, biết phân biệt và nhận ra các
chủng loại, ưa thích tìm hiểu về cây cỏ, sinh vật, các hiện tượng thiên nhiên và phát huy
các nguồn lực.. Các danh nhân thuộc loại này gồm Charles Darwin, Luther Burbank,
John Muir. . .
Nghề nghiệp phù hợp : nhà thiên nhiên học, sinh học, bảo trợ môi trường...
Âm Nhạc (Musical):
Nhóm người này có khả năng nhận thức, ghi nhớ, lượng giá và sáng tạo nhịp điệu,
âm thanh, tiết điệu, ưa thích đánh đàn, nghe nhạc và ca hát, biết thưởng thức cách diễn
tấu, phân biệt nhạc cụ trong buổi hòa nhạc. Làm việc hiệu quả hơn khi có âm nhạc và
thích cuộc sống nhịp điệu... Đại diện cho lớp người này là Wolfgang A. Mozart, Leonard
Bernstein, Ella Fitzerald. . .

49
Nghề nghiệp phù hợp : Nhạc trưởng, Nhà âm nhạc, Nhạc khí, Người chơi đàn, Trị
liệu tâm lý bằng âm nhạc, Nhân viên bán nhạc cụ, Nhà sáng tác ca khúc, Hợp xướng, Ca
sĩ, Nhà giáo dạy nhạc…

Itzhak Perlman nghệ sĩ vĩ cầm điêu luyện, xuất sắc của thế kỷ 20
Không gian (Spatial)
Nhóm này gồm những người giỏi vẽ, lập ra họa đồ, có đầu óc dự kiến
(visualization), ưa thích mơ mộng và tạo ra các kiểu mẫu, có năng khiếu về không gian
và về các biến đổi theo nhận thức đa chiều. Loại người này, khi trẻ, nên được khuyến
khích làm việc với các hình ảnh và màu sắc, dự kiến và dùng con mắt của tâm hồn
(mind’s eye). Dễ thu kiến thức, sự kiện được hình ảnh hóa, và có năng lực cảm nhận tác
phẩm nghệ thuật. Tương lai của họ là các nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhà hàng hải
(navigator). Các thí dụ của nhóm người này gồm Pablo Picasso, Frank Lloyd Wright,
Georgia O’Keeffe, Bobby Fischer. . .

Nghệ thuật điêu khắc bằng cát

50
Nghề nghiệp phù hợp: Nhân viên đo lường, Kiến trúc sư, Nhà thiết kế đô thị, Mỹ
thuật công nghiệp, Giáo viên dạy nhiếp ảnh, Nhà phát minh, Hội họa, Phi công, Nhà nghệ
thuật và điêu khắc, Trang trí nội thất, Nhà nhiếp ảnh ….
Nội tâm cá nhân (Intrapersonal)

Người thuộc nhóm này ưa thích suy tư, suy nghĩ độc lập, theo đuổi các công trình
một cách thầm lặng, dùng nhật kí ghi lại cảm xúc. Hiểu rõ yêu thích khám phá bản thân
mình, nhận ra các ưu khuyết điểm của các hành vi cá nhân và biết đặt ra các mục tiêu
thích hợp với nguyện vọng, trí thông minh của từng người. Vài thí dụ về lớp người này là
Sigmund Freud, Thomas Merton, bà Eleanor Roosevelt. . .
Nghề nghiệp phù hợp: Nhà tâm lý học, Giáo sư, Nhân viên quy hoạch phương án,
Tâm lý trị liệu, Nhà quản lí xí nghiệp...
Giao tiếp (Interpersonal)

51
Giao tiếp ứng xử để thành công
Nhóm người này hiểu rõ về bản chất con người, có đầu óc tổ chức, truyền thông và
giải quyết các bất đồng và vấn đề xã hội. Họ cũng ưa thích nhiều bạn bè, tham gia vào
các nhóm, cộng tác với nhiều người khác. Giao tiếp tốt và thu được thành công, hiểu và
đọc được suy nghĩ người khác. Đại diện loại người này là Mohandas Gandhi, Mẹ
Theresa, Cựu Tổng Thống Ronald Reagan. . .
Nghề nghiệp phù hợp: Chủ quản hành chính, Giám đốc, Hiệu trưởng, Nhân viên
hành chính nhân sự, Trọng tài, Nhà xã hội học, Nhân loại học, Nhân viên tâm lý, Đạo
diễn, Nhà tâm lý học, Nhân viên tiếp khách, Bán hàng, Du lịch, Công tác xã hội...
2.2.4. Con đường hình thành năng lực cá nhân
Năng lực là khả năng của một cá nhân để làm một công việc đúng cách. Năng lực là
một tập hợp các hành vi quy định cung cấp một hướng dẫn có cấu trúc cho phép việc xác
định, đánh giá và phát triển của các hành vi trong các nhân viên.
Năng lực đôi khi được thể hiện trong hành động trong một tình huống và hoàn cảnh
mà có thể khác với lần kế tiếp mà người ấy phải hành động. Để có năng lực người ta cần
biết diễn giải tình hình theo hoàn cảnh và phải có một kho tàng các hành động có thể để
giải quyết tình hình đó và phải được huấn luyện đào tạo những hành động có thể trong
kho tàng ấy, nếu việc huấn luyện đào tạo này là có liên quan. Cho dù được đào tạo huấn
luyện như thế nào thì năng lực cũng sẽ chỉ phát triển thông qua kinh nghiệm, mức độ học
hỏi và thích nghi của cá nhân

Cho dù được đào tạo huấn luyện như thế nào thì năng lực cũng sẽ chỉ phát
triển thông qua kinh nghiệm, mức độ học hỏi và thích nghi của cá nhân.

52
Các thứ bậc của năng lực

Trong tâm lý học, bốn giai đoạn của năng lực, hoặc các mô hình học tập "năng lực
có ý thức", liên quan đến trạng thái tâm lý có liên quan trong quá trình tiến triển từ không
có năng lực đến có năng lực trong một kỹ năng.

Ban đầu được mô tả như là "Bốn giai đoạn cho việc học Bất kỳ kỹ năng mới nào",
lý thuyết này đã được Noel Burch (1970) phát triển tại Cơ sở đào tạo quốc tế “Gordon
Training International” . Ý tưởng đã được Abraham Maslow bổ sung thường xuyên, mặc
dù mô hình này không xuất hiện trong những công trình lớn của ông.

Bốn giai đoạn của việc học cung cấp một mô hình cho việc học tập. Nó cho thấy
rằng các cá nhân ban đầu không nhận thức được họ biết ít như thế nào, hoặc vô thức về
sự không có năng lực của họ. Khi họ nhận ra sự không có năng lực của họ, họ có ý thức
về việc đạt được một kỹ năng, sau đó có ý thức sử dụng nó. Cuối cùng, các kỹ năng có
thể được sử dụng mà không có sự tham gia của suy nghĩ ý thức: Các cá nhân được cho là
đạt được năng lực có tính vô thức.

Một số yếu tố, bao gồm cả việc giúp đỡ một ai đó “biết cái họ không biết” hoặc
nhận ra một điểm mù, có thể được so sánh với một số yếu tố của một cửa sổ Johari, mặc
dù Johari liên quan đến ý thức, trong khi bốn giai đoạn của năng lực lại liên quan đến các
giai đoạn học tập .

53
Bốn giai đoạn của năng lực

1. Không có năng lực có tính vô thức (Unconscious incompetence).

(Không biết là mình không có năng lực)

Các cá nhân không hiểu hoặc biết cách để làm một cái gì đó và không nhất thiết
phải nhận ra được sự thiếu hụt. Họ có thể phủ nhận sự hữu dụng của các kỹ năng. Các cá
nhân phải nhận ra không có năng lực của chính mình, và giá trị của kỹ năng mới, trước
khi chuyển sang giai đoạn tiếp theo. Độ dài thời gian này ở mỗi cá nhân phụ thuộc vào
sức mạnh của các kích thích học tập.
2. Không có năng lực có tính ý thức (Conscious incompetence)

(Biết là mình không có năng lực)

Mặc dù cá nhân không hiểu hoặc biết phải làm gì, nhưng anh ta/cô ta nhận ra sự
thiếu hụt, cũng như giá trị của một kỹ năng mới trong việc giải quyết thiếu hụt. Việc mắc
lỗi là không thể thiếu trong quá trình học tập ở giai đoạn này.
3. Có năng lực có tính ý thức (Conscious competence)
(Biết là mình có năng lực)
Các cá nhân hiểu hoặc biết làm thế nào để làm được điều đó. Tuy nhiên, thể hiện kỹ
năng hoặc kiến thức đòi hỏi có sự tập trung. Nó có thể được chia nhỏ thành các bước, và
có sự tham gia có ý thức rất lớn trong việc thực hiện các kỹ năng mới
4. Có năng lực một có tính vô thức (Unconscious competence)
(Không để ý mình có năng lực)
Cá nhân này đã thực hành rất nhiều một kỹ năng mà nó đã trở thành "bản chất thứ
hai" và có thể được thực hiện dễ dàng. Kết quả là, các kỹ năng có thể được thực hiện
trong khi thực hiện công việc khác. Các cá nhân có thể có thể dạy cho người khác, tùy
thuộc vào cách thức và thời điểm kỹ năng đã được học
Bài tập 4:
- Đọc quy định chuẩn đầu ra của trường UFM về kiến thức, kỹ năng em phải đạt
được để có đủ điều kiện tốt nghiệp.

54
- Theo chuẩn kiến thức kỹ năng đó, em đã có kỹ năng nào, kỹ năng nào em còn
thiếu, em cần phải rèn luyện để sau này có thể phát triển nghề nghiệp tương lai
một cách tốt nhất?

2.3. Thái độ là tất cả - Mô hình ASK


2.3.1. Mô hình ASK
Thông thường khi tiếp cận về năng lực nghề nghiệp cá nhân người ta nhắc đến ASK.
ASK là ba yếu tố về năng lực nghề nghiệp cá nhân mà mỗi cá nhân có thể đánh giá mình
thông qua năng lực làm việc trong một thị trường lao động. Năng lực cá nhân là nền tảng
cho bất kỳ cá nhân nào trong xã hội. Các năng lực cá nhân được hiểu là những tố chất
hay những khả năng thiên phú của mỗi cá nhân có được. Các năng lực cá nhân này sẽ
giúp cho mỗi cá nhân có được những kiến thức tốt hơn, thái độ tốt hơn và những kỹ năng
hoàn thiện hơn trong giai đoạn học tập và làm việc sau này
ASK được viết tắt của Knowledge- Kiến thức, Attitude- Thái độ và Skills – kỹ năng. Mỗi
cá nhân sẽ có sở hữu ASK tại các mức độ khác nhau tùy vào trình độ học vấn, nguồn lực
cá nhân, hoàn cảnh môi trường và một yếu tố quan trọng nhất đó là các năng lực cá nhân.

Attitude - Thái độ là cách nhìn nhận về công việc, về nhiệm vụ, về đồng nghiệp và về
cộng đồng . Thái độ chi phối cách ứng xử, hành vi và tinh thần trách nhiệm. Thái độ là

55
điều kiện tiên quyết cho sinh viên để có thể hoàn thành các kỹ năng còn lại. Sinh viên cần
rèn luyện những thái độ sau tại trường đại học

- Tinh thần ham học hỏi: coi việc học là việc suốt đời
- Chịu trách nhiệm cho những sai lầm cá nhân
- Chăm chỉ, kiên nhẫn, Có trách nhiệm với công việc
- Có trách nhiệm với gia đình và cộng đồng
- Có khả năng lắng nghe
- Chính trực không gian dối
- Có khả năng chịu khó sẵn sàng đường đầu với khó khăn
- Đúng giờ, tác phong chuyên nghiệp

Skills - Về kỹ năng, đây chính là năng lực thực hiện các công việc, biến kiến thức thành
hành động. Kỹ năng mềm là các kỹ năng mà bất kỹ nghề nghiệp nào cũng cần thiết cho
việc làm việc mới mọi người xung quanh và giải quyết các tình huống trong cuộc sống.
Tổng hợp các nghiên cứu của các nước và thực tế VN, 10 kỹ năng sau là căn bản và quan
trọng hàng đầu cho người lao động trong thời đại ngày nay:

- Kỹ năng học tập (longlife learning)


- Kỹ năng lãnh đạo bản thân và hình ảnh cá nhân (Self leadership & Personal
branding)
- Kỹ năng tư duy sáng tạo (Creative skills)
- Kỹ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc (Planning and organising skills)
- Kỹ năng phản biện (Critical thinking skills)
- Kỹ năng thuyết trình (Presentation skills)
- Kỹ năng giao tiếp và ứng xử (Communication skills)
- Kỹ năng giải quyết vấn đề (Problem solving skills)
- Kỹ năng làm việc đồng đội (Teamwork)
- Kỹ năng đàm phán (Negotiation skills)

56
Knowledge - Kiến thức được hiểu là những năng lực về thu thập tin dữ liệu, năng lực
hiểu các vấn đề (comprehension), năng lực ứng dụng (application), năng lực phân tích
(analysis), năng lực tổng hợp (synthethis), năng lực đánh giá (evaluation). Đây là những
năng lực cơ bản mà một cá nhân cần hội tụ khi tiếp nhận một công việc. Công việc càng
phức tạp thì cấp độ yêu cầu về kiến thức càng cao:

- Kiến thức về chuyên ngành đặc biệt mình học


- Kiến thức về quản lý và kinh doanh
- Kiến thức xã hội kinh tế chính trị xã hội, nghệ thuật, lịch sử, văn hóa

Trong 5 năm học đại học, sinh viên chỉ có 3 năm học các môn chuyên ngành và cơ sở
ngành. Với tốc độ phát triển đô thị, của khoa học kỹ thuật hiện nay, không ai có thể nói
rằng với từng ấy năm học đại học sẽ có đủ kiến thức cho chúng ta dùng cả đời, cũng
không ai có thể nói rằng với 3,5 năm học ấy cho chúng ta hiểu tường tận tất cả các khía
cạnh của hoạt động nghề nghiệp.

2.3.2. Thái độ tích cực thay đổi cuộc đời


Thông thường chúng ta nghĩ rằng những người có khả năng như thông minh sẽ thành
công trong cuộc sộng.. Đúng là như vậy nhưng điều đó chỉ diễn ra khi mọi việc có vẻ dễ
dàng. Sự thật các yếu tố quyết định trong cuộc sống lại là làm thế nào để bạn xử lý những
trở ngại và thách thức và thái độ của bạn đối với sự việc.

Khi nói đến thành công, thật dễ dàng khi mọi người có suy nghĩ rằng những người may
mắn có bộ não tốt hơn chắc chắn sẽ bỏ xa phần còn lại trong chúng ta. Bất cứ ai trong
chúng ta cũng khao khát có được một cuộc sống đầy cảm hứng, hạnh phúc và thành công.
Tuy nhiên, để đạt được những gì bạn thật sự mong ước, tất cả đều phải xuất phát từ việc
nhận ra sự quan trọng và tìm được cho mình một thái độ sống thông minh và tích cực
nhất.

57
Một thái độ sống tích cực sẽ giúp bạn luôn lạc quan, yêu đời, tự tin để nhẹ nhàng lướt qua
mọi gian nan, thử thách trong cuộc sống. Ngược lại, một thái độ sống tiêu cực sẽ đóng
chặt bạn vào những suy nghĩ, cách nhìn phiến diện, vị kỷ, tự ti, đau khổ và dễ dàng dẫn
đến thất bại, bất hạnh. Thái độ của bạn ảnh hưởng tới mọi khía cạnh trong cuộc sống và
quyết định kết quả của mọi việc bạn làm.

Chúng ta ai cũng ít nhất một đôi lần mắc phải những sai lầm, gặp thất bại, hay ở một
trạng thái tinh thần chán nản tồi tệ – nhưng không vì thế mà chúng ta mãi bị ám ảnh, day
dứt mà không bao giờ dám tin mình sẽ khác đi hay không dám làm một điều gì cả. Chính
thái độ sống của chúng ta sau những va vấp ấy sẽ quyết định: Liệu chúng ta có cho phép
mình trượt dài trên những thất bại triền miên hay sự va vấp ấy sẽ chính là một cơ hội, một
bài học, một trải nghiệm quý báu để chúng ta vươn lên, vững vàng và hoàn thiện mình
hơn?

Có thể hiểu một cách ngắn gọn về tư duy tích cực như sau: ‘Một đầu óc tích cực luôn đề
cập đến sự vui sướng, hạnh phúc, lành mạnh và kết quả thành công trong mọi tình huống,
mọi hành động.

58
Hình ảnh nữa ly nước gợi cho bạn về suy nghĩ: Ly nước đã vơi đi một nữa hay ly nước
chỉ mới đầy một nữa? Nếu điều bạn nhìn thấy ở ly nước là nó đã đầy một nửa, thì bạn là
người lạc quan và tràn đầy hy vọng đối với cuộc sống. Còn những người thấy ly nước đã
bị vơi đi một nửa, không còn đầy đủ là những người có xu hướng bi quan hơn trong cuộc
sống và gặp khó khăn với những vấn đề xảy ra xung quanh mình.

Một người thất tình có thể tự dằn vặt bản thân: “Cô ta lừa dối tôi, cô ta phản bội tôi, cô ta
lợi dụng tôi”. Nếu là bạn của người đó, tôi sẽ khuyên anh ta hãy học cách quên điều này
đi mỗi khi vô tình hoặc cố tình nhớ đến, vì bây giờ nó chỉ là chuyện của cô ta mà thôi.
Hãy nhìn vào thực tế vấn đề và nếu không đơn giản hóa nó được thì ít ra đừng phức tạp
nó thêm. Một người nếu đã rèn được cho mình lối tư duy tích cực sẽ có thể đối mặt với
vấn đề này theo cách đại lọai như là: “Thật may mắn vì tôi cũng đã từng có được những
tháng ngày hạnh phúc” hoặc “Chúng tôi đã có một thời thật đẹp”.

Quy luật chúng ta hay gọi là “luật hấp dẫn”:

- Nếu bạn nghĩ rằng bạn là một người bất tài, vô dụng thì quả thật bạn sẽ ngày càng trở
nên bất tài và vô dụng.

59
- Nếu bạn cảm thấy rằng bệnh bạn đang mắc phải là hết sức nặng nề và mệt mỏi, bạn sẽ
ngày càng mệt mỏi và suy sụp với cơn cảm cúm này.

- Nếu chúng ta hay nghĩ rằng mình thường xuyên bị thất bại thì gặp chuyện gì bạn cũng
thất bại.

Chúng ta có thể làm quen với mô hình 3C (Commitment, Control and Challenge – Cam
kết, Quản lý và Thử thách) giúp chúng ta vượt bỏ các trở ngại và cảm xúc tiêu cực đồng
thới phát huy tư duy tích cực:

- Commitment - Cam kết: đặt ra một cam kết tích cực cho bản thân bạn, cho việc học
hành của bạn, cho công việc của bạn hoặc cho bất cứ việc gì khác và hãy thực hiện việc
đó một cách nhiệt tình và say mê.

Ví dụ:

Tôi sẽ tập thể dục mỗi ngày 1 giờ để tăng cường sức khỏe cho mình.

60
Tôi sẽ học cách dùng Mindmap để ghi cho bài giảng của tôi vào học kỳ này.

Tôi sẽ quan tâm ít nhất một bạn trong lớp trong năm học này.

- Control – điều khiển: luôn tập trung đầu óc của bạn vào những việc quan trọng và có ý
nghĩa. Đưa ra các mục tiêu và tính ưu tiên cho mỗi việc bạn nghĩ và làm. Hãy luôn thành
thật với bản thân, kiểm tra xem bạn đã làm được gì và chưa làm được gì trong các mục
tiêu đã đề ra.

- Challenge – thử thách: Luôn giữ đầu óc hướng đến các suy nghĩ tích cực, mỗi khi phát
hiện các suy nghĩ tiêu cực đang bắt đầu xâm chiếm đầu óc mình, hãy nhanh chóng thay
thế chúng bằng các suy nghĩ tích cực. Thử thách: Hãy can đảm thay đổi những thói quen,
suy nghĩ tiêu cực của mình mỗi ngày. Hãy tập cách nhìn việc học và những sự thay đổi là
các cơ hội cho bạn. Hãy thử làm điều khác điều mình vẫn làm thường ngày, hãy nhìn ra
nhiều lựa chọn khác nhau cho mỗi sự việc.

Dù thời điểm hiện tại, bạn đang là người giàu hay người nghèo, thì bạn cũng đều
cần sống tốt hơn mỗi ngày, hãy lưu ý những câu nói sau:
1. Học cách tự vui vẻ
Cuộc đời là của bạn, tâm trạng cũng là của bạn. Hoàn cảnh có thể không vui nhưng bạn
có thể thay đổi được tâm trạng của mình phải không?

2. Học cách tự chăm sóc chính bản thân mình


Không ai có thể nâng đỡ, chăm sóc được bạn cả cuộc đời. Hãy tự biết chăm sóc bản thân
để thấy được giá trị của mình.

3. Học cách từ bỏ nỗi đau


Tình yêu làm cho người ta quên đi thời gian và thời gian làm người ta quên đi tình yêu.
Đừng để quá nhiều “ngày hôm qua” chiếm hữu “ngày hôm nay” của bạn.

4. Học cách coi nhẹ được mất

61
Trên thế giới này, kỳ thực ngoài sinh mệnh của mình ra thì không còn có gì quan trọng,
đáng để bạn lạc lối cả.

5. Học thiện lương


Thiện lương là nền tảng, cốt lõi để làm người. Đừng vì danh lợi mà để mất đi bản tính
của mình.

6. Học khoan dung


Phụ nữ không phải vì xinh đẹp mới khả ái mà là vì khả ái nên mới xinh đẹp. Một chút
khoan dung độ lượng có thể khiến người khác cảm kích cả đời.

7. Học được quý trọng


Đời người nhìn thì tưởng là xa nhưng thực ra lại rất ngắn. Hãy quý trọng tất cả mọi người
xung quanh mình, đừng để lưu lại sự hối tiếc khi đã quá muộn.

2.3.3. Thúc đẩy bản thân bằng cách tìm ra các nguồn cảm hứng trong cuộc sống

Đạt được mục tiêu không phải là vấn đề khả năng mà là vấn đề thúc đẩy bản thân tập
trung vào điều đúng. Người ta thường nói động lực không kéo dài, sau đây là 10 cách nạp
lại động lực, chúng ta phải thực hiện chúng một cách thường xuyên.
- Tìm và sử dụng giọng nói lạc quan của bạn: Hãy nói với chính mình lần này đến lần
khác rằng bạn có thể làm được.
- Dành thời gian với những người truyền cảm hứng cho bạn
- Tự khen thưởng mình: Hãy tự khen mình về tất cả những gì mà bạn đã làm được. Viết
ra những thành công trong cuốn sổ theo dõi, bạn sẽ ngạc nhiên và cảm thấy hạnh
phúc khi xem lại kết quả của mình.
- Coi thất bại như một kinh nghiệm học hỏi tích cực: Đừng cho rằng những lần thất bại
và sai lầm là dấu hiệu cho thấy tiềm năng tương lai của bạn, mà phải coi đó là một

62
quá trình trưởng thành. Khi bạn gặp khó khăn, bạn hãy hít một hơi thật dài, và biết
rằng đa số những điều tuyệt vời đến khi bạn ít mong đợi nhất.
- Duyệt lại và phân tích các mục tiêu : Hãy đảm bảo các mục tiêu thật sự là của bạn và
phù hợp với các giá trị của bạn. Nếu đặt mục tiêu hơi quá dễ đạt, nhiều khả năng, bạn
sẽ đạt ít hơn nhiều so với khả năng của mình.
- Hình dung kết quả thành công chi tiết : Phương pháp tưởng tượng cũng là một động
lực tuyệt vời, nó giống như dán những thứ nhắc nhở cụ thể khắp xung quanh. Mục
đích là giữ cho tâm trí bạn tập trung vào kết quả cuối cùng và duy trì sự sôi nổi trong
bạn.
- Dành thời gian để tìm hiểu môt một sở thích nào đó: Mỗi ngày hãy dành thời gian
tương đối để làm cái gì đó mà bạn thích, cái bạn thật sự đam mê, vì niềm đam mê là
một phần cuộc sống của bạn, hãy nghỉ giải lao và thực hiện. Rồi cả động lực lẫn hạnh
phúc của bạn sẽ vút lên.
Trong cuộc sống, có những con người mới sinh ra đã kém may mắn hơn những người
khác khi họ khuyết đi một bộ phận nào đó trên cơ thể, hoặc không thể sống như những
người bình thường khác. Nhưng vượt lên trên những hoàn cảnh đó, có những người đã
làm lên những điều phi thường bằng chính nghị lực và tình yêu dành cho cuộc sống, và
họ đã đạt được những thành quả khiến cả nhân loại phải kính phục…

10 tấm gương tiêu biểu cho những nghị lực thép biết vượt lên trên số phận:

Nhà soạn nhạc Beethoven:

Nhạc sĩ thiên tài Beethoven bị khiếm thính nhưng vẫn để lại cho đời những tác phẩm âm
nhạc tuyệt vời. Giáo sư Stephen Hawking bị khuyết tật nhưng vẫn có nhiều đóng góp lớn
cho vật lý lý thuyết thế giới. Beethoven (17/12/1770 – 26/3/1827) là nhà soạn nhạc cổ
điển người Đức. Hồi nhỏ, ông bị khiếm thính, sau đó bị điếc hoàn toàn. Tuy vậy, ông vẫn
trở thành một nhà soạn nhạc vĩ đại, nổi tiếng thế giới. Ông là hình tượng âm nhạc quan
trọng trong giai đoạn giao thời, từ thời kỳ âm nhạc cổ điển sang âm nhạc lãng mạn.
Beethoven được coi là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất và có ảnh hưởng tới rất

63
nhiều nhà soạn nhạc, nhạc sỹ và khán giả về sau.

