Thao Lư C - 362892

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 7

Thao lược

"Thao lược" cũng gọi là "Lục thao, Tam lược". Đây là hai bộ sách thuộc về binh

pháp cổ Trung Hoa.

"Lục thao" do Khương Thượng tự Tử Nha, cũng gọi là Lữ Vọng hay Khương Thái

công, người đời nhà Chu (1134-314 trước D.L.) làm ra. Còn "Tam lược" là bộ

sách của Hoàng Thạch Công, người đời Tần Hán (221 trước-196 sau D.L.).

Cuối đời nhà Thương (1783-1154 trước D.L.), Trụ vương hoang dâm tàn bạo, giết

chóc trung thần, sinh linh đồ thán. Khương Thượng làm quan nhà Thương, thấy

Trụ vương vô đạo, can gián không được, xin từ quan về câu cá ở sông Vị đất Tây

Kỳ.

Văn vương là Cơ Xương, chúa chư hầu đất Tây Kỳ thân hành đến Bàn Khê đón

rước ông về làm tướng, hội chư hầu tại Mạnh Tân, cầm quân phạt Trụ. Lúc bấy

giờ ông đã 80 tuổi.

Ông là một người có tài, lật đổ ngai vàng của Trụ vương dựng cơ nghiệp nhà Chu

hơn tám trăm năm. Những mưu lược, kế hoạch dùng binh đánh trận, chấn chỉnh

giềng mối đất nước đều ghi trong bộ Lục thao.

Đây là sáu phép dùng để định thiên hạ:

- Văn thao dạy cánh thu phục nhân tâm,

- Võ thao dạy cách định thiên hạ, giữ nước,


- Long thao dạy cách kén chọn tướng,

- Hổ thao dạy cách hành quân, tiến thoái động tĩnh theo thiên lý.

- Báo thao dạy cách chiến đấu với địch, theo trạng thái biến hóa của địch.

- Khuyển thao dạy cách huấn luyện quân sĩ.

Còn "Tam lược" là mưu lược đánh trận:

- Tướng lược là mưu lược làm tướng,

- Quân lược là mưu lược của quân sĩ,

- Trận lược là mưu lược đánh trận.

Sách này do Hoàng Thạch Công, người đời Tần Hán làm ra, truyền lại cho Trương

Lương thực hành.

Trương Lương tự Tử Phòng, người nước Hàn. Sau khi nước Hàn cùng các nước

Yên, Tề, Ngụy, Sở bị Tần tiêu diệt. Thù mất nước chẳng đội trời chung, Trương

Lương ngày đêm mưu lo báo oán.

Trương Lương lúc chưa gặp thời, còn trẻ tuổi, một hôm thơ thẩn ở cầu Vị Kiều,

buồn bã ngắm cảnh. Bỗng có một cụ già mặc áo vàng đi ngang cầu làm rớt một

chiếc giày xuống bùn, lại chỉ Trương Lương bảo lượm giúp. Trương Lương không

từ chối, lật đật lội xuống lượm lên quỳ dâng. Cụ già đi một quãng lại làm rớt nữa

và bảo Trương Lương lội xuống lượm giúp. Trương Lương chẳng phiền hà và phải

lượm giày lên quỳ dâng. Đến ba lần như thế.

Cụ già nói:

- Thằng nhỏ này nên dạy.

Đoạn chỉ cây đại thọ nơi bên cầu, bảo Trương Lương:
- Năm ngày nữa, ngươi phải đến tại đây mà đợi ta, ta sẽ tặng cho ngươi một vật.

Chẳng nên quên.

Nói xong, cụ già thoăn thoắt đi mất.

Ngày thứ năm, Trương Lương dậy rất sớm ra đón cụ già như chỗ dặn. Nhưng khi

đến nơi thì đã thấy cụ già ngồi bên gốc đại thọ từ lúc nào. Cụ già nghiêm nghị bảo:

- Thằng con nít đã ước hẹn với người lớn, sao lại dám trễ. Thôi ngươi hãy về đi.