Giáo sư vật lý Stephen Hawking

Stephen William Hawking là nhà vật lý người Anh, là “ông hoàng” vật lý lý thuyết của
thế giới. Hawking mắc bệnh thần kinh có tên Lou Gehrig, khiến ông gần như mất hết khả
năng cử động. Sau đó, ông phẫu thuật cắt khí quản và không thể nói chuyện bình thường.
Ông luôn gắn chặt với chiếc xe lăn, chỉ có thể nói được qua một thiết bị tổng hợp tiếng
gắn với một máy tính mà ông gõ chữ vào đó. Hawking hiện là Giáo sư Lucasian, chức
danh dành cho Giáo sư Toán học của Đại học Cambridge. Từng đảm nhiệm vị trí này là
những nhà khoa học xuất chúng như Isaac Newton và Paul Dirac.
Sudha Chandran

Sudha Chandran sinh năm 1964, là tấm gương sáng về tinh thần vượt lên số phận, khuyết
tật của bản thân. Cô từng tốt nghiệp khoa kinh tế của Đại học Mithibai ở Mumbai, Ấn
Độ; sau đó lấy bằng thạc sĩ. Trong một tai nạn giao thông năm 1981, cô bị mất chân phải
nhưng không thể đẩy lùi tinh thần thép của cô. Sau sự cố, cô phấn đấu trở thành một
trong những vũ công xuất sắc nhất ở Ấn Độ, liên tục được mời tới các chương trình biểu
diễn. Không chỉ là vũ công, cô còn thường xuyên xuất hiện trong các chương trình truyền
hình của Ấn Độ.

Patrick Henry Hughes

Patrick Henry Hughes sinh ngày 10/3/1988 tại Louisville, Kentucky (Mỹ). Từ khi chào
đời, Hughes không có mắt, tay chân không thể duỗi thẳng khiến cậu không thể đi được
như người bình thường. Hughes được bố cho tiếp cận với piano từ lúc 9 tháng tuổi, sau
đó là kèn. Truyền thông biết đến cậu bé khuyết tật này năm 2006 khi đang là sinh viên
Đại học Louisville. Hôm đó, cậu chơi kèn khi ngồi trên xe do cha cậu đẩy. Tài năng của
cậu từ ngày đó được nhiều người biết tới, được mời biểu diễn ở nhiều nơi trong cả nước.

64
Liz Murray

Elizabeth Murray sinh năm 1980 trong một gia đình mà cả bố và mẹ đều dính căn bệnh
thế kỷ AIDS. Năm 15 tuổi, mẹ qua đời vì bệnh tật, cha phải chuyển đến khu tạm trú cho
những người vô gia cư. Không nhà cửa, không cha mẹ nhưng cô gái vượt lên số phận.
Hàng đêm, cô vẫn tìm ra nơi có ánh sáng để đọc sách. Chăm chỉ làm việc cộng với tinh
thần vượt khó, cuối cùng cô có tên trong danh sách nhập học của Đại học Harvard. Sau
này cô trở thành giám đốc của một công ty.

Randy Pausch

Randy Pausch (23/10/1960 – 25/7/2008) là giáo sư người Mỹ về khoa học máy tính tại
Đại học Carnegie Mellon, Pennsylvania (Mỹ). Năm 2006, ông bị chẩn đoán ung thư
tuyến tụy và chỉ sống được trong thời gian ngắn nữa. Đến 25/7/2008 ông qua đời. Điều
làm nên tên tuổi của ông là bài giảng về cách đạt ước mơ từ thời thơ ấu, có tên là Bài
giảng Cuối cùng ngày 18/9/2007 tại Đại học Carnegie Mellon. Bài thuyết trình của ông
được hàng triệu người theo dõi trên Internet và sau này được viết thành sách. Cuốn sách
được dịch ra 35 thứ ngôn ngữ khác nhau.

Sean Swarner

Khi 10 tuổi, anh bị chuẩn đoán ung thư phổi nhưng với nỗ lực không tưởng, anh là bệnh
nhân ung thư phổi duy nhất trên thế giới leo được lên đỉnh Everest. Tinh thần vượt lên
trên bệnh tật của anh hé mở nhiều hy vọng cho các bệnh nhân ung thư khác.

Jessica Cox

Cô gái người Mỹ sinh năm 1983, Jessica Cox, là phi công đầu tiên trên thế giới chỉ dùng
chân lái máy bay. Từ lúc sinh ra Jessica Cox đã thiệt thòi, không có tay. Tuy nhiên, sự

65
thiếu may mắn ấy không cản nổi ý chí, quyết tâm đạt được khát vọng của mình. Từng tốt
nghiệp ngành tâm lý học, biết võ Taekwondo, yêu lái xe tốc độ, Jessica còn gõ máy tính
bằng chân rất nhanh: 25 từ/phút.

Nhà văn Helen Keller


Helen Keller (27/6/1880 – 1/6/1968) là một nhà văn, nhà hoạt động xã hội mù, điếc
người Mỹ. Bà là người mù điếc đầu tiên trên thế giới tốt nghiệp một trường cao đẳng.
Tuy sống trong thế giới không ánh sáng, không âm thanh nhưng Keller vẫn là một phụ nữ
tràn đầy tinh thần lạc quan, thiết tha yêu cuộc sống. Trong Thế chiến thứ I và thứ II, bà
đến hơn 70 bệnh viện để an ủi bệnh nhân, động viên họ. Bà dành trọn cuộc đời cho Hội
người mù Mỹ.

Nick Vujicic

Nick Vujicic sinh năm 1982, là người Australia. Từ khi sinh ra, anh bị khuyết tật: không
chân, không tay. Bằng ý chí và nghị lực phi thường, Nick vươn lên và tự khẳng định
mình trong cuộc sống. Anh tốt nghiệp đại học khoa tài chính kế toán và trở thành diễn giả
nổi tiếng về chủ đề làm chủ cuộc sống. Nick đang sống tại Mỹ.

66
2.4. Trắc nghiệm MBTI
Phân loại tính cách MBTI (Myers-Briggs Type Indicator) được phát triển gần 60 năm
trước đây bởi Katharine Cook Briggs cùng con gái của bà – Isabel Briggs. Sau nhiều năm
được nghiên cứu và phát triển thêm, MBTI được xem là công cụ phân loại tính cách
chính xác nhất và được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. MBTI đã được dịch ra gần 78
ngôn ngữ và cứ mỗi năm trên thế giới lại có hàng triệu người làm trắc nghiệm MBTI để
hiểu thêm về tính cách của bản thân.
Nói đến tính ứng dụng của MBTI, tạp chí All Business đã nhận định: “Đánh giá nhân
viên là việc làm rất cần thiết đối với các nhà quản lý doanh nghiệp. Song đây là vấn đề
nhạy cảm, tế nhị khiến các nhà quản lý luôn cảm thấy e ngại, nhất là khi họ phải đưa ra
những nhận xét không mấy tích cực. Bên cạnh đó hiểu biết về loại tính cách MBTI sẽ
giúp bạn hiểu rõ bản thân mình hơn, lý giải được câu hỏi tại sao mình có xu hướng hành
động khác những người khác.
MBTI cũng sẽ giúp bạn thành công hơn trong những mối quan hệ nhờ thấu hiểu và thông
cảm được với suy nghĩ và hành động của những người xung quanh mình, từ đó có cách
ứng xử phù hợp và khéo léo nhất. Bên cạnh đó, MBTI cũng là một trong những công cụ
giúp bạn định hướng nghề nghiệp phù hợp với bản thân cũng như xác định nhữngđính
hướng tương laic ho mình. MBTI đưa ra bốn chỉ số đánh giá cách suy nghĩ và phản ứng
của mỗi người, đó là:
- Khuynh hướng tự nhiên: hướng nội/hướng ngoại
- Cách thức nhận diện thế giới: tổng hợp/cụ thể
- Cách thức quyết định: dựa trên lý trí/tình cảm
- Cách thức nhìn về tương lai: có kế hoạch/thích nghi với hoàn cảnh.

67
4 Khuynh hướng tự nhiên

MBTI là phương pháp dùng để phân loại tính cách con người với 4 tiêu chí:
v XU HƯỚNG TỰ NHIÊN: Extraversion (Hướngngoại)/ Introversion
(Hướng nội): Đây là 2 xu hướng đối lập thể hiện xu hướng ứng xử với thế giới bên
ngoài.
- Hướng ngoại – hướng về thế giới bên ngoài gồm các hoạt động, con người, đồ vật
- Hướng nội - hướng vào nội tâm, bao gồm ý nghĩ, tư tưởng, trí tưởng tượng

v TÌM HIỂU VÀ NHẬN THỨC THẾ GIỚI: Sensing (Giác quan)/ iNtuition (Trực
giác): Đây là 2 xu hướng đối lập nhau về cách chúng ta tiếp nhận thông tin từ thế
giới bên ngoài.
- Trung tâm “Giác quan” trong não bộ chú ý đến các chi tiết liên quan đến hình
ảnh, âm thanh, mùi vị… của hiện tại được đưa đến từ 5 giác quan của cơ thể. Nó
phân loại, sắp xếp và ghi nhận những chi tiết của các sự kiện thực tế đang diễn ra.
Nó cũng cung cấp các thông tin chi tiết của các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ.

68
- Trung tâm “Trực giác” của não bộ chịu trách nhiệm tìm hiểu, diễn dịch, và hình
thành cácmô hình từ thông tin thu thập được; sắp xếp các mô hình và liên hệ
chúng với nhau. Nó giúp cho não bộ suy đoán các khả năng và tiên đoán tương lai.
v QUYẾT ĐỊNH VÀ CHỌN LỰA: Thinking (Lý trí) / Feeling (Tình cảm)
Đây là 2 xu hướng đối lập về cách chúng ta đưa ra quyết định và lựa chọn của
mình.
- Phần lý trí trong não bộ con người phân tích thông tin một cách khách quan, làm
việc dựa trên đúng/sai, suy luận và đưa ra kết luận một cách có hệ thống. Nó là
bản chất logic của con người.
- Phần cảm giác của não bộ đưa ra quyết định dựa trên xem xét tổng thể; yêu/ghét;
tác động qua lại lẫn nhau; và các giá trị nhân đạo hay thẩm mỹ. Đó là bản chất chủ
quan của con người.
v CÁCH THỨC HÀNH ĐỘNG: Judging (Nguyên tắc) / Perceiving (Linh hoạt):
Đây là cách thức mà mỗi người lựa chọn để tác động tới thế giới bên ngoài.
- Nguyên tắc: tiếp cận thế giới một cách có kế hoạch, có tổ chức, có chuẩn bị, quyết
định và đạt đến một kết cục rõ rang
- Linh hoạt: tiếp cận thế giới một cách tự nhiên, tìm cách thích nghi với hoàn cảnh,
thích một kết cục bỏ ngỏ, chấp nhận những cơ hội mới, và chấp nhận thay đổi kế
hoạch.

I E

Suy nghĩ và cân nhắc kỹ lưỡng trước Hành động trước hết, suy nghĩ và cân
khi hành động nhắc sau
Cần có một khoảng thời gian riêng tư Cảm thấy khổ sở nếu bị cách ly với thế
đáng kể để nạp năng lượng giới bên ngoài
Hứng thú với đời sống nội tâm, đôi khi Hứng thú với con người và sự việc xung

69
tự cô lập với thế giới bên ngoài quanh
Thích nói chuyện riêng tư 2 người. Quảng giao, thích tiếp xúc với nhiều
Hiếm khi chủ động xin ý kiến của người người
khác Dễ bắt chuyện

S N

Hay nghĩ đến tương lai


Sống với hiện tại
Sử dụng trí tưởng tượng, hay sáng tạo
Thích các giải pháp đơn giản và thực tế
ra những khả năng mới
Có trí nhớ tốt về các chi tiết của những
Thường chỉ nhớ đến ý chính và các mối
sự kiện trong quá khứ
liên hệ
Giỏi áp dụng kinh nghiệm
Giỏi vận dụng lý thuyết
Thoải mái với những thông tin rõ ràng
Thoải mái với sự nhập nhằng, hay
và chắc chắn
những thông tin không rõ rang

T F

Luôn tìm kiếm sự kiện và tính logic để Xem xét cảm xúc cá nhân và ảnh hưởng
đưa ra kết luận của một quyết định lên người khác
Có xu hướng để tâm đến các nhiệm vụ, trước khi đưa ra quyết định đó.
công việc cần phải hoàn thành Nhạy cảm với những nhu cầu và phản
Dễ dàng đưa ra những phân tích thấu ứng của người khác.
đáo và khách quan Tìm kiếm sự nhất trí và ý kiến của số
Chấp nhận xung đột là một phần tự đông.
nhiên trong mối quan hệ giữa người với Khó xử khi có xung đột; hoặc có phản
người. ứng tiêu cực khi xảy ra bất hòa.

J P

Có kế hoạch chu đáo trước khi hành Có thể hành động mà không cần lập kế

70
động hoạch; lập kế hoach tùy theo tình hình
Tập trung vào các hoạt động có tính Thích làm nhiều việc cùng lúc, thích sự
nhiệm vụ, hoàn tất các công đoạn quan đa dạng, có thể vừa làm vừa chơi
trọng trước khi tiếp tục Chịu sức ép tốt, làm việc hiệu quả nhất
Làm việc tốt nhất và không bị stress khi khi công việc gần hết hạn
hoàn thành công việc trước thời hạn Tìm cách tránh né cam kết nếu nó ảnh
Tự đặt ra mục tiêu, thời hạn, và các hưởng đến sự linh động, sự tự do và da
chuẩn mực để quản lý cuộc sống đạng của bản thân

Từ đó, MBTI đã đưa ra 16 nhóm tính cách với những năng khiếu, sở thích và lĩnh vực
nghề nghiệp khác nhau, trở thành một chỉ số tham khảo về nghề nghiệp và khả năng làm
việc nhóm đáng tin cậy nhất hiện nay. Cũng theo đánh giá của tạp chí All Business:
“Việc bộc lộ những điểm mạnh và điểm yếu của mỗi người theo một khuôn mẫu được
thiết lập như kiểu MBTI sẽ cung cấp các chỉ dẫn, đường lối cho môi trường làm việc, qua
đó đẩy mạnh lòng tin và sự cộng tác giữa các nhân viên. Mọi người sẽ nhanh chóng nhận
ra không dạng tính cách nào tốt hơn dạng tính cách nào - giữa chúng chỉ có sự khác nhau.
MBTI cũng cho các nhân viên thấy làm thế nào để sự khác biệt của từng cá thể có thể tạo
ra thành công chung của tập thể”.
Trước khi thực hiện bài test MBTI ở phần phụ lục các bạn cần lưu ý:
- Trắc nghiệm MBTI không phải là một thước đo chấm điểm mỗi cá nhân.
- Không có loại tính cách nào là tốt nhất.
- Mỗi loại tính cách đều có điểm mạnh, điểm yếu, đều có thể mắc sai lầm cũng như
làm được những điều vĩ đại.

71
CHƯƠNG 3:
KỸ NĂNG LẬP KẾ HOẠCH NGHỀ NGHIỆP

A. MỤC TIÊU
Sau khi học xong chương này, sinh viên có thể:
- Phát biểu được Tầm nhìn, Sứ mệnh và Giá trị cốt lõi của mỗi cá nhân.
- Có khả năng phân tích được những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân. Biết kết
hợp với các yếu tố thuận lợi và bất lợi để phân tích SWOT cho bản thân.
- Thực hành phân tích SWOT cho bản thân để lựa chọn nghề nghiệp phù hợp và lập
kế hoạch nghề nghiệp hợp lý.
- Có khái niệm đúng đắn về hạnh phúc và thành công trtong cuộc sống để luôn cảm
thấy cân bằng.

B. NỘI DUNG
3.1 Tầm nhìn, Sứ mệnh và Giá trị cốt lõi của mỗi cá nhân
Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài thì cần có một tầm nhìn, sứ mệnh và giá
trị cốt lõi cho riêng mình. Tương tự, cá nhân cũng cần xây dựng cho mình một hệ thống
tầm nhìn, sứ mệnh và giá trị cốt lõi để từ đó bản thân định hình và có hướng đi rõ ràng,
giúp vượt qua các khó khăn và đạt đến mục tiêu trong cuộc sống. Đây là kim chỉ nam
trong cuộc đời và định hình giá trị sống của mỗi cá nhân.

3.1.1. Tầm nhìn (Vision)


Tầm nhìn là hướng đi, là bức tranh hấp dẫn nhưng có thể đạt được trong tương lai. Một
tầm nhìn được xem là có tính hiệu quả khi nó bao gồm các đặc tính sau đây:
• Truyền cảm hứng

72
• Rõ ràng và sống động
• Thể hiện một tương lai tốt đẹp hơn

“Những nhà lãnh đạo kinh doanh tốt tạo ra tầm nhìn, xác định rõ tầm nhìn, mạnh
mẽ nắm lấy tầm nhìn và không ngừng thúc đẩy nó tới khi hoàn thiện.”

Thomas Hardy

4 bước xây dựng tầm nhìn cá nhân:


• Bước 1: Chọn khung thời gian
Bạn dự định tầm nhìn bao xa? Không có câu trả lời nào đúng hay sai cho vấn đề
này. Nhưng nhìn chung, để tạo ra tầm nhìn, tốt nhất bạn hãy hướng về một tương
lai đủ xa để thoát khỏi mọi vấn đề hiện tại và đủ thời gian phát triển.
Nhà quản trị Charles Noble nhận xét: “Tầm nhìn xa sẽ giúp bạn tránh khỏi sự nản
lòng vì thiếu khả năng nhận thức”
• Bước 2: Soạn bản nháp đầu tiên
Bạn có thể soạn thảo tầm nhìn theo cách của bạn – gạch đầu dòng, viết tay, hay
trên máy tính. Có người thích vẽ ra tầm nhìn rồi giải thích những gì họ vẽ. Đây chỉ
là bản nháp, do đó đừng quá chi tiết và đặt áp lực, cứ để tự do suy nghĩ và đưa ra
theo quan điểm mình.
• Bước 3: Xem và soạn thảo lại
Khi bạn soạn xong, hãy đọc và xem xét lại bản nháp từ đầu đến cuối. Đừng xóa
phần nào. Bạn có rất nhiều thời gian để chỉnh sửa nội dung, câu chữ. Luôn đặt các
câu hỏi trong đầu như “Tầm nhìn này nghe có gây cảm hứng không?”, “Có hứng
khởi gì khi đọc nó không?”
Bạn viết thông điệp càng nhiều chi tiết càng tốt – nó giúp cho tầm nhìn của bạn
thực tế hơn. Đừng bao giờ dùng những câu mơ hồ như “Chúng ta sẽ thành công ty
lớn trên thị trường”, thay vào đó, bạn hãy sử dụng những con số thực sự có ý
nghĩa.

73
• Bước 4: Nhờ sự trợ giúp
Đây là lúc bạn cần tìm người thực sự tin tưởng và tôn trọng. Nhờ người khác góp
ý sẽ giúp tầm nhìn của bạn có tính thực tế và khả thi hơn. Lưu ý, người giúp đỡ
phải thực sự hiểu bạn và khách quan trong việc xem xét cũng như đưa ra quan
điểm.

✍ THỰC HÀNH

Hãy xây dựng tầm nhìn của bạn theo bốn bước trên

3.1.2. Sứ mệnh (Mission)


Sứ mệnh là lý do để mỗi con người tồn tại. Sứ mệnh cần xúc tích, ngắn gọn và giải thích
lý do cá nhân tồn tại để làm gì và sẽ làm gì.

Xây dựng sứ mệnh giúp cho mỗi cá nhân xác định những yếu tố quan trọng và định
hướng rõ ràng trước khi xác định việc làm phù hợp. Nó cũng giúp người tìm việc có được
niềm tin và các giá trị của riêng mình, cũng như giúp họ tìm được các doanh nghiệp có
cùng giá trị để đồng hành và phát triển.

Sứ mệnh thường phải đáp ứng các tiêu chí sau:


• Rõ ràng và dễ hiểu;
• Ngắn gọn và cô đọng;
• Chỉ ra được tại sao ta làm việc đó và lý do tồn tại của ta là gì;
• Phải đưa ra được định hướng cho các hoạt động thích hợp và không quá hẹp;
• Phải thể hiện được các cơ hội và chỉ ra được cái mà xã hội nhớ đến ta;
• Phù hợp với các khả năng riêng có của ta;
• Phải thấy được cam kết của mình.

“Sứ mệnh chân chính của con người là sống, chứ không phải là tồn tại.”

Jack London

74
Sự khác biệt giữa tầm nhìn và sứ mệnh

Tầm nhìn Sứ mệnh

Tầm nhìn hoạch định bạn muốn đi Sứ mệnh là LÀM THẾ NÀO bạn đi
ĐẾN ĐÂU. Đó là mối giao thoa được đến đâu bạn muốn. Xác định mục
Là gì
giữa giá trị và mục đích. đích và những mục tiêu chính liên
quan đến giá trị của mỗi cá nhân

Nó trả lời câu hỏi “Ta nhắm mục Nó trả lời câu hỏi “Ta làm gì? Điều gì
Trả lời
tiêu đến đâu?” làm cho ta khác biệt?”

Thời Tầm nhìn nói về tương lai. Sứ mệnh nói về hiện tại hướng đến
gian tương lai.

Tầm nhìn: Lập bảng danh sách mà Sứ mệnh: Lập bảng danh sách những
bạn có thể thấy bạn ở đâu trong mục tiêu rộng từ đó hình thành lên mỗi
Chức
những năm tới. Nó thúc đẩy bạn cá nhân. Chức năng chính của nó là
năng
làm việc nỗ lực nhất. hướng nội, để xác định những biện
pháp thành công.

Hiếm khi thay đổi Sứ mệnh có thể thay đổi, nhưng phải
Thay đổi luôn đi sát vào giá trị cốt lõi và tầm
nhìn.

Ta đang hướng đến đâu? Khi nào Ta đang làm gì bây giờ? Làm cho ai?
Mục
bạn muốn đạt được đích đến đó? Lợi ích là gì? Nói cách khác, Tại sao ta
đích
Ta muốn làm nó như thế nào? làm, Cái gì, Cho ai và Tại sao?

5 bước xây dựng sứ mệnh:


• Bước 1: Liệt kê các thành tích trong quá khứ

75
Hãy nghĩ về những gì bạn đã và đang làm, sau đó, viết một bảng danh sách khoảng
bốn đến năm thành tựu tích cực đã đạt được. Nó có thể là những thành tích trong
công việc, trong xã hội hoặc gia đình.
Sau đó, hãy xác định giá trị cốt lõi chung của các thành tích này
• Bước 2: Xác định các giá trị cốt lõi
Liệt kê danh sách các giá trị cốt lõi mà bạn hướng đến hoặc phấn đấu đạt được.
Danh sách này không giới hạn số lượng. Sau đó, hãy chọn lọc khoảng năm giá trị
cốt lõi mà bạn tâm đắc và cho rằng rất quan trọng. Cuối cùng, hãy chọn một giá trị
cốt lõi mà bạn cho rằng quan trọng nhất.
• Bước 3: Xác định những giá trị ích lợi của bạn
Liệt kê danh sách các cách thức bạn có thể mang đến sự khác biệt. Lý tưởng nhất,
bạn có thể đóng góp gì cho:
- Thế giới (nói chung)
- Gia đình
- Cấp trên và đồng nghiệp
- Bạn bè
- Cộng đồng xung quanh
• Bước 4: Xây dựng mục tiêu
Dành một chút thời gian để xây dựng các ưu tiên và mục tiêu trong cuộc sống. Các
mục tiêu này bao gồm cả ngắn hạn và dài hạn.
• Bước 5: Xây dựng sứ mệnh
Thông qua bốn bước trên và sự thấu hiểu về bản thân mình, hãy xây dựng sứ mệnh
cho riêng mình và luôn sống với điều đó.

Một số ví dụ về sứ mệnh:

76
“Sứ mệnh của tôi là
giúp đỡ người khác
thông qua câu chuyện
của mình”

Nick Vujicic

• Nữ hoàng truyền hình Mỹ - Oprah Winfrey: “Trở thành một nhà giáo dục, một
người truyền cảm hứng cho mọi người để họ hiểu rằng họ có thể làm được nhiều
hơn họ nghĩ”
• Tỷ phú Anh - Sir Richard Branson – Sáng lập tập đoàn Virgin: “Tận hưởng mỗi
hành trình trong cuộc sống và học hỏi từ những điều thất bại. Trong kinh doanh,
trở thành một nhà lãnh đạo mang lại những điều tốt nhất cho nhân viên, đó chính
là lắng nghe, đặt niềm tin, tin tưởng, tôn trọng và để họ phát triển.”

✍ THỰC HÀNH

Hãy xây dựng sứ mệnh của bạn theo năm bước trên

3.1.3. Giá trị cốt lõi (Core Value)


Đó là những phẩm chất, nguyên tắc, cam kết cần phải giữ bằng mọi giá để bảo đảm đạt
được tầm nhìn và sứ mệnh của bạn. Cuộc sống sẽ trở nên ý nghĩa và có mục đích khi bản
thân xác định được giá trị rõ ràng. Chính các giá trị này sẽ xác định được “Bạn là ai?”.

77
Mặc dù giá trị cốt lõi của mỗi cá nhân khác nhau nhưng chính chúng giúp bạn xác định
được giá trị sống quanh mình. Hầu hết những người khôn ngoan đều dựa vào giá trị cốt
lõi để chọn bạn, các mối quan hệ và cả đối tác trong công việc. Giá trị cốt lõi cũng giúp
bạn sử dụng phù hợp, hiệu quả về thời gian, tâm trí và nguồn lực giới hạn của bản thân.

5 bước xác định giá trị cốt lõi bản thân:


• Bước 1: Nhớ lại và mô tả các điều sau:
1. Liệt kê 3 thành tích đáng tự hào nhất từ trước
đến nay
2. Liệt kê 3 khoảnh khắc đáng nhớ nhất của bạn
3. Những giá trị cốt lõi mà bạn nhận ra từ các
điều trên là gì
• Bước 2: Nhớ lại và mô tả các điều sau:
1. Liệt kê 3 thất bại tồi tệ nhất từ trước đến nay
2. Liệt kê 3 khoảnh khắc đáng quên nhất của
bạn
3. Những giá trị cốt lõi mà bạn nhận ra từ các điều trên là gì
• Bước 3: Hãy đưa ra ba đến bốn lời khuyên cho bản thân thông qua các giá trị
ở hai bước trên
• Bước 4: Cô đọng từng lời khuyên thành các từ ngắn gọn và xúc tích
• Bước 5: Đánh giá lại từng giá trị cốt lõi ở bước bốn. Hãy nghĩ về một tình
huống mà giá trị cốt lõi nào đó làm bạn thiệt hại hơn so với hỗ trợ. Ví dụ “Đổi
mới” là một giá trị tốt, song, đến một thời điểm nào đó bạn sẽ nhận ra rằng cuộc
sống của bạn sẽ tốt hơn nhờ sự ổn định, thay vì cứ đổi mới liên tục. Bạn cần suy
nghĩ về từng giá trị một cách thận trọng.
Quá trình này cần sự tập trung và suy nghĩ. Bạn cũng có thể thực hiện các bước
này cùng với người bạn tin tưởng và hiểu rõ về bạn. Bạn sẽ nhận được các phản
hồi trung thực và có giá trị.

78
Việc này có thể thực hiện trong thời gian dài để kiểm chứng. Giá trị của bạn có thể
sẽ phát triển và điều chỉnh theo thời gian.

✍ THỰC HÀNH

Hãy xây dựng giá trị cốt lõi của bạn theo năm bước trên

Cách đơn giản để xác định giá trị cốt lõi bản thân:
- Nếu có 3 điều mà bạn sẽ quyết không nhân nhượng dù bạn có bị mất việc, đói khổ hoặc
bị đau đớn, đó là những điều gì? (ghi ra)
…………………………………………………………………………………………….
- Nếu có 3 tính từ mà bạn mong muốn người khác nghĩ về mình, đó là những tính từ gì?
(ghi ra)
…………………………………………………………………………………………….
Xin chúc mừng, chính là nó đấy! Đó chính là giá trị cốt lõi của bạn và cũng là những thứ
tạo nên phong cách và con người của bạn.

Hãy cẩn thận! Khi hành động của bạn mâu thuẫn với các giá trị thì hệ quả sẽ là nỗi bất
hạnh, sự thất vọng và thậm chí nỗi tuyệt vọng sâu thẳm nhất. Các nhà tâm lý học chỉ ra
rằng không có nguyên nhân nào gây căng thẳng thần kinh và tổn thương tinh thần bằng
những việc làm bên ngoài trái ngược với những giá trị bên trong.

Nắm vững những giá trị cốt lõi của mình sẽ giúp cho cuộc sống trở nên đơn giản và hiệu
quả hơn. Đứng trước một sự lựa chọn, bạn hãy đơn giản tự hỏi mình, “Việc này có phù
hợp với những giá trị cốt lõi của mình không?”. Nếu có thì bạn hãy làm. Nếu không,
đừng làm mà cũng đừng nhìn lại. Như vậy, tất cả những điều không vui, khó chịu, tai hại
sẽ giảm đi rất nhiều.

79
Việc xác định tầm nhìn, sứ mệnh và giá trị cốt lõi là sự tuyên bố chiến lược của mỗi cá
nhân, là một sự trăn trở để thiết kế, xây dựng chứ không phải chỉ là câu chữ đơn thuần.

3.2. Phân tích SWOT bản thân


Les Brown, một nhà diễn thuyết - chính trị gia người Mỹ đã có một nhận định rất
sâu sắc: “Tôi tin rằng cuộc sống là một chuyến hành trình, thường khó khăn và đôi khi
tàn nhẫn không ngờ, nhưng chúng ta đều được chuẩn bị tốt cho nó nếu biết nắm lấy tài
năng của bản thân và cho phép chúng nảy nở”.
Để “nắm lấy tài năng của bản thân và cho phép chúng nảy nở”, trước hết, bạn cần
hiểu rõ bản thân mình. Trên thực tế, có nhiều cách để hiểu về mình: tìm hiểu qua những
người thân, thầy cô, bạn bè…; sử dụng các trắc nghiệm tâm lý; thông qua những trải
nghiệm thực tế; so sánh với những người xung quanh… Trong nội dung này, chúng tôi đề
cập ứng dụng mô hình SWOT nhằm giúp bạn tự nhìn nhận bản thân một cách hệ thống.
Nói cách khác, bạn có thể phân tích chính mình thông qua mô hình này. Mục đích chính
của việc phân tích bản thân thông qua mô hình SWOT là giúp bạn có thể phát huy những
điểm mạnh, hạn chế những điểm yếu, khai thác, tận dụng các cơ hội và có kế hoạch để
giảm thiểu những trở ngại. Bạn cần áp dụng kết quả của việc phân tích SWOT một cách
hợp lý để xác định mục tiêu phù hợp và đề ra những hành động nhằm đáp ứng tốt nhất
yêu cầu công việc tương lai. Bởi thế, đây là một bước không thể thiếu trong việc định
hướng và lập kế hoạch nghề nghiệp.

3.2.1. Nhận thức điểm mạnh của bản thân (Strengths)

Trong cuộc sống, bạn có thể nhìn thấy ai đó không đạt thành tích tốt trong học tập,
nhưng khi làm việc, họ lại gặt hái nhiều thành công. Bạn sẽ giải thích như thế nào về hiện
tượng này? Có thể mỗi người sẽ có câu trả lời khác nhau, dựa trên nhận thức, quan điểm,
kinh nghiệm…của mỗi cá nhân. Dưới góc độ tâm lý học nghề nghiệp, một trong những
nguyên nhân thường được đề cập là cá nhân ấy đã chọn được một nghề phù hợp, phát huy
được điểm mạnh của bản thân. Chẳng hạn, nhân viên chiến lược marketing đòi hỏi phải

80
có khả năng phân tích, suy luận logic, khả năng phán đoán, sự sáng tạo... Nhân viên tổ
chức sự kiện đòi hỏi phải năng động, nhanh nhạy, khả năng xử lý và giải quyết vấn đề tức
thời, khả năng làm việc tập thể... Nếu cá nhân ấy có những tố chất, những điểm mạnh phù
hợp với tính chất công việc thì khả năng thành công trong nghề là điều dễ lý giải.
Điểm mạnh có thể được hiểu là những yếu tố bên trong cá nhân mang tính tích cực
hoặc có lợi giúp bạn đạt được mục tiêu. Đó là những điều mà bạn có thể kiểm soát, như:
các nét tính cách tích cực, những kỹ năng liên quan, khả năng cạnh tranh, kiến thức, kinh
nghiệm việc làm, khả năng tạo mối quan hệ, trách nhiệm, sự cảm thông, niềm đam mê
trong công việc… Những điểm mạnh đó có thể giúp bạn đáp ứng được các yêu cầu của
công việc, khiến bạn tạo ra sự khác biệt so với những người khác. Vì vậy, việc xác định
chính xác những điểm mạnh của bản thân là chìa khóa quan trọng giúp bạn mở cánh cửa
để đến với thành công. Trong quá trình phỏng vấn, nhà tuyển dụng cũng thường đặt câu
hỏi này với các ứng viên. Do đó, ngay từ bây giờ, bạn hãy suy nghĩ để trả lời những câu
hỏi về điểm mạnh của mình.
- Về tư duy: Thế mạnh tư duy của bạn là gì? Chẳng hạn, khả năng tư duy của bạn
thiên về phân tích hay tổng hợp? Hay cả hai? Bạn giỏi trong việc đưa ra các ý tưởng mới
hay phân tích các ý tưởng (đặc biệt phân tích, bình luận các ý tưởng của người khác)…
- Về khả năng thao tác: Bạn có giỏi trong các thao tác thực hành không? (như khéo
tay).
- Về đặc điểm tính cách: Những nét tính cách tốt đẹp nào có thể giúp bạn thành
công trong tương lai?
- Về năng lực cá nhân: Bạn có những năng lực cá nhân nào nổi trội không?
- Về kinh nghiệm, kỹ năng: Bạn đã có những kinh nghiệm nào có thể giúp bạn đáp
ứng các yêu cầu công việc? Bạn có những kỹ năng nào nổi trội?
- Về kiến thức: Bạn đã tích lũy được nhiều kiến thức để tự tin trả lời câu hỏi của
các nhà tuyển dụng cũng như đáp ứng yêu cầu công việc? (kiến thức chuyên ngành và
kiến thức liên quan, kiến thức xã hội)
- Về bằng cấp: Bằng cấp của bạn có thể đáp ứng yêu cầu tuyển dụng?

81
- Về mối quan hệ: Bạn có những mối quan hệ tích cực có thể hỗ trợ bạn trong
công việc?
Điểm mạnh ở đây không chỉ được hiểu là điểm mạnh của bản thân (so với điểm
yếu) mà còn được hiểu là những đặc điểm nổi trội, độc đáo mà bạn đang nắm giữ khi so
sánh với đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, bạn cần nhìn nhận bản thân trong mối tương quan
với người khác. Chẳng hạn, trong lớp học, bạn cần nhận biết mình có khả năng, đặc điểm
nào nổi trội hơn bạn bè, mà đó có thể được xem là lợi thế để bạn chiến thắng. Vì vậy, bạn
cũng cần so sánh với những người xung quanh, với đối thủ để trả lời những câu hỏi quan
trọng sau:

- Bạn có đặc điểm/năng lực/thế mạnh nào nổi bật so với người khác? (chẳng hạn:
về ngoại hình, giọng nói, khả năng ngoại ngữ, các mối quan hệ, kĩ năng, bằng cấp…).

- Bạn có nét tính cách/giá trị nào nổi bật mà bạn tin rằng người khác không hoặc
khó thể hiện được như bạn? (ví dụ: sự kiên nhẫn, nghị lực, khả năng lắng nghe…)

- Loại công việc nào bạn nghĩ mình sẽ làm tốt hơn người khác?

3.2.2. Nhận thức điểm yếu của bản thân (Weaknesses)

Hẳn bạn cũng đã nghe thành ngữ “gót chân Asin” từ câu chuyện Asin (Achilles)?
Thành ngữ này ra đời nhằm nói bất kỳ ai hay vật gì cũng đều có điểm yếu. Việc nhận
diện và liệt kê điểm yếu của bản thân là một quá trình “tự kiểm điểm” lại chính mình.
Điểm yếu có thể được hiểu là những yếu tố bên trong cá nhân mang tính tiêu cực
hoặc gây khó khăn trong việc đạt được những mục tiêu của bạn. Đây cũng là những yếu
tố mà bạn có thể kiểm soát, như: những nét tính cách tiêu cực, thói quen làm việc không
tốt, thiếu kinh nghiệm việc làm hoặc những kinh nghiệm có liên quan, khả năng thiết lập
mối quan hệ kém, thiếu định hướng nghề nghiệp, thiếu kỹ năng quản lý nghề nghiệp…
Rất khó để có cơ hội việc làm cũng như sự thăng tiến nếu bạn ứng tuyển hoặc
đang làm công việc mà ở đó đòi hỏi những kỹ năng bạn không có hoặc yếu. Chẳng hạn,
bạn đang làm ở vị trí nhân viên bán hàng nhưng điểm yếu của bạn lại là kỹ năng giao
tiếp, thực tế sẽ rất khó để có sự khởi sắc trong nghề nếu bạn không cố gắng khắc phục

82
điểm yếu này. Vì vậy, khi nhận ra những điểm yếu của bản thân, bạn cần tìm cách khắc
phục để hạn chế những trở ngại mà nó gây ra cho bạn. Bạn hãy trả lời trung thực những
câu hỏi sau:
- Những nét tính cách nào/những thói quan nào cản trở bạn trong công việc?

- Những kiến thức, kỹ năng nào bạn không giỏi?

- Bạn không thích loại công việc nào?

- Đâu là những nhược điểm mà nhiều người xung quanh đánh giá về bạn?

Để nhìn nhận chính xác tất cả những điểm yếu của bản thân có thể ảnh hưởng tiêu
cực đến các cơ hội việc làm cũng như sự phát triển nghề nghiệp, bạn cần thời gian để
chiêm nghiệm về mình và tìm hiểu về nghề. Bạn cũng nên hỏi ý kiến của những người
thân, bạn bè về những nhược điểm của mình.

3.2.3. Nhận thức cơ hội của bản thân (Opportunities)

Cơ hội là những tác nhân bên ngoài cá nhân mang tính tích cực hoặc có lợi có thể
giúp bạn đạt được mục tiêu. Đây là những yếu tố mà bạn không thể kiểm soát, như: sự
phát triển của nền kinh tế, công nghệ hiện đại, sự ra đời hoặc phát triển của ngành nghề
cụ thể, sự xuất hiện nhu cầu về kỹ năng hoặc chuyên môn mới, xu hướng phát triển mạnh
mẽ của ngành nghề đang theo học, đang làm… Bạn có thể tận dụng những cơ hội để tìm
kiếm việc làm hoặc quyết định hướng nghề nghiệp. Trả lời những câu hỏi sau có thể giúp
bạn nhận thức rõ cơ hội của bản thân:

- Sự phát triển của nền kinh tế có tạo cơ hội việc làm cho bạn không? (Chẳng hạn,
việc kí kết các Hiệp định thương mại, sự hội nhập của nền kinh tế)

- Những xu hướng mà bạn nhìn thấy trong ngành học/lĩnh vực của mình, và nhận
thấy trong đó mình có những lợi thế nhất định không?

- Sự phát triển vượt trội của công nghệ thông tin có thể giúp bạn không? (Ví dụ:
Internet giúp bạn dễ tìm việc làm?)

83
- Ngành học của bạn đang phát triển và nhu cầu lao động ở ngành học này rất lớn
phải không?

Bạn cũng có thể tìm thấy những cơ hội tốt ngay trong lớp học, trong các buổi hội
thảo, trong các sự kiện kết nối cộng đồng, trong một một vai trò mới hay một dự án mới
đòi hỏi bạn cần phải có một kỹ năng mới, trong các hoạt động đoàn thể…

3.2.4. Nhận thức những nguy cơ/mối đe dọa đối với bản thân (Threats)

Nguy cơ là những tác nhân bên ngoài cá nhân mang tính tiêu cực hoặc gây khó
khăn trong việc đạt được mục tiêu của bạn. Đó là những yếu tố mà bạn cũng không thể
kiểm soát, như: sự hợp nhất hoặc tái cấu trúc của nền kinh tế, sự thay đổi những yêu cầu
của thị trường lao động và những tác động của chúng đối với các doanh nghiệp, thay đổi
về những tiêu chuẩn nghề nghiệp mà bạn không đáp ứng, giảm nhu cầu đối với một trong
những kỹ năng của bạn, sự tiến triển công nghệ mà bạn chưa chuẩn bị cho nó, sự xuất
hiện của các đối thủ cạnh tranh… Bạn hãy trả lời những câu hỏi sau để làm sáng tỏ
những nguy cơ đối với bạn:

- Những thay đổi/đòi hỏi về công nghệ có thể đe dọa đến khả năng xin việc của
bạn hoặc vị trí của bạn trong công việc không?
- Ngành nghề của bạn đang có những biến động lớn phải không? (Chẳng hạn, sự
di chuyển lao động tự do trong 1 số lĩnh vực của khối AEC, trong đó có lĩnh
vực của bạn. Điều này khiến bạn đối mặt với nhiều đối thủ trong các cơ hội
việc hơn hơn)
- Lĩnh vực/ngành học của bạn đang giảm nhu cầu lao động phải không?
- Có những thay đổi vể tiêu chuẩn nghề nghiệp mà hiện tại bạn chưa đáp ứng
phải không?
- Những trở ngại mà bạn phải đối diện trong công việc là gì?
- Bạn bè của bạn có phải là đối tượng cạnh tranh với bạn trong các cơ hội việc
làm, trong một dự án hay trong một vai trò/trách nhiệm nào đó không?

84
Một yếu tố bên ngoài cũng có thể vừa là cơ hội, vừa là thách thức. Chẳng hạn, sự
hội nhập kinh tế có thể là một cơ hội vì nó có thể mở ra cho bạn những cơ hội việc làm
mới, với những nguồn thu nhập hấp dẫn hơn và khả năng thăng tiến cao hơn, nhưng cũng
có thể là mối đe dọa vì đối thủ cạnh tranh của bạn sẽ nhiều hơn, đòi hỏi những yêu cầu
nghề nghiệp cao hơn như ngoại ngữ, các kỹ năng chuyên môn và kỹ năng mềm.

Tóm lại, phân tích SWOT là một bước quan trọng, cần thiết và hữu ích để giúp
bạn nghĩ đến những khả năng hiện có và cả trong tương lai, liên quan đến môi trường bên
ngoài, nghĩa là thị trường công việc. Trong đó, điểm mạnh (S) và điểm yếu (W) là những
yếu tố của bản thân, cơ hội (O) và thách thức (T) nằm ở môi trường bên ngoài.

Sau đây là bản phân tích SWOT của Kim Uyên, người đang theo học ngành
Marketing tại một trường Đại học.

1. Điểm mạnh:
- Về tư duy: có khả năng sáng tạo, phân tích và tổng hợp
- Về kỹ năng:
+ Tự tin giao tiếp, thuyết trình trước đám đông.
+ Kỹ năng viết tốt.
- Về tính cách:
+ Có trách nhiệm cao với công việc.
+ Hòa đồng, năng động, thích nghi nhanh với môi trường mới.
2. Điểm yếu:
- Quản lý thời gian chưa tốt (có xu hướng trì hoãn công việc).
- Khả năng kiểm soát cảm xúc chưa tốt.
- Vụng về trong các thao tác thực hành.
- Khả năng giao tiếp tiếng Anh còn hạn chế.
3. Cơ hội:
- Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới (như gia nhập khối APEC, kí kết hiệp định
TPP…)
- Xu hướng phát triển của ngành Marketing.

85
4. Thách thức:
- Số lượng sinh viên ngành Marketing lớn.
- Việc chuyển đổi lao động tự do giữa các nước trong khối APEC.
- Tiêu chuẩn tuyển dụng ngày càng cao.

Từ việc phân tích SWOT bản thân, Kim Uyên có thể đề ra cách thức để phát huy
điểm mạnh, theo đuổi những cơ hội nghề nghiệp phù hợp với điểm mạnh của mình. Kim
Uyên cũng cần đề ra các biện pháp để khắc phục những điểm yếu, xác định cách sử dụng
điểm mạnh để giảm thiểu rủi ro do môi trường bên ngoài gây ra, thiết lập kế hoạch để
tránh cho những điểm yếu bị tác động nặng nề hơn từ môi trường bên ngoài.

3.3. Chiến lược lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với SWOT

3.3.1. Tìm hiểu về nghề và các lựa chọn nghề nghiệp

Lựa chọn ngành nghề của mỗi người là việc rất quan trọng. Tuy nhiên, làm thế nào để
chọn được cho mình một ngành nghề phù hợp với bản thân lại càng quan trọng hơn, vì
đó là yếu tố mang tính quyết định cho sự thành công của bạn trong tương lai. Đó cũng
chính là câu hỏi nhận được nhiều sự quan tâm của cả học sinh và lẫn các bậc phụ huynh
mỗi mùa thi đến. Hãy cùng trải nghiệm “khám phá bản thân” xem mình phù hợp với
ngành nghề nào các bạn nhé:

a. Dựa vào sở thích

Ngành nghề xã hội rất phong phú, đa dạng, khi bạn yêu thích, say mê một nghề nào đó thì
sẽ có động lực để làm việc, tìm tòi, sáng tạo, phát triển và thành công. Vì vậy, chọn nghề
nghiệp phù hợp với sở thích là một yếu tố rất quan trọng và hiểu được sở thích nghề
nghiệp sẽ giúp các bạn chọn được ngành học phù hợp để phát triển nghề nghiệp trong
tương lai.

Bạn không nên chọn ngành theo bạn bè, vì nếu không thực sự yêu thích bạn sẽ mất thời
gian thi lại, học lại do không phù hợp với bản thân.

86
b. Dựa vào năng lực

Năng lực là khả năng bạn có thể theo học và làm được nghề. Học sinh có thể đánh giá
năng lực của bản thân qua kết quả học tập trong 3 năm THPT. Ngoài ra, cần phải lưu ý về
ngành học cần kỹ năng gì và mình có đáp ứng được hay không.

Nếu khả năng, năng lực bản thân không đủ đáp ứng nhu cầu công việc, chắc chắn bạn
không thể sống được bằng ngành nghề bạn đã học.

c. Dựa vào hoàn cảnh gia đình

Ngày nay, chi phí cho việc học đại học không hề nhỏ. Vì thế, việc chọn ngành, chọn
trường sao cho phù hợp với khả năng tài chính là tiêu chí phải lưu ý trước tiên. Tự nhận
biết khả năng và cân nhắc kỹ lưỡng để có sự đầu tư hiệu quả giúp các bạn thêm tự tin và
kiên trì theo đuổi nghề nghiệp, biết lượng sức mình và quyết tâm thì cơ hội thành công
cao nhất sẽ đến với các bạn.

d. Dựa vào nhu cầu xã hội

Sau khi ra trường có thể dễ dàng tìm được một công việc phù hợp, cơ hội thăng tiến cao
là mơ ước của rất nhiều người. Do đó, việc tìm hiểu nhu cầu của xã hội trước khi bắt tay
vào học một ngành nào đó là việc cực kỳ quan trọng, điều đó quyết định tương lai của
bạn về sau. Một công việc được cho là dễ xin chỉ khi xã hội đang cần, nhu cầu tuyển
dụng cao hơn nguồn lao động hiện có trên thị trường. Tuy nhiên, điều đó cũng sẽ sớm
bão hòa sau một thời gian không xa, vì có cầu ắt có cung, vì vậy một ngành được cho là
“hot” hiện nay cũng không có gì đảm bảo là sẽ ổn định lâu dài.

Các bước để chọn ngành nghề phù hợp với bản thân:

Bước 1: 11 nhóm công việc giúp bạn xác định nghề nghiệp

87
Các nghề liên quan đến nghệ thuật: Đây là những nghề cần sự đam mê và sự khéo léo.
Có thể là những nghề liên quan đến việc vẽ, chạm trổ, thủ công hoặc trong các lĩnh vực
âm nhạc, kịch,...

Các nghề liên quan đến công việc văn phòng và hành chính quản trị: Bạn có thể quan
tâm tới công việc viết lách, thư từ, việc tổ chức, kiểm tra và ghi chép chính xác các thông
tin. Cao hơn, bạn có thể thiết lập, tổ chức và kiểm tra các hoạt động của một cơ quan, một
chương trình nào đó của công ty. Công việc văn phòng không nhất thiết phải ngồi một
chỗ cả ngày. Lúc này hay lúc khác bạn có thể rời khỏi văn phòng ra ngoài để giải quyết
công việc. Có thể là các công việc thường xuyên tiếp xúc với khách hàng hay với các
nhân viên khác.

Các nghề liên quan đến việc phân tích số liệu: Bạn có thể ưa thích làm việc với những
con số, công thức hay số liệu thống kê hay thực hiện các công việc tính toán, ước tính và
định giá. Bạn cũng có thể sử dụng các dữ liệu, kết quả điều tra, máy vi tính để thu thập,
đánh giá và tổng hợp thông tin. Nhiều người làm việc trong lĩnh vực này có đầu óc phân
tích, có khả năng sử dụng số liệu để dự báo và dự đoán các xu hướng phát triển kinh tế,
xã hội, dân số cũng như các xu hướng phát triển khác.

Các nghề liên quan đến dịch vụ cộng đồng và trợ giúp: Bạn cũng có thể là một kiểu
người ưa thích các công việc giúp đỡ, hướng dẫn người khác. Công việc bạn làm cũng có
thể liên quan tới lợi ích cộng đồng, giáo dục, bảo vệ sức khoẻ, các dịch vụ bảo vệ hay
thông tin.

Các nghề liên quan đến tiếp xúc cá nhân: Bạn có khả năng dễ dàng giao tiếp với người
khác. Công việc của bạn là thảo luận, tiếp xúc với các ý kiến và hành vi của người khác.
Bạn cần có những lập luận và kỹ năng nghe tốt, tạo ấn tượng tốt.

Các nghề liên quan đến nghiên cứu: Bạn thích làm việc với những ngôn từ và ý tưởng.
Bạn thích diễn đạt ý kiến và ý tưởng của mình trong công việc viết lách và thảo luận. Bạn

88
hay đưa ra các lập luận, các cách giải quyết vấn đề khác nhau.... Những lĩnh vực này liên
quan nhiều đến công việc nghiên cứu.

Các nghề liên quan đến y tế: Bạn thích làm những công việc chữa trị, cứu trợ, vật lý trị
liệu và các hoạt động y học khác. Bạn có thể phải làm việc trực tiếp với các bệnh nhân.
Một vài người cảm thấy không thích thú lắm với việc này do họ sợ máu hay phẫu thuật.

Các nghề liên quan đến công việc ngoài trời: Bạn thích làm việc ở bên ngoài trong một
môi trường mở và vận động, thường xuyên như là: kho hàng, nhà ga, ngành xây dựng,
nông nghiệp, hầm mỏ và vận tải. Nhiều trường hợp tuy gọi là:“Công việc văn phòng”
nhưng vẫn liên quan đến công việc ngoài trời, ví dụ: nhân viên y tế cộng đồng, họa sỹ, kế
toán nông nghiệp, các nhà sinh vật học...