Năm ngày nữa, phải ra dậy cho sớm.

Năm ngày sau, vừa canh năm, Trương Lương đã ra đến nơi nhưng lại cũng thấy cụ

già đến trước ngồi đợi. Cụ già nổi giận nói:

- Thằng con nít, sao ngươi lại trễ nãi làm vậy. Hãy về đi. Năm hôm nữa phải đến

cho sớm.

Đêm thứ tư rạng ngày thứ năm, Trương Lương không ngủ, ra đứng bên gốc đại

thọ, bụng bảo dạ chuyến này chắc chắn không trễ nữa. Hừng đông, cụ già thong

dong đến. Dưới bóng trăng, Trương xem lại tướng mạo cụ già có vẻ khác thường.

Mình mặc đạo bào, tay cầm gậy tre; đầu đội mão da, y phục sắc vàng thật tiên

phong đạo cốt. Trương Lương bước đến đón tiếp quỳ lạy, hỏi:

- Chẳng hay tôn sư dạy bảo điều chi?

Cụ giá nói:

- Ngươi trẻ tuổi sức mạnh, cốt cách thành kỳ, ngày sau sang cả, đáng làm bực thầy

bực đế vương. Nay may gặp nhau thật là thiên tải kỳ phùng, ta cho ngươi ba quyển

sách nhiệm màu, trong này toàn là những kỳ mưu thần toán. Ngươi hãy giữ gìn

học tập mà báo thù cho nước, và theo phò chân chúa để danh rạng muôn đời.
Trương Lương lạy tạ lãnh lấy.

Sau Trương Lương phò Lưu Bang diệt Tần dứt Sở Hạng Võ rồi bỏ quan ngao du

sơn thủy.

Trong tác phẩm "Lục Vân Tiên", của cụ Nguyễn Đình Chiểu có câu:

Văn đà khởi phụng đằng giao,

Võ thêm ba lược, sáu thao ai bì.

Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn nói về tài của Từ Hải có

câu:

Đường đường một đấng anh hào,

Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.

"Ba lược, sáu thao" là hai bộ sách thuộc về binh pháp như trên đã nói. "Lược thao

gồm tài" là gồm tài thao lược, ý nói có tài dùng binh bố trận, có tài về chiến lược

chiến thuật, thông hiểu binh pháp.

Giảm bếp, tăng bếp


Đời Chiến Quốc, nước Ngụy và nước Tề giao tranh. Tướng Tề là Tôn Cẩn nói với

Điền Kỵ:

- Quân của Bàng Quyên vốn dũng mãnh mà khinh thường Tề, chi bằng nay ta giả

ra thế yếu dụ nó.

Điền Kỵ hỏi:

- Dụ cách nào?

- Ngày nay nên làm 10 vạn bếp, ngày hôm sau nên dần dần bớt đi. Nó thấy bếp

của quân ta bỗng bớt mất, tất cho quân ta nhát sợ mà trốn đi, sẽ gấp đường tiến

đánh. Như thế khí nó tất kiêu và sức nó tất kiệt, ta sẽ dùng kế mà đánh tất thế nào

cũng thắng.

Tướng của Ngụy là Bàng Quyên khi thấy quân Tề rút lui để lại địa điểm cũ rộng

rãi, cho người đến quan sát, xem chỗ bếp đun thấy 10 vạn bếp. Quân Tề báo cáo,

Bàng Quyên lấy làm sợ hãi, cho rằng quân Tề quá nhiều, không thể khinh địch.

Hôm sau, đến một chỗ dinh trại bỏ lại thì chỉ thấy có hơn 5 vạn bếp. Lại hôm sau

nữa, chỉ còn thấy có 3 vạn bếp. Bàng Quyên mừng rỡ nói với thái tử Thân:

- Tôi vốn biết người nước Tề hèn nhát, nay vào đất Ngụy mới có 3 ngày mà quân

lính bỏ trốn quá nửa rồi, còn dám đánh nhau nữa ư!

Đoạn truyền lịnh tấn binh.