Các nghề liên quan đến kỹ thuật và cơ khí: Bạn thích làm việc với các công cụ, thiết bị,
máy móc và cả trong việc thiết kế, xây dựng, bảo dưỡng và sử dụng chúng. Bạn cũng có
thể làm việc thường xuyên với dụng cụ kỹ thuật, thiết kế hay lập kế hoạch và sử dụng
máy tính nhằm hỗ trợ cho việc thiết kế, sản xuất hay quản lý. Bạn có tính tỉ mỉ, thích biết
bản chất sự việc như thế nào và tại sao những thứ đó lại diễn ra như vậy.

Các nghề liên quan đến công việc thủ công: Bạn là người thích kiểu công việc cần phải
sử dụng tay và sử dụng các công cụ, dụng cụ để làm việc. Bạn có thể là người ưa thích
nhiệm vụ thực hành mà cần có độ chính xác cao.

Các nghề liên quan đến khoa học: Bạn ưa thích việc quan sát và đánh giá. Điều này
thường liên quan đến công việc nghiên cứu khoa học và thí nghiệm. Bạn cần phải có tính
kiên nhẫn, tỉ mỉ trong những thí nghiệm phức tạp và các quan sát đánh giá khác nhau.

Bước 2: Trả lời các câu hỏi: Bạn có thích hay không thích loại công việc này? Bạn
thích loại công việc này ở mức độ nào?

Hãy trả lời các câu hỏi đó vào bảng dưới đây bằng cách đánh dấu (X) vào ô phù hợp:
89
Không Không say Không chắc Thích Rất
thích mê chắn thích

Nghệ thuật

Văn phòng và hành


chính quản trị

Phân tích số liệu

Các dịch cụ cộng


đồng và trợ giúp

Tiếp xúc cá nhân

Nghiên cứu

Y tế

Công việc ngoài trời

Kỹ thuật và cơ khí

Công việc thủ công

Khoa học

Bước 3: Hãy xem phần các hình thức việc làm tương ứng với các nhóm sở thích, bạn hãy
đọc tất cả các nghề được giới thiệu trong nhóm nghề mà bạn đã chọn “Thích” và “Rất
thích”.

Bước 4: Hãy viết ra những nghề mà bạn thích và bản thân bạn mong muốn được làm việc
bằng những nghề đó. Nếu như có nghề nào mà bạn chưa chắc chắn thì hãy xem phần giới
thiệu một số nghề ở phần tham khảo, nếu như nghề mà bạn chọn không có trong phần

90
này, bạn có thể tìm hiểu thêm thông tin về nghề đó trước khi quyết định đưa vào danh
sách những nghề ưa thích của bạn.

Bước 5: Hãy quyết định nghề nào mà bạn mong muốn từ danh sách những nghề mà bạn
đã liệt kê trong bước 4. Bạn hãy tìm hiểu sâu về nghề đó bằng cách xem phần Giới thiệu
một số nghề trong phần tham khảo của cuốn sách này. Nếu như nghề đó không có trong
phần tham khảo thì bạn có thể đến các trung tâm giới thiệu việc làm gần nơi bạn sống để
tìm hiểu, bạn cũng có thể tìm hiểu thông qua người thân, thầy cô, bạn bè hoặc những
người đang làm việc mà bạn biết,…

Bước 6: Nếu như bạn không tìm thấy nghề nào mà bạn yêu thích sau bước 4 và 5 thì có
thể có những nguyên nhân sau:

Bạn có một số khó khăn trong việc quyết định. Bạn cần phải hiểu rằng những ý tưởng về
nghề nghiệp chỉ là tạm thời và đôi khi bạn sẽ thay đổi nghề nghiệp trong tương lai.
Có khi bạn chưa chọn đúng nhóm nghề mà bạn thực sự ưa thích. Bạn hãy bắt đầu lại từ
bước 1 và cần phải thận trọng hơn trong việc quyết định.

Chúc các bạn chọn được ngành nghề phù hợp với bản thân và thành công.

3.3.2. Xác lập Mục tiêu và Hoạch định con đường đến Mục tiêu

Xác lập mục tiêu cá nhân là quá trình cân nhắc về tương lai lý tưởng của bạn. Rất nhiều
người trong chúng ta luôn cảm thấy như thể mình bị bỏ mặc và không được trân trọng
công lao, chúng ta làm việc chăm chỉ nhưng lại không đạt được kết quả gì. Nhưng bạn có
biết vì sao lại như vậy không? Đó là vì bạn chưa dành thời gian suy nghĩ về những gì bạn
thực sự muốn trong cuộc sống cũng như chưa xác định được những mục tiêu mong
muốn. Xác định chính xác điều bạn mong muốn sẽ giúp bạn biết nên phải tập trung nỗ
lực vào đâu.

a.Tại sao phải xác lập mục tiêu?

91
Cho dù là những doanh nhân thành đạt, nghệ sĩ nổi tiếng, hay chỉ là nhân viên bình
thương... ai cũng đều phải xác lập mục tiêu. Điều đó giúp bạn có được tầm nhìn dài hạn
và động lực ngắn hạn. Từ đó giúp bạn tập trung kiến thức, nỗ lực; sắp xếp thời gian và
nguồn lực của bạn - khai thác tối đa năng lực của bản thân nhằm đạt được mục tiêu đã đề
ra.

b. Lợi ích

Khi đã xác định được những mục tiêu rõ ràng, bạn có thể tìm những phương pháp để đạt
được những mục tiêu đó. Bạn cũng sẽ nâng cao sự tự tin của bạn khi đã biết rõ khả năng
đạt được mục tiêu khi đã thiết lập.

c. Các bước xác lập mục tiêu

Bước 1: Lập mục tiêu suốt đời

Trước tiên, bạn phải vẽ nên một “bức tranh lớn” về những gì bạn muốn làm trong cuộc
sống hoặc trong một khoảng thời gian xác định như 5-10 năm. Hãy xác định các mục tiêu
lớn mà bạn muốn đạt được.

Bước đầu tiên là xem xét điều bạn muốn đạt được trong đời (hoặc ít nhất là trong một
khoảng thời gian xác định trong tương lai). Điều này mang đến cho bạn cái nhìn tổng thể
định hình tất cả các khía cạnh khác trong việc ra quyết định của bạn. Thử thiết lập một số
mục tiêu theo những nhóm dưới đây (hoặc theo những chủ đề quan trọng đối với riêng
bạn):

- Sự nghiệp: Bạn muốn ở vị trí nào trong sự nghiệp của mình? Bạn muốn đạt được
những gì?

- Tài chính: Bạn muốn thu nhập bao nhiêu? Ở giai đoạn nào? Tình hình tài chính của bạn
sẽ liên quan đến mục tiêu nghề nghiệp của bạn như thế nào?

92
- Trình độ học vấn: Bạn cần có những thông tin gì và phải có những kỹ năng gì để đạt
được những mục tiêu khác?

- Gia đình: Bạn có muốn trở thành một bậc phụ huynh tốt không? Bạn muốn người khác
hoặc thành viên trong gia đình nhìn nhận bạn là người như thế nào?

- Thái độ: Có suy nghĩ tiêu cực nào níu giữ bạn không? Cách bạn cư xử có vấn đề gì
không? (Nếu có, bạn cần thiết lập mục tiêu để cải thiện hành vi của mình hoặc tìm ra giải
pháp cho vấn đề đó)

- Thể chất: Bạn cần làm gì để có được sức khỏe tốt ngay cả khi bước sang tuổi già?

- Niềm vui: Bạn muốn hưởng thụ niềm vui như thế nào?

- Cộng đồng: Bạn có mong muốn thế giới trở nên tốt đẹp hơn không? Bằng cách nào?

Bỏ thời gian động não những điều này và chọn ra một mục tiêu hoặc nhiều hơn trong
mỗi nhóm chủ đề phản ánh điều bạn muốn làm. Sau đó lọc lại một lần nữa để có mục tiêu
bạn cần tập trung vào.

Khi thực hiện điều này, hãy chắc chắn những mục tiêu bạn thiết lập chính là những gì bạn
muốn, không phải là những gì cha mẹ, gia đình, bạn bè bạn muốn.

Bước 2: Thiết lập mục tiêu cá nhân nhỏ hơn

Khi đã thiết lập mục tiêu cho cuộc đời bạn, hãy chia nhỏ mục tiêu lớn đó thành những
mục tiêu nhỏ hơn và thiết lập một kế hoạch ngắn hạn cho những mục tiêu nhỏ hơn mà
bạn cần hoàn thành.

Cuối cùng, một khi đã có kế hoạch của mình, hãy bắt đầu tiến hành từng bước trong kế
hoạch để đạt được những mục tiêu đã đặt ra.

93
Hãy bắt đầu quá trình thiết lập mục tiêu bằng cách nhìn vào mục tiêu lớn của cuộc đời
bạn. Sau đó thiết lập những điều bạn có thể làm trong vòng 1 năm tới, 6 tháng tới, 1
tháng tới, tuần tới và ngày hôm nay để bắt đầu hướng đến những mục tiêu lớn hơn. Mỗi
kế hoạch nên dựa trên kế hoạch trước đó.

Sau đó tạo ra những điều cần làm hằng ngày của bạn (To-do-lists) để hướng đến mục
tiêu cuộc đời bạn.

Ở giai đoạn đầu, những mục tiêu nhỏ của bạn có thể là đọc sách và thu thập thông tin cần
làm để đạt được những mục tiêu ở cấp độ cao hơn. Điều này sẽ giúp bạn nâng cao chất
lượng và tính thực tế của việc thiết lập mục tiêu của bạn.

Cuối cùng xem xét lại kế hoạch của bạn và chắc chắn rằng nó phù hợp với cách bạn
muốn sống cuộc đời của bạn.

d. Không bỏ cuộc

Một khi bạn đã quyết định xác định thiết lập mục tiêu đầu tiên của bạn, hãy giữ cho quá
trình diễn ra bằng cách xem xét và cập nhật danh sách việc cần làm của bạn hàng ngày.

Xem xét định kỳ các kế hoạch dài hạn và chỉnh sửa để phản ánh những thay đổi trong
thứ tự ưu tiên và kinh nghiệm của bạn. Tốt nhất là nên làm thường xuyên, lặp đi lặp lại,
xem xét liên tục dựa trên nhật ký máy tính.

e. Xử lý phù hợp khi đã đạt mục tiêu

Nếu mục tiêu đã đạt được là mục tiêu quan trọng, hãy tự tưởng thưởng cho bản thân một
cách thích hợp. Nó sẽ giúp bạn gây dựng sự tự tin bạn đáng có.

Nếu bạn đạt được mục tiêu quá dễ dàng, hãy xác lập lại mục tiêu tiếp theo khó hơn.

94
Nếu mất quá nhiều thời gian để đạt được một mục tiêu, hãy xác lập các mục tiêu tiếp theo
dễ hơn một chút.

Nếu có yếu tố khiến bạn cần thay đổi các mục tiêu khác, hãy làm như vậy.

Nếu bạn nhận thấy thiếu hụt kỹ năng dù đã đạt được mục tiêu, hãy quyết định có nên đưa
ra mục tiêu khác để sửa lỗi đó không.

Hãy thường xuyên điều chỉnh những xác lập mục tiêu cá nhân và nếu mục tiêu đó không
còn quan trọng với bạn nữa, hãy xem xét thay thế nó bằng mục tiêu khác phù hợp hơn.

3.3.3. Lập kế hoạch nghề nghiệp

Bản kế hoạch nghề nghiệp chính là “vũ khí” giúp bạn trở thành chủ nhân của tương lai
chính mình. Thông qua việc đánh giá sở thích, sự đam mê, kỹ năng, tính cách, điểm
mạnh, điểm yếu, bản kế hoạch này sẽ chỉ cho bạn thấy con đường tối ưu nhất để đạt được
mục tiêu nghề nghiệp trong tương lai. Sau đây là qui trình 5 bước giúp bạn lập kế hoạch
nghề nghiệp cho bản thân mình:

Bước 1: Đánh giá bản thân

Ở bước này, các câu hỏi tự đánh giá (self-assessment) sẽ giúp bạn hiểu rõ mình hơn. Hình
thức những câu hỏi này rất đa dạng, nhưng tựu trung chia làm bốn nhóm:

• Điểm mạnh
o Bạn làm tốt việc gì?
o Bạn có những kỹ năng gì?
o Tính cách nào của bạn nổi trội nhất?
• Điểm yếu
o Bạn không thích loại công việc nào?
o Những kỹ năng nào bạn không giỏi?
o Bạn có những hạn chế gì?

95
• Cần cải thiện:
o Bạn muốn học thêm những kiến thức gì? (chuyên ngành, xu hướng mới…)
o Bạn cần rèn luyện thêm những kỹ năng gì? (phân tích, đàm phán, thuyết
trình…)
• Đam mê:
o Bạn thích làm công việc gì? (gặp gỡ nhiều người, làm việc với các con số,
phân tích tình hình tài chính hay chăm sóc, hỗ trợ khách hàng…)
o Điều gì làm cho công việc của bạn có ý nghĩa? (Tiền lương, thăng tiến, cơ
hội học hỏi…)

Nếu muốn chuyên nghiệp hơn, bạn có thể dùng các bài trắc nghiệm hướng nghiệp như
Myers-Briggs Type Indicator (MBTI) để biết dạng công việc phù hợp với mình.

Bước 2: Xác định mục tiêu nghề nghiệp

Bạn cần xác định mục tiêu nghề nghiệp (ngắn hạn và dài hạn) trong công việc bạn mong
muốn, nhưng lưu ý là những mục tiêu này cần phù hợp với cả sở thích, niềm đam mê và
năng lực của bạn. Đừng quên là bạn chỉ có thể đạt được thành công thật sự trong công
việc nếu được làm đúng công việc mình yêu thích và có khả năng làm tốt.

Bước 3: Nghiên cứu công việc

Sau khi đã xác định được mục tiêu, bạn hãy tìm hiểu loại công việc phù hợp với nhu cầu
và sở thích cá nhân nhất. Truy cập vào các trang web tuyển dụng có thể giúp bạn tìm hiểu
về các công việc đang có trên thị trường cũng như nhu cầu tuyển dụng hiện tại. Bên cạnh
đó, bạn cũng nên tích cực mở rộng quan hệ xã hội (networking) ở các mạng cộng đồng.
Hãy hỏi những người trong nghề bạn quen xem công việc mà họ đang làm hằng ngày là
gì? Kỹ năng nào cần thiết cho công việc? Triển vọng thăng tiến như thế nào? Muốn việc
này tiến hành thuận lợi, bạn đừng quên thường xuyên cập nhật hồ sơ (thông tin giới thiệu
về trình độ học vấn, kinh nghiệm chuyên môn và thành công trong công việc).

96
Bước 4: Tính toán và ra quyết định

Thời điểm quan trọng đã đến! Đây là lúc bạn lập danh sách hai hay ba công việc ưng ý
nhất rồi cho điểm chúng theo những tiêu chí đánh giá mức độ phù hợp như giá trị, sở
thích, tính cách, kỹ năng … Công việc nào có số điểm cao nhất sẽ là ưu tiên hàng đầu của
bạn. Nếu công việc lý tưởng đó chính là những gì bạn đang làm thì từ nay bạn chỉ cần tập
trung mọi nỗ lực của mình vào kế hoạch thăng tiến sự nghiệp! Ngược lại, bạn nên cân
nhắc đến khả năng chuyển việc (có thể là chuyển sang một phòng ban khác).

Bước 5: Lập kế hoạch hành động

Hãy xác định những kiến thức và kỹ năng cần bổ sung để đạt được mục tiêu thăng tiến,
trong đó xác định rõ mức độ ưu tiên và thời hạn chót để hoàn thành. Ngoài ra, bạn cũng
nên mạnh dạn bày tỏ với sếp rằng mình đã sẵn sàng đón nhận những trách nhiệm mới.
Còn nếu bạn vẫn đang tìm kiếm công việc lý tưởng thì việc đầu tiên bạn nên làm là chỉnh
sửa hoặc đăng mới hồ sơ trực tuyến. Sau đó, bạn nên theo dõi thường xuyên thông tin
việc làm và tham khảo mục tư vấn hướng nghiệp trên báo đài hay trang web tuyển dụng
để luôn nắm bắt những cơ hội việc làm mới và tự trang bị cho mình những kỹ năng tìm
việc cần thiết.

Bạn đã từng nghe câu: “If you fail to plan, you plan to fail” (Nếu không hoạch định công
việc trước, bạn sẽ chuốc lấy thất bại) chưa? Rõ ràng, khi có một bản kế hoạch nghề
nghiệp trong tay, bạn sẽ nhìn thấy rõ các mục tiêu và hành động cần thực hiện để tự quyết
tương lai sự nghiệp của mình. Vì vậy, bạn hãy đầu tư thời gian và công sức tương xứng
cho bản kế hoạch này! Đó chắc chắn sẽ là một trong khoản đầu tư khôn ngoan nhất của
bạn trong cuộc đời!

3.3.4. Tiến trình Quản trị bản thân để hướng đến Mục tiêu

Nếu bạn không biết cách quản trị bản thân, mọi cố gắng làm việc sẽ đổ sông đổ biển.
Bởi ngay cả bản thân mình, bạn cũng không điều khiển được thì nói gì đến thăng tiến
và thành công.

97
Biết cách quản trị bản thân sẽ giúp bạn phát triển tối đa sức mạnh và năng lực, đem lại
hiệu quả cao nhất trong cuộc sống và công việc. Đồng thời, nó sẽ giúp bạn hạn chế nhược
điểm và hoàn thiện bản thân mình hơn nữa. Đây là chương đầu tiên cũng là quan trọng
nhất trong quản trị cuộc đời của bạn.

a. Quản lý cảm xúc

Cảm xúc chi phối rất nhiều đến hoạt động của con người. Thông thường, cứ sau một vụ
biến cố thì đến 50% nguyên nhân là do cảm xúc gây ra. Chẳng hạn cứ 5 người bị tai nạn
ô tô thì có 1 người đã cãi nhau 6 tiếng trước đó….

Chỉ có những người vô cảm mới không bị cảm xúc tác động. Tuy nhiên, nếu bạn biết
cách quản lý cảm xúc của mình, bạn sẽ đủ bình tĩnh và sáng suốt để không xảy ra những
sai lầm đáng tiếc.

“Những nhà lãnh đạo giỏi biết khi nào nên thể hiện và khi nào nên trì hoãn cảm xúc.” -
John C.Maxwell một bậc thầy nghệ thuật lãnh đạo đã nói. Để quản trị bản thân tốt, bạn
cần biết cách điều chỉnh cảm xúc của mình theo đúng hướng. Cái gì cần và nên bộc lộ,
cái nào không cần thiết thì bỏ qua. Nếu bạn cực kỳ thích bộ phim có thần tượng mình
đóng, bạn không xem sẽ bứt rứt không yên. Nhưng đây không phải là việc cần thiết, hãy
quên bộ phim đi và tìm đến một việc hữu ích khác làm để xua tan đi cảm xúc lúc đó…

b. Quản lý thời gian

Kỹ năng quản lý thời gian là một yếu tố cực kỳ quan trọng nhưng cũng cực kỳ khó, đặc
biệt đối với giới trẻ. Hầu như, mọi người thường hay than phiền rằng, “rảnh quá không
biết làm gì” hoặc “làm gì cho hết ngày đây” nhưng lại thường than phiền, “tôi phải làm gì
để giàu hơn, kiếm tiền nhiều hơn”…

Đó là biểu hiện của người không biết cách quản lý thời gian của mình.

98
Bạn phải có mục tiêu rõ ràng của mình, nên phân chia thời gian của mình cho những hoạt
động hữu ích và tích lũy lâu dài. Thực tế, mọi người không thanh toán bằng tiền mà là
bằng thời gian của họ. Vì thế, bạn nên chắc chắn rằng, thời gian của bạn đều trải qua một
cách có ích và được chi trả một cách công bằng.

c. Quản lý ưu tiên

Quản lý ưu tiên cũng là một cách quản lý thời gian mà bạn cần học tập. Bạn phải xác
định được, đâu là cái ưu tiên, đâu là cái ít quan trọng hơn. Như thế, cuộc sống và công
việc của bạn sẽ không rối tung lên và hiệu quả sẽ tăng cao.

John C.Maxwell đề xuất cách quản lý các ưu tiên như sau:

80% thời gian- làm những việc bạn giỏi nhất

15% thời gian- làm những việc bạn đang học hỏi

5% thời gian-làm những việc cần thiết khác.

Và một lưu ý hết sức quan trọng, bạn phải “nhẫn tâm” gạch bỏ một số việc mà không ưu
tiên nhưng lại được bạn yêu thích nhất. Bạn phải học cách quyết định và cứng rắn với
quyết định của mình. Trong 24 giờ/ ngày, bạn không thể làm hết tất cả mọi việc được.
Vậy nên, hãy đưa những việc ưu tiên lên hàng đầu, và những chuyện không cần thiết sẽ
được hoãn lại có thời hạn hoặc vô thời hạn….

d. Quản lý năng lượng

Hao mòn năng lượng sẽ khiến bạn mệt mỏi và không còn đủ sức lực để làm những
chuyện khác, thậm chí là chuyện được ưu tiên. Sử dụng năng lượng một cách tùy tiện
hoặc vô bổ, sẽ đẩy công việc và chỗ bế tắc và sau đó là đi gỡ rối. Vòng xoay như thế sẽ
buộc chân bạn đứng mãi một chỗ và không bao giờ tiến bộ.

99
Mọi người thường mắc phải 3 nhóm làm hao mòn năng lượng nhanh nhất: Làm những
việc không quan trọng, Không có khả năng làm những việc thật sự quan trọng, Không có
khả năng ứng phó với vấn đề.

Cách để quản lý năng lượng hiệu quả nhất, chính là biết cách kết hợp giữa quản lý thời
gian và quản lý ưu tiên, hãy ghi ra lịch làm việc cụ thể của bạn trong ngày, hoặc trong
tuần. Sau đó, tự quyết định, việc nào quan trọng cần làm trước, làm trong bao lâu…. Lâu
ngày, bạn sẽ hình thành được thói quen và định hình được cách quản lý bản thân mình
thật tốt.

Tất cả những chỉ dẫn trên, chỉ thực hiện được khi bạn hành động, suy nghĩ chỉ đem lại
hiệu quả trong trí tưởng tượng mà thôi.

3.3.5. Vượt qua những khó khăn trên đường hướng đến Mục tiêu

Trong tác phẩm Đường đến thành công, tác giả Thomas Robarge cho rằng muốn hiện
thực hóa những ước mơ của mình, bạn phải có sự trải nghiệm và những phẩm chất cần
thiết. Đó là:

Thái độ lạc quan: Thái độ lạc quan giúp bạn dễ dàng ứng phó với khó khăn trắc trở và
giúp bạn hành động hiệu quả hơn, sáng suốt hơn trong mọi công việc.

Sự linh động: Phải biết linh động thay đổi trong mọi tình huống, nhất là trong cuộc sống
xô bồ và “dễ đổi thay” như ngày nay. Bạn thử tưởng tượng: Hôm nay, bạn đang làm
những chuyện mà 5 năm trước, bạn không dám nghĩ đến!

Niềm tin: Không có sức mạnh nào lớn hơn niềm tin vào năng lực của chính mình. Bạn
chắc còn nhớ tác phẩm “Tình yêu cuộc sống” nổi tiếng của Jack London? Nếu không có
niềm tin tuyệt đối và sự quý yêu cuộc sống vô vàn của nhân vật chính, anh ta hẳn đã chết
trong băng tuyết cực lạnh của Bắc Cực rồi. Vì vậy, để thành công, bạn hãy luôn tâm
niệm trong lòng mình “Tôi làm được, tôi phải làm được, tôi sẽ thành công, tôi sẽ chiến
thắng!”

100
Tôi có thể là những gì tôi muốn: Vì vậy, bạn luôn có thể làm bất cứ điều gì mình muốn.
Một đứa trẻ lớn lên có thể trở thành một chính khách vĩ đại, một thương gia giàu có, một
nhân vật lỗi lạc trong lịch sử. Cũng như Siemens, người khi còn bé có một gia cảnh cực
kỳ khó khăn, nhưng ông đã kiên quyết đeo đuổi việc học và nghiên cứu để trở thành một
chuyên gia cơ khí, một thương gia lỗi lạc của thế giới, và ông được vinh danh đặt tên cho
hãng điện tử Siemens nổi tiếng ngày nay.

Tự kỷ thành công của mình: Đây là một cách tự kỷ để giúp cho tinh thần của bạn thêm
phấn chấn. Bạn hãy hỏi: “Mình sẽ được gì nếu đạt được mục tiêu đề ra?” và hãy liệt kê
những “thành quả tương lai” của bạn. Thành công trong tâm tưởng bạn sẽ “quyến rũ”
thành công thực sự.

Luôn nuôi dưỡng động lực mọi lúc mọi nơi: Hãy viết ra những mục tiêu của bạn trên
giấy và luôn đem theo chúng bên mình để xem đi xem lại khi có thể. Nếu mục tiêu là “vật
hữu hình”, hãy vẽ nó ra và đặt ở những nơi quan sát được. Điều này sẽ giúp bạn hâm
nóng bầu nhiệt huyết của mình.

Thất bại: “Thất bại là mẹ thành công”, và bất cứ ai thành công cũng đều đã từng nếm
qua vị đắng của thất bại.

Thế nhưng, thất bại chính là hình bóng đứng sau thành công và bạn phải biết cám ơn nó.
Những người thành công là những người có nhiều trải nghiệm, họ đã từng phải ứng phó,
đối mặt và học hỏi rất nhiều từ thất bại của mình.

Nếu bạn đã thất bại, không có nghĩa bạn đã thua. Bạn phải tìm ra nguyên nhân và học hỏi
từ nó để có thể rút ra bài học cho riêng mình và tiếp tục tiến bước đến thành công.