Khi đi đến Mã Lăng thì mặt trời đã lặn. Đường Mã Lăng là một nơi hiểm yếu, ở

giữa hai quả núi, hang khe sâu hẹp. Bấy giờ vào lúc hạ tuần tháng 10, trời không

trăng... Tiền quân của Bàng Quyên báo cho Quyên hay là có nhiều cây bị chặt
chận ngang đường, khó tiến lên được. Quyên bảo: đó là quân Tề sợ bị đuổi theo

nên lập ra kế ấy.

Nhưng Quyên vừa ra lịnh cho quân lính khuân gỗ mở đường, bỗng ngẩng đầu thấy

chỗ thân cây đẽo trắng, thấp thoáng có dấu chữ; nhưng vì đêm tối không nhận rõ

mới sai tên lính đánh lửa soi xem, nhận thấy hai câu: "Bàng Quyên chết dưới cây

này" và "Quân sư Tôn bảo". Bàng Quyên bây giờ hốt hoảng, biết là mắc mưu, vội

vàng hạ lịnh cho quân lui mau. Nhưng chưa kịp lui, thì hai toán phục binh cung nỏ

của Tề trông thấy lửa sáng, liền bắn ra như mưa. Quân Ngụy rối loạn hàng ngũ.

Bàng Quyên bị tên trọng thương, liệu không thoát được rút kiếm đâm cổ tự tử.

Đó là kế "Giảm bếp" của Tôn Tẩn.

Ngược lại kế của Tôn Tẩn, Khổng Minh dùng kế "Tăng bếp".

Đời Tam quốc, nhà Ngụy và Thục giao tranh.

Thừa tướng nhà Thục là Gia Cát Lượng tự Khổng Minh cầm quân phạt Ngụy ...

Đô đốc nhà Ngụy là Tư Mã Ý cầm quân chống cự. Hậu chúa nhà Thục vì nghe lời

gièm pha nên nghi kỵ Khổng Minh làm phản, liền giáng chiếu triệu Khổng Minh

rút quân ngay về để tước hết binh quyền. Vì sợ trái lịnh vua mà bị nghi kỵ thêm,

nên Khổng Minh phải đành rút quân.

Tướng là Khương Duy hỏi:

- Đại quân rút lui. Tư Mã Ý thừa thế đuổi đánh thì làm thế nào?

- Nay ta lui quân, phải chia làm 5 tốp mà rút dần. Như hôm nay rút khỏi một trại,

nếu trong trại còn lại một ngàn quân thì phải đào hai ngàn cái bếp. Ngày hôm

trước đào 3 ngàn bếp thì hôm sau đào thêm 4 ngàn. Cứ ngày ngày rút bớt quân,
đào thêm bếp mà về.

Đoạn ra lịnh nhổ trại lui quân.

Tư Mã Ý nghe tin sợ Khổng Minh đa mưu, chưa dám khinh tiến. Trước hết đem

hơn trăm kỵ binh đến trại Thục quan sát. Đến nơi, sai quân sĩ đếm số bếp, rồi quay

về trại nghỉ. Hôm sau, lại sai quân đến chỗ nền trại mới mà đếm. Quân về báo: "Số

bếp trại này nhiều hơn số bếp trại hôm qua một phần ba". Ý bảo các tướng:

- Ta đoán Gia Cát Lượng lập mẹo giả lui dụ địch, nay quả nhiên hắn vừa lui vừa

gọi thêm quân! Nếu ta đuổi đánh, ắt đã mắc mẹo phục binh. Thôi, giờ ta hãy rút về,

rồi hãy hay.

Đoạn rút quân về.

Thế là Khổng Minh không hao một tên lính, vẫn yên ổn kéo quân về Thành Đô.

Sau, có người ở cửa ngõ Tây Xuyên đến báo cho Tư Mã Ý hay việc ấy. Ý ngửa

mặt than:

- Thì ra Lượng dùng phép của Ngu Hủ mà đánh lừa được ta.

You might also like