Lên danh sách những khó khăn gặp phải: Muốn đạt được mục tiêu, bạn phải nắm rõ
những khó khăn gặp phải. Chẳng hạn nếu bạn thiếu thời gian hoàn thành công việc nào
đó, bạn phải ghi rõ nguyên nhân.

101
Tiếp đến, để vượt qua khó khăn, hãy liệt kê 5-6 nhiệm vụ cần hoàn thành. Nhiệm vụ quan
trọng nhất đặt ở vị trí đầu tiên. Lên kế hoạch hoàn thành từng nhiệm vụ một theo thứ tự
ưu tiên. Bạn càng tìm nhanh giải pháp, bạn càng nhanh thoát khỏi những khó khăn gặp
phải.

Đi tìm những khoảng lặng: Hãy tập thực hành “thiền định”, suy nghĩ và lên kế hoạch
giải quyết vấn đề trong một không gian tĩnh lặng. Nếu khó khăn quá nghiêm trọng, bạn
đừng giải quyết ngay. Hãy tìm một không gian yên ắng và dành thời gian để suy nghĩ về
nó.

Giúp đỡ mọi người: Một mình bạn có thể làm tốt được mọi việc không. Chắc chắn là
không. Vì vậy bí quyết đằng sau thành công của những người thành đạt chính là khả năng
họ làm việc “ăn rơ” với tất cả mọi người. Sự làm việc “ăn rơ” ấy xuất phát từ việc họ
không nề hà giúp đỡ những người xung quanh trong khả năng của họ. Tinh thần làm việc
đồng đội không chỉ giúp cho bạn và mọi người dễ dàng giải quyết các khó khăn mà về
sau, bạn sẽ có những đồng sự hỗ trợ đắc lực khi bạn gặp khó khăn.

Bạn thấy đó, thành công không nằm xa tầm tay của bạn. Chúng ta có thể làm bất cứ điều
gì mà mình yêu thích. Thành công hay thất bại, tất cả đều do chúng ta quyết định. Vậy thì
bạn hãy dành thời gian đi tìm giấc mơ cho mình và HIỆN THỰC HÓA chúng.

3.4. Quan điểm về hạnh phúc và thành công trong cuộc sống
3.4.1. Hạnh phúc là gì?
Hạnh phúc với mỗi người là một khái niệm hoàn toàn khác nhau. Có những người, hạnh
phúc là khi họ đạt được một thành công rực rỡ, lớn lao, nhưng cũng có người, hạnh phúc
chỉ đơn giản là một buổi sáng nhìn thấy nụ cười trên môi ai đó… Vậy hạnh phúc là gì và
làm sao để được hạnh phúc?

Theo tự điển bách khoa định nghĩa: Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con
người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng.

102
Hạnh phúc và sung sướng là hai từ mà ta có thể nhầm lẫn. Ý nghĩa của cả hai đều để nói
lên được một cảm giác thoải mái trong tư duy, khi ta đạt được kết quả tốt từ một việc
làm, một mục đích và một giá trị mà ta mong muốn.
• Hạnh phúc được thể hiện qua sự thành công, tình yêu, sự nổi tiếng có tên tuổi,
được yêu mến của nhiều người chung quanh.
• Sung sướng thì thể hiện qua tiện nghi sinh hoạt trong cuộc sống, giàu có và sống
trong không gian đầy đủ mọi mặt. Còn vài thứ nữa cũng không kém phần quan
trọng đó là sự thoả mãn trong cảm giác ăn uống, vui chơi giải trí và sinh hoạt trong
tình dục.

Ngày Quốc tế Hạnh phúc

Ngày Hạnh phúc được lấy từ ý tưởng của Bhutan - Vương quốc bé nhỏ nằm sâu trong lục
địa miền đông Himalayas, vốn được đánh giá là nước có chỉ số hạnh phúc cao dựa trên
các yếu tố như: sức khỏe, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức
sống của người dân. Bhutan là quốc gia đã ghi nhận uy thế của hạnh phúc quốc gia hơn là
thu nhập quốc gia từ những năm đầu tiên của thập niên 70 thế kỷ 20 và nổi tiếng với việc
thực thi mục tiêu tổng hạnh phúc quốc gia thay vì tổng sản phẩm quốc nội.

Đại diện quốc gia Bhutan cho rằng nhu cầu về Ngày Hạnh phúc này là đối với tất cả quốc
gia và con người trên toàn thế giới để có những bước vượt lên trên sự khác biệt giữa các
nước và con người trên toàn thế giới và liên kết, đoàn kết toàn nhân loại.

Việc Liên Hiệp Quốc chọn ngày 20/3 là Ngày Quốc tế Hạnh phúc, còn vì đây là ngày đặc
biệt trong năm, khi mặt trời nằm ngang đường xích đạo, nên trong ngày này có độ dài
ngày và đêm bằng nhau - là biểu tượng cho sự cân bằng, hài hòa của vũ trụ. Cũng là biểu
tượng của sự cân bằng giữa âm và dương, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa ước mơ và
hiện thực… Bởi vậy ngày 20/3 - Ngày Quốc tế Hạnh phúc cũng truyền tải thông điệp
rằng: cân bằng, hài hòa là một trong những chìa khóa để mang đến hạnh phúc.

103
Hạnh phúc đến với mỗi người một cách khác nhau, tùy nghề nghiệp, hoàn cảnh, tâm
trạng ước mơ của mỗi người.
Ví dụ: người phu quét đường, người thợ lao động phổ thông nói chung là người nghèo,
sau giờ làm việc mệt nhọc, về đến nhà nhìn cảnh con cố gắng học hành, người vợ đang đi
làm thêm, gia đinh họ khi có chén cơm ăn, họ tự nghĩ mình như thế này hạnh phúc và
may mắn lắm rồi, hơn gia đình anh hai chị ba... Còn người khá, trung lưu khi họ cảm thấy
đủ và hơn người khác một vài điểm nào đó, họ tự an ủi mình: hạnh phúc lắm rồi. Tùy
quan điểm sống của mỗi người có khi họ đã giàu có rồi, muốn giàu có hơn người khác,
kiếm tiền và kiếm tiền, bất chấp đạo đức, để người khác phải kính trọng sự giàu sang,
không coi thường họ, đối với họ đó là hạnh phúc!

Cảm giác hạnh phúc thay đổi theo năm tháng, lúc nhỏ và khi trưởng thành có thể khác
biệt. Hạnh phúc cũng thay đổi tùy theo giới tính, môi trường và trình độ. Tuy nhiên, hạnh
phúc có nhiều mẫu số chung. Mọi người đều cảm thấy hạnh phúc khi không khí gia đình
êm thắm và con cái ngoan ngoãn. Ai cũng có cảm giác khoái trá khi được ngợi khen và
tâng bốc. Và trong tình dục, khoái cảm luôn đem lại cảm giác thỏa mãn giống hệt nhau
cho bất kỳ người nào.

Hạnh phúc, dường như chỉ là một hình thức cảm giác sinh ra từ trí tưởng tượng, có
khi không thật nhưng lại tồn tại quanh quẩn đâu đó mà không được biết đến.

HAPPINESS
Trong tiếng Anh, từ hạnh phúc (happiness) được diễn giải như sau, nếu ta hội đủ tất cả
những điều kiện này, nhất định chúng ta là người hạnh phúc.

Healthy (Sức khỏe)


Không gì quý giá bằng sức khỏe, nếu ta có một thân thể khỏe mạnh và không bệnh hoạn
thì nó có thể giúp ta vượt qua nhiều việc khó khăn trước mặt.

104
Attitude (Thái độ)
Mọi hoàn cảnh, mọi lúc ta nên giữ vững niềm tin vào bản thân ta. Hãy tự tin rằng “điều
đó ta có thể thực hiện được bằng một sự cố gắng hết sức mình”.

Present (Hiện tại, món quà)


Quá khứ đã đi qua và không bao giờ trở lại, đừng tiếc nuối và than vãn. Hiện tại là món
quà cao quý nhất hãy tận hưởng những gì mình đang có, đừng nghĩ nhiều những gì có thể
sẽ xảy ra ngày mai.

Play (Vui chơi)


Đừng để cuộc sống chúng ta bị nô lệ về mọi mặt để rồi ta phải sống trong sự căng thẳng.
Đã đến lúc cần phải thư giãn như nghe nhạc, xem ti vi, hát karaoke...

Inward (Nội tâm)


Hạnh phúc đích thực bắt nguồn từ chính bạn chứ không thể chịu tác động bởi những lời
nói hay việc làm của người khác. Tình yêu thương, sự cảm thông và lòng can đảm đều là
những thứ không cần phải mua vì đã có trong chính con người bạn.

Nut (Hạt)
Hãy thử tưởng tượng một hạt bạn hay ăn với phần bên trong mềm mại được bảo vệ bởi
lớp vỏ cứng bên ngoài. Chúng ta cũng như vậy đấy, vẻ bề ngoài chỉ là lớp vỏ để bảo vệ
cho phần “nhân” ngọt ngào của bạn ở bên trong.

Express Yourself (Bộc lộ chính mình)


Đừng ngồi chờ phép màu nào sẽ đến mà phải tự biết làm sao để có được phép màu cho
mình. Thử vẽ một bức tranh, chụp một kiểu ảnh, viết một câu chuyện tình yêu... Đó cũng
là cách bạn bộc lộ mình đó, thật kỳ diệu biết bao! Hãy bộc lộ cảm xúc thật của mình!

Simple (Đơn giản)


Tại sao bạn cứ làm phức tạp cuộc sống của mình lên nhỉ? Hãy bằng lòng với những gì
105
mình có và không cần phải níu kéo quá sức. Hãy dành thời gian với gia đình của bạn, hãy
cùng nhau lắng nghe và chia sẻ.

Smile (Nụ cười)


Khi bạn cảm thấy thất vọng, buồn bã thì hãy cố gắng nghĩ ra hay làm điều gì đó để cười,
để xoa dịu tâm trạng và cảm xúc của bạn. Bạn chính là người bạn thân nhất của bạn đó.

Hạnh phúc và sự hài lòng


Hạnh phúc và sự hài lòng trong cuộc sống khác nhau đối với tất cả chúng ta, những gì
làm cho một người hạnh phúc không nhất thiết mang lại sự hài lòng cho người khác.
Trong nhiều trường hợp, chúng ta đang hạnh phúc trong cuộc sống, nhưng chúng ta
không thể nhận ra nó. Con người ngày nay hối hả và nhộn nhịp với cuộc sống, chúng ta
bị cuốn hút bởi những mong muốn về sự nghiệp, địa vị mà có rất ít thời gian để tận
hưởng những điều mà làm cho chúng ta mỉm cười và thỏa mãn.

Hạnh phúc và sự hài lòng phụ thuộc hoàn toàn vào chính chúng ta, không ai có thể cung
cấp cho bạn, nó là một cái gì đó bên trong bạn mà bạn phải tìm và làm việc hướng tới,
hoặc nói đúng hơn, mang nó ra để bắt đầu tận hưởng cuộc sống.

Do vậy, hạnh phúc có thể được tìm thấy trong hiện tại từ cuộc sống gia đình, công việc,
các mối quan hệ… Trong thực tế, nó có thể được tìm thấy trong bất cứ điều gì, và bất kỳ
tình huống nào nếu bạn chỉ cần biết nơi để tìm và nhìn vào đúng hướng, bên trong bạn.

Nếu một người nói rằng “Tôi không có hạnh phúc” thì chính xác là người đó sẽ không
bao giờ có hạnh phúc, dù người ấy có những cái mà người khác luôn mong mỏi. Còn khi
bạn hỏi một người sống trong cảnh nghèo khó rằng họ có hạnh phúc không mà họ trả lời
rằng “Lúc nào tôi cũng thấy hạnh phúc” thì thật sự là họ đã được hạnh phúc.

106
Như vậy, hạnh phúc đơn giản là khi bạn chịu nhìn nhận hạnh phúc bên mình. Hạnh phúc
không hiện hữu trong bóng hình quá khứ hay niềm mong mỏi nơi tương lại, hạnh phúc là
ngay trong thực tại nếu bạn biết nắm bắt nó ngay hôm nay.

Vậy bí quyết của hạnh phúc đích thực là hãy sống mỗi ngày như thể nó không bao giờ
quay trở lại và tận dụng hết sức những gì mình đang có.

Một số gợi ý để có hạnh phúc chủ động:


• Hãy nhớ lại những cảm giác tuyệt vời nảy sinh trong bạn khi ngắm hoàng hôn ở
một nơi tuyệt đẹp nào đó. Hãy nhớ lại sự nhẽ nhõm và niềm vui khi bạn hoàn
thành tốt đẹp một công việc nào đó, hoặc khi bất ngờ nhận được món quà thú vị…
Tự bạn sẽ biết những hồi tưởng và ý nghĩ nào sẽ cho cảm giác dễ chịu.
• Hãy quen với việc cảm thấy mình hạnh phúc và điều đó trở thành một trong những
bài tập chủ yếu của bạn. Thường xuyên cười với bản thân, những người khác và để
họ cảm nhận được rằng bạn đang hạnh phúc.
• Cố gắng làm cho những người xung quanh cảm thấy hạnh phúc. Khi thấy ai đó
đang gặp nạn, cần trợ giúp, hãy đề nghị giúp đỡ họ. Đôi khi đó chỉ là những hỗ trợ
rất nhỏ như chỉ đường ai đó đang lạc hướng, nhặt giúp cây viết… Nhưng chính từ
niềm vui của người khác, chắc chắn, bạn sẽ cảm thấy vui hơn.
• Đừng quên những người đã làm cho cuộc đời bạn sáng sủa hơn, giàu có hơn, thú
vị hơn, và hãy dành nhiều thời gian cho người đó.
• Khi có những ý nghĩ và nỗi buồn, hãy xua tan chúng ra khỏi đầu và nhớ rằng có
những hoàn cảnh bạn không đủ sức để thay đổi, vậy cách tốt nhất là phải bình tĩnh
để suy xét mọi việc.
• Cố gắng bớt chỉ trích hành động của người khác, khi đó bạn sẽ tránh được nhiều
cảm giác tiêu cực cho mình.

107
• Hãy quên đi sự ganh tị vì nó có thể làm hại cả cuộc đời bạn. Nhiều người cảm thấy
mình bất hạnh vì những kỳ vọng của họ hoàn toàn không thực tế, bởi hạnh phúc
chỉ là một cảm giác tương đối.
• Tập cách tha thứ cho những người làm hại hoặc tổn thương bạn. Càng ghi nhớ,
chất chứa những điều không tốt đẹp này sẽ càng làm cho bạn tiêu cực hơn với
cuộc sống. Tha thứ và bao dung, con người sẽ tiến đến nấc thang hạnh phúc.
• Đừng cố gắng ngay lập tức trở thành người hạnh phúc. Tất cả đều cần có quá
trình. Do đó cách tốt nhất, bạn hãy vui mừng và tận hưởng với những việc nhỏ
nhặt nhất.

“Người hạnh phúc nhất là người đem đến hạnh phúc cho nhiều người nhất.”

Karl Marx.

3.4.2. Thành công


Thành công là điều mà nhiều người muốn đạt đến, xem nó như mục tiêu trong cuộc sống.
Có người trở nên giàu có, quyền lực và danh tiếng thì họ cảm thấy thành công. Nhưng
cũng có những người đạt được tất cả những điều đó, họ vẫn cảm thấy chưa thành công.
Vậy thành công là gì?
Theo từ điển, thành công là trạng thái đạt được hoặc hoàn thành một mục tiêu nào đó.
Trở nên thành công là khi ta thực hiện được tầm nhìn và mục tiêu đã đề ra.
Như vậy, thành công ở đây hoàn toàn có tính chủ quan. Chính mình định ra mục tiêu và
thành công của mình. Do đó, mỗi người sẽ có một quan điểm thành công khác nhau.

Quan điểm thành công của một số cá nhân


• Nhà phát minh Thomas Edison nhận ra rằng thành công là sự làm việc miệt mài
• Tỷ phú Anh - Sir Richard Branson – Sáng lập tập đoàn Virgin tin thành công là
luôn làm việc hết mình
• Cựu Thủ tướng Anh Winston Churchill nghĩ rằng thành công là không bỏ cuộc

108
• Stephen Covey - Tác giả cuốn sách nổi tiếng “Bảy thói quen của người thành đạt”
cho rằng thành công là sự khẳng định dấu ấn cá nhân
• Tổng biên tập tờ Huffington Post, Arianna Huffington: “Để sống một cuộc sống
chúng ta thật sự muốn và xứng đáng, chứ không chỉ là một cuộc sống ổn định,
chúng ta cần đến một thước đo thành công thứ ba vượt ra ngoài hai thước đo về
tiền và quyền lực. Đó chính là bốn yếu tố cần thiết bao gồm: hạnh phúc, trí tuệ, sự
tìm tòi và sự dâng hiến”
• Mike George – tác giả, diễn giả nổi tiếng người Anh: “Thành công là thoát khỏi lo
lắng, tâm trí của tôi tự do sáng tạo. Trong con người thành công, họ luôn cảm thấy
hài lòng dù họ ở đâu, làm gì, không cố gắng phán xét, điều chỉnh người khác.
Người thành công không hề có rắc rối. Rắc rối từ đâu ra? Tất cả trong nhận thức
của bạn. Người thành công nhận ra mình chính là mình”

Mục tiêu của mỗi người có thể khác nhau nhưng chung quy lại, thông thường đều hướng
đến sự an vui (bình an về thể chất và vui vẻ về tinh thần). Vì “niềm vui và bình an” trong
lòng ta liên hệ mật thiết với niềm vui và bình an của mọi người và của thế giới, do đó
chúng ta không thể làm người khác thêm đau khổ mà tin rằng ta sẽ có được niềm an vui
trong lòng. Vì vậy ý niệm tự do chủ quan để lựa chọn mục tiêu thành công của ta, thực ra
vẫn nằm trong một giới hạn khách quan – giới hạn đó là sự an vui của người khác, và của
thế giới. Nếu ta không quan tâm đến an vui của người khác, ta sẽ tự phá hủy an vui của
chính mình. Điều này cũng giống như người thải khí độc trong không khí để hại đến
người khác, chính mình cũng sẽ hít thở nó.

Thỏa mãn bất kỳ mục tiêu ngắn hạn nào đó (như nhà cửa xe cộ), nhưng không làm hỏng
mục tiêu tối hậu “niềm vui và bình an”, đó mới thực sự là thành công của người tư duy
tích cực.

4 bước đi đến thành công:

109
• Bước 1: Đặt ra mục tiêu rõ ràng
Đa số mọi người đều nói rằng họ muốn thành công trong cuộc sống, nhưng nếu
hỏi họ muốn thành công cụ thể như thế nào thì phần lớn sẽ trả lời: “Tôi cũng
không biết nữa, tôi chỉ muốn thành công” hay “Tôi muốn có nhiều tiền hơn”, “Tôi
muốn có công việc tốt hơn”.
Nếu bạn không có mục tiêu, bạn sẽ không có thứ gì cụ thể để bạn tập trung thời
gian và sức lực. Không những thế, bạn cũng không thể xây dựng được một chiến
lược thích hợp để đạt được nó.
Ba yếu tố chính tạo nên mục tiêu mạnh mẽ:
1. Mục tiêu phải cụ thể và đo lường được.
Mục tiêu càng cụ thể bao nhiêu, bạn sẽ càng tập trung tâm trí và nỗ lực cho nó bấy
nhiêu. Những mục tiêu cụ thể và đo lường được sẽ dẫn tới những chiến lược và
hành động hữu hiệu.
2. Cảm giác đam mê và hào hứng.
Bạn chỉ nên đặt ra những mục tiêu mà bạn thực sự đam mê và khao khát thực hiện.
Nếu mục tiêu của bạn không thể “truyền lửa” cho bạn, nó sẽ không đủ mạnh để lôi
cuốn bạn về phía nó. Do đó, nó cũng không đủ sức để khiến bạn phải hành động.
3. Mục tiêu đầy thử thách mang lại kết quả vượt bậc.
Mục tiêu đầy thử thách có tác dụng cực kỳ mạnh mẽ bởi vì nó sẽ khiến bạn vươn
lên hết mình, đạt tới ngưỡng cao nhất của năng lực và kỹ năng của bản thân. Nó
buộc bạn phải sáng tạo và phát triển những chiến lược hiệu quả.
• Bước 2: Phát triển một chiến lược hợp lý
Trên cơ sở mục tiêu đã đề ra, cần xây dựng một chiến lược hợp lý để hiện thực
hóa điều đó. Chiến lược cần phân tích điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, cũng
như xây dựng được lộ trình thực hiện rõ ràng.
Một trong những chiến lược để thành công là học hỏi từ những người thành công,
học những chiến lược mà họ dùng.
• Bước 3. Hành động kiên định

110
Hành động kiên trì và bền bỉ dựa trên chiến lược mà bạn đã tạo ra hoặc học hỏi
được.
Động lực để bạn hành động xuất phát từ một hay nhiều trạng thái cảm xúc mà bạn
đang trải qua. Những cảm xúc như chán nản, lười biếng, hoặc tương tự như thế sẽ
lập tức vô hiệu hoá khả năng hành động của bạn. Ngược lại, những cảm xúc như
hăng hái, phấn chấn, tự tin lại kích thích bạn hành động và hoàn thành công việc
của mình.
• Bước 4: Biến thất bại thành bài học kinh nghiệm
Có ba cách chúng ta đối mặt với thất bại:
- Những người bào chữa, biện minh, đổ lỗi cho mọi thứ hoặc mọi người xung
quanh sẽ nhanh chóng bỏ cuộc, đầu hàng, chấp nhận từ bỏ mục tiêu to lớn
của mình.
- Những người kiên trì hành động nhưng với một chiến lược không đổi, họ
cũng có thể đạt được những kết quả tốt lên dần sau mỗi lần vấp ngã, nhưng
rồi họ cũng không có được những bước đại nhảy vọt để chạm tới mục tiêu
to lớn đã đề ra, trong khi cái giá phải trả quá đắt.
- Mỗi khi chưa đạt được mục tiêu, họ không bao giờ xem đó là thất bại. Họ
sẽ liên tục nhận phản hồi, rút kinh nghiệm, thay đổi chiến lược và kiên trì
hành động cho tới khi thành công.

“Bí quyết của thành công là hãy bắt đầu. Bí quyết để bắt đầu là chia nhỏ các
công việc nặng nề, phức tạp thành những việc nhỏ dễ quản lý hơn, rồi bắt đầu với
việc thứ nhất.”

Mark Twain

3.4.3. Cân bằng cuộc sống và giải tỏa áp lực


Trong cái thế giới hỗn độn, phức tạp và đầy áp lực này, chắc hẳn mỗi chúng ta ai cũng
từng có lúc cảm thấy nghẹt thở, bức bối, thất vọng và chán nản. Đôi lúc chúng ta chỉ biết
111
“lăn xả” vào công việc mà quên đi rằng mình còn có gia đình, bạn bè và những niềm vui
khác.

Cuộc sống như một trò chơi, trong đó chúng ta đang tung hứng năm quả bóng trong
không trung và đặt tên cho chúng - công việc, gia đình, sức khỏe, tình bằng hữu, tâm hồn
- và giữ cho tất cả chúng không rơi xuống đất. Chúng ta sớm hiểu ra công việc là một quả
bóng cao su, nếu lỡ thả rơi nó, nó sẽ bật trở lại. Nhưng bốn quả bóng kia - gia đình, sức
khỏe, tình bằng hữu và tâm hồn - được làm bằng thủy tinh. Nếu chúng ta đánh rơi một
trong những quả bóng này, chúng có thể bị rạn nứt, sứt mẻ, hư hại hay thậm chí vỡ tan.
Chúng sẽ không bao giờ còn như trước nữa.

Cân bằng các yếu tố, giúp con người trở nên sống tích cực, lạc quan và có ý nghĩa chính
là mục tiêu và mong muốn của mỗi cá nhân. Để đạt được điều đó, con người cần cân
bằng bốn yếu tố:

1. Cân bằng các mối quan hệ


Có một ý tưởng là “thời gian sống” là thời gian mà tất cả những ai yêu quý bạn đều cảm
nhận được sự quan tâm từ bạn và hài lòng với thái độ mà bạn dành cho họ. Và nếu đúng
như thế, thì khối lượng thời gian mà bạn dành để làm được điều đó có thể tính bằng hàng
nghìn dặm đường mà bạn phải đi qua để có thể xây dựng được niềm tin và tình yêu
thương ở tất cả những người mà bạn muốn.

Bạn có thể lấy những đứa trẻ con làm ví dụ, chúng luôn tin rằng nếu mà bạn bỏ nhiều
thời gian để chơi đùa và trò chuyện với chúng, đó chính là thước đo tình yêu mà bạn dành
cho chúng. Vậy thì, nếu như bạn muốn mình có được mối quan hệ thân thiện, tốt đẹp với
người thân, lối xóm, bạn bè, đồng nghiệp, cấp trên và cảm thấy dù ở đâu cũng có thể hòa
mình vào môi trường thân thiện với mọi người, bạn hãy dành mọi thời gian có thể để
mang đến niềm vui và sự hài hước cho họ. Nụ cười sẽ là cầu nối ngắn nhất khoảng cách

112
để hai người xích lại gần nhau. Và nếu bạn có thể làm cho những người xung quanh mình
cười, bạn sẽ dễ dàng xây dựng được mối quan hệ bền chặt.

Một khi đã xây dựng và cân bằng được các mối quan hệ, bạn sẽ có cảm giác rõ rệt về sự
cộng hưởng của tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống. Ví dụ, khi cuộc sống trong gia đình
diễn ra êm ả, tốt đẹp, bạn sẽ có tinh thần tập trung và thảnh thơi suy nghĩ về những dự án
kinh doanh và công việc mà bạn biết mình có khả năng thực hiện tốt.

2. Cân bằng nghề nghiệp


Một khi, bạn dành quá nhiều thời gian để làm những công việc mà bạn yêu thích, bạn sẽ
làm cho cuộc sống mất đi sự cân bằng. Nếu muốn tất cả những gì mà bạn làm đều thành
công và hiệu quả, bạn sẽ rơi vào trạng thái căng thẳng. Tất nhiên, điều mà bạn mong
muốn là đạt được nhiều thành quả trong công việc và làm gia tăng giá trị của cuộc sống
qua sự theo đuổi nghề nghiệp. Khi mà bạn không làm được điều đó, trái tim bạn sẽ cảm
thấy trống trải và vô nghĩa.

Bạn hãy thử suy nghĩ về ba thứ mà bạn có thể làm trong 90 ngày tới để tỏa sáng trong
công việc. Đó có phải là một kỹ năng mà bạn cần phải nâng cao? Đó là những cuốn sách
nghiên cứu mà bạn cần phải đọc? Hay là một khóa học mà nhất thiết bạn phải tham dự?
Có lẽ bạn đang có nhu cầu gặp một nhà cố vấn có thể đưa ra những lời khuyên chiến lược
giúp bạn nâng cuộc sống nghề nghiệp và kinh doanh lên một cấp độ cao hơn? Hãy luôn
nghĩ đến việc cải tiến và tìm ra cách làm những công việc của bạn sao cho hiệu quả nhất.
Nên nhớ, một người chỉ được coi là thực sự thành công ở thế kỷ XXI này là những người
có giá trị nhất đối với khách hàng và thị trường. Nhà bác học Einstein đã từng bộc lộ:
“Hãy học cách trở thành một người được coi là có giá trị, có lẽ sẽ tốt hơn là một người
được coi là thành công”.

Nếu làm được điều này, chắc chắn sự thành công sẽ đến cùng bạn.

113
3. Cân bằng sức khỏe
Một điều thiết yếu để dung hòa cuộc sống của mình và kiểm soát được stress, đó là dành
thời gian tập luyện và giữ gìn sức khỏe. Hãy thực hiện điều này để thay đổi hay cải thiện
cuộc sống của bạn, hơn thế nữa, việc áp dụng nó sẽ tạo ra sự hăng hái cho những người
xung quanh của bạn. Rõ ràng là khi khỏe mạnh, thoải mái, mọi người sẽ gặt hái được
những thành quả tốt đẹp hơn trong cuộc sống. Đối với những người đang ở cương vị
quản lý, đó được xem là một lời khuyên hết sức chân thành. Đừng để công việc cuốn
mình đi quá xa mà quên mất sức khỏe của mình.

Trên thực tế, khi con người còn trẻ, họ sẵn sàng hy sinh sức khỏe để đổi lấy của cải. Sau
đó, nhiều năm trôi qua, khi họ đã nhiều tuổi hơn và khôn ngoan hơn, họ thừa nhận rằng
họ có thể hy sinh tất cả của cải của mình để đổi lấy một chút ít sức khỏe. Điều này giống
như một câu châm ngôn cổ như sau: “Chỉ có thể biết được tuổi trẻ, chứ không thể biết
được tuổi tác”. Người ta có thể cho rằng, sức khỏe là sự sở hữu quan trọng nhất mà nếu
như bạn không có nó, sự giàu có của cuộc sống sẽ không thể đến với bạn. Thông thường,
không phải chúng ta không có đủ thời gian, mà chỉ vì chúng ta không có đủ kiên nhẫn để
vạch ra mục tiêu giữ gìn sức khỏe và thực hiện cho đến cùng.

Vì vậy, bạn hành bớt một chút thời gian bận rộn trong ngày để khôi phục sự cân bằng về
mặt thể chất. Hãy tập luyện thể thao ít nhất bốn lần trong tuần. Ăn uống lành mạnh, ít ăn
các thức ăn có chứa nhiều chất béo, hạn chế rượu bia, chất kích thích và thường xuyên
uống nhiều nước. Sau một tuần làm việc căng thẳng, hãy tự học cách mát xa để thư giãn
cơ thể. Những hoạt động này chính là sự đầu tư cho chính bản thân mình và sẽ giúp bạn ở
trên đỉnh cao của sự thành công trong một thời gian dài.

4. Cân bằng tinh thần


Nhà triết học Emerson đã từng nói: “Nếu không có một trái tim nhân hậu, của cải chỉ là
một gã ăn mày xấu xa”. Tất cả chúng ta đều có nhu cầu lớn lao là sống vì những điều gì

114
đó quan trọng hơn chính bản thân mình. Hãy tìm ra lý do để có thể giao phó cuộc sống
của mình cho nó. Hãy dành một chút thời gian trong tuần để thực hiện những điều mình
muốn hoặc giúp đỡ những ai thực sự khốn cùng. Hãy dành một đến hai giờ vào một buổi
sáng cuối tuần để lên lạc với thế giới rộng lớn xung quanh bạn. Hãy dành thời gian để
thưởng thức thiên nhiên và khôi phục những cảm xúc kỳ diệu mà cuộc sống mang lại cho
bạn. Hãy nghĩ đến những gì mà bạn yêu quý từ khi còn bé thơ và sau đó tìm cách thực
hiện lại những ước mơ mà mình đã từng ấp ủ và khao khát.

Một chiến lược tuyệt với khác để nuôi dưỡng tinh thần của bạn là ghi lại những thành quả
hay kỳ tích mà bạn đã đạt được vào trong một cuốn nhất ký. Hãy suy nghĩ sâu sắc về sự
giàu có của cuộc sống. Hãy luôn ghi nhớ một câu ngạn ngữ của người Ba Tư cũ như sau:
“Tôi cảm thấy hết buồn vì mình không có giày để đi vào chân khi tôi nhìn thấy một người
đàn ông không có chân”. Hãy biết cách hài lòng với tất cả những điều may mắn mà cuộc
sống trao tặng cho bạn, và sau đó đi vào cuộc sống hàng ngày với một lòng nhiệt tình,
đầy sinh lực và sự thích thú, bạn sẽ không bao giờ rơi vào trạng thái và tâm lý rã rời.

Trong xã hội đầy áp lực và cạnh tranh như hiện nay, cân bằng cuộc sống là việc không
phải dễ dàng. Nhưng nếu bạn biết điều hòa lại cuộc sống, sắp xếp lại các mối quan hệ, tập
trung thời gian và nguồn lực vào những vấn đề cần thiết, dành nhiều thời gian hơn cho
bản thân cả về thể chất lẫn tinh thần, bạn sẽ thực sự hạnh phúc và thành công!

“Mục đích trong đời là đi tìm sự cân bằng trong điều vốn không ổn định.”

Pierre Reverdy

3.5 BÀI TẬP VÀ CÂU HỎI

1. Hãy phân tích SWOT của bạn qua bảng dưới đây. Từ đó, bạn hãy:
- Đưa ra các cách thức để duy trì và phát huy điểm mạnh của bản thân.

115
- Đưa ra các cách thức để khắc phục điểm yếu của bản thân.
- Đưa ra các cách thức để tận dụng cơ hội từ môi trường bên ngoài.
- Đưa ra các cách thức để giảm thiểu những rủi ro từ môi trường bên ngoài.

ĐIỂM MẠNH CỦA TÔI ĐIỂM YẾU CỦA TÔI

CƠ HỘI CỦA TÔI THÁCH THỨC CỦA TÔI

116
2. Từ ví dụ về nội dung phân tích SWOT của Kim Uyên, người đang theo học ngành
Marketing trong phần 3.2, trong vai trò là người tư vấn, bạn hãy:
- Đưa ra các cách thức để duy trì và phát huy điểm mạnh của Kim Uyên.
- Đưa ra các cách thức để khắc phục điểm yếu của Kim Uyên.
- Đưa ra các cách thức giúp Kim Uyên có thể tận dụng các cơ hội từ môi trường
bên ngoài.
- Đưa ra các cách thức giúp Kim Uyên có thể giảm thiểu những rủi ro từ môi
trường bên ngoài.

117
PHỤ LỤC 1
TRẮC NGHIỆM MBTI

118
119
120
Để hiểu rõ hơn về bài trắc nghiệm MBTI, chúng ta có thể tham khảo bài Test và
cách tính điểm dưới đây

Phiếu trắc nghiệm MBTI

(Myer Brig Test Indicator)

Trong phần này, mỗi câu đưa ra hai lựa chọn. Nhiều câu bạn có thể thấy cả hai lựa chọn
đều phù hợp (nhiều hay ít). Tuy nhiên, bạn hãy cố gắng lựa chon câu phù hợp hơn đối
với bạn và khoanh vào câu đó.

1. ở các bữa tiệc bạn thường a) Công bằng

a) nói chuyện với nhiều người, kể cả người b) Đối xử tốt, theo tình cảm
lạ

b) nói chuyện với số ít những người quen


5. Bạn thường
thân
a) vô tư, không thiên vị

b) cảm thông
2. Bạn thấy mình là người thuộc loại nào
nhiều hơn?

a) thực tế 6. Bạn thích làm việc theo kiểu nào


nhiều hơn?
b) mơ mộng
a) theo đúng thời hạn

b) theo hứng
3. Bạn quan tâm đến điều gì nhiều hơn?

a) Dữ liệu, thực tế
7. Bạn sẽ lựa chọn
b) Các câu chuyện
a) rất cẩn thận

b) phần nào theo cảm nhận


4. Bạn thường đối xử như thế nào nhiều
hơn?

121
8. Tại các bữa tiệc, bạn thường 14. Trường hợp nào bạn cảm thấy
nóng ruột, bồn chồn hơn?
a) ở lại muộn, cảm thấy ngày càng khỏe
khoắn cao hứng hơn a) khi mọi việc chưa hoàn thành

b) ra về sớm và cảm thấy mỏi mệt dần b) khi mọi việc đã hoàn thành

9. Bạn là người 15. Với những người bạn của mình,


bạn thường
a) nhạy cảm
a) biết điều gì đang xảy ra đối với mọi
b) suy nghĩ cẩn trọng
người
10. Bạn thích
b) biết những điều đó cuối cùng
a) dữ liệu, sự kiện thực tế

b) các ý tưởng khác nhau


16. Bạn thường quan tâm tới

a) những chi tiết cụ thể


11. Về bản chất bạn thường
b) ý tưởng, khái niệm
a) công bằng với mọi người

b) tốt với mọi người


17. Bạn thích những tác giả

a) nói thẳng điều định nói


12. Lần đầu tiên tiếp xúc bạn thường
b) dùng nhiều câu chuyện để minh họa
a) im lặng và cảm thấy xấu hổ cho điều họ định nói

b) nói nhiều và tỏ ra thân thiện 18. Về bản chất bạn thường

a) vô tư, không thiên vị

13. Thường thì bạn là người b) hay thương người

a) đúng giờ, chuẩn mực 19. Khi đánh giá, bạn thường

b) thong thả a) không để tình cảm cá nhân ảnh hưởng

b) đa cảm, hay động lòng

122
20. Bạn thường 26. Bạn thường là người

a) sắp đặt công việc a) thực tế, vô tư hơn là thương xót, cảm
thông
b) khuyến khích các phương án khác nhau
b) thương xót cảm thông hơn là vô tư, thực
tế
21. Bạn thường muốn

a) các buổi hẹn có sắp đặt trước


27. Bạn cảm thấy thoải mái hơn khi
b) để mọi việc tự do, thoải mái
a) lập thời gian biểu rõ ràng

b) cứ để mọi việc tự nhiên


22. Khi gọi điện thoại bạn

a) cứ gọi bình thường


28. Bạn cảm thấy thoải mái hơn với
b) chuẩn bị trước những điều sẽ nói
a) bản thỏa thuận viết lên giấy

b) thỏa thuận bằng lời và những cái bắt tay


23. Sự kiện thực tế

a) tự nói lên mọi điều


29. ở nơi làm việc bạn thường
b) thường cần có lời giải thích
a) là người bắt đầu các câu chuyện

b) ngồi chờ người khác đến với mình


24. Bạn thích làm việc với

a) những thông tin thực tế


30. Những nguyên tắc truyền thống
b) những ý tưởng trừu tượng
a) thường đáng tin cậy

b) thường làm ta sai phương hướng


25. Bạn là người
31. Trẻ em thường không
a) trầm tĩnh, lạnh lùng
a) hoạt động có ích hết khả năng chúng
b) sôi nổi, sốt sắng có

b) mơ mộng như đáng có

123
32. Bạn có thường 37. Bạn thường xuyên là người

a) suy nghĩ luận giải chặt chẽ a) gắn với thực tế

b) dễ xúc động b) gắn với ý tưởng trừu tượng

33. Bạn có thường 38. Bạn bị cuốn hút vào việc gì nhiều
hơn
a) chắc chắn, chặt chẽ hơn là mềm
mỏng, dễ dãi a) xem xét và hiểu các sự kiện

b) mềm mỏng dễ dãi hơn là chắc chắn chặt b) phát triển ý tưởng mới
chẽ

39. Điều gì làm bạn thỏa mãn hơn


34. Bạn có sắp xếp mọi thứ
a) thảo luận mọi khía cạnh của một vấn
a) trật tự ngăn nắp đề

b) để chúng thoải mái, tự do b) tiến tới thỏa thuận về một vấn đề

35. Bạn thấy điều gì có giá trị hơn 40. Điều gì thúc đẩy bạn nhiều hơn

a) điều chắc chắn, đã xác định a) trí óc của bạn

b) điều chưa chắc chắn, còn thay đổi b) trái tim của bạn

36. Những mối quan hệ giao tiếp mới 41. Bạn thấy thoải mái hơn với
với người khác những công việc

a) khuyến khích và thúc đẩy bạn a) theo hợp đồng

b) làm bạn cảm thấy bạn cần tìm một b) theo phong thái thoải mái tự nhiên
chỗ khác để nghỉ và suy nghĩ
42. Bạn thích công việc được

a) chuẩn xác và ngăn nắp

b) mở cho nhiều giải thích khác nhau

124
43. Bạn thích

a) nhiều bạn bè với những cuộc trao đổi 49. Bạn cảm thấy thoải mái hơn
ngắn
a) sau một quyết định
b) một bạn mới với cuộc nói chuyện dài
b) trước một quyết định

44. Bạn bị cuốn hút bởi


50. Bạn có
a) nhiều thông tin
a) nói được nhiều chuyện, dễ dàng, với
b) những giả thiết tuyệt vời người lạ

b) thấy chẳng có gì nhiều để nói với


người lạ cả
45. Bạn quan tâm nhiều hơn tới

a) sản xuất
51. Bạn có thường quan tâm tới
b) nghiên cứu
a) dữ liệu, sự kiện của một tình huống
cụ thể
46. Bạn cảm thấy thoải mái hơn khi
b) các tình huống chung
bạn

a) khách quan
52. Bạn có cảm thấy mình là người
b) tính tới tình cảm cá nhân
a) chân chất hơn là khéo léo, hay

b) khéo léo hơn là chân chất


47. Bạn tự đánh giá mình là người

a) rõ ràng và chắc chắn


53. Bạn thực sự là người của
b) sẵn sàng hy sinh
a) những luận giải rõ ràng

b) cảm nhận tình cảm mạnh mẽ


48. Bạn cảm thấy thoải mái hơn với

a) lời phát ngôn cuối cùng

b) những ý kiến kiến nghị, thảo luận


125
54. Bạn có thiên hướng hơn về

a) suy luận vô tư, công minh 60. Khi đánh giá bạn thường

b) cảm thông a) trung lập

b) độ lượng, khoan dung

55. Điều hoàn hảo nói chung là

a) đảm bảo rằng mọi việc đều được sắp 61. Bạn có thấy mình thiên về bên
xếp có quy củ nào hơn

b) cứ để mọi việc xảy ra tự nhiên a) suy nghĩ rõ ràng, cẩn trọng

b) có ý chí mạnh mẽ

56. Có phải cách làm việc của bạn là

a) mọi việc cần được giải quyết đúng 62. Bạn có


hạn
a) lập thời gian biểu cho các công việc
b) trì hoãn giải quyết công việc
b) việc gì đến thì làm

57. Khi chuông điện thoại reo, bạn có


63. Bạn là người có thiên hướng nào
a) trả lời điện thoại trước nhiều hơn

b) hy vọng ai đó sẽ trả lời a) làm việc theo nền nếp hàng ngày

b) tự do

58. Điều gì có giá trị hơn? nếu có 64. Bạn là người

a) cảm nhận tốt về hiện thực a) dễ tiếp xúc, làm quen

b) trí tưởng tượng phong phú b) kín đáo

65. Bạn thấy vui sướng với

59. Bạn có thiên hướng về a) những kinh nghiệm được người


khách trao đổi
a) sự kiện, dữ liệu
b) những ý tưởng kỳ quặc
b) suy luận
126
66. Khi viết, bạn thích

a) sự rõ ràng, trong sáng

b) những ý tưởng thông minh

67. Bạn thường

a) không định kiến

b) thương người

68. Bạn thực sự là người

a) công minh hơn là nhân hậu

b) nhân hậu hơn là công minh

69. Bạn là người

a) hay đưa ra những đánh giá bất ngờ

b) trì hoãn việc đánh giá

70. Bạn có xu hướng

a) cẩn trọng, chín chắn hơn là tự do

b) tự do hơn là cẩn trọng, chín chắn

127
Bảng phân tích kết quả

Xin hãy đánh dấu câu trả lời của bạn vào bảng kết quả dưới đây và tính điểm theo mẫu
ở bảng ví dụ:

a b a b a b a b a b a b a b

1 2 3 4 5 6 7

8 9 10 11 12 13 14

15 16 17 18 19 20 21

22 23 24 25 26 27 28

29 30 31 32 33 34 35

36 37 38 39 40 41 42

43 44 45 46 47 48 49

50 51 52 53 54 55 56

57 58 59 60 61 62 63

64 65 66 67 68 69 70

E I S N T F J P

128
Ví dụ:

a b a b a b a b a b a b a B

1 ´ 2 ´ 3 ´ 4 ´ 5 ´ 6 ´ 7 ´

8 ´ 9 ´ 10 ´ 11 ´ 12 ´ 13 ´ 14 ´

15 ´ 16 ´ 17 ´ 18 ´ 19 ´ 20 ´ 21 ´

22 ´ 23 ´ 24 ´ 25 ´ 26 ´ 27 ´ 28 ´

29 ´ 30 ´ 31 ´ 32 ´ 33 ´ 34 ´ 35 ´

36 ´ 37 ´ 38 ´ 39 ´ 40 ´ 41 ´ 42 ´

43 ´ 44 ´ 45 ´ 46 ´ 47 ´ 48 ´ 49 ´

50 ´ 51 ´ 52 ´ 53 ´ 54 ´ 55 ´ 56 ´

57 ´ 58 ´ 59 ´ 60 ´ 61 ´ 62 ´ 63 ´

64 ´ 65 ´ 66 ´ 67 ´ 68 ´ 69 ´ 70 ´

6 4 7 3 5 5 7 3 4 6 5 5 2 8

7 3 7 3 5 5

6 4 12 8 11 9 7 13

E I S N T F J P

E (do 6>4) S (do 12>8) T (do 11>9) P (do 13>7)

Kết quả là ESTP

129
PHỤ LỤC 2
QUẢN TRỊ BẢN THÂN – PETER DRUCKER
Thời đại chúng ta đang sống mang đến cho con người những cơ hội chưa từng có: nếu có
đủ tham vọng và khôn khéo, mỗi người có thể vươn tới đỉnh cao trong nghề nghiệp mà
mình lựa chọn, bất kể điểm xuất phát điểm là như thế nào.

Nhưng cơ hội thì luôn đi đôi với trách nhiệm. Ngày nay, các công ty không còn quản lý
sự nghiệp của các nhân viên mình nữa. Thay vào đó, để gia tăng tính hiệu quả, mỗi
người lao động trí thức phải trở thành vị giám đốc điều hành cho chính bản thân mình.
Bạn hoàn toàn có thể tự ra quyết định về nơi làm việc, biết được thời điểm thay đổi con
đường đi của mình, và tạo dựng cho mình sự gắn bó và khả năng làm việc có năng suất
cao trong suốt quãng thời gian làm việc có thể kéo dài đến 50 năm. Để thực hành tốt
những điều này, bạn phải có một sự hiểu biết sâu sắc về chính bản thân mình, không chỉ
là những hiểu biết về điểm mạnh, điểm yếu của bạn mà còn là cách thức học tập, cách
làm việc với người khác, giá trị của bản thân, và các lĩnh vực mà bạn có thể đóng góp
được nhiều nhất. Bởi vì chỉ khi làm việc dựa trên các điểm mạnh của mình bạn mới có
thể đạt được kết quả xuất sắc thực sự.

Các bậc vĩ nhân trong lịch sử như Napoléon, Leonardo de Vinci, hay Mozart đều luôn
luôn quản trị bản thân họ. Trong một chừng mực nào đó, điều này đã giúp họ trở thành
những vĩ nhân. Nhưng họ chỉ là những ngoại lệ rất hiếm hoi. Tài năng và thiên khiếu của
họ vượt ra khỏi giới hạn của những con người bình thường. Hầu hết tất cả chúng ta, cho
dù chỉ là những con người với những khả năng rất khiêm tốn, đều phải học cách quản trị
bản thân. Chúng ta phải học cách để phát triển bản thân. Chúng ta đặt mình vào những
vị trí mà chúng ta có thể đóng góp được nhiều nhất. Chúng ta phải luôn tỉnh táo và cam
kết với bản thân trong suốt 50 năm làm việc. Điều này có nghĩa là phải biết được khi nào
và làm thế nào chúng ta thay đổi việc mình làm.

Điểm mạnh của tôi là gì?

Hầu hết mọi người nghĩ rằng họ biết được thế mạnh của mình. Thường thì họ đã sai.
Thay vào đó, phần đông mọi người thường biết được những điều mà không phải là thế

130
mạnh của họ. Nhưng con người chỉ có thể hoạt động dựa trên điểm mạnh của mình.
Người ta không thể làm tốt công việc dựa trên các điểm yếu của mình được chứ chưa nói
đến chuyện để cho ai đó làm những việc mà họ không thể làm.

Ngày xưa, con người ít có nhu cầu biết được các điểm mạnh của mình. Kể từ khi được
sinh ra, mỗi người được đặt vào một vị trí nhất định và làm một công việc nhất định: con
trai của một người nông dân thì cũng trở thành một người nông dân, con gái một người
thợ thủ công rồi cũng trở thành một phụ nữ làm nghề thủ công,… Nhưng ngày nay con
người đã có nhiều lựa chọn. Chúng ta cần phải biết được những điểm mạnh của mình để
biết được nghề nghiệp phù hợp với bản thân mình.

Để khám phá các điểm mạnh của mình, bạn chỉ có cách áp dụng kĩ thuật phân tích phản
hồi (feedback analysis). Những lúc bạn đưa ra những quyết định quan trọng hay làm
những việc quan trọng, hãy ghi ra những điều mà bạn kì vọng sẽ xảy ra. Sau 9 hoặc 12
tháng, bạn so sánh các kết quả thực sự đạt được với những điều mà bạn kì vọng. Tôi đã
thực hành phương pháp này được khoảng 15 đến 20 năm, và mỗi lần thực hành tôi đều
nhận được các kết quả rất bất ngờ. Có lần tôi đã rất bất ngờ khi áp dụng phương pháp
này và phát hiện ra mình có trực giác đối với những người làm công việc kĩ thuật, cho dù
họ là các kĩ sư hay nhân viên kế toán hay người nghiên cứu thị trường. Nó cũng chỉ cho
tôi biết rằng tôi không thực sự cộng hưởng được với những người có kiến thức tổng quát.

Kĩ thuật phân tích phản hồi cũng không phải là điều gì mới mẻ. Nó được phát minh vào
khoảng thế kỉ 14 bởi một nhà thần học người Đức không biết tên. 150 năm sau đó nó
được phát triển một cách độc lập bởi John Calvin và Loyola (được phong Thánh). Cả hai
người đều áp dụng phương pháp này cho những người đi theo họ. Thực tế, chính nhờ sự
tập trung cao độ vào hoạt động và kết quả theo phương pháp này đã giải thích được lí do
tại sao hai tổ chức mà hai người này thành lập, nhà thờ Calvinist và dòng tu Jesuit, đã
thống trị cả châu Âu trong vòng 30 năm.

Nếu thực hành kiên trì, phương pháp đơn giản này sẽ cho bạn thấy các điểm mạnh của
bạn trong một thời gian tương đối ngắn, thông thường khoảng từ 2 đến 3 năm. Và điểm
mạnh chính là điều quan trọng nhất mà bạn phải nắm từ phương pháp này. Từ những gì

131
bạn làm được hoặc không làm được, phương pháp này sẽ cho bạn thấy tất cả các lợi ích
từ điểm mạnh của bạn. Nó cũng sẽ chỉ cho bạn biết những công việc cụ thể mà bạn không
có năng lực. Và sau cùng, nó sẽ chỉ cho bạn biết những công việc mà bạn không có điểm
mạnh nào cả và bạn không thể hoàn thành được.

Sau khi thực hành kĩ thuật phân tích phản hồi, bạn sẽ có được một số gợi ý để hành động.
Đầu tiên và cũng là quan trọng nhất, bạn cần phải tập trung vào điểm mạnh của mình.
Hãy đặt mình vào những chỗ mà bạn có thể phát huy điểm mạnh để tạo ra kết quả tốt.

Thứ hai, bạn cần phải làm việc để phát triển điểm mạnh của mình. Phân tích sẽ nhanh
chóng cho bạn biết những chỗ bạn cần phát triển thêm các kĩ năng hoặc học hỏi thêm
những kĩ năng mới. Nó cũng sẽ chỉ ra lỗ hổng trong kiến thức của bạn, và những lỗ hổng
này thông thường có thể lấp đầy lại được. Các nhà toán học thì cần phải có năng khiếu
bẩm sinh, nhưng ai cũng có thể học được môn lượng giác.

Thứ ba, bạn cần khám phá những chỗ mà sự tự hào về kiến thức đang che lấp sự thiếu
hiểu biết của bạn, và tìm cách vượt qua điều này. Có rất nhiều người, đặc biệt đối với
những người có kiến thức chuyên sâu trong một lĩnh vực nào đó, thường xem thường kiến
thức trong các lĩnh vực khác, hoặc họ tin rằng sự thông minh nhanh trí có thể thay thế
được cho kiến thức. Ví dụ, các kĩ sư hạng nhất thường có xu hướng tự hào về việc chẳng
biết điều gì về người khác. Họ tin rằng con người nói chung quá lộn xộn để có thể có
được tư duy tốt của một người kĩ sư. Trái lại, các chuyên gia về nhân sự thường tự hào về
việc chẳng biết gì đối với các kiến thức sơ đẳng về kế toán hay các phương pháp định
lượng khác. Nhưng tự hào về những sự thiếu hiểu biết như vậy chỉ là cách tự phòng vệ.
Để đạt được các kĩ năng và kiến thức cần thiết cho công việc, bạn cần phải nhận thức
đầy đủ về các điểm mạnh của mình.

Điều chỉnh các thói quen xấu cũng là điều quan trọng không kém. Các thói quen xấu là
những điều bạn làm hoặc không làm kiềm hãm tính hiệu quả và hoạt động của bạn.
Những thói quen như thế sẽ nhanh chóng được lộ ra trong phần phản hồi. Ví dụ, một kế
hoạch hoàn hảo có thể thất bại bởi vì người lập kế hoạch không bám sát theo kế hoạch.
Cũng giống như những người thông minh khác, người này tin rằng các ý tưởng có thể

132
dịch chuyển được các ngọn núi. Nhưng những chiếc xe ủi mới có thể di chuyển các ngọn
núi, các ý tưởng chỉ chỉ ra được nơi các xe ủi nên hoạt động. Người lập kế hoạch này cần
phải biết rằng công việc sẽ chưa kết thúc một khi kế hoạch chưa được thực hiện xong.
Anh ta phải tìm kiếm người thực hiện kế hoạch và giải thích kế hoạch cho họ. Anh ta phải
điều chỉnh và thay đổi kế hoạch khi đưa nó vào thực tiễn. Và sau cùng, anh ta phải quyết
định thời điểm không thúc đẩy kế hoạch nữa.

Phản hồi cũng cho thấy vấn điều thiếu hành vi ứng xử hợp lý. Hành vi ứng xử là chất bôi
trơn cho một tổ chức. Có một quy luật tự nhiên là hai vật thể chuyển động khi va chạm
vào nhau thì sẽ sinh ra ma sát. Cũng giống như các vật vô tri vô giác, điều này cũng
đúng với con người. Hành vi ứng xử, đơn giản như nói những từ “xin vui lòng”, “cảm
ơn”, nhớ tên người khác hoặc hỏi han về gia đình người khác, giúp cho hai con người
làm việc được với nhau cho dù họ có thích nhau hay không. Những người thông minh
nhanh trí, đặc biệt là những người trẻ tuổi, thường không hiểu được điều này. Nếu phân
tích chỉ ra rằng công việc chính của một người thất bại hết lần này đến lần khác mỗi khi
họ được yêu cầu hợp tác với người khác thì có lẽ nó ám chỉ một thiếu sót trong quy tắc xã
giao hay chính là cách cư xử của người này.

So sánh kì vọng của bạn với kết quả thực sự cũng hàm chỉ những điều không nên làm. Có
rất nhiều lĩnh vực mà chúng ta chẳng có tí tài năng hoặc kĩ năng nào, và do đó có rất ít
cơ hội để tiến bộ, dù chỉ tới mức tầm thường. Trong các lĩnh vực đó, một người, đặc biệt
là một người lao động trí thức, không nên làm việc và nhận nhiệm vụ. Người ta càng cố
gắng giảm thiểu các nỗ lực tập trung vào các lĩnh vực mình kém năng lực càng tốt. Phát
triển từ chỗ không có năng lực trở thành bình thường thì tốn công sức hơn nhiều so với
việc phát triển từ mức hoạt động tốt lên xuất sắc. Thế vậy mà vẫn có rất nhiều người, đặc
biệt là hầu hết các giáo viên và các tổ chức, tập trung vào việc biến những người không
có năng lực thành những người bình thường. Thay vào đó, công sức, nguồn lực và thời
gian nên được dành cho việc biến những con người có năng lực thành những con người
xuất sắc.

Tôi hành động bằng cách nào?

133
Thật ngạc nhiên khi có rất ít người biết được cách thức họ làm việc. Thực vậy, hầu hết
chúng ta thậm chí còn không biết được là những con người khác nhau thì thực hiện công
việc theo những cách khác nhau. Có rất nhiều người làm việc theo những cách không
phải là của họ, và điều này hầu như chắc chắn dẫn tới việc họ chẳng làm được gì cả. Đối
với những người lao động trí thức, câu hỏi Tôi làm việc bằng cách nào? thậm chí còn
quan trọng hơn câu hỏi Điểm mạnh của tôi là gì?

Cũng giống như điểm mạnh, cách làm việc của những người khác nhau là khác nhau.
Điều này thuộc về vấn đề tính cách cá nhân. Cho dù tính cách được hình thành một cách
tự nhiên hay là do nuôi dưỡng đi chăng nữa thì có thể chắc chắn một điều rằng tính cách
được hình thành rất lâu trước khi người ta đi làm. Và cách một người làm việc là một
điều đã có, cũng giống như các thế mạnh và yếu của mỗi người là một điều đã có. Cách
làm việc của một con người chỉ có thể thay đổi tí chút chứ không thể thay đổi hoàn toàn
được, và điều này cũng không phải dễ dàng gì. Cũng giống như việc người ta chỉ đạt
được kết quả bằng cách làm những việc người ta giỏi, họ cũng chỉ đạt được kết quả bằng
cách mà họ thực hiện tốt nhất. Thông thường, một số ít nét tính cách sẽ quyết định cách
một người làm việc.

Tôi là một người đọc (reader) hay một người lắng nghe (listener)? Điều đầu tiên cần
phải biết là bạn là một người đọc hay một người lắng nghe. Rất ít người biết được có hai
loại người: người đọc hay là người lắng nghe, và rất ít người thuộc cả hai. Số người biết
được họ thuộc loại nào trong hai loại trên thậm chí còn hiếm hơn. Một số thí dụ sau đây
sẽ chỉ ra được mức độ tai hại của việc không nhận thức được hai loại này.

Khi còn là Tư lệnh tối cao của lực lượng đồng minh ở châu Âu, Dwight Eisenhower trở
thành một người được giới báo chí yêu thích. Các buổi họp báo của ông có phong cách
nổi tiếng. Eisenhower luôn tỏ ra làm chủ hoàn toàn bất kì câu hỏi nào được đặt ra, và
ông có khả năng mô tả tình hình và giải thích chính sách gói gọn trong chỉ hai hoặc ba
câu sử dụng ngôn từ bóng bẩy và lịch lãm. Mười năm sau đó, chính những nhà báo đã
từng ngưỡng mộ Eisenhower đã trở nên coi thường ông. Họ phàn nàn rằng ông không
bao giờ tập trung vào câu hỏi mà chỉ nói huyên thuyên không ngừng về những chuyện

134
chẳng liên quan. Họ không ngừng nhạo báng rằng ông đã làm hỏng tiếng Anh bằng các
câu trả lời không mạch lạc và sai chính tả.

Rõ ràng là Eisenhower không biết rằng ông là một người đọc chứ không phải là một
người lắng nghe. Khi còn là Tư lệnh tối cao tại châu Âu, cấp dưới của Eisenhower luôn
đảm bảo rằng mọi câu hỏi từ giới báo chí phải được đưa ra ở dạng văn bản ít nhất là
nửa tiếng trước khi cuộc họp báo bắt đầu. Và do đó Eisenhower đã làm chủ hoàn toàn.
Khi trở thành tổng thống, ông đã kế vị hai người tiền nhiệm thuộc loại lắng nghe là
Franklin D. Roosevelt và Harry Truman. Cả hai người này đều biết họ là những người
lắng nghe nên cảm thấy rất thoải mái với các cuộc họp báo mở. Eisenhower có lẽ đã nghĩ
rằng ông phải làm những gì mà hai người tiền nhiệm của mình đã làm. Kết cục là ông
không bao giờ lắng nghe được các câu hỏi của giới báo chí. Và Eisenhower không phải
là một trường hợp quá hiếm hoi về một người không biết lắng nghe.

Một vài năm sau đó, Lydon Johnson hầu như đã tự phá hủy cương vị tổng thống của
mình chỉ vì không biết rằng mình là một người lắng nghe. Người tiền nhiệm của ông,
John Kennedy, là một người đọc. Kennedy đã tập hợp quanh mình nhiều thư kí và trợ lý
để đảm bảo rằng ông nhận được thông tin dưới dạng các memo trước khi thảo luận vấn
đề với mọi người. Johnson đã giữ lại những người này, và họ vẫn tiếp tục viết. Và rõ
ràng ông đã không thể hiểu nổi được chữ nào của họ. Tuy nhiên, khi còn là một thượng
nghị sĩ, Johnson đã rất xuất sắc trong vai trò của một người nghe, phẩm chất mà đa số
các nghị sĩ quốc hội Mỹ cần phải có.

Có ít người lắng nghe được chuyển hoặc tự chuyển thành những người đọc có năng lực,
và ngược lại. Người lắng nghe nếu cố gắng trở thành một người đọc sẽ chịu chung số
phận với Lyndon Johnson, và ngược lại một người đọc cố gắng trở thành người lắng
nghe sẽ chịu chung số phận với Dwight Eisenhower. Họ sẽ không thực hiện hay đạt được
cái gì cả.

Tôi học bằng cách nào? Điều thứ hai cần phải biết về cách làm việc là biết về cách học.
Có nhiều người viết giỏi, như Winston Churchill, học hành rất kém. Họ chỉ nhớ đến thời
kì đi học như những màn tra tấn. Tuy vậy, có ít bạn học của họ có cùng cách nghĩ như

135
vậy. Họ có thể đã không vui vẻ khi đi học lắm, nhưng điều tồi tệ hơn họ phải chịu đựng
chính là sự chán chường. Theo nguyên tắc, lời giải thích cho chuyện này chính là vì
những người viết không học bằng cách lắng nghe hay đọc. Họ học bằng cách viết. Bởi vì
trường học không cho phép họ học theo cách này nên thứ bậc của họ rất kém.

Trường học ở khắp mọi nơi được tổ chức dựa trên giả định là chỉ có một cách đúng đắn
để học và chỉ có một cách được áp dụng cho tất cả mọi người. Thật là chán nản nếu một
học sinh với một cách học khác biệt bị ép phải học theo cách dạy của nhà trường. Thực
vậy, có cả nửa tá cách khác nhau để người ta học.

Có những người, giống như Churchill, học bằng cách viết. Nhiều người học bằng cách
ghi chú. Ví dụ, Beethoven đã để lại một số lượng rất lớn các bản thảo, nhưng ông cho
biết ông chưa bao giờ thực sự nhìn vào chúng khi ông soạn nhạc. Khi được hỏi tại sao
ông lại giữ các bản thảo, người ta kể lại ông đã trả lời rằng: “Nếu tôi không viết xuống
ngay lập tức, tôi sẽ quên nó ngay. Nhưng nếu tôi viết vào một cuốn sổ nháp, tôi sẽ không
bao giờ quên nó và không bao giờ nhìn nó lại một lần nữa.” Nhiều người học bằng cách
làm. Nhiều người khác học bằng cách nghe chính mình nói.

Tôi biết một giám đốc điều hành đã phát triển một công ty gia đình nhỏ và bình thường
thành công ty dẫn đầu trong ngành kinh doanh và ông ta là một người học bằng cách
nói. Ông ta có thói quen mỗi tuần một lần gọi toàn bộ nhân viên cấp cao vào trong phòng
của mình và nghe ông ta nói từ 2 đến 3 tiếng. Ông ta đưa ra các vấn đề chính sách và
tranh luận với ba vị trí ở mỗi vấn đề. Ông ta hiếm khi yêu cầu các cộng sự của mình đưa
ra lời bình luận hay câu hỏi, ông ta chỉ đơn giản cần khán giả để nghe ông ta nói. Đó là
cách học của ông ta. Và mặc dù ông ta là một trường hợp tương đối hiếm, học hỏi bằng
cách nói không phải là một phương pháp bất thường. Các luật sư tranh tụng thành công
và các thầy thuốc chẩn đoán bệnh cũng học bằng cách này (và tôi cũng vậy).

Trong số những điều quan trọng cần biết về bản thân, hiểu được cách học là điều dễ
dàng nhất. Khi tôi hỏi mọi người “bạn học bằng cách nào?”, hầu hết đều biết câu trả lời.
Nhưng khi tôi hỏi “Bạn có hành động dựa trên những kiến thức này không?”, thì có ít
người trả lời là có. Thực ra, hành động dựa trên kiến thức mới là điều quan trọng trong

136
thực hiện, hay đúng hơn là, không hành động dựa trên kiến thức sẽ bị quy cho là không
thực hiện.

Tôi là một người đọc hay một người lắng nghe? Và tôi học bằng cách nào? là những câu
hỏi đầu tiên cần phải đặt ra. Nhưng điều này không có nghĩa là chỉ đặt ra những câu hỏi
này. Để quản trị bản thân một cách hiệu quả, bạn cũng cần phải hỏi Tôi có làm việc tốt
với mọi người hay không, hay tôi chỉ là một người cô độc? Và nếu bạn làm việc tốt với
mọi người thì bạn phải hỏi là trong mối quan hệ nào?

Một số người làm tốt ở vị trí cấp dưới. Tướng George Patton, anh hùng quân đội vĩ đại
của nước Mỹ trong Thế chiến II, là một ví dụ điển hình. Patton là một Tư lệnh quân đội
hàng đầu của nước Mỹ. Tuy nhiên khi ông được đề nghị giao quyền chỉ huy độc lập,
tướng George Marshall (người đứng đầu phụ trách nhân sự cho quân đội Mỹ và có lẽ là
người tuyển chọn nhân sự thành công nhất trong lịch sử nước Mỹ) nói rằng: “Patton là
trợ lý tốt nhất mà quân đội Mỹ từng có, nhưng ông ta sẽ là một Tư lệnh dở nhất”.

Một số người làm việc tốt nhất khi là thành viên trong một đội nhóm. Một số người khác
làm việc tốt nhất khi được một mình. Một số người đặc biệt có tài năng trong vai trò
huấn luyện viên hay người hướng dẫn, một số người khác thì không có năng lực hướng
dẫn người khác.

Một câu hỏi quyết định khác nữa là Tôi tạo ra kết quả trong vai trò một người đưa ra
quyết định hay là một người tư vấn? Có rất nhiều người thực hiện tốt công việc của một
nhà tư vấn nhưng không thể đảm đương được gánh nặng và áp lực của việc đưa ra quyết
định. Ngược lại, cũng có nhiều người cần một nhà tư vấn để buộc bản thân phải suy
nghĩ, từ đó họ có thể đưa ra các quyết định và hành động dựa trên quyết định với tốc độ,
sự tự tin, và lòng can đảm.

Và đây cũng là lý do người số hai trong một tổ chức thường thất bại khi được đề bạt lên
vị trí số một. Vị trí cao cần có những người đưa ra quyết định. Những người có khả năng
đưa ra quyết định mạnh mẽ thường đưa những người mà họ tin tưởng vào vị trí số hai để
làm những nhà tư vấn. Và các nhà tư vấn hoạt động xuất sắc trong vị trí này. Nhưng

137
những người này lại thất bại trong vị trí của người số một. Họ biết được các quyết định
nên như thế nào nhưng lại không thể nhận trách nhiệm về việc tự mình thực sự đưa ra
quyết định.

Những câu hỏi quan trọng khác cần phải đặt ra bao gồm Tôi có thể thực hiện tốt khi chịu
áp lực hay không, hay tôi có cần một môi trường có tính tổ chức cao và có thể dự đoán
trước được hay không? Tôi làm việc tốt nhất trong một tổ chức lớn hay một tổ chức
nhỏ? Có ít người có thể làm việc tốt trong tất cả các loại môi trường khác nhau. Tôi hay
gặp những người rất thành công trong những tổ chức lớn nhưng lại tỏ ra lao đao khi
phải chuyển qua những tổ chức nhỏ hơn và ngược lại.

Kết luận được rút ra là: đừng cố gắng để thay đổi bản thân bạn, bạn sẽ không thành
công đâu. Thay vào đó hãy làm việc thật chăm chỉ để phát triển cách bạn làm việc. Và cố
gắng đừng nhận những việc bạn không thể thực hiện hoặc thực hiện rất kém.

Giá trị của tôi là gì?

Để có thể quản trị bản thân, bạn phải hỏi Giá trị của tôi là gì? Đây không phải là một
câu hỏi thuộc về vấn đề đạo đức. Các quy tắc trong đạo đức giống nhau cho tất cả mọi
người, và thử nghiệm đạo đức cũng đơn giản. Tôi gọi đó là “thử nghiệm phản chiếu”.

Trong những năm đầu của thế kỉ trước (thế kỉ XX), nhà ngoại giao được tôn trọng nhiều
nhất trong tất cả các nước lớn chính là ngài đại sứ Đức tại London. Rõ ràng ông được
sinh ra để dành cho những điều vĩ đại – ít nhất là trở thành Bộ trưởng bộ ngoại giao, nếu
như chưa nói đến chức Thủ tướng. Tuy vậy, năm 1906 ông đột ngột từ chức chứ không
chịu làm chủ tọa một buổi ăn tối được chuẩn bị bởi lực lượng ngoại giao cho vua
Edward VII. Vị vua này khét tiếng là một người lăng nhăng với phụ nữ và đã nói rõ ra ý
đồ muốn buổi tối được tổ chức theo ý vua. Người ta kể lại rằng ngài đại sứ đã nói: “Tôi
từ chối nhìn một gã ma cô trong gương vào buổi sáng khi tôi cạo râu”.

Đó chính là thử nghiệm phản chiếu. Đạo đức đòi hỏi bạn phải tự hỏi chính mình Tôi
muốn nhìn tôi là loại người nào trong gương vào buổi sáng? Những điều được cho là
hành vi có đạo đức ở một loại tổ chức hay tình huống thì cũng là hành vi có đạo đức ở

138
loại tổ chức hay tình huống khác. Nhưng đạo đức cũng chỉ là một phần của hệ thống giá
trị, đặc biệt đối với hệ thống giá trị của một tổ chức.

Một người làm việc trong một tổ chức có hệ thống giá trị không thể chấp nhận được hoặc
không phù hợp với hệ thống giá trị của người này sẽ dẫn đến sự thất vọng và hoạt động
không có kết quả.

Hãy xem xét kinh nghiệm của một chuyên viên nhân sự rất thành công làm việc tại một
công ty bị mua lại bởi một tổ chức khác lớn hơn. Sau vụ mua lại, cô này được đề bạt làm
những việc cô làm tốt nhất, bao gồm cả việc tuyển chọn con người vào những vị trí quan
trọng. Chuyên viên này hoàn toàn tin rằng một công ty chỉ nên tuyển người vào những vị
trí như vậy từ bên ngoài nếu trong nội bộ công ty không thể tìm được người thích hợp.
Nhưng công ty mới của cô lại tin rằng đầu tiên cần nên tìm người ở ngoài công ty để có
thể mang lại làn gió mới cho công ty. Có nhiều điều cần phải bàn đến cho cả hai phương
pháp, nhưng theo kinh nghiệm của tôi tốt hơn hết nên áp dụng cả hai. Cô này và công ty
đã cơ bản không phù hợp với nhau về giá trị (chứ không phải về chính sách). Họ bày tỏ
những quan điểm khác nhau về mối quan hệ giữa tổ chức và con người; quan điểm khác
nhau về trách nhiệm của một tổ chức đối với con người của tổ chức và sự phát triển của
họ; và quan điểm khác nhau về những đóng góp quan trọng nhất của cá nhân cho doanh
nghiệp. Sau vài năm thất vọng, cuối cùng cô cũng rời khỏi công ty với một mức tổn thất
đáng kể. Những giá trị của cô và những giá trị của tổ chức chỉ đơn giản là không phù
hợp với nhau.

Tương tự như vậy, một công ty dược phẩm cố gắng để đạt được kết quả có thể bằng cách
thực hiện các cải tiến nhỏ và liên tục hoặc bằng cách tạo ra một số ít các bước ngoặt với
chi phí và rủi ro cao. Việc áp dụng phương pháp nào cơ bản không phải là một câu hỏi
về kinh tế. Kết quả của cả hai chiến lược có thể rất giống nhau. Xét về bản chất, có sự
xung đột giữa hệ thống giá trị coi sự đóng góp của công ty là giúp các bác sỹ thực hiện
tốt hơn phần việc của mình và hệ thống giá trị hướng đến các khám phá khoa học.

Một doanh nghiệp nên hoạt động vì các kết quả ngắn hạn hay tập trung vào các mục tiêu
dài hạn cũng là vấn đề giá trị. Các nhà phân tích tài chính tin rằng các doanh nghiệp có

139
thể hoạt động phục vụ cho đồng thời cả hai mục tiêu. Những doanh nhân thành công hiểu
biết về điều này tốt hơn. Để chắc chắn, mỗi công ty tạo ra được kết quả trong ngắn hạn.
Nhưng trong mối xung đột giữa kết quả trong ngắn hạn và tăng trưởng trong dài hạn,
mỗi công ty cần phải xác định thứ tự ưu tiên cho riêng mình. Điều này căn bản không
phải là sự bất đồng về kinh tế học. Nó căn bản là một xung đột giá trị liên quan đến chức
năng của một doanh nghiệp và trách nhiệm của ban quản trị.

Các xung đột giá trị không chỉ giới hạn trong các tổ chức kinh doanh. Một trong những
nhà thờ miền quê tăng trưởng nhanh nhất nước Mỹ đánh giá thành công dựa vào số
lượng giáo dân mới. Lãnh đạo nhà thờ này tin rằng số lượng người mới tham gia và giáo
đoàn mới là điều quan trọng. Thiên Chúa sẽ chăm lo nhu cầu về tâm linh hay ít ra một
phần vừa đủ nhu cầu tâm linh của họ. Một nhà thờ phúc âm miền quê khác lại tin rằng
điều quan trọng phải là sự phát triển tâm linh. Nhà thờ này không tính những người đi
nhà thờ nhưng không tham gia đời sống tâm linh.

Một lần nữa, đây không phải là vấn đề của các con số. Nếu chỉ nhìn sơ qua, dường như
nhà thờ thứ hai tăng trưởng chậm hơn. Nhưng thực sự nó lại giữ chân được phần lớn hơn
những người mới đến so với nhà thờ thứ nhất. Điều này có nghĩa là sự tăng trưởng của
nó vững chắc hơn. Đây cũng không phải là vấn đề thứ yếu hay lý thuyết. Đây là vấn đề
giá trị. Trong một lần tranh luận công khai, một mục sư cho rằng “Nếu đầu tiên bạn
không đến nhà thờ thì bạn sẽ không bao giờ tìm thấy cánh cổng đi vào vương quốc của
Thiên đường”.

Nhưng một mục sư khác lại không cho là như vậy, ông này nói “Cho đến khi bạn chưa
nhìn thấy cánh cổng của Thiên đường thì bạn chưa thuộc về nhà thờ”.

Cũng giống như con người, các tổ chức cũng có giá trị. Để làm việc hiệu quả trong một
tổ chức, giá trị của mỗi người phải phù hợp với giá trị của tổ chức. Không nhất thiết hai
giá trị này phải hoàn toàn giống nhau nhưng chúng phải đủ gần gũi để có thể cùng tồn
tại. Nếu không, người ta sẽ không những cảm thấy thất vọng mà còn chẳng tạo ra được
kết quả gì cho tổ chức.

140
Các điểm mạnh của một người và cách người đó thực hiện hiếm khi mâu thuẫn với nhau,
hai điều này là bổ sung cho nhau. Nhưng đôi lúc cũng có mâu thuẫn giữa giá trị và điểm
mạnh của một người. Những gì một người làm tốt, thậm chí là rất tốt và thành công, có
thể không phù hợp với hệ thống giá trị của người đó. Trong trường hợp này, công việc
dường như không đáng để người này cống hiến cả đời (hay là một phần lớn của cuộc
đời).

Cho phép tôi được kể một chút về cá nhân tôi. Cách đây nhiều năm, tôi phải quyết định
lựa chọn giữa giá trị của mình và những việc tôi làm thành công. Tôi làm rất tốt trong
vai trò của một nhân viên ngân hàng phụ trách đầu tư ở Luân Đôn vào giữa những năm
1930. Công việc này rất thích hợp với các điểm mạnh của tôi. Tuy nhiên, tôi lại thấy
mình không có khả năng cống hiến ở vị trí giám đốc quản lý tài sản. Tôi nhận ra rằng,
con người mới chính là điều mà tôi đánh giá cao, và tôi thấy thật là vô nghĩa để trở
thành người giàu có nhất ở giữa nghĩa địa. Tôi đã không có tiền và không có triển vọng
cho công việc. Mặc cho suy thoái kinh tế liên tục xảy ra, tôi đã xin nghỉ việc, và đó là một
điều đúng đắn mà tôi đã làm. Nói theo cách khác, giá trị là và nên là thử nghiệm cao
nhất.

Tôi thuộc về lĩnh vực nào?

Có rất ít người sớm biết được họ thuộc về lĩnh vực nào. Các nhà toán học, nhạc sĩ, hay
đầu bếp thường biết mình là nhà toán học, nhạc sĩ, đầu bếp khi họ mới chỉ 4 hay 5 tuổi.
Các bác sỹ thường quyết định nghề nghiệp ở độ tuổi từ 10 đến 20, nếu không muốn nói là
có thể sớm hơn. Nhưng hầu hết tất cả mọi người, đặc biệt là những người có năng khiếu
cao, thường không biết họ thực sự thuộc về lĩnh vực nào cho đến khi họ vượt qua độ tuổi
25. Vào thời điểm đó, họ nên biết được câu trả lời cho ba câu hỏi sau: Điểm mạnh của
tôi là gì? Tôi thực hiện bằng cách nào? và Giá trị của tôi là gì? Và sau đó họ nên và có
thể quyết định họ thuộc về lĩnh vực nào.

Hay đúng hơn, họ nên quyết định xem họ không thuộc về những lĩnh vực nào. Một người
khi đã biết rằng mình không thể làm tốt trong một tổ chức lớn thì nên học cách từ chối
những vị trí trong tổ chức lớn. Một người khi đã biết mình không phải là người ra quyết

141
định thì nên học cách từ chối một nhiệm vụ cần đến việc ra quyết định. Một người như
tướng Patton thì nên học cách để từ chối vị trí tư lệnh độc lập (có lẽ Patton cũng không
tự nhận biết được điều này).

Quan trọng không kém, biết được câu trả lời cho những câu hỏi này sẽ giúp một người
ứng xử được với một cơ hội, một lời đề nghị, hay một nhiệm vụ: “Vâng, tôi sẽ làm điều
đó. Nhưng đây mới là cách mà tôi làm. Đây mới là cách mà nó nên được tổ chức. Đây
mới là cách mà các mối quan hệ nên là. Đây mới là những kiểu kết quả mà anh nên kì
vọng từ bản thân tôi trong khung thời gian như thế này, bởi vì điều này chính là tôi.”

Những sự nghiệp thành công không bao giờ được lên kế hoạch trước. Chúng được phát
triển khi con người chuẩn bị cho cơ hội bởi vì họ biết được điểm mạnh, phương pháp làm
việc và giá trị của mình. Việc biết được lĩnh vực mà một người thuộc về có thể giúp người
này chuyển từ một con người bình thường (làm việc chăm chỉ và có năng lực nhưng vẫn
bình thường) thành một con người nổi bật.

Tôi nên đóng góp những gì?

Trong quá khứ, đại đa số mọi người đều không đặt ra câu hỏi Tôi nên đóng góp những
gì? Họ được chỉ bảo cần phải đóng góp những gì. Nhiệm vụ có thể được giao bởi chính
bản thân công việc như đối với trường hợp người nông dân hay thợ thủ công, hay có thể
được giao bởi những ông chủ hay bà chủ, như trong trường hợp của người giúp việc
trong nhà. Cho tới những năm gần đây, hầu như ai cũng biết rằng hầu hết những người
cấp dưới đều làm theo những gì họ được chỉ bảo. Ngay cả vào những năm 1950 và 1960,
những người lao động trí thức mới (có thể gọi là những con người của tổ chức) vẫn còn
nhờ vào bộ phận nhân sự trong công ty họ để đưa ra kế hoạch cho sự nghiệp của mình.

Nhưng đến cuối những năm 1960, không ai còn muốn được chỉ bảo những gì cần phải
làm. Những người đàn ông và phụ nữ trẻ tuổi bắt đầu đặt câu hỏi Tôi muốn làm gì? Và
những gì họ nghe thấy được chính là: phương thức đóng góp chính là hãy làm những
công việc của chính bạn. Nhưng giải pháp này cũng sai lầm giống như sai lầm của
những người lao động trí thức mới. Có những người tin rằng mỗi người làm công việc

142
của chính mình sẽ đưa đến kết quả đóng góp, tự hoàn thành công việc và thành công.
Trong số những người này, có rất ít người đạt được thậm chí một trong ba điều đó.

Nhưng điều này cũng không có nghĩa là nên quay lại với cách làm cũ là làm theo những
lời chỉ bảo hay những công việc được giao. Những người lao động trí thức nói riêng cần
phải học cách đặt ra một câu hỏi mà trước đây chưa từng được đặt ra: Những đóng góp
của tôi nên là gì? Để trả lời câu hỏi này, họ phải xem xét ba yếu tố riêng biệt: Vị trí của
mình yêu cầu những gì? Với những điểm mạnh của mình, cách thực hiện của mình, và
giá trị của mình, làm thế nào để tôi có thể đóng góp nhiều nhất cho những công việc cần
phải làm? Và sau cùng, những kết quả nào cần phải đạt được để tạo ra sự khác biệt?

Hãy xem xét kinh nghiệm của một nhà quản trị bệnh viện vừa mới được bổ nhiệm. Đây là
một bệnh viện lớn và uy tín, nhưng danh tiếng của nó đang xuống cấp dần trong 30 năm
qua. Nhà quản trị mới đã quyết định rằng ông nên đóng góp thiết lập một tiêu chuẩn dịch
vụ hoàn hảo trong một khu vực quan trọng trong vòng một năm. Ông đã chọn tập trung
vào phòng cấp cứu. Đây là một phòng lớn, dễ nhìn và còn khá lộn xộn. Ông đưa ra quyết
định rằng mỗi khi có bệnh nhân được đưa vào phòng cấp cứu thì trong vòng 60 giây phải
có một y tá đủ trình độ đến chăm sóc. Trong vòng 12 tháng, phòng cấp cứu của bệnh viện
này trở thành hình mẫu cho tất cả các bệnh viện trên nước Mỹ. Và sau 2 năm nữa, toàn
bộ các bộ phận của bệnh viện đã được thay đổi.

Cũng như những điều rút ra được từ ví dụ trên, một kế hoạch nếu có tầm nhìn quá xa thì
sẽ trở thành không thể. Một kế hoạch thường không thể vừa bao quát hơn 18 tháng mà
vừa rõ ràng vừa cụ thể. Vì vậy, câu hỏi đặt ra trong đa số các trường hợp là Làm thế nào
và ở đâu tôi có thể đạt được kết quả tạo ra sự khác biệt trong vòng một năm rưỡi
tới? Câu trả lời là sự kết hợp của nhiều thứ. Đầu tiên, các kết quả đề ra nếu muốn đạt
được cần phải có nhiều nỗ lực, hay các kết quả nên được “nới thêm ra”, theo cách nói
thông thường. Nhưng kết quả cũng cần phải nằm trong tầm với. Vươn tới những kết quả
không thể đạt được, hoặc có thể đạt được nhưng trong những hoàn cảnh khó xảy ra,
không phải là thể hiện sự tham vọng, điều này chỉ thể hiện sự ngu ngốc. Thứ hai, các kết
quả cần phải có ý nghĩa. Chúng nên tạo ra được một điều khác biệt. Cuối cùng, kết quả

143
nên nhìn thấy được, và nếu có thể, nên đo lường được. Từ những điều này có thể đưa ra
những quy tắc hành động: làm cái gì, xuất phát ở đâu và như thế nào, mục tiêu và giới
hạn thời gian là gì.

Trách nhiệm đối với các mối quan hệ

Có rất ít người có thể tự làm việc và tự đạt được kết quả. Những người này bao gồm
nhiều nghệ sỹ lớn, nhiều nhà khoa học lớn, và nhiều vận động viên lớn. Hầu hết mọi
người làm việc với người khác và trở nên hiệu quả khi làm việc với người khác. Điều này
đúng cho cả trường hợp họ là thành viên trong một tổ chức hay được thuê làm việc một
cách độc lập. Quản trị bản thân đòi hỏi trách nhiệm đối với các mối quan hệ. Điều này
có hai phần.

Phần thứ nhất là phải chấp nhận sự thật rằng cũng giống như bạn, mỗi con người là một
cá nhân khác nhau. Họ luôn duy trì cư xử theo cách của họ. Điều này có nghĩa là họ
cũng có những điểm mạnh riêng của họ, có cách làm việc riêng của họ, có những giá trị
của riêng mình. Do đó, để làm việc hiệu quả, bạn cần phải biết được điểm mạnh, cách
làm việc, và giá trị của đồng nghiệp của bạn.

Điều này xem ra có vẻ đơn giản, nhưng có ít người chú ý tới điều này. Một cách điển
hình, nếu một người được huấn luận để viết báo cáo trong nhiệm vụ đầu tiên của mình
thì bởi vì sếp của người này chính là một người đọc. Ngay cả nếu người sếp tiếp theo của
người này là một người nghe mà người này vẫn tiếp tục viết báo cáo như trước thì kết
cục sẽ không tạo ra được kết quả gì. Người sếp mới này sẽ nghĩ ngay là nhân viên này
không có kiến thức, không có năng lực, lười biếng, và sớm muộn gì cũng sẽ thất bại.
Nhưng điều này có thể tránh được nếu người nhân viên chịu quan sát sếp mới của mình
và phân tích cách thực hiện của người này.

Người sếp không phải là một chức danh trong sơ đồ của một tổ chức và cũng không phải
là một “chức năng”. Họ là những cá nhân và được phép làm việc theo cách mà họ làm
tốt nhất. Phận sự của những người làm việc với họ là phải quan sát họ, tìm hiểu cách họ

144
làm việc, và tự điều chỉnh để làm cho những người sếp có hiệu quả cao nhất. Thực sự,
đây chính là bí mật của việc “quản lý” sếp của mình.

Điều này vẫn đúng khi áp dụng với tất cả đồng nghiệp của bạn. Mỗi người làm việc theo
cách của họ chứ không phải cách của bạn. Và mỗi người được phép làm việc theo những
cách của riêng họ. Điều quan trọng là họ thực hiện bằng cách nào và giá trị của họ là gì.
Hầu như mỗi người đều có một cách thực hiện khác nhau. Điều bí mật đầu tiên của tính
hiệu quả chính là hiểu được những người mà bạn làm việc chung hay phụ thuộc vào để
từ đó có thể khai thác được những điểm mạnh của họ, cách họ làm việc, và giá trị của họ.
Các mối quan hệ công việc dựa trên bản thân con người cũng nhiều như dựa trên chính
bản thân công việc.

Phần thứ hai của trách nhiệm đối với các mối quan hệ chính là phải có trách nhiệm giao
tiếp. Bất cứ khi nào tôi, hay bất cứ một nhà tư vấn nào khác, bắt đầu làm việc với một tổ
chức, điều đầu tiên tôi nghe thấy là tất cả những mâu thuẫn tính cách cá nhân. Hầu hết
những điều này phát sinh từ thực tế rằng người ta không biết những người khác đang làm
gì và cách những người này làm việc, hoặc những đóng góp nào mà những người khác
tập trung vào và họ kì vọng những kết quả nào. Và họ không biết những điều này bởi vì
họ đã không hỏi, và do đó không nhận được câu trả lời.

Không nắm những thông tin cần thiết phản ánh sự ngớ ngẩn của con người hơn là phản
ánh lịch sử con người. Mãi đến gần đây, người ta cảm thấy không cần thiết phải nói
những điều này với người khác. Trong các thành phố thời trung cổ, mọi người trong một
quận đều làm công việc buôn bán giống nhau. Ở các miền quê, trong cùng một thung
lũng mọi người canh tác cùng một vụ mùa ngay sau khi lớp băng tuyết tan ở mặt đất tan
ra hết. Ngay cả khi có vài người làm một mình những việc không giống với những người
khác lắm thì họ cũng không kể cho người khác nghe họ đang làm gì.

Ngày nay đại đa số mọi người làm việc với những người khác, những người có những
phận sự và trách nhiệm khác nhau. Một vị phó giám đốc marketing có thể có thể xuất
phát từ bán hàng và biết tất cả mọi thứ về bán hàng, nhưng cô ấy lại không biết điều gì
về những điều mà cô ấy chưa bao giờ làm như định giá, quảng cáo, đóng gói, và những

145
thứ như thế. Vì vậy, những người làm những phần này phải chắc chắn rằng vị phó giám
đốc marketing của họ hiểu những gì họ đang cố gắng làm, tại sao họ lại cố gắng làm
những điều đó, họ làm những điều đó bằng cách nào, và những kết quả được kì vọng là
gì.

Nếu vị phó giám đốc marketing không hiểu những gì những chuyên viên với kiến thức sâu
sắc này đang làm, căn bản đó là lỗi của họ, chứ không phải lỗi của cô ấy. Họ đã không
chỉ cho cô ấy công việc của họ. Ngược lại, vị phó giám đốc marketing phải có trách
nhiệm đảm bảo rằng tất cả những cộng sự của cô hiểu được cách cô nhìn nhận về
marketing: các mục tiêu của cô là gì, cô làm việc như thế nào, cô kì vọng gì ở bản thân
mình và ở từng người làm việc với cô.

Ngay cả những người nhận thức được tầm quan trọng của việc chịu trách nhiệm về các
mối quan hệ thường không giao tiếp đầy đủ với những cộng sự của mình. Họ sợ mọi
người sẽ nghĩ họ quá tự tin, tò mò hay ngu ngốc. Họ đã sai. Bất cứ khi nào một người
đến chỗ làm việc của cộng sự của mình và nói rằng “Đây là những thế mạnh của tôi.
Đây là cách tôi làm việc. Đây là những giá trị của tôi. Đây là những đóng góp mà tôi lên
kế hoạch tập trung vào, và đây là những kết quả mà tôi được kì vọng sẽ đạt được”, câu
trả lời sẽ luôn như thế này “Đây là điều hữu ích nhất. Nhưng tại sao anh lại không nói
điều đó sớm hơn nhỉ?”.

Và một người sẽ nhận được cùng một cách phản ứng (không có ngoại lệ nào cả theo kinh
nghiệm của tôi) nếu người này tiếp tục hỏi “Và tôi cần phải làm gì để biết những điểm
mạnh của anh, cách anh làm việc, giá trị của anh, và những đóng góp được đề xuất?”.
Thực tế, người lao động tri thức nên đặt câu hỏi này với tất cả những người họ làm việc
với, bao gồm cả những người cấp dưới, cấp trên, bạn đồng nghiệp, hay là một người
trong nhóm làm việc. Một lần nữa, mỗi khi bạn đặt ra câu hỏi này, phản ứng sẽ luôn luôn
là “Cảm ơn vì đã hỏi tôi. Nhưng tại sao anh không hỏi tôi sớm hơn nhỉ?”.

Các tổ chức ngày nay không còn được xây dựng dựa trên quyền lực hay sự tin tưởng nữa.
Tồn tại sự tin tưởng giữa mọi người không nhất thiết có nghĩa là họ thích nhau. Điều đó
chỉ có nghĩa là họ hiểu nhau. Vì vậy, chịu trách nhiệm về các mối quan hệ là một điều rất

146
cần thiết. Nó là một trách nhiệm. Cho dù ta là thành viên của một tổ chức, hay là một
nhà tư vấn của tổ chức, một nhà cung cấp, hay là một nhà phân phối, ta cần phải chịu
trách nhiệm đối với các cộng sự của mình: những người mà ta phụ thuộc vào công việc
của họ cũng như họ phụ thuộc vào công việc của ta.

Nửa kia của cuộc đời

Khi công việc đối với nhiều người chỉ có nghĩa là lao động chân tay thì không cần thiết
phải lo lắng về nửa kia của cuộc đời. Đơn giản bạn chỉ cần tiếp tục làm những việc bạn
đã luôn làm. Và nếu bạn có đủ may mắn để tồn tại sau 40 năm làm việc chăm chỉ trong
nhà máy hoặc đường sắt, bạn sẽ thấy hạnh phúc dành nửa đời còn lại không làm gì cả.
Tuy nhiên, ngày nay hầu hết công việc đều là công việc đòi hỏi trí thức, và người lao
động trí thức không “kết thúc” sau 40 năm làm việc, họ chỉ cảm thấy chán mà thôi.

Chúng ta đã nghe nhiều các câu chuyện về sự khủng hoảng ở giữa cuộc đời của các nhà
quản trị. Hầu hết chúng đều là sự nhàm chán. Ở độ tuổi 45, hầu hết các nhà quản trị đều
đã lên tới đỉnh cao trong sự nghiệp kinh doanh của mình, và họ biết điều đó. Sau 20 năm
làm cùng một loại công việc, họ trở nên rất giỏi trong công việc của mình. Nhưng bây
giờ thì họ không học hỏi được gì, hay đóng góp, hay nhận được thử thách và sự thỏa mãn
từ công việc. Và họ vẫn đối mặt với 20 hay 25 năm làm việc nữa. Đó là lý do tại sao quản
trị bản thân ngày càng hướng ta đến vệc bắt đầu một sự nghiệp thứ hai.

Có ba cách để phát triển một sự nghiệp thứ hai. Cách thứ nhất đơn giản là bắt đầu một
sự nghiệp khác. Thông thường thì việc này đơn giản chỉ là chuyển từ kiểu tổ chức này
sang kiểu tổ chức khác. Chẳng hạn, một nhân viên kiểm soát bộ phận trong một tổ chức
lớn trở thành nhân viên kiểm soát trong một bệnh viện cỡ vừa. Nhưng càng ngày càng có
nhiều người chuyển sang các công việc hoàn toàn mới: ví dụ, có những nhà quản trị kinh
doanh hay nhân viên chính phủ tham gia vào các bộ ở tuổi 45, hay có những giám đốc
cấp trung rời khỏi công ty sau 20 năm làm việc để nộp đơn vào học ở một trường luật và
trở thành luật sư ở một thị trấn nhỏ.

147
Chúng ta sẽ chứng kiến nhiều người chuyển qua sự nghiệp thứ hai bởi vì họ chỉ thành
công khiêm tốn trong công việc đầu tiên. Những người này đã được trang bị đầy đủ các
kĩ năng và họ đã biết cách làm việc. Họ cần một cộng đồng (ngôi nhà sẽ trở nên trống
rỗng nếu bọn trẻ đi hết ra ngoài) và họ cũng cần có thu nhập. Nhưng quan trọng hơn cả,
họ cần có thách thức.

Cách thứ hai để chuẩn bị cho nửa sau của cuộc đời là phát triển song song một sự
nghiệp khác. Có nhiều người đã rất thành công trong sự nghiệp thứ nhất của mình vẫn
tiếp tục làm những việc mình đã làm, có thể là toàn thời gian, bán thời gian hay đóng vai
trò tư vấn. Nhưng thêm vào đó, họ tạo thêm một sự nghiệp thứ hai, thông thường là trong
một tổ chức phi lợi nhuận. Công việc này có thể chiếm thêm 10 tiếng làm việc mỗi tuần.
Chẳng hạn, họ có thể tham gia vào công việc quản trị của nhà thờ, hoặc lãnh đạo hội
đồng Hướng đạo sinh dành cho nữ ở địa phương. Họ có thể tạo ra chỗ nương náu cho
phụ nữ bị ngược đãi, làm thủ thư trong một thư viện công cộng dành cho trẻ em, hay
tham gia vào hội đồng của một trường học,…

Và sau cùng, đó là các doanh nhân hoạt động xã hội. Thông thường đây là những người
đã rất thành công trong sự nghiệp thứ nhất của mình. Họ yêu công việc của mình, nhưng
không còn cảm thấy thử thách với công việc đó. Trong đa số các trường hợp, họ vẫn làm
những gì họ đã làm nhưng với thời gian ngày càng ít đi. Họ cũng khởi động những hoạt
động mới, thông thường là những hoạt động phi lợi nhuận. Một người bạn của tôi là Bob
Buford là một ví dụ. Anh ấy đã xây dựng được một công ty truyền hình rất thành công và
bây giờ vẫn còn điều hành nó. Nhưng anh cũng đã thành lập và xây dựng một tổ chức phi
lợi nhuận thành công khác. Tổ chức này làm việc với các nhà thờ đạo tin lành. Và anh ấy
cũng xây dựng một tổ chức khác nhằm giảng dạy cho các doanh nhân hoạt động xã hội
cách quản lý các tổ chức phi lợi nhuận của họ trong khi vẫn điều hành những hoạt động
kinh doanh đầu tiên của họ.

Chỉ có thiểu số người quản lý nửa sau của cuộc đời. Đa số mọi người “nghỉ hưu trong
lúc đang làm việc” và đếm từng năm cho đến khi họ thực sự được nghỉ hưu. Nhưng thiểu

148
số những người nhìn nhận thời gian làm việc trong đời dài hơn như là một cơ hội cho
chính họ và cho xã hội sẽ trở thành những nhà lãnh đạo và những hình mẫu.

Có một điều kiện tiên quyết trong việc quản trị nửa thứ hai của cuộc đời bạn: bạn phải
bắt đầu rất sớm trước khi bạn tham gia. Cách đây 30 năm, thời gian làm việc trong đời
được gia tăng rất nhanh. Rất nhiều người quan sát (trong đó có cả tôi) tin rằng những
người nghỉ hưu sẽ tham gia ngày càng nhiều vào các tổ chức phi lợi nhuận với vai trò
những tình nguyện viên. Nhưng điều này đã không xảy ra. Nếu một người không trở
thành tình nguyện viên trước khoảng 40 tuổi thì người đó cũng sẽ không trở thành tình
nguyện viên khi vượt qua tuổi 60.

Tương tự như vậy, tất cả các doanh nhân hoạt động xã hội mà tôi biết đều bắt đầu làm
việc trong tổ chức thứ hai của mình rất sớm trước khi họ vươn tới được đỉnh cao trong
công việc kinh doanh đầu tiên. Hãy xem xét trường hợp của một luật sư thành công. Ông
này là luật sư tư vấn của một tập đoàn lớn. Gần đây ông cũng đã thành lập nhiều trường
học kiểu mẫu trong bang của ông. Trước đây, ông bắt đầu làm công tác tình nguyện về
luật cho các trường học khi mới chỉ khoảng 35 tuổi. Lúc 40 tuổi thì ông được bầu vào
Ban giám hiệu. Đến lúc 50 tuổi, khi đã kiếm được cả một gia tài, ông khởi động công ty
của chính ông nhằm xây dựng và điều hành những trường học kiểu mẫu. Tuy nhiên, ông
vẫn làm việc hầu như là toàn thời gian trong vai trò lãnh đạo tư vấn tại công ty mà ông
đã làm kể từ lúc còn là một luật sư trẻ tuổi.

Có một lý do khác để phát triển một mối quan tâm lớn thứ hai và phát triển nó sớm.
Chẳng ai có thể kì vọng rằng mình sẽ sống rất lâu mà không phải trải qua những đợt
thoái trào nghiêm trọng trong cuộc sống cũng như trong công việc. Có những kĩ sư có
năng lực nhưng không được thăng tiến ở tuổi 45. Có những giáo sư đại học có năng lực
nhưng nhận ra rằng ở độ tuổi 42 mình không thể trở thành giáo sư của một truờng đại
học lớn, ngay cả khi người này hoàn toàn có đủ năng lực. Có những bi kịch cho đời sống
gia đình: sự tan rã của một cuộc hôn nhân hay sự mất mát của một đứa trẻ. Trong những
trường hợp như vậy, một mối quan tâm thứ hai (không đơn giản là một sở thích) sẽ tạo ra
sự khác biệt rất lớn. Chẳng hạn, người kĩ sư bây giờ đã nhận ra rằng mình không thành

149
công lắm trong công việc. Nhưng trong các hoạt động bên ngoài, một thủ quỹ cho nhà
thờ chẳng hạn, anh ta lại là một người thành công. Một gia đình có thể tan vỡ, nhưng
thông qua các hoạt động bên ngoài, vẫn còn đó cả một cộng đồng.

Trong một xã hội mà thành công trở thành một điều vô cũng quan trọng, việc có các lựa
chọn khác nhau càng ngày càng trở nên thiết yếu. Trong lịch sử, không có cái gì được
gọi là “thành công” cả. Hầu hết tất cả mọi người không mong cầu điều gì ngoại trừ “ở
đúng vào vị trí của mình”, như lời nguyện cầu của một người Anh già nua. Sự lưu chuyển
duy nhất là sự lưu chuyển đi xuống.

Tuy nhiên, trong xã hội tri thức, chúng ta mong muốn mỗi người ai cũng thành công.
Nhưng rõ ràng điều này là không thể. Đối với rất nhiều người, tốt nhất là không nên có
thất bại. Nhưng bất cứ chỗ nào có thành công thì chỗ đó cũng phải có thất bại. Do đó,
các cá nhân và gia đình của các cá nhân này nữa cần thiết phải có một lĩnh vực mà họ có
thể cống hiến, tạo ra sự khác biệt, và để được trở thành một ai đó. Điều đó có nghĩa là
phải tìm kiếm một lĩnh vực thứ hai (tạo dựng một sự nghiệp thứ hai, một sự nghiệp song
song, hay trở thành một doanh nhân hoạt động xã hội) để có cơ hội được trở thành lãnh
đạo, được tôn trọng và được thành công.

Những thử thách của quản trị bản thân khá rõ ràng, nếu như không muốn nói là sơ đẳng.
Và câu trả lời đã trở nên quá rõ ràng, không thể giả bộ ngây thơ không biết được. Nhưng
quản trị bản thân cần đến những điều mới mẻ và chưa từng xảy ra từ cá nhân, và đặc
biệt từ người lao động tri thức. Trên thực tế, quản trị bản thân đòi hỏi mỗi người lao
động trí thức phải suy nghĩ và cư xử như một giám đốc điều hành. Thêm nữa, sự chuyển
đổi từ những người lao động chân tay làm những gì họ được chỉ bảo sang những người
lao động trí thức tự quản trị bản thân mình thách thức một cách sâu sắc trong cấu trúc
của xã hội. Trong tiềm thức của mỗi xã hội, cho dù là trong xã hội đề cao cá nhân nhiều
nhất, có hai điều dường như là hiển nhiên: các tổ chức sống lâu hơn người lao động và
hầu hết mọi người đều ở trong một vị trí cố định.

150
Nhưng điều ngược lại mới đúng trong xã hội ngày nay. Những người lao động trí thức
sống lâu hơn các tổ chức, và họ sống rất lưu động. Do đó, nhu cầu quản trị cá nhân đang
tạo nên một cuộc cách mạng trong đời sống con người.

Peter F. Drucker & Người dịch: Phạm Phước

151

You might also